Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đất Vỡ Hoang - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov

Mikhail Aleksandrovich Sholokhov là một nhà văn Liên Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965. Mikhail Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm đềm, tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Năm 1925, Sholokhov bắt tay vào viết tập đầu tiên của một bộ tiểu thuyết đồ sộ khác, bộ Đất vỡ hoang (Podnyataya Tselina) phản ánh phong trào tập thể hóa nông nghiệp ở nông thôn Nga. Bộ tiểu thuyết đã phải mất gần 30 năm mới hoàn thành đủ hai tập khi bản thảo của tác giả bị thiêu hủy trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Đất vỡ hoang đã được trao Giải thưởng Lênin, giải thưởng cao nhất dành cho lĩnh vực Văn học - Nghệ thuật của Liên Xô. *** Vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, giữa lúc đông đảo bạn đọc của M.Sholokhov đang hồi hộp theo dõi số phận của bộ tiểu thuyết "Sông Đông êm đềm", giữa lúc tác giả đang dồn sức viết tập 3 của tác phẩm đồ sộ này để đáp lại lòng hâm mộ của bạn đọc, thì ở quê hương của nhà văn cũng như trên toàn nông thôn Liên Xô diễn ra phong trào tập thể hoá nông nghiệp. Tâm hồn nhạy cảm và tính Đảng của người nghệ sỹ lớn đã thôi thúc nhà văn phải đến ngay với những sự kiện của phong trào cách mạng to lớn ấy. Bản thảo tập 3 của "Sông Đông êm đềm" đành phải tạm để lại một bên, tác giả lao vào đề tài mới với bộ tiểu thuyết ''Đât vỡ hoang''. Ngày nay đọc hai tập "Đất vỡ hoang" liền một mạch, độc giả thấy mình tiếp xúc với một chỉnh thể hoàn hảo; nếu không được giới thiệu tiếp xúc thì khó mà biết tập 1 và tập 2 ra đời cách nhau hơn 20 năm. Bản thảo dở dang của tập 2 đã bị huỷ hoại trong chiến tranh, tác giả phải viết lại hoàn toàn; đầu năm 1954 những chương đầu của tập 2 mới ra mắt bạn đọc; năm 1960 tác phẩm mới in xong trọn bộ. Nếu như ở tập 1 dồn dập sự kiện bề bộn sôi động của những ngày đầu thành lập nông trang, nổi bật lên những biến đổi xã hội, những sự kiện chính trị; thì sang tập 2 dòng tự sự chậm lại, đi sâu vào những câu chuyện tâm tình, đi sâu vào sự khám phá những ngóc ngách của lòng người; những vấn đề xã hội hiện ra qua những lời tâm sự; âm hưởng trữ tình nổi bật lên. Cũng như ở "Sông Đông êm đềm", người đọc gặp lại ở "Đất vỡ hoang" ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt không khoan nhượng của Sholokhov. Từ những trang sách hiện lên sự thực phong phú đa dạng, đầy mâu thuẫn, rất phức tạp, những sự thật đôi lúc tàn nhẫn, thậm chí tàn khốc, trong sự trần trụi không che giấu, không chút xuê xoa. Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói đến nghệ thuật trào phúng dí dỏm có những lúc rất táo bạo độc đáo của Sholokhov. Thật là bất ngờ khi người đọc bắt gặp hai tính cách trái ngược nhau là Nagunốp và Suka kề vai sát cánh thành đôi bạn tri âm cùng lắng nghe "dàn nhạc gà trống" giữa đêm khuya. Cũng phải thật cao tay mới có thể dàn dựng nên cả một quá khứ với bao nhiêu nỗi đời cơ cực đắng cay đằng sau những lời lẽ bông phèng ba hoa khoác lác đến chết cười của ông lão Suka. Cái trào phúng dí dỏm, cũng như cái trữ tình thiết tha sâu lắng hay cái hiện thực nghiêm ngặt của Sholokhov bao giờ cũng thấm đượm một tính triết lý thâm thuý, có sức lay động đến tận những chốn sâu thẳm của tâm hồn, buộc người ta phải suy nghĩ băn khoăn cùng với tác giả. Nhờ vậy mà "Đất vỡ hoang" tuy phản ánh một khoảnh khắc của lịch sử ở một thôn nhỏ vùng sông Đông mà đã vượt qua được thử thách của thời gian và sự sàng lọc của lịch sử để trở thành tài sản tinh thần chung của nền văn học thế giới. Đavưđốp, Nagunốp, Radơmiốtnốp, Maiđanhicốp, Varia, Suka và cả Luska nữa, cùng với bao nhiêu nhân vật khác của Sholokhov sẽ còn đi mãi giữa cuộc đời với bao nhiêu bạn đọc trên thế giới.  *** Cuối tháng Giêng, gặp buổi đầu trời trở ấm, các vườn hoa anh đào toả hương thơm ngát. Vào buổi trưa, đây đó là những quãng khuất gió, nếu như trời nắng, vỏ cây anh đào bốc lên một mùi thoang thoảng, rầu rầu, hoà với hơi ẩm nhạt nhẽo của tuyết tan, với hương vị đậm đà, cổ xưa xông lên từ dưới dải đất vừa mới ló ra khỏi lớp tuyết, và tầng lá mục. Hương vị dịu ngọt của muôn hoa cứ quyện lấy vườn tược cho đến lúc bóng đêm xanh lam buông xuống, cho đến lúc vành trăng lưỡi liềm xanh phớt ló ra qua những cành cây trụi lá, cho đến lúc những chú thỏ rừng ăn no béo mỡ nhảy nhót vứt lại trên mặt tuyết những đốm vết chân mịn màng. Thế rồi gió đưa về từ các ngọn đồi thảo nguyên mùi dịu dịu của cây ngải cứu héo khô vì băng giá; hương vị và âm thanh của ban ngày chìm lắng đi và bóng đêm, như một con sói cái lông xám, từ đằng Đông lặng lẽ đổ về, lướt qua những bụi ích mẫu, những đám cỏ dại, những thửa ruộng rạ héo hon, những cánh đồng ải mùa thu nhấp nhô như sóng lượn, để lại đằng sau nó trên thảo nguyên lê thê bóng hoàng hôn chạng vạng. ° ° ° Một tối tháng Giêng năm 1930, trên con đường hẻm rìa thảo nguyên, có một người cưỡi ngựa đi vào ấp Grêmiatsi Lốc. Tới gần ngòi, người ấy dừng con ngựa đã mệt nhoài hai bên sườn sương đóng bết từng mảng, và nhảy xuống. Vầng trăng hạ tuần đã treo lơ lửng bên trên bóng đen ngòm của các vườn cây chạy dọc hai bên con đường hẹp, bên trên những rặng cây dương um tùm như những hòn đảo. Con đường hẻm tối và lặng ngắt. Đâu đó, bên kia con ngòi, một tiếng chó sủa rống lên, một ánh lửa le lói. Người cưỡi ngựa nghếch mũi hít một hơi cái không khí lạnh giá, thong thả tháo một bên găng tay, châm thuốc hút, rồi thít căng đai ngựa lại, lùa mấy ngón tay xuống dưới đệm yên; và, sau khi đã sờ thấy cái lưng nóng hổi và nhễ nhại mồ hôi của con ngựa, y lanh lẹn tung người cao lớn của mình lên yên. Y cưỡi ngựa đi ngang qua con ngòi không bị đóng băng ngay cả mùa đông. Con ngựa, khua móng sào sạo trên lớp sỏi phủ đầy lòng sông, muốn uống nước lắm, nhưng chủ nó thúc, và nó thót bụng nhảy phốc lên bờ sông dốc thoải. Nghe có tiếng nói và tiếng cót két của càng xe trượt tuyết đang đi ngược tới, người cưỡi ngựa dừng cương. Con ngựa dỏng tai nghe ngóng, ngoái cổ lại. Cái đai ngực bạc và chiếc vành yên cao cao viền bạc theo kiểu kô- dắc bắt gặp một ánh trăng bỗng sáng lên trong bóng tối đường làng một tia trắng loé. Người cưỡi ngựa vắt dây cương trên vành yên, vội vã kéo cái mũ kô- dắc lông lạc đà cho tới lúc ấy vẫn thả trễ xuống bên vai, đội lên đầu sụp xuống mặt rồi thúc ngựa rảo nước kiệu. Qua khỏi chiếc xe trượt tuyết, y lại đi bước một như ban nãy, nhưng vẫn không hạ mũ xuống. Vào tới trong ấp, y hỏi một bà đang đi ngược lại: - Này, bác ơi, nhà ông Iakốp Ôxtơrốpnốp ở đâu, hả bác? - Iakốp Lukits ấy hả? - Phải, phải. - Đấy, nhà ông ta ở sau cây dương kia kìa, lợp ngói đấy, ông trông thấy không? - Thấy, cảm ơn bác. Tới trước ngôi nhà rộng lợp ngói, y nhảy xuống, dắt ngựa qua cổng hàng rào và lấy cán roi gõ nhẹ vào cửa sổ. - Ông chủ ơi! Iakốp Lukits, ra cho tôi hỏi tý. Chủ nhà bước ra thềm, đầu trần, áo vét- tông vắt vai, nhìn chằm chằm khách lạ rồi bước xuống bậc tam cấp, vừa mỉm cười trong bộ râu điểm bạc, vừa nói: - Ma đưa quỷ dẫn ông bà nào đến nhà tôi thế nhỉ? - Không đoán ra à, Iakốp Lukits? Cho ngủ nhờ nào. Để con ngựa vào đâu cho ấm tí nhỉ? - Không, anh đồng chí ạ, tôi không nhớ ra anh là ai. Chẳng hay có phải anh ở trên huyện không? Hay bên nông hội? Tôi hơi nhận ra rồi đấy…Tiếng anh nói nghe quen quen… Khách nhếch đôi mép nhẵn thín, mỉm cười, lật mũ trùm ra: - Pôlốptxép. Có nhớ không? Iakốp Lukits bỗng nhớn nhác nhìn quanh, tái mặt đi, thều thào: - Quan lớn! Ngài ở đâu tới thế vậy?...Bẩm ngài đại uý!..Ngựa để đấy con dắt…nhà có chuồng…Chà, thấm thoắt thế mà đã bao nhiêu năm rồi… - Ấy, ấy, khe khẽ chứ! Ừ, lâu lắm rồi đấy… Có chăn đắp ngựa không? Nhà có ai lạ không? Khách trao dây cương cho chủ. Con ngựa uể oải tuân theo những động tác của bàn tay lạ, đầu ngẩng cao, cổ vươn dài, và mệt nhọc lê đôi cẳng sau bước vào chuồng. Nó gõ móng lộp cộp vào sàn gỗ và, đánh hơi thấy cái mùi quen thuộc của một con ngựa khác, nó khịt nhặng xị lên. Bàn tay lạ đặt lên cái tảng của nó, những ngón tay thành thạo cẩn thận tháo cái hàm thiếc nhạt tanh, giải phóng cho đôi lợi ê ẩm của nó. Và con ngựa với một vẻ biết ơn sà vào đống cỏ khô. - Con đã nói đai cho nó rồi, cứ để đóng yên như thế một lát, nó lại sức, ta sẽ tháo. - Chủ nhà vừa nói vừa chăm chút đắp lên lưng ngựa tấm chăn lạnh ngắt. Và sờ nắn bộ đồ thắng ngựa, thấy đai bụng bị kéo căng, dây treo bàn đạp trùng thõng hẳn xuống, lão tự xác định được ngay rằng ông khách đã từ xa đến và trong ngày hôm ấy đã phi một đoạn đường chẳng ngắn. - Nhà có thóc không, Iakốp Lukits? - Có tí ti. Ta cho nó uống nước đã, rồi cho ăn thóc. Nào mời ngài vào nhà, bây giờ xưng hô với ngài thế nào đây, thật cũng chẳng biết nữa… Gọi như trước thì không còn quen mồm, và cũng bất tiện… - Chủ nhà lúng túng mỉm cười trong bóng tối, dù biết rằng khách cũng chẳng trông thấy mình cười. - Cứ tên cúng cơm mà gọi. Còn nhớ không? - Khách miệng hỏi chân bước đi trước ra khỏi chuồng ngựa. - Quên sao được ạ! Dọt bọn Đức mãi với nhau mà, lại cả cái cuộc nội chiến này nữa…Tôi vẫn thường nhớ đến ông đấy Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ. Từ cái buổi chia tay nhau ở Nôvôrôxixcơ ấy, tôi chẳng được tăm hơi gì của ông. Tôi cứ ngỡ ông vượt biển sang Thổ Nhĩ Kỳ với anh em kô- dắc rồi. Họ bước vào gian bếp có đốt lò ấm ran. Khách bỏ mũ trùm và cả chiếc mũ lông trắng đội trong ra, để lộ cái sọ chắc nịch, có góc có bướu, phủ một lớp tóc thưa bềnh bệch. Từ dưới cái trán hói đổ thẳng xuống như trán chó sói, đôi mắt đảo nhìn gian phòng. Và tươi cười nheo nheo đôi mắt màu xanh nhạt lấp lánh giận dữ trong hai ổ mắt sâu, y nghiêng đầu chào hai người đàn bà ngồi trên tấm ghế dài là mụ chủ nhà và nàng con dâu. - Chào bà con mạnh khoẻ! - Lạy Chúa, - mụ chủ nhà dè dặt đáp, đưa mắt nhìn chồng, chờ đợi, như muốn hỏi: "Ông dẫn ai về nhà thế vậy, và tiếp đãi người ta thế nào bây giờ cho phải?". Sau khi mời khách lên nhà trên ngồi vào bàn, lão chủ buông gọn một câu ra lệnh cho vợ: - Dọn gì ăn đi. Ngồi ăn xúp bắp cải thịt lợn, có mặt hai người đàn bà, khách chỉ nói chuyện thời tiết, chuyện bạn bè đồng đội. Cái hàm dưới bành bạnh của khách nom như đẽo bằng đá tảng, cử động một cách khó nhọc; khách nhai chầm chậm, uể oải, như một con bò mộng kiệt sức nằm trên ổ. Ăn xong, khách đứng dậy, ra trước tượng thánh đặt giữa những bông hoa giấy bám đầy bụi, cầu kinh, rồi phủi xong những vụn bánh mì bám trên tấm áo khoác cũ kỹ bó sát vai, nói: - Iakốp Lukits, xin đa tạ về tấm lòng thành! Bây giờ ta nói chuyện. Mụ chủ và cô con dâu líu tíu dọn bàn; và vâng theo đôi lông mày rướn lên ra hiệu của lão chủ, họ lảng xuống bếp. ... Mời các bạn đón đọc Đất Vỡ Hoang của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

eBook Lối Mòn Rêu Phủ - Nguyễn Thị Phi Oanh full prc, pdf, epub [Tình cảm]
      Thông Tin   Tên truyện: Lối mòn Rêu Phủ Tác giả: Nguyễn Thị Phi Oanh Thể loại:  T truyện teen, Tình cảm, Văn học việt nam, Văn học phương đông Edit ebook: Kayako Saeki Nguồn: diendanlequydon.com Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com     Giới Thiệu   Mộng Nghi, Đình Nghi, Dung Nghi, ba người con, ba tính cách khác nhau, nhưng họ chính là sức sống cho cả gia đình, khiến người ta thấy được những mảng màu đa sắc của cuộc sống, trẻ trung lại sâu sắc trong suy nghĩ.   Mộng Nghi thích ngồi một mình bên hồ nước vào những chiều để nhìn cá lượn, mây bay khi bóng hoàng hôn buông mình trên lối cỏ . Chị yêu thơ thích nhạc, chị quý màu sắc trang nhã trên lớp quần áo không kiểu cọ của mình   Dung Nghi thích hợp với vai người tình trên đường phố, một người yêu trên piste lúc về đêm dưới ánh đèn mờ của vũ trường rực rỡ, hoặc phu nhân của nhà doanh nghiệp trong những cuộc tiếp tân nhộn nhịp hơn là người vợ đơn thuần.
Quán Trọ Hoa Diên Vỹ - Yoko Ogawa
Một phụ nữ lao ra khỏi phòng quán trọ Hoa Diên Vỹ chửi rủa. Tiếp theo sau là một người đàn ông với tiếng quát lạnh lùng: “Câm mồm đi, con đĩ!”. Tiếng quát đó đã mê hoặc Mari, cô con gái bà chủ đang trực quầy lễ tân. Rồi cô đi theo người đàn ông, để trái tim cùng cơ thể mình lạc lối trong một mối quan hệ nảy sinh từ tình cảm chân thực, nhưng cũng từ những ham muốn và rung động thầm kín nhất, đáng xấu hổ, nơi nền tảng là sự thống trị và phục tùng mỏng manh, yếu đuối, Mari cố gắng tìm hiểu điều gì ở người đàn ông đã hấp dẫn cô: “Thân thể tôi khi phục tùng dịch giả càng khó coi càng tốt. Như thế tôi sẽ có thể cảm giác được mình thảm hại đến đâu. Một cảm giác thoải mái trong sáng trào dâng trong lòng tôi vào cái lúc tôi biến thành một đống thịt bị hành hạ.” Quán trọ Hoa Diên Vỹ không phải là một tiểu thuyết về đề tài bạo dâm. Lối viết sáng suốt của Yoko Ogawa, một trong những nhà văn Nhật đáng chú ý nhất hiện nay, đã đưa câu chuyện vượt lên trên giới hạn của sự dung tục, tầm thường, và hơn thế nữa, trở thành một cuốn tiểu thuyết đặc biệt khó quên, với đầy đủ những nét đặc trưng trong bút pháp tinh tế mà người ta chỉ có thể tìm thấy ở Yoko Ogawa. ***     Sinh năm 1962 tại tỉnh Okayama, thuở nhỏ, Ogawa say mê văn học thiếu nhi thế giới. Trong một cuộc phỏng vấn, bà từng nhắc tới các tác phẩm Không gia đình, Pippi tất dài, Ann ở Green Gables v.v. như những trước tác mà bà yêu thích nhất. Lên trung học, cuộc gặp gỡ tình cờ với Nhật ký Ann Frank đã mang lại cho Yoko một nhận thức hoàn toàn mới lạ đối với văn chương: biểu đạt thành lời nội tâm của bản thân chính là một dạng thức tự do mà con người có được. Đây có lẽ là tác phẩm có ảnh hưởng sâu nặng nhất đối với lối viết đi sâu vào những diễn biến tâm lý tinh tế của con người mà Ogawa không ngừng theo đuổi sau này. “Tôi đưa ra hết, tôi viết hết,” nhà văn đã từng nói. “Khi cuốn sách kết thúc thì không còn gì nữa, không còn gì hết”. Năm 1986, Ogawa bắt đầu viết tiểu thuyết, sau khi thôi công việc thư ký để kết hôn với một kỹ sư của một hãng luyện thép. Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của bà gồm: Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien), Nhật ký mang thai (giải Akutagawa), Giáo sư và công thức toán (giải Yomiuri), Mai táng Brahman (giải Izumi), Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki), Tình yêu bên lề, Quán trọ Hoa Diên Vỹ...Trong số các tác phẩm của Yoko Ogawa, Giáo sư và công thức toán hẳn là tiểu thuyết nồng hậu và gây xúc động nhất.  Sau đó, tiểu thuyết được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi vào năm 2006.      Thông Tin Giải Thưởng   * 1988: Giải Kaien cho tác phẩm đầu tay, Sự phân hủy của bướm (Disintegration of the butterfly, Agehacho ga kowareru toki, 揚羽蝶が壊れる時) * 1990 Giải Akutagawa cho Nhật ký mang thai (Pregnancy Calendar, Ninshin karendaa, 妊娠 カレンダー) * 2004 Giải Yomiuri cho Giáo sư và công thức toán (The Professor and his Beloved Equation, Hakase no aishita sushiki, 博士の愛した数式; dịch sang tiếng Anh với tên The Gift of Numbers) * 2004 Giải Izumi Prize cho Tang lễ của Brahman (Burafuman no maisō, ブラフマンの埋葬) * 2006 Giải Tanizaki cho Cuộc diễu hành của Meena (Meena's March, Mīna no kōshin, ミーナの行進) Những tác phẩm của Yoko Ogawa  - Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki) - Giáo sư và công thức toán - xuất bản 2009 (giải Yomiuri) - Quán trọ hoa diên vỹ - Mai táng Brahman (giải Izumi) - Nhật ký mang thai (giải Akutagawa) - Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien) *** Trước khi đọc Quán trọ Hoa Diên Vỹ, mình đã đọc một câu chuyện khác, cũng của Yoko Ogawa: “Giáo sư và công thức toán”. Nói thật, lúc đầu mình hơi bất ngờ tẹo, tại mình không nghĩ người mang toán học vào văn chương một cách tinh tế có thể viết một câu chuyện trần trụi đến thế như đã làm trong Quán trọ Hoa Diên Vỹ. Dĩ nhiên, chỉ sau chừng tầm chục trang, mình đã tìm lại được bầu không khí quen thuộc. Nếu như Kazumi Yumoto nổi tiếng với seri 3 mùa, chuyên viết về những hồi ức trẻ thơ, Banana nổi tiếng với cách xây dựng hình mẫu gia đình kì quặc đầy thương tổn, hơi hướng khó hiểu kiểu Murakami thì Yoko Ogawa mang ta đến với những mảng màu trần trụi, nhưng cũng hết sức bình thường kiểu Nhật. Ừ, nếu bạn đọc một cuốn sách kể về những chuyện rất đỗi bình thường, phảng phất một gam màu trầm buồn, thêm chút băn khoăn khó hiểu khi gập trang cuối cùng của cuốn sách thì ắt hẳn đó là một câu truyện Nhật. Trở lại với cuốn sách, khi đọc nó mình vẫn luôn tự hỏi rằng họ có thực sự yêu nhau không? Khi mà khoảng cách giữa 2 người là 50 tuổi, và thứ gắn kết họ đơn thuần chỉ là sự cô đơn. Cô đơn của cô bé Mari chính là việc giam mình trong quán trọ Hoa Diên Vỹ, hàng ngày búi tóc bằng dầu trà, cam chịu trao tự do của mình cho người mẹ. Cô khao khát một người bố đúng nghĩa, người đã trao cho cô cơ hội được lựa chọn niềm vui khi cô còn 8 tuổi. Cô đơn với dịch giả đáng kính xuất phát từ nỗi đau mất vợ, từ niềm ăn năn đối với người cháu, và cả những cuộc bạo dâm. Cô đơn còn xuất phát từ việc dịch những thứ chán òm trong cuộc sống, suốt ngày vùi đầu trong từ điển. Hẳn là lúc ông đăng tin tìm người học tiếng Nga, điều ông thất vọng không phải không ai học, mà bởi ông đã không còn ai để trò chuyện, để bầu bạn. Mọi thứ chỉ thay đổi khi ông dịch Marie, khi đó, ông gặp Mari. Du thuyền trở lại trong tiếng còi rú. Bọn hải âu đậu trên cầu tàu đồng loạt bay lên. Dây xích chỗ cửa lên tàu được tháo xuống, phòng chờ vẳng tiếng phát thanh viên. _Có lẽ tôi phải đi rồi. – Dịch giả thì thầm. _Tạm biệt. – Tôi nói _Tạm biệt. Ông ta cũng nói thế. Nhưng tôi cảm giác như chúng tôi đã nói với nhau câu nói quan trọng hơn là chỉ chào tạm biệt. Từ cửa sổ tôi nhìn thấy người đàn ông đi trên cầu tàu và đang bị cuốn trong hàng người. Dù ông ta nhỏ con đến mấy tôi cũng lập tức phân biệt được bóng người mặc vest lẫn trong đám du khách. Giữa chừng ông ta ngoảng đầu lại. Tôi vẫy tay dù thấy thật buồn cười khi làm điều này với một người không biết tên cũng chẳng có quan hệ gì. Ông ta cũng định vẫy trả, nhưng rồi lại ngượng ngùng đút bàn tay đang giơ lên vào túi áo. Tàu rú còi rồi rời bến. … Tôi vẫn luôn sống một mình. Hàng ngày giam mình ở đảo và chỉ làm mỗi việc dịch thuật, nên hầu như không có bạn. Vả lại, tôi cũng không có một cô con gái vừa trẻ lại xinh đẹp như cô. Đã mười năm rồi tôi không được nếm trải cảm giác có ai đó vẫy tay tiễn đưa như vậy. Tôi thường lên thuyền từ chỗ cầu tàu, nhưng lúc nào cũng chỉ một mình. Tôi cũng chưa lần nào ngoảnh đầu lại từ chỗ đó cả. Cô đã vẫy tay với tôi làm như chúng ta đã quen biết từ lâu. Có lẽ với cô đó chỉ là một cử chỉ vặt vãnh, nhưng với tôi nó lại có ý nghĩa sâu sắc. Tôi muốn cảm ơn cô về điều đó. Chân thành cảm ơn cô. Đoạn trích trên kể về lần đầu họ gặp nhau. Ai trong chúng ta có lẽ cũng thấy đồng cảm với người đàn ông ấy. Bởi lẽ, nỗi cô đơn là chuyện chẳng hiếm hoi trong thế giới này. Người ta dễ dàng xao xuyến trước những điều be bé tốt đẹp. Một cái vẫy tay, một nụ cười, một tin nhắn. Chúng tạo nên sự thân mật gắn kết giữa người với người, không gì có thể xóa bỏ. Và điều đáng khâm phục, họ đã vượt qua mọi rào cản, để tìm đến nhau. Có thể, bạn chả đồng ý với mình đâu. Gì chứ, không thể chấp nhận được chuyện yêu nhau tội lỗi như thế. Ừ, mình cũng hem có phản đối đâu. Vì suy cho cùng, như một cái note nào đấy đã viết “văn chương khơi dậy sự cảm thông”, hoặc là mình đã tự huyễn hoặc bản thân rồi.​
Mãi Đừng Xa Tôi
Mãi Đừng Xa Tôi     Thông Tin   Tên truyện: MÃI ĐỪNG XA TÔI Tác giả:   Kazuo Ishiguro    Thể loại:   Tiểu thuyết, Tình cảm, Ngôn tình, Hư cấu, Giả tưởng, Văn học Nhật bản, Văn học phương đông NXB:  Văn học Người dịch:   Trần Tiễn Cao Đăng   Nguồn: Romance Book Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới Thiệu   Kathy, Ruth và Tommy xuất thân từ một ngôi trường đặc biệt: trường nội trí Hailsham. Những con người ở đó đều có chung một số phận được định đoạt. Họ chấp nhận số phận, nhưng vẫn khát khao trì hoãn. Với giọng điệu bình thản như mặt biển sóng ngầm, câu chuyện kể về một hiện thực đáng sợ diễn ra trong một thế giới “giả tưởng”, nhưng cũng không xa lắm thế giới “thật tưởng” mà chúng ta đang sống. Câu chuyện ám ảnh chúng ta bởi tiếng kêu đau đớn đến xé lòng về tình yêu và hạnh phúc. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về giá trị Người của chính mình.   Nhận định    “Vừa hấp dẫn vừa xúc động lòng người… một tiểu thuyết kỳ tài, với sự căng thẳng thắt gút và với nỗi đớn đau chôn chặt.” – Time “Gây bứt rứt đến cùng cực, tiết chế đến độ hoàn hảo… Sức mạnh không cưỡng nổi của cuốn sách là nhờ năng lực vô song của Ishiguro trong việc phô bày phần cốt lõi tăm tối của nó một cách cẩn thận, từng tí một.” – Entertainment Weekly