Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Người Bạn - Erich Maria Remarque

Với Ba Người Bạn, nước Đức của Remarque không còn là những tòa nhà màu xám mà là một thành phố nhỏ mờ sương của những bụi tử đinh hương, một góc giáo đường, những quán rượu nhỏ nép mình trong làn mưa lất phất. Đó cũng không phải là đất nước của những bộ óc lạnh lùng lý trí mà là của những thân phận nhỏ bé dù bị trôi giạt đến bước đường cùng vẫn khao khát và chan chứa yêu thương. Đó là một nước Đức của tình cảm và mộng mơ, một nước Đức của nỗi buồn và cái đẹp. *** Erich Maria Remarque (1898 – 1970) là nhà văn nổi tiếng người Đức. Ngoài kiệt tác Phía Tây không có gì lạ đầy xúc động, ông còn được yêu mến qua hàng loạt các tác phẩm chan chứa tình yêu dành cho con người và cuộc sống khác như Ba Người Bạn, Khải Hoàn Môn, Đêm Lisbon…. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương lẫn Nobel Hòa bình. Ba Người Bạn là tác phẩm Remarque cho ra mắt vào năm 1936 kể về cuộc sống nước Đức thời kỳ hậu chiến. Mặc dù không nổi tiếng như Phía Tây không có gì lạ nhưng với nhiều độc giả Việt Nam, đây lại là tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất, thay đổi hoàn toàn cái nhìn của họ về đất nước và con người Đức, thậm chí là cả cách nhìn về cuộc sống. *** Bạn đọc Việt Nam đã yêu mến Remarque (Erich Maria Remarque - tên thật Erich Paul Remark, 1898 - 1970) - nhà văn Đức nổi tiếng, một trong những tiểu thuyết gia nhiều thành công nhất của thế kỷ hai mươi - qua các tác phẩm “Phía Tây không có gì lạ”, “Thời gian để sống và thời gian để chết” do nhà xuất bản Văn Học giới thiệu. Remarque chiếm được hằng triệu con tim độc giả trên khắp hành tinh không đơn giản vì ông là một thiên tài văn học; đọc Remarque, ta tìm thấy ở nhà văn một tấm lòng đầy tình yêu thương con người, cảm thông với nỗi đau của con người, tha thiết mong cho tất thảy một cuộc sống hạnh phúc mà con người vốn dĩ xứng đáng được hưởng. Trái tim nhân đạo ấy không thể không ứa máu trước những sự thật tàn khốc mà hai cuộc đại chiến thế giới đã gieo rẳc cho nhân loại, thiên tài văn học ấy không thể im tiếng trước những tội ác ghê tởm do chính bọn cầm quyền của đất nước mình gây ra. Năm 1933 bọn phát xít Đức buộc cho Remarque tội “phản bội những người lính cửa chiến tranh thế giới bằng văn học” và ra lệnh đốt các tác phẩm của nhà văn, năm 1938 ông bị tước bỏ quốc tịch Đức, buộc phải sang New York năm 1939 (1947 nhập quốc tịch Mỹ). Từ sau 1945, Remarque sống khi ở Mỹ, khi ở Thụy Sỹ, ông mất năm 1970 ở Locarno (Thụy Sỹ). Cả thế giới biết đến Remarque qua hàng loạt tiểu thuyết của ông: “Phía Tây không có gì lạ” (1929), “Đường trở về” (1931), “Ba Người Bạn (Chiến Hữu)” (1938), “Hãy yêu những kẻ hậu sinh” (1941), “Khải hoàn môn” (1946). “Tia lửa sống” (1952), “Thời gian để sống và thời gian để chết” (1954), “Bia mộ đen” (1956), “Đêm ở Lissabon” (1962), “Bóng tối nơi thiên đường” (1971)… Xuyên suốt các tác phẩm của Remarque là tính nhân đạo sâu sắc, là tiếng nói kiên định, không mệt mỏi chống lại cuộc chiến tranh phát xít phi nghĩa. Remarque không dùng những lời lẽ đao to búa lớn, không hô khẩu hiệu chống phát xít, nhưng các tác phẩm của ông đã bóc trần toàn bộ bản chất tàn bạo của chủ nghĩa phát xít, lột tả những cảnh địa ngục trần gian mà chiến tranh đã đưa lại. Biết bao số phận khổ nhục, ê chề, biết bao kiếp người phiêu dạt, tha hương không bến đậu, biết bao tình yêu tuyệt vọng, con người phải sống lẩn lút như loài vật, sống mà như đã chết… người đọc cùng đau xót với nỗi đau của tác giả, đau xót bao nhiêu, càng căm phẫn, ghê tởm bấy nhiêu cuộc chiến tranh do bè lũ phát xít gây nên. Thật dễ hiểu vì sao bọn phát xít lại thù ghét nhà văn, khiếp sợ ảnh hưởng văn học của ông đến thế. Một mảng đề tài được Remarque khá quan tâm là số phận của những người cựu chiến binh Đức, những người phải gánh chịu trực tiếp hậu quả cuộc chiến tranh diễn ra ngoài ý muốn của họ. Tác phẩm “Ba Người Bạn” để lại ấn tượng hết sức sâu sắc bởi lẽ đã giúp ta thấy được cái hậu quả gớm ghiếc ấy dưới biết bao góc độ. Cốt truyện diễn ra vào những năm 20 của thế kỷ này, thời gian xen giữa hai cuộc đại chiến thế giới. Các nhân vật trung tâm là ba cựu chiến binh trẻ, ba “chiến hữu” trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Ba Người Bạn trong thời hậu chiến - những con người tiêu biểu cho cái “thế hệ vất đi” sau chiến tranh. Họ là những thanh niên bình thường, từng có những ước mơ bình thường: người muốn trở thành bác sĩ, kẻ muốn trở thành giảng viên đại học… nhưng đã bị buộc tham gia vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tuy không bỏ xác ngoài trận tuyến như biết bao thanh niên đồng lứa với mình, Robby, Lenz và Koster đã bị chiến tranh cướp mất lẽ sống, họ thấy cuộc đời phi lý và trống rỗng, thể xác trẻ trung mà tâm hồn sớm già cỗi. Ngoài những giờ sửa chữa xe thuê, vật lộn kiếm sống, họ tiêu phí thời gian vào những đêm rượu chè, những phen phóng xe điên cuồng, những cuộc hoan lạc… để rồi lại về một mình đối diện với chính mình, cô đơn, trống rỗng, trong một gian buồng trọ tồi tàn. Ba Người Bạn gắn bó với nhau hết mình đương đầu với cuộc sống, trong khi thực ra họ cũng không hiểu sống để làm gì. Mối tình của Pat và Robby đã cho cuộc sống ấy chút ý nghĩa. Họ thấy mình cần thiết cho mối tình ấy, cho cô gái bất hạnh ấy, họ quên mình đến cảm động giúp cô gái chống lại bệnh tật. Nhưng đó chỉ là cuộc chống chọi tuyệt vọng của ba nạn nhân trực tiếp của chiến tranh hòng cứu cô gái là nạn nhân gián tiếp của chiến tranh; lớn lên trong những năm chiến tranh đói kém. Pat đã mắc chứng lao phổi, căn bệnh vô phương cứu chữa thời bấy giờ. Ba thanh niên lành mạnh bị xô đẩy vào cuộc chiến, bị biến thành những kẻ đồng lõa, để rồi sau đó bị quẳng sống vạ vật giữa cái xã hội hỗn mang thời hậu chiến. Với họ, chỉ có mất mát: Lenz mất mạng vì một bọn phát xít choai choai, Koster phải bán xưởng, bán chiếc xe mà anh yêu quý hơn chính cánh tay mình, Robby mất người yêu, cũng là mất cái mắt xích cuối cùng gắn anh với cuộc đời… Ai là kẻ có tội trước cuộc đời bỏ đi của họ? Cuộc chiến tranh phát xít. “Ba Người Bạn” vẽ lên đầy đủ cuộc sống cơ cực của tầng lớp nghèo hèn nhất trong xã hội, những con người bị coi là hạng “cặn bã” phải chịu hậu quả ghê gớm của chiến tranh, để một nhóm kẻ cầm quyền hưởng lợi nhuận chiến tranh. Có lẽ không ai có thể cảm thông với đám cựu chiến binh hơn là các cô gái điếm và ngược lại. Họ đều là những người trẻ tuổi, nuôi những mơ ước bình dị, nhưng chiến tranh đã không cho họ cái cơ hội làm một con người bình thường. Nạn đói, nạn thất nghiệp, sự bỏ mạng của người chồng nơi chiến địa đã đẩy những người phụ nữ suốt đời chỉ mơ làm vợ làm mẹ ấy phải lao vào con đường bán trôn nuôi miệng. Remarque đã viết về họ, những nạn nhân đáng thương chứ không đáng trách ấy, với một ngòi bút đầy nhân đạo, vị tha. Dưới ngòi bút của tác giả, những nhân vật “cặn bã” này, những chàng trai cô gái bất hạnh “bỏ đi” này lại “người” hơn ai hết. Thật cảm động là những trang viết về tình gắn bó đùm bọc giữa họ với nhau, họ không thương lấy nhau thì còn ai thương họ nữa, vả chăng họ mất mát nhiều quá, thiệt thòi nhiều quá nên cũng quá cảm thông nhau. Những người như họ có quyền hưởng hạnh phúc, nhưng cuộc đại chiến thế giới thứ nhất đã thiêu ra tro quá khứ và hiện tại của họ, và đại chiến thế giới lần thứ hai đang rình rập hủy nốt cái gọi là tương lai không có tương lai của họ. Đói nghèo, thất nghiệp, mãi dâm - những nét tiêu biểu của xã hội Đức trong những năm cuối thập kỷ 20 thế kỷ này đã được Remarque mô tả một cách hết sức giản dị mà cực kỳ rõ nét, đầy đủ trong “Ba Người Bạn”. Các nhân vật của ông mỗi người khổ sở mỗi cách. Đó là Muttchen, một bà lão đêm đêm đứng đường với chảo xúc xích để cung phụng ông chồng nghiện moocphin, đó là Valentin, cựu chiến binh, nuôi ấn tượng quá khủng khiếp về cuộc chiến tranh, không còn biết bắt đầu lại ra sao với cuộc đời mình, suốt ngày ngập trong rượu mừng vì nỗi thoát chết; đó là Hasse, một viên chức cần mẫn, lúc nào cũng chúi mũi vào việc công sở, nơm nớp lo mất việc, không dám ăn tiêu, dè xẻn từng đồng phòng khi thất cơ lỡ vận, để đến nỗi bà vợ chịu không nổi bỏ đi, cuối cùng kẻ xấu số ấy thắt cổ tự vẫn; đó là F Grau, một họa sĩ có tài nhưng phải sống bằng nghề truyền thần ảnh người chết… Biết bao kiếp người bế tắc trong một xã hội bế tắc. Qua một chương thôi, Remarque đã cho ta thấy sự bế tắc tột cùng của những người Đức thời bấy giờ, họ đổ xô đến những cuộc hội họp chính trị, không cần biết mục đích của đảng phái chính trị ấy, họ tìm một cái gì đó thay cho tôn giáo để mà tin, để mà bấu víu, và dễ dàng trở thành những kẻ cuồng tín. Đó chính là cơ sở để chủ nghĩa phát xít phát triển, đi đến chỗ cầm quyền. Đã thấy bóng dáng của lũ người mặc áo bludông, những tên phát xít khủng bố được dung túng. Vả chăng Lenz cũng đã chết bởi bàn tay chúng. “Ba Người Bạn” cũng như cả loạt tác phẩm có thể gọi là “chống chiến tranh” của Remarque hơn lúc nào hết vẫn mang tính thời sự nóng hổi, bởi hiện nay các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới đang đấu tranh không tiếc sức cho một hành tinh hòa bình không có chiến tranh, chống lại cuộc chiến tranh thế giới mới luôn đe dọa bùng nổ bởi bàn tay của các thế lực đế quốc và bọn phát xít mới. Giới thiệu với bạn đọc “Ba Người Bạn”, chúng tôi hy vọng thời gian tới đây có thể lần lượt cho ra mắt đầy đủ, có hệ thống, các tác phẩm nổi tiếng tiếp theo của Remarque, nhà văn lỗi lạc mà bằng sự nghiệp văn học của mình mãi mãi còn góp tiếng nói cho hòa bình. 7-1987. Vũ Hương Giang Mời các bạn đón đọc Ba Người Bạn của tác giả  Erich Maria Remarque.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thành Phố Đen - Tamora Pierce
Đến tuổi phải rời nhà Alanna quyết định không vào tu viện để học thành quý bà hiền thục mà đóng giả trai mang tên Alan đến triều đình Tortall học làm hiệp sĩ. Tác giả đã viết nên một câu chuyện ký túc xá tiêu biểu dựa trên nền fantasy. Điều kiện biên lý tưởng: hệ thống đóng kín, ký túc xá ở đây là triều đình, những bí mật, bài học, mong ước, các giám thị, bạn tốt và bạn xấu, v.v... Có rất nhiều thử thách với Alanna: số bài học nhiều và khó kinh hoàng, gã trai lớn tuổi ức hiếp, cơ thể thì thay đổi và trở thành phụ nữ. Câu chuyện vừa mang tính phiêu lưu vừa giàu chất tưởng tượng. Alanna tự tin và ngang bướng liệu có cư xử giống như một tiểu đồng? Các mối tình cảm lãng mạn và tréo ngoe được xử lý ra sao? *** Bài ca về Nữ hiệp sĩ - Sư Tử Cái Alanna von Trebond​ Đằng sau cuộc phiêu lưu của một thiếu nữ thuở dậy thì, với ám ảnh dai dẳng của cảm xúc sợ hãi và nghi ngờ bản thân, là bài ca về tình yêu về lòng quả cảm về trí thông minh về đức tin và lòng trung thành... Tất cả được nữ tác giả vẽ nên thật sắc sảo và tinh tế. Câu chuyện được kể hấp dẫn đến nỗi bộ sách đã trở thành hiện tượng SÁCH BESTSELLER DÀNH CHO TEEN ở Mỹ và châu Âu, và được nhận Giải thưởng "Những Con Mọt Sách" của đài truyền hình ZDF (CHLB Đức). Alanna là một trong những nhân vật mang dáng dấp nữ anh hùng trong loạt tác phẩm giả tưởng của nữ văn sĩ Mỹ này. Bốn tập truyện (Thành phố đen, Trong vòng tay Ðức Mẹ, Cây kiếm vỡ, Viên kim cương quyền lực) đưa bạn đến với những cuộc tranh hùng giữa các bộ tộc, giữa các vị quốc vương của những miền đất mang những cái tên đầy bí ẩn. Bạn đọc sẽ được đồng hành cùng Alanna với cái tên con trai là Alan và sau này là nữ hiệp sĩ có biệt danh "Sư tử cái của vương quốc Tortall", dấn thân vào cuộc trường chinh đầy kỳ thú và bất ngờ. Nữ hiệp sĩ Alanna Von Trebondnày được dành riêng cho lứa tuổi 12-19, nhưng người lớn đọc sách cũng nhận được rất nhiều. Những triết lý trong sách được gài vào khéo léo và giản dị, chẳng có gì to tát nhưng chúng sẽ cho bạn đọc những khái niệm đầu tiên mới mẻ về cái gọi là số phận, về sự sắp đặt không vô tình của vũ trụ, và dù có hay không sự can thiệp của các vị thần linh và thế giới siêu hình thì con người vẫn là những nhân vật "có khả năng ảnh hưởng đến dòng sự kiện". Với những người lớn, điều này không phải là không có ý nghĩa! Trọn bộ 4 cuốn của Nữ hiệp sĩ Alanna von Trebond: Cuốn 1: Thành Phố Đen Cuốn 2: Trong vòng tay Đức Mẹ Cuốn 3: Cây kiếm vỡ Cuốn 4: Viên kim cương quyền lực *** Tamora Pierce là một nhà văn tiểu thuyết giả tưởng người Mỹ dành cho thanh thiếu niên, được biết đến nhiều nhất với những câu chuyện có các nữ anh hùng trẻ tuổi. Nhà văn Tamora Pierce sinh năm 1954 tại Connellsville, Pennsylvania. Tốt nghiệp phổ thông, Tamora Pierce theo học môn tâm lý tại Đại học tổng hợp Pennsylvania. Ngay từ khi 11 tuổi, Tamora Pierce đã bắt đầu sáng tác. Hầu như tất cả các tiểu thuyết của bà đều là truyện fantasy dành cho lứa tuổi dậy thì. Cho tới nay Tamora Pierce đã cho in trên 20 tiểu thuyết và 3 truyện ngắn. Say đọc sách từ nhỏ, nhưng với tất cả những gì đọc được, mà đa phần là các tác phẩm khoa học viễn tưởng và các tác phẩm kinh điển thuộc dòng fantasy (Star Trek, Tolkien...) cô bé Tamora Pierce luôn băn khoăn một điều: Tại sao trong tất cả những cuốn sách tuyệt vời mà cô mê mẩn đến nóng bỏng đó không bao giờ có một thiếu nữ anh hùng, quyết đấu bảo vệ con đường của mình? Bởi tin chắc là hầu như không thể thuyết phục các nhà văn khác suy nghĩ lại và sửa chữa thiếu sót khó hiểu này, nên Tamora đã quyết định tự mình cầm bút. Nguyên tắc này vẫn được Tamora Pierce cùng các tác phẩm của bà trung thành tuân thủ cho tới hôm nay. Tamora Pierce cùng trí tưởng tượng và ý chí mạnh mẽ đang bơi ngược dòng, chống lại con sông ào ạt của những người hùng phái nam đang thống trị thế giới văn học fantasy. Bà đã mang lại cho bao thế hệ thiếu niên nam nữ những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu hút hồn với những nhân vật thuyết phục sâu sắc và những dòng hành động trôi chảy tinh tế. Những nữ anh hùng trong truyện của Tamora Pierce thật quyết liệt, mạnh mẽ và dịu dàng: Alanna von Trebond, Dhana, Keladry, Beka Cooper và sau này tới con gái của Alanna là Aly. Bởi thế, Tamora Pierce và thế giới fantasy của bà xứng đáng là người bạn đường thân cận của các thiếu nữ trong quá trình trở thành người lớn. Cùng rất nhiều câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm cực kỳ thuyết phục, bà mang lại cho bạn đọc niềm tin rằng: Nếu những nhân vật chính của bà - vốn là những thiếu nữ bình thường và không khỏi có lúc nghi ngờ bản thân - đã thành công và trở thành nữ anh hùng, thì bạn cũng có thể làm được. Trong tất cả các cuốn tiểu thuyết cúa mình, Tamora Pierce miêu tả quá trình khẳng định bản thân và con đường tiến vào thế giới người lớn của các thiếu nữ (dĩ nhiên là không chỉ có một phái, các nam nhân vật của bà cũng rất tuyệt vời) bằng bút pháp vô cùng lôi cuốn, vô vàn chi tiết hài hước, bay bổng, độc đáo mà không bao giờ lặp lại, không hề nhàm chán hoặc thậm chí bị trượt vào những khuôn thức chung chung sáo rỗng. Truyện fantasy của bà luôn được nêm nếm gia vị rất mặn mà tinh tế với những cảnh kịch ngang bướng và hài hước. Thế giới thời Trung cổ chỉ là bối cảnh, những vấn đề bà đề cập tới và đặt ra mang tính thời sự cao. Trong những cuốn sách của bà có tất cả những gì hứa hẹn mang lại cho bạn một buổi chiều đọc sách đẹp đẽ: tiếng loảng xoảng của vũ khí, cảnh chiến đấu, bạn bè, lòng chung thủy, sự trung thành và kể cả tình yêu, kinh nghiệm tự trải qua, pháp thuật, những phong cảnh đẹp tuyệt vời, lòng vị tha và sự cảm thông, một số chàng trai có trái tim vàng và dĩ nhiên là các thế lực u ám, thứ mà ta phải chống đối và chiến thắng. Mời các bạn đón đọc Nữ Hiệp Sĩ Alanna Von Trebond Tập 1: Thành Phố Đen của tác giả Tamora Pierce.
Thạch Trụ Huyết - Nguyễn Trần Bé
Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trần Bé cuộc đời của bạo chúa khát máu Sùng Chứ Đa hiện lên vừa đáng thương vừa đáng sợ, một minh chứng cụ thể về cơn mê quyền lực của con người. Nguyễn Trần Bé là nhà văn sở hữu lối viết rất đa dạng, từ bút ký đến thơ thiếu nhi ông đều có thể sáng tác. Văn chương của cây viết lão làng này thường mang tính phổ quát cao, dễ đọc, dễ tiếp nhận nhưng cũng vô cùng đẹp đẽ hướng tới cái chân, thiện, mỹ ở đời. Để hoàn thành tác phẩm Thạch trụ huyết, tác giả đã phải vất vả trong suốt bảy năm vừa viết vừa lao động, tìm hiểu, quan sát cuộc sống sinh hoạt của bà con đồng bào người Mông. Tác phẩm với cái tên ấn tượng này đã đem về cho ông giải ba trong cuộc thi viết tiểu thuyết lần thứ thứ tư của Hội Nhà văn Việt Nam. Thạch trụ huyết là câu chuyện kể về cuộc đời của tên bạo chúa Sùng Chứ Đa. Sinh thời hắn vốn là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, có tố chất trở thành thủ lĩnh thâu tóm một vùng thiên hạ. Nhưng người đời vẫn nói, trẻ sinh giờ thiêng hoặc thành kỳ nhân hoặc thành ác nhân. Chứ Đa là con của trời, nó có sự dũng cảm bản lĩnh hơn người nhưng cái ác trong máu cũng mạnh mẽ hơn bất kỳ ai. Ở nơi mù sương, xám đá này từ một thanh niên tay trắng mà hắn đã lập nên cả một cơ nghiệp với đội quân Đại Thạch khét tiếng chỉ bằng con đường điều chế và bán thuốc phiện. Người dân bị khủng bố tinh thần bằng bạo lực, bị tàn sát không thương tiếc. Nơi vó ngựa Chứ Đa đi qua cỏ không mọc nổi. Đỉnh điểm của sự tàn bạo độc tài ấy là việc tên bạo chúa cho xây dựng một cột trụ đá để hành hình những kẻ chống lại mình. Nạn nhân sẽ phải chịu đau đớn, giày vò cả thể xác lẫn tinh thần cho đến chết. Máu của kẻ xấu số tưới đẫm cột thành những mảng loang lổ như một con quái vật kỳ dị đang ngấu nghiến nuốt trọn con mồi. Nhưng ngồi trên tháp ngà tự phong Chứ Đa không hề hay biết một cuộc cách mạng đang âm thầm diễn ra và kẻ lãnh đạo lại chính là đám bạn thân thiết thủa hàn vi của hắn. Họ là Seo Lử, Mí Vư, Tháo Mỷ, A Pẩu… những người con chiến đấu vì nhân nghĩa, vì đạo làm người, giải thoát chúng sinh, bá tánh khỏi cảnh thống khổ, lầm than.   Truyền thống Đông phương thường khuyên con người ăn ở sao cho hợp lẽ đời, đừng tạo nghiệp để tránh tai ương. Giáo lý nhà Phật khuyên chúng ta hãy cố gắng tu tập hướng đến mục tiêu chính là cuộc sống hướng thiện, giải thoát, tự tại. Người nào đạt được những điều trên, kẻ ấy hạnh phúc nhất thế gian. Thật tiếc Chứ Đa lại nằm ngoài số đó. Vì thế dù cố gắng nhưng y cũng không thể kháng được mệnh trời. Khi cái ác bị đẩy lên tới tận cùng đương nhiên sẽ xuất hiện sự phản kháng, cách mạng. Bản chất dã man, thú tính của Chứ Đa được miêu tả sắc bén tới nỗi chính quân binh dưới trướng cũng không thể chịu nổi. Họ đã bật khóc trong bất lực, vụng trộm giấu kín đi hàng nước mắt xót thương cho những kiếp người bị bạo chúa hành hình. Bằng một lối viết nặng miêu tả, tác giả khéo léo dẫn dắt, xuyên suốt các sự kiện khiến người đọc bị thuyết phục. Thiện ác đối đầu, không một chi tiết thừa thãi, tạo cho mạch chuyện một sự chắc chắn, hoàn chỉnh về thuyết nhân quả cõi đời. Bên cạnh đó nội tâm của các nhân vật cũng được phơi bày, đặc tả kỹ càng, tường tận nhất có thể. Nếu như Sùng Chứ Đa làm người đọc kinh hãi, căm hờn bằng những hành động không thể dung thứ thì cái tình, cái lý, sự đùm bọc nơi chốn hoang vu giữa người với người lại khiến độc giả cảm thấy ấm lòng mà rưng rưng nước mắt. Cái thiện vẫn chưa bị tận diệt, luôn song hành chờ ngày phản kháng. Seo Lử được tạo ra như một thế đối trọng với Chứ Đa, không quá lời nếu ví chàng trai Mông này sống trọng tình như Lưu Bị trong Tam Quốc diễn nghĩa. Cũng chính sức mạnh ấy mà anh được buôn làng tin theo, cầm vũ khí cùng Seo Lử chống lại kẻ thù. Trong Thạch trụ huyết không có ai là kẻ ác mãi mãi. Tác giả đã thể hiện góc nhìn nhân đạo với tất cả các nhân vật từ đó để cho họ một đường lùi để cải tà quy chính. Đọc văn mà như thấy được khuyên răn, tự nhủ trong lòng sống tốt, đời sẽ không đãi bạc người lành. Thạch trụ huyết miêu tả khá nhiều về các trận đánh của Chứ Đa. Một yếu tố khiến cuốn tiểu thuyết trở nên đáng đọc. Tài cầm quân và đầu óc đầy tham vọng, mưu lược đã giúp hắn chiếm được hết các vùng đất, bày binh bố trận không thua kém mưu sĩ năm xưa. Vậy tại sao một kẻ tài giỏi như vậy lại sa ngã, lầm lạc? Đây sẽ câu hỏi khiến người đọc phải suy nghĩ, thậm chí là ám ảnh để rút ra câu trả lời của riêng mình. Những thứ Chứ Đa hướng tới như tài sản, quyền lực, thuốc phiện chỉ là phù du hư ảo, một ngọn lửa thiêu sẽ xóa sạch mọi sự tồn tại của y. Hắn đã ỷ vào sức mạnh để hà hiếp chèn ép mọi người mà quên đi con người thật của mình, mặc cho chất độc gặm nhấm, mục nát tận bên sâu trong tâm hồn. Một hồi chuông cảnh tỉnh cho ai đang sa đà, u mê. Nếu tất cả chỉ lo làm giàu về của cải vật chất mà sống không có đạo đức thì sẽ tạo ra mầm họa lớn cho xã hội. *** Tác giả Nguyễn Trần Bé sinh năm 1960 tại Hoa Lư, Ninh Bình. Từ những năm 1980 ông tham gia sáng tác văn học (viết truyện ngắn, kịch bản, ký và thơ). Thời kỳ đầu chủ yếu cộng tác với Báo Tân Trào (Hội VHNT Tuyên Quang) và báo Tuyên Quang; đồng thời có gửi tác phẩm cho một số báo khác của Trung ương.  Ông có khá nhiều tác phẩm được đăng trên các báo và đọc trên Chương trình Văn nghệ của Đài Tiếng nói Việt Nam. Nổi bật là các tác phẩm: Xanh mướt đồng ngô, Hương của đất (bút ký), Tạo vốn ăn chơi, Em và tôi (truyện ngắn); Mẹ không cô đơn, Thơ viết ở vùng chè (thơ), Sự tích rùa vỡ mai, Nỗi oan của chim sâu (thơ thiếu nhi)… đăng trên báo Tân Trào; Hoa hướng dương (truyện ngắn) đăng trên báo Tiền Phong; Dòng sông có một chuyện tình (truyện ngắn) đăng trên tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam... Một số tác phẩm nổi bật của ông được chọn in trong các tuyển tập; có truyện được trích đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2… *** Đã nhiều đêm già làng Nỏ Pó trăn trở không sao ngủ được. Ông già lắm rồi, sướng khổ đã có đủ. Nhưng ông chưa thể thanh thản an hưởng tuổi già vì còn có một chuyện vướng bận trong lòng. Thâm tâm ông nghĩ, việc này mà không lo xong thì không thể nào yên tâm nhắm mắt. Nghĩ đến đấy già làng Nỏ Pó vùng dậy, với cây gậy song đã nhẵn bóng, in đậm dấu tay, lật đật chống sang nhà Seo Lử. Ông đi xiêu vẹo, chuệnh choạng, chốc chốc lại phải đưa tay ôm ngực để nén cơn ho. - Hầy dà, cái chân không muốn bước nữa rồi! - Nỏ Pó buông cây gậy ngồi phệt xuống vệ đường đầy đá xám để nghỉ lấy lại sức. Ông đưa mắt nhìn về phía cái cột đá gớm ghê đã từng là nỗi ám ảnh của biết bao gia đình ở cái thung lũng đá Sủng Pả này. Cứ nghĩ đến những chuyện bà con trong bản kể về cái cột đá làm hại dân lành một cách nửa hư, nửa thực ông lại thở dài. Như có một sức mạnh vô hình, già làng Nỏ Pó cầm gậy đứng lên, bước xăm xăm về phía ngôi nhà tộc trưởng Seo Lử. Seo Lử nhìn thấy già làng từ xa, vội chạy xuống đón. Đưa đôi tay rắn chắc đỡ vị già làng đáng kính, Seo Lử bảo: - Sao già không cho người nhà gọi tôi đến mà phải tự đi cho khổ? - Chuyện này chưa xong thì không thể để lộ ra ngoài được! - Già làng Nỏ Pó nói trong tiếng thở dốc. Seo Lử dìu ông già chậm chạp bước vào nhà, mời ngồi lên chiếc phản gỗ đen bóng. Seo Lử vào buồng trong bê ra một bình rượu ngâm cao xương dê núi và rễ cây thuốc, rót ra hai chiếc chén làm bằng ống tre. - Mời già chén rượu quí! - Seo Lử thân mật đưa chén rượu tre cho Nỏ Pó. - Hầy dà! Rượu ngon đấy, mới ngửi đã thấy thơm, thấy say rồi! - Rượu này ngâm cao xương dê núi, cùng mấy chục loại rễ cây thuốc quý và các hương liệu ở núi đá Sủng Pả đấy già ạ. Người già uống vào khoẻ ra nhiều lắm. Sau vài tuần rượu, đến khi đã lâng lâng, Nỏ Pó nói với Seo Lử: - Seo Lử à, cái cột đá vẫn ác quá! Chủ nhân của nó chẳng còn nữa mà sao nó vẫn cứ làm hại dân lành? Già nghe dân bản kể, người chửa đi qua cái cột đá ấy bị sảy thai; trai gái yêu nhau đi qua cột đá sẽ sinh ra ghét nhau rồi bỏ nhau; người làm nương đi qua cột đá thì cây ngô, cây đậu không sai quả, mẩy hạt; trâu, bò, dê, ngựa đi qua cột đá sẽ sinh bệnh mà chết!... - Già có tin vào những chuyện đó không? - Seo Lử hỏi. - Ta thấy thật khó tin. Nhưng dân bản lại bảo những chuyện đó là có thật. Và họ muốn đập bỏ cái cột đá khủng khiếp ấy. - Vậy ý già làng thế nào? - Theo ta, để dân bản không phải lo nghĩ nhiều thì tộc trưởng cứ cho người đập bỏ cái cột đá ấy đi. Già như ta mà nhìn thấy nó còn sợ, huống chi là dân bản! Ngẫm ngợi hồi lâu, Seo Lử nói: - Tôi cho rằng những chuyện đồn đại ấy là do nỗi ám ảnh từ cái cột đá sinh ra. Chừng nào cái cột đá ấy còn đứng đó thì những nỗi khiếp đảm sẽ còn ám ảnh trong tâm trí mọi người. Có lẽ cần phải kéo đổ nó xuống. Chỉ kéo đổ thôi, chứ không đập đi đâu. Cái cột đá ấy không có tội, bởi nó chỉ là cái thứ để những kẻ mặt người dạ thú thỏa mãn cơn tàn sát cuồng điên của chúng. Vì thế phải giữ cái cột đá ấy lại để chúng ta và con cháu đời sau luôn nhớ đến tội ác của bạo chúa Sùng Chứ Đa. Nhớ đến nó để mà sống tốt hơn, thương yêu nhau hơn. Phải thế không già? - Tộc trưởng nói phải lắm! Thế là già này yên tâm nhắm mắt được rồi! - Nỏ Pó cười một cách khó nhọc, đôi mắt mờ đục của ông rớm nước. ... Mời các bạn đón đọc Thạch Trụ Huyết của tác giả Nguyễn Trần Bé.
Hoa Hồng Sa Mạc
Có điều gì gắn kết một tay cướp biển đã chết cách đây 600 năm, một người Argentina quyết cứu rừng vùng Patagonia, một thầy giáo lưu vong vẫn mơ về ngôi trường của mình và thức giấc với bụi phấn trên ngón tay, một người vùng Bengal yêu những con tàu và trên đường đưa chúng tới nghĩa trang tàu thì kể chuyện cho chúng nghe? Từ khắp mọi ngóc ngách, những số phận nhỏ bé ấy được xâu chuỗi dưới ngòi bút của Luis Sepúlveda trong một hành trình đặc biệt: hành trình chống lại sự vô danh, chống lại quên lãng. Bằng ngôn ngữ đầy chất thơ như tiếng sóng dồi của biển cả hay ngọt ngào như thịt một loại quả nhiệt đới, bằng ngòi bút đầy nhân văn, Sepúlveda kể lại câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai biết tới nhưng lại trở thành những anh hùng theo cách của họ, như chính những bông hồng nở giữa sa mạc Atacama.  *** #Review HOA HỒNG SA MẠC | LUIS SEPULVEDA Cùng là một bông hoa nhưng người thì thấy đẹp, kẻ lại chê kém sắc. Cùng là một tác phẩm nhưng người thì say mê, kẻ lại bảo khó đọc. Với Hoa hồng sa mạc của nhà văn Luis Sepulveda cũng thế. Nhưng rõ ràng một tác phẩm nhận được nhiều luồng ý kiến đánh giá khác nhau thì tác phẩm đó mới có giá trị cao. Luis Sepulveda được nhiều đọc giả yêu quý với những tác phẩm giàu tính nhân văn như Chuyện con mèo dạy hải âu bay, Chuyện con ốc sên muốn biết tại sao nó chậm chạp… Nhưng theo đánh giá chủ quan, tôi thích thú nhất là cuốn Hoa hồng sa mạc. Bởi ở đó, tôi bắt gặp sắc màu của nhân văn, làn gió của ngôn từ, và đặc biệt là sự phong phú của tri thức. Có đọc giả bảo khó đọc, khó tiếp cận nhưng theo tôi, nếu dấn thân hết mình vào tác phẩm, nếu chậm rãi lần hồi theo mạch truyện, bạn sẽ cảm nhận rõ những nét đẹp sắc cạnh của viên kim cương Hoa hồng sa mạc này. Tác giả đã khéo léo phết thêm sự long lanh, óng ánh cho những con chữ giàu sức gợi “Sự kháng cự yếu ớt của ánh sáng ban ngày êm ái buông lơi trước vòng xâm chiếm của bóng tối”, “Màn đêm đang ép mọng nước trái cây, đánh thức đam mê ở côn trùng, làm dịu nỗi bất an của chim chóc, làm mát da lũ bò sát, truyền lệnh nhảy múa cho đám đom đóm”… Đến với tác phẩm, đầu tiên, ta sẽ mãn nhãn với ngôn từ, cách liên tưởng, ví von đầy mê hoặc, gợi cảm vô cùng. Đó là thứ gió thuận làm cánh buồm căng phồng, rướn thân trắng giong ra biển chữ phía trước. Nơi biển chữ ấy, ta mê mẩn với vẻ đẹp của thiên nhiên, núi, rừng bao la, trầm trồ trước sự kì vĩ, đa dạng sinh học chưa kịp bị con người tàn phá với bàn tay nhơ nhuốc tội lỗi và tính hám lợi. Phép tả thực cùng sự thích thú, tình yêu thiên nhiên đã quyện hòa tạo nên những bức tranh tuyệt bích. Tôi say sưa trong từng đoạn văn như thế này “Trên những thân cây nổi lập lờ mặt nước, lũ rùa mời gọi nhàn tản ngắm nhìn hai mươi nghìn loài bướm của rừng Manu, bởi nơi đây là mảnh đất của sắc màu, và không chỉ có loài bướm làm minh chứng mà còn có theobroma, một loại phong lan đỏ tươi, phát lân quang lúc hoàng hôn… hoặc như môi nàng hôn phu, một loại phong lan khác màu xanh biển toả hương vani. Ta còn thấy hương sắc trong từng Manu khơi gợi vị giác như hương sắc của trái tabernamontana mời gọi khách khát nước uống múi nước mọng màu cam và thơm mát của mình”. Cảm nhận tinh tế, nội dung giàu ý nghĩa, cách viết đầy nghệ thuật đã tạo nên những câu văn mềm mại như dải lụa vắt ngang mặt song như thế. Đặc biệt, tác giả còn cung cấp cho người đọc một kiến thức mang tính thời sự khi đề cập đến một hiện tượng có thật đầy thú vị: Sa mạc Atacama ở Chile, một trong những sa mạc khô cằn nhất trên thế giới, đã phủ hồng sắc hoa sau khi đắm mình trong những cơn mưa. Sa mạc cũng trở nên đầy sức sống với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nơi nào thiên nhiên mơn mởn, căng tràn thì nơi ấy nhịp sống lại cựa quậy mạnh mẽ biết bao. Song song đó là nỗi đau xót, là cái trừng mắt lên án của nhà văn trước những hành động huỷ hoại thiên nhiên như tên quý tộc lập dị Fitzcarraldo dấn thân vào rừng sâu để tàn phá cây cối, rồi sự kiện xây dựng nhà máy thuỷ điện ở Laponia lấy đi bao diện tích rừng, nạn huỷ diệt tài nguyên rừng của vùng Patagonia thuộc Chile dưới tay những công ty gỗ Nhật Bản… Những sự kiện được dẫn ra khiến ai cũng phẫn nộ. Đặc biệt trong giai đoạn môi trường đang kêu cứu thảm thiết như hiện nay thì cuốn sách càng có ý nghĩa hơn nữa. Nó là một đóm lửa góp vào ngọn lửa đấu tranh chống lại sự huỷ hoại môi trường. Nó là tiếng gọi khẩn thiệt hãy giang tay cứu lấy thiên nhiên. Đan xen điều đó còn có những câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai để ý đến được vinh dự đặt chân lên những trang viết của Luis. Ông kể chậm rãi, nhịp điệu nhẹ nhàng, trong mỗi câu chuyện được kể, ta như được đặt chân đến những miền đất xa xôi khác nhau. Mỗi người trong tác phẩm của ông đều có một câu chuyện riêng làm ông lay động. Ông xâu chuỗi lại để những số phận nhỏ bé ấy không bị lãng quên. Biết đâu họ còn là điển hình cho những phận người trong cuộc sống này? Tính nhân văn cứ như thế tự nhiên lấp lánh như ánh sáng đàn đom đóm đêm, lung linh, huyền ảo và đẹp vô cùng. Đặc biệt, cuốn sách tuy mỏng nhưng giá trị lại lớn bởi những kiến thức nhà văn đem lại. Những tên người, những địa danh, những khuynh hướng chính trị… mà ông dẫn ra đã đủ khẳng định vốn tri thức phong phú và sự mày mò, tìm hiểu của một danh nhân. Bìa sách xanh mát thật sự phù hợp với chủ đề thiên nhiên xanh và con người mãi xanh mà Luis Sepulveda chuyển tải đến người đọc. - TRẦN THỊ THÚY DIỄM - sachnhanam.com -   *** Luis Sepúlveda sinh ngày 4/10/1949 tại Ovalee, Limari, Chile. Ông là một nhà văn, đạo diện, nhà báo và nhà hoạt động chính trị. Sau khi học Trung học ở Santiago, ông học ngành sản xuất phim tại Đại học quốc gia Chile. Ông hoạt động chính trị cùng đoàn thanh niên cộng sản từ năm 1961. Tác phẩm tiêu biểu: Lão Già Mê Đọc Truyện Tình - Luis Sepúlveda Chuyện Con mèo dạy Hải âu bay - Luis Sepúlveda Chuyện Con Ốc Sên Muốn Biết Tại Sao Nó Chậm Chạp - Luis Sepúlveda Chuyện Con Chó Tên Là Trung Thành Chuyện Con Mèo Và Con Chuột Bạn Thân Của Nó Kết thúc thế giới  Bóng tối của quá khứ chúng ta Hoa Hồng Sa Mạc ... Giải thưởng: Ông già mê đọc chuyện tình – giải thưởng Premio Tigre Juan, một giải thưởng văn học cho các vấn đề sinh thái.  Giải Premio France Culture Etrangêre (1992), Premio Terra (1997), Premio de la Crítica en Chile (2001). Kết thúc thế giới: giải Premio Juan Chabás Chuyện con mèo dạy hải âu bay: giải Bernard Award Versele label (1998), 3rd Prize Salicornia Animals Book Festival for Youth (1998), Price Gabler Youth Book Fair 1997 in Concarneau Năm 2009: giải thưởng Premio Primavera de Novela cho tiểu thuyết La sombra de lo que fuimos (Bóng tối của quá khứ chúng ta) Mời bạn đón đọc Hoa Hồng Sa Mạc của tác giả Luis Sepúlveda.
Bay Quanh Mặt Trăng - Jules Verne
Bạch Lan dịch Tựa khác: Lên Cung Trăng (Trúc Đỳnh dịch) Tiếp theo cuốn Từ Trái Đất lên Mặt Trăng, Barbicane, Ardan và Nicholl quyết định làm một chuyến bay quanh Mặt Trăng. Nhưng trước tiên họ phải đến được Mặt Trăng đã. Liệu chuyến đi của họ có thành công hay không? Họ có đến được Mặt Trăng không, có quay trở về được không, thu hoạch được gì từ Mặt Trăng? Bản dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của Nguyễn Thành Thống, với sự hiệu đính của Cung Giũ Nguyên. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Đảo Lincoln của tác giả Jules Verne. Mời các bạn đón đọc Bay Quanh Mặt Trăng của tác giả Jules Verne.