Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút

Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ảo Thuật Văn Chương - Alexandra Marinina
Đầu năm 1993, A. Marinina cho nữ thám tử Nastia Kamenskaya xuất hiện trong cuốn Hoàn cảnh đưa đẩy, tiếp đó trong Chơi trên sân lạ và Giấc mơ bị đánh cắp. Từ năm 1995, bà cho in trong tủ sách phổ biến “Mèo đen” của Nhà xuất bản EKSMO hai cuốn Serafim sáu cánh và Kẻ sát nhân miễn cưỡng. Thành công khiến nhà xuất bản này phải chạy đua với các đối thủ, tăng nhuận bút gấp bội để giữ được nhà văn ăn khách cho mình và mở ra cả một tủ sách riêng A. Marinina - nữ chúa truyện trinh thám. Từ đấy, với hàng loạt đầu sách Lò xo cho bẫy chuột, Hôm qua tôi đã chết, Đánh tráo đối tượng, Mặt nạ của người khác, Bộ mặt sáng sủa của thần chết, Ảo giác của tội lỗi, Khi thần thánh bật cười... hành trình điều tra phá án của Nastia Kamenskaya cơ hồ bất tận. Mỗi năm hai cuốn - đó là tốc độ sáng tác mà A. Marinina duy trì được trong nhiều năm, xây dựng nên hình tượng một nữ thám tử hoàn toàn chính diện: cực kỳ thông minh, can đảm và tinh tế. Truyện trinh thám của A. Marinina bắt đầu được đưa lên màn ảnh từ năm 1999. Đến nay đã có 12 quyển sách của bà được dựng thành phim. A. Marinina ký hợp đồng với nhà xuất bản nước ngoài năm 1997, từ đó sách của bà được dịch in bằng 20 thứ tiếng. Ở Việt Nam, các tác phẩm của tác giả được giới thiệu: Ảo thuật văn chương (Vũ Đình Phòng dịch, Nxb Thanh Niên, 2000), Giấc mơ bị đánh cắp (Nguyễn Văn Thảo dịch, Nxb Công An Nhân Dân, 2004)... *** Alexandra Marinina được gọi là Nữ hoàng trinh thám Nga. Ảo thuật văn chương là một trong những lác phẩm hay nhất của bà, mô tả hàng loạt vụ án li kì và bi thảm diễn ra xung quanh một tài năng văn chương bị buộc phải phục vụ cho lòng tham của một chủ xuất bản vô nhân đạo.  Nữ thám tử Nastia Kamenskaya - nhân vật xuyên suốt trong những tác phẩm của A. Marinina - được người Nga yêu mến không thua Hercule Poirot của nữ hoàng truyện trinh thám Anh Agatha Christie. Alexandra Marinina là bút hiệu của Marina Alexieva (cũng như “Kamenskaya” và “Nastia Kamenskaya” là hai thương hiệu đã được tác giả đăng ký độc quyền từ năm 2003). Sinh năm 1957 tại Lvov, sống ở Leningrad đến năm 1971 chuyển về Matxcơva, từ một cô học trò lớp chuyên Anh, Marina tốt nghiệp khoa luật Đại học Quốc gia Lomonosov, trở thành cán bộ nghiên cứu khoa học của Viện Hàn lâm thuộc Bộ Nội vụ Liên Xô. Nghiệp vụ khoa học hình sự giúp bà được bổ nhiệm phó trưởng ban nghiên cứu khoa học của Đại học Luật - Bộ Nội vụ Liên bang Nga. Đang đeo lon trung tá, năm 1998 bà xin giải ngũ để chuyên sáng tác. *** Colia đang say tình yêu, sau một thời gian dài sống cô đơn. Anh cảm thấy vô cùng sung sướng và muốn mọi người xung quanh cũng hạnh phúc như mình. Sau khi biết kết qủa thẩm định các mẫu đất, Colia phấn khởi, ngồi vào xe lao thẳng đến khu biệt thự “Mộng Mơ”. Anh chưa báo tin vui này cho Naxtia, vì biết tối nay chị đi ăn khách sạn với vợ chồng cậu em. Trong biên bản xét nghiệm có ghi rõ, chất đất trong phong bì số “1” (lấy được trên sàn nhà Trercaxov, dưới tấm thảm) có thành phần hoá học rất gần với chất đất trong phong bì số “3” (lấy tại ngôi nhà xây gần đây nhất trong khu biệt thự “Mộng Mơ”).   Lúc này đã hơn chín giờ tối, vậy mà Colia thấy Xoloviov đón tiếp anh với vẻ mừng rỡ, khác hẳn hôm anh đến đây lần trước. Hôm đó ông ta cau có làm anh rất bực. Vẫn như lần trước, Xoloviov khẳng định ban ngày hôm đó ông không nhận thấy có người lạ nào lảng vảng bên ngoài. - Tôi rất ít khi nhìn ra ngoài cửa sổ, - ông ta thú nhận giọng uể oải, khiến Colia thấy rõ ông ta không hào hứng tiếp chuyện mình. Rồi đột nhiên Xoloviov nói. - Tôi muốn nhờ anh một việc, được không ? - Việc gì ? - Theo tôi đoán, chắc anh đã có thẩm vấn cô Naxtia Camenxcaia. - Đúng thế, - Colia dè dặt đáp. - Tôi muốn nhờ anh giúp tôi bắt liên lạc với cô ấy. Tôi có số điện thoại nhà riêng của cô ấy, nhưng tôi gọi bao nhiêu lần mà không thấy ai nhấc máy. Số điện thoại nơi cô ấy làm việc tôi lại không có. Anh có thể cho tôi biết số điện thoại đó được không ? - Theo tôi đoán thì hai vợ chồng cô ta hiện đang đi nghỉ hè, hẳn thế thì mới không có ai nhấc máy trả lời ông. Còn số điện thoại nơi cô ấy làm việc, tôi không thể cho ông được, bởi tôi chưa biết cô ấy có muốn cho ông biết không. Tôi không có quyền can thiệp vào việc riêng của người khác. - Vậy anh giúp tôi, anh chịu khó liên lạc với cô ấy và nhắn hộ là tôi rất cần gặp. - Có chuyện gì vậy  ? - Chuyện riêng tư thôi. Xưa kia tôi rất thân với cô ấy, và lúc này tôi rất cần sự chia sẻ của một người bạn... Sáng hôm sau, mới đầu giờ, Colia đã chạy vào phòng làm việc của Naxtia, giận dữ nói luôn: - Sao cô không cho Xoloviov biết cô đã thay số điện thoại nhà riêng ? - Nhưng tại sao tôi lại phải cho ông ta biết  ? - Vì ông ta mê cô. Gọi cô không biết bao nhiêu lần mà không thấy ai nhấc máy. Lúc đề nghị tôi giúp ông ta bắt liên lạc với cô, tôi thấy mắt ông ta rơm rớm... - Anh tưởng tượng thì có, Colia. Anh phóng đại lên đấy thôi. Và bản thân ông ta cũng phóng đại. Ngồi một mình cô đơn, tưởng tượng ra đủ thứ. - Nhưng cô không cố tình làm cho ông ta mê cô đấy chứ ? - Không ! Hoàn toàn không. - Nhưng dù sao cô cũng gọi điện cho ông ta, kẻo ông ta lại nghĩ không hay về tôi. - Nhưng tối qua anh đến ông ta làm gì  ? - Quên tôi chưa nói với cô: bên chuyên môn họ đã thẩm định xong hai mẫu đất, kết quả mẫu đất chúng ta lấy được trong căn hộ của Trercaxov đúng là từ khu biệt thự “Mộng Mơ”. Không chỉ chất xi măng mà cả chất đất cũng giống hệt nhau. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Thuật Văn Chương của tác giả Alexandra Marinina.
Người Con Trai - Jo Nesbo
Sonny Lofthus là một tù nhân, một con nghiện ma túy. Ít ai biết trước cậu từng là một sinh viên ưu tú, một tay đấu vật đầy hứa hẹn, có người cha là một cảnh sát gương mẫu. Simon Kefas là một tay cảnh sát hết thời, mắc chứng nghiện cờ bạc. Khi còn trẻ ông bắt đầu sự nghiệp với hai người bạn thân và lập nên nhóm tam hùng lừng lẫy. Hai con người, hai hành trình đi tìm công lý riêng biệt nhưng cuối cùng lại giao nhau tại một điểm. Càng tiếng gần đến sự thật, Sonny và Simon càng cảm nhận rõ hơn một thế lực bóng tối đã bao trùm lấy toàn bộ cuộc đời họ ngay từ những ngày đầu tiên… Người con trai đánh dấu sự trở lại mới mẻ của Jo Nesbø, với kết cấu dày đặc những hệ thống tội phạm, hệ thống điều tra được lồng ghép chặt chẽ trong từng diễn biến, từng hành động của các nhân vật thông minh, đa sắc màu. Một lần nữa Jo Nesbø cho thấy ông thực sự là ông hoàng trong thể loại trinh thám Bắc Âu đang gây sóng gió khắp nơi trên thế giới. *** Jo Nesbo sinh năm 1960, là tác giả viết tiểu thuyết dành cho thiếu nhi và cho cả người lớn thành công nhất tại Na uy. Ông là một nhà văn, nhưng ông cũng là một nhà kinh tế học và ông đã làm việc như là một môi giới chứng khoán và nhà báo. Là một tác giả, ông đã viết cuốn sách 16 và tiểu thuyết ngắn. cuốn sách 9 của ông có một loạt về cảnh sát Harry Hole và 3 trong số họ là một loạt các cuốn sách của trẻ em. Ông đã giành được nhiều giải thưởng cho các thành tựu của ông là một nhà văn.. *** Rover cứ dán mắt nhìn sàn bê tông sơn trắng trong gian xà lim mười một mét vuông. Gã cắn xuống cái răng cửa bọc vàng hơi dài ở hàm dưới. Gã đã đến chỗ nặng nề nhất trong lời xưng tội. Âm thanh duy nhất trong xà lim là tiếng móng tay gã cào cào hình xăm Đức Mẹ trên cẳng tay. Cậu thanh niên ngồi xếp bằng trên giường đối diện vẫn im lặng từ lúc Rover vào. Cậu ta chỉ gật đầu và mỉm cười an nhiên như Đức Phật, cái nhìn dồn vào một điểm trên trán Rover. Người ta gọi cậu ta là Sonny và nói hồi còn trẻ cậu ta đã sát hại hai mạng người, cha cậu ta là một cảnh sát tha hóa và Sonny có đôi tay chữa bệnh. Khó mà chắc cậu ta có lắng nghe hay không, đôi mắt xanh lá và gần hết khuôn mặt cậu ta khuất sau mái tóc rối dài, nhưng chuyện đó hề gì. Rover chỉ muốn được tha tội và Sonny ban phúc lành để ngày mai bước ra khỏi Nhà tù An ninh Tối đa Staten gã cảm thấy mình là một con người đã hoàn toàn được thanh tẩy. Chẳng phải Rover ngoan đạo nhưng cũng chẳng hại gì khi gã có ý sửa đổi, thực bụng muốn hoàn lương. Rover hít một hơi thật sâu. “Tôi nghĩ cô ta là người Belarus. Minsk là ở Belarus, phải không nào?” Rover liếc nhanh lên, nhưng cậu thanh niên không đáp. “Nestor đặt biệt danh cô ta là Minsk,” Rover nói. “Hắn lệnh cho tôi bắn cô ta.” Lợi ích thấy rõ của việc thú tội với kẻ đầu óc phê thuốc là chẳng còn cái tên hay sự kiện nào bám lại trong cậu ta; y như mình tự nói với mình. Có lẽ điều này giải thích vì sao phạm nhân ở Staten thích anh chàng này hơn cha tuyên úy hay bác sĩ tâm lý. “Nestor nhốt cô ta cùng tám đứa con gái nữa trong một cái chuồng ở tận Enerhaugen. Người Đông Âu và châu Á. Trẻ. Thiếu nữ. Ít ra thì tôi cũng hy vọng chúng cỡ tuổi đó. Nhưng Minsk thì lớn tuổi hơn. Mạnh hơn. Cô ta trốn thoát. Chạy đến tận công viên Toyen rồi chó của Nestor mới đuổi kịp. Giống chó lớn tai cụp Argentina - biết tôi đang nói gì không?” Mắt cậu thanh niên không hề máy động, nhưng cậu ta đưa tay lên. Sờ chòm râu. Mấy ngón tay bắt đầu thong thả chải. Cánh tay áo sơ mi cáu bẩn, rộng thùng thình tuột xuống để lộ những vảy vết thương và dấu kim tiêm. Rover nói tiếp. ... Mời các bạn đón đọc Người Con Trai của tác giả Jo Nesbo.
Chim Cổ Đỏ
1944: Daniel, một người lính, một huyền thoại Na Uy tại Mặt trận phía Đông bị giết. Hai năm sau, một người lính bị thương thức giấc trong một bệnh viện Vienna. Anh có một mối tình với một y tá trẻ, và sóng gió của mối tình bất thành ấy sẽ còn lan tỏa đến tận đầu thế kỷ sau. 1999: Một khẩu súng trường với khả năng sát thương khủng khiếp bị nhập lậu vào Na Uy. một cựu binh Thế chiến bị cắt cổ. Một đồng nghiệp thân thiết của thanh tra Harry Hole bị giết. Vào đêm bị sát hại,cô đã phát hiện ra điều gì? Và đó mới chỉ là khởi đầu của một cuộc thanh trừng mà sát thủ tiến hành để lập lại cái mà hắn cho là công lý. Chim cổ đỏ đã giành giải Glass Key cho tiểu thuyết hình sự/ trinh thám hay nhất ngay khi xuất bản lần đầu tiên và nhanh chóng trở thành hiện tượng trên các bảng xếp hạng quốc tế. Đủ phức tạp để làm rối trí bất cứ người đọc nào thiếu tập trung, đủ hấp dẫn để buộc người ta phải tập trung vào chính sự phức tạp ấy, đủ bất ngờ để người đọc thỏa mãn khi đã đi đến cuối con đường, và đủ tình tiết ngầm cho một sequence tiếp theo, Chim cổ đỏ thực sự là một ngôi sao mới của thể loại trinh thám *** Jo Nesbo sinh năm 1960, là tác giả viết tiểu thuyết dành cho thiếu nhi và cho cả người lớn thành công nhất tại Na uy. Ông là một nhà văn, nhưng ông cũng là một nhà kinh tế học và ông đã làm việc như là một môi giới chứng khoán và nhà báo. Là một tác giả, ông đã viết cuốn sách 16 và tiểu thuyết ngắn. cuốn sách 9 của ông có một loạt về cảnh sát Harry Hole và 3 trong số họ là một loạt các cuốn sách của trẻ em. Ông đã giành được nhiều giải thưởng cho các thành tựu của ông là một nhà văn.. *** Trạm thu phí tại Alnabru. Ngày 1 tháng Mười một năm 1999. Một con chim lông xám chao lượn trong tầm nhìn của Harry. Mấy ngón tay anh gõ gõ trên vô lăng. Thời gian trôi chậm chạp. Hôm qua trên truyền hình ai đó đã nói về chuyện “thời gian trôi chậm chạp”. Đây là lúc thời gian trôi chậm lại. Như đêm Noel trước khi ông già Noel đến. Hay ngồi trên ghế điện trước khi dòng điện bật lên. Anh gõ nhịp mạnh hơn. Họ đỗ xe trong khu vực lộ thiên phía sau mấy buồng bán vé tại cổng thu phí. Ellen vặn to radio lên một chút. Giọng của xướng ngôn viên vang lên đầy trang trọng và cung kính. “Phi cơ đã hạ cánh cách đây năm mươi phút, và đúng 6 giờ 38 phút sáng ngài tổng thống đã đặt chân lên đất Na Uy. Ngài được thị trưởng Ullensaker nghênh tiếp. Hôm nay là một ngày thu tuyệt vời ở Oslo: một khung cảnh Na Uy tráng lệ làm nền cho cuộc họp thượng đỉnh này. Chúng ta hãy cùng nghe lại những gì ngài tổng thống phát biểu tại cuộc họp báo nửa giờ trước.” Lần thứ ba rồi. Một lần nữa Harry trông thấy các đoàn báo chí hò hét chen lấn bên hàng rào chắn. Mấy gã mặc com lê xám đứng phía bên kia hầu như chẳng buồn cố gắng sao cho khỏi giống Mật vụ, khom vai rồi lại thả lỏng khi theo dõi đám đông, kiểm tra tới lần thứ mười hai xem tai nghe đã ngay ngắn chưa, theo dõi đám ông, chú mục mấy giây vào tay chụp ảnh có ống kính tele hơi quá dài, tiếp tục theo dõi, kiểm tra tai nghe đến lần thứ mười ba. Ai đó chào đón tổng thống bằng tiếng Anh, mọi thứ im bặt. Rồi một tiếng lạo xạo trong micro. “Trước hết, cho phép tôi nói rằng tôi rất vui mừng khi đến đây…” Tổng thống nói đến lần thứ tư bằng thứ tiếng Anh Mỹ nặng và khàn. ... Mời các bạn đón đọc Chim Cổ Đỏ của tác giả Jo Nesbo.
Tội Lỗi Không Chứng Cứ - Tử Kim Trần
Sát thủ liên hoàn, dàn dựng hiện trường vụ án, hắn nói giết người là để cứu người, bạn có tin không? Phía sau hành vi tội ác máu lạnh, lại là một trái tim bị tình yêu và nỗi hận thù giày vò suốt gần mười năm qua. Chốn đô thị phồn hoa liên tiếp xảy ra những vụ án mạng. Tại hiện trường vụ án, hung thủ luôn cố ý để lại dấu vân tay và một tờ giấy ghi “Hãy đến bắt ta’. Ngoài ra, không có chút sơ hở hay manh nối nào cả. Đối diện với tên sát thủ liên hoàn huênh hoang như vậy, tổ chuyên án được thành lập bốn lần nhưng đều phải giải tán, không có chút manh mối nào, chỉ có thể nhờ đến vị chuyên gia logic học Ngiêm Lương. Vụ án này bí ẩn giống như một hệ phương trình không có cách giải, liệu ông phải bắt tay từ đâu để tìm ra lời giải? Hung thủ thực sự đã tỉ mỉ sắp xếp vụ án phạm tội không có chứng cứ, tại sao lại cố tình để lại manh mối? Đây là một âm mưu to lớn hay là một cái bẫy, cũng có thể là một bí mật được cất giấu rất kỹ không ai hay biết? “Tội lỗi không chứng cứ” được bố trí như một mê trận, một kẻ tội phạm cao tay, một nhà trinh thám cao cường, kì phùng địch thủ, liệu ai sẽ là người chiến thắng trong cuộc đọ trí này? *** Hiện trường chật kín người, năm chiếc xe cảnh sát khó khăn lắm mới tìm được chỗ đỗ. Đội trưởng đội Trinh sát hình sự của thành phố Hàng - Triệu Thiết Dân mở cửa xe, thò đầu ra chuẩn bị bước xuống xe, phía trước đột nhiên có một thứ hình dạng như cái gậy đen sì lia vụt tới khiến ông phải vội vàng rụt đầu lại. “Bày trò gì thế?” Ông kêu lên, bực bội xoa chỗ trán bị đau, rồi lại đứng dậy, trước mặt lập tức xuất hiện một chiếc micro cán dài chặn ông lại, phía sau là một loạt các máy quay. Còn chưa đợi ông tìm ra được “kẻ đầu têu” chọc micro vào ông, đám phóng viên phía bên kia micro đã bắt đầu mồm năm miệng mười đưa ra câu hỏi: “Nghe nói đây là vụ án mạng thứ năm, phía cảnh sát lần này có đảm bảo bắt được hung thủ không?”, “Lần này hung thủ lại một lần nữa để lại hàng chữ “Hãy đến bắt ta”, Sở Công an nhìn nhận sự việc này như thế nào?”, “Ông có thể giới thiệu sơ qua về vụ án lần này được không?” Triệu Thiết Dân mím môi, trên mặt thoáng lộ ra sự khó chịu. Vừa mới xảy ra vụ án như vậy, ông còn đang cuống cuồng vào điều tra hiện trường, đám người này thật là quá phiền phức. Nếu như là hồi ông vừa mới làm cảnh sát, khi đối diện với nhóm người này, chắc chắn ông sẽ bực bội hét lên: “Tôi còn chưa đến được hiện trường, tôi biết cái khỉ gì chứ!”. Kết quả của hành động này chính là trên bản tin tối của ngày hôm đó sẽ xuất hiện tiêu đề: “Cảnh sát không có chút manh mối gì về vụ án”, “Cảnh sát kêu thét ở hiện trường vụ án.” ... Mời các bạn đón đọc Tội Lỗi Không Chứng Cứ của tác giả Tử Kim Trần.