Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tên Trộm Xác Người - James Bradley

Tên Trộm Xác Người là tác phẩm thứ ba của nhà văn người Úc James Bradley, sinh năm 1967. Ông được nhật báo Sydney Morning Herald hai lần phong tặng danh hiệu là một trong “Những tiểu thuyết gia trẻ người Úc tài ba nhất”. Hiện ông sinh sống ở Sydney. Câu chuyện kể về Gabriel Swift, một sinh viên y khoa ngành phẫu thuật. Anh tới London vào năm 1826 để theo học với Edwin Poll, một bác sĩ phẫu thuật lớn. Từ những giao dịch mua bán tử thi, Swift dần lún sâu vào con đường tội lỗi do sự dụ dỗ của Lucan, kẻ nhiều quyền lực nhất trong số những tên đào trộm xác chết của thành phố và cũng là tên trùm cai quản hoạt động này. Bị bác sĩ Poll đuổi học, Gabriel bị cuốn vào thế giới ngầm tàn ác và bí ẩn của thủ đô London thời kỳ Georgian, trở thành một tội phạm. Dù sao, sự cứu rỗi đã đến với Swift ở phần cuối sách. Quyển tiểu thuyết dựa một phần vào sự kiện có thật về hai tên giết người hàng loạt Burke và Hare hồi đầu thế kỷ 19 ở Anh và các hoạt động mua bán xác người của các bệnh viện hay trung tâm phẫu thuật lúc bấy giờ. Truyện không phân theo chương nên khó theo dõi nếu bạn đọc không đọc liền một mạch. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Sài Gòn, tháng 4/2015 ★★★ “Chúng ta chào đời cùng người chết Thấy chăng, họ quay về, và mang chúng ta theo.” — T.S. Eliot, Four Quartets ★★★ “Nhiều tháng sau khi bạn đã khép lại trang sách cuối, những câu chữ của James Bradley vẫn còn đọng trong tâm trí bạn: Đẹp, hấp dẫn và không thể nào quên.”  — Markus Zukas, tác giả quyển The Book Thief “Một thiên tiểu thuyết lãng mạn kinh dị đầy chất cổ điển.”  — Daily Telegraph “Một quyển truyện kinh dị trần trụi, khơi gợi suy tư… Khi bạo liệt, khi đầy triết lý, quyển truyện này đầy ắp không khí.”  — Big Issue ★★★ London, 1826-1827 Họ nằm trong những cái bao tời như nằm trong tử cung của mẹ; gối chạm cằm, đầu ép xuống, như thể chết chỉ đơn giản là quay về với nhục thể mà từ đó chúng ta sinh ra, và đây là sự thụ thai lần thứ hai. Một sợi thừng sau gối giữ họ trong tư thế đó, một sợi khác cột đôi tay họ, rồi miệng bao khép lại bên trên họ và được cột ràng lần nữa, toàn thể trông như một gói đồ nén chặt, đã được ngụy trang một cách dễ dàng, vì nếu bị người bên ngoài nhìn thấy, một thứ hàng hóa như thế sẽ thu hút cả một đám đông. Thế rồi một con dao cắt phăng sợi thừng cột bao, và người này nhấc lên, người nọ kéo, chúng tôi lôi những thứ bên trong bao ra, đặt họ duỗi dài lên mặt bàn, trần truồng và giá lạnh, như một con bê hoặc một em bé chuồi ra khỏi lòng của mẹ, sợi dây và cái bao được giữ lại, vì một lát sau chúng tôi sẽ dùng lại chúng, để thu dọn những mảnh xác bị cắt rời. Chúng tôi cùng giữ chặt họ, kéo thẳng thi thể họ ra lần nữa. Dù tứ chi của họ không mềm quặt mà cũng không cứng lại, bất chấp sự giá lạnh vẫn còn nấn ná bên trong, tình trạng cứng đờ của họ đã bị phá vỡ bên cạnh nấm mồ khi họ bị bẻ gập lại và cột ràng để nhét vào bao. Lúc này, họ duỗi ra dưới bàn tay nắm giữ của chúng tôi, di chuyển với sự dễ uốn nắn lạ lùng của một thân hình nằm giữa cái chết và tình trạng thối rữa. Đấy là một công việc ghê tởm, thế nhưng sự ghê tởm không nằm ở việc đứng gần người chết mà ở sự thân mật nó đòi hỏi từ chúng tôi, sự cận kề với xác thịt và vật chất của thi thể họ. Khi họ đã được uốn nắn xong, nằm tái nhợt và trần truồng trên bàn, chúng tôi bắt tay vào việc. Trước hết chúng tôi lật úp họ xuống, để lộ phần lưng và mông lốm đốm tím và xanh giống như những vết bầm do máu đã tụ lại suốt nhiều giờ sau khi chết. Nếu lớp thịt bắt đầu thối rữa, sẽ có những chỗ phồng dộp, mềm, nhũn nước và tái nhợt, có thể vỡ toang nếu bị chạm vào, nhưng khi đó, lớp da cũng ẩm ướt do thứ chất lỏng giống như mồ hôi rỉ ra từ chúng. Đôi khi, những người liệm xác sẽ nút kín những lỗ hậu môn, và nếu thế, những vật đó phải được lấy ra khỏi xác. Sau đó, với giẻ lau, nước và dấm, chúng tôi bắt đầu rửa ráy cho họ, đôi tay cẩn thận di chuyển qua lớp da của họ, mùi dấm lẫn vào những thứ mùi u ám hơn bám vào họ, chúng tôi tiết chế những cử động nhưng không phải không lau chùi một cách nhẹ nhàng. Khi đã làm xong phần lưng và hai cẳng chân, chúng tôi lật họ trở lại, lau từ bàn chân lên háng, từ háng lên ngực, hai cánh tay và hai bàn tay, cuối cùng tới bộ mặt. Ở đây chúng tôi làm việc cẩn trọng nhất, lau quanh những đầu xương và chỗ nhô lên với những tấm giẻ gấp gọn, quanh đôi gò má, quanh phần trũng quanh mắt. Đôi khi hai mí mắt vẫn còn hé mở, cứng đờ, đôi mắt bên dưới mờ đục và không màu sắc như mắt của những người rất già. Khi lau rửa xong xuôi, chúng tôi xuống sân lấy nước, xà bông và dao cạo. Nước lạnh, dùng cho thi thể lạnh. Thế rồi, kéo thẳng lớp da chùng, chúng tôi bắt đầu cạo; trước tiên là phần da đầu và mặt, tóc ướt được tách thành từng lọn để lộ ra phần u lên của cái sọ; sau đó là lồng ngực và hai nách; rồi cuối cùng là bộ phận sinh dục, lưỡi dao cạo soàn soạt lướt trên lớp da. Đôi khi chúng tôi cắt phạm vào họ, nhưng chẳng có chút máu nào chảy ra, vết đứt tái nhợt và trống rỗng. Tôi không thể nói do đâu chúng tôi biết rằng đây là công việc cần phải được tiến hành trong im lặng. Chỉ biết cách thức là thế, phải luôn là thế. Vào những lúc khác chúng tôi di chuyển quanh họ như thể họ không nằm đó, nói cười với nhau trong lúc lôi kéo, cắt và dọn dẹp những mảnh thịt, gạt chúng sang bên một cách ngẫu nhiên giống như gạt sang bên một cuốn sách hay cái áo khoác đang nằm ở nơi ta định ngồi xuống. Nhưng lúc này chúng tôi lặng lẽ làm việc, không nói nhiều hơn mức cần thiết. Như thể việc rửa ráy người chết này chính là một nghi lễ: giống như người ta rửa sạch những thứ nhớt nhau từ lòng mẹ trên thân hình một em bé, chúng tôi chùi sạch mùi âm ty địa ngục khỏi những xác chết bị đánh cắp đó, đưa chúng mới tinh khôi vào thế giới. Khi công việc đã hoàn tất, mấy cái bao đã được gấp lại gọn gàng, mấy cái xô đã trút sạch nước, những tấm giẻ đã được vắt và phơi, bắt đầu tới việc tính tiền. Thầy chúng tôi kỹ lưỡng nhất trong việc lưu giữ sổ sách tiền nong, và số tiền trả cho Caley và Walker phải được ghi lại: tám đồng tiền vàng cho một xác đàn ông hay phụ nữ đã trưởng thành, hay thứ chúng tôi gọi là một cái lớn; bốn đồng tiền vàng cho một đứa trẻ con, hay một cái nhỏ; một siling mỗi phân Anh cho thứ mà chúng tôi gọi là một bào thai, hay một em bé dài chưa tới một bộ Anh. Và cứ vậy, trong lúc tôi lau sàn, Robert lặng lẽ tính toán trên cuốn sổ cái, ghi lại những khoản thanh toán, kiểm lại số tiền còn tồn trong hộp đựng tiền, gương mặt giấu sau một tấm mặt nạ lặng buồn mà anh luôn khoác lên khi nghĩ rằng mình không bị ai quan sát. ... Mời các bạn đón đọc Tên Trộm Xác Người của tác giả James Bradley.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bộ Năm Lừng Danh Tập 4: Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu - Enid Blyton
Bộ năm lừng danh là câu chuyện về những đứa trẻ ham thích phiêu lưu mạo hiểm. Trong thế giới mà bia gừng và thịt nguội là chế độ ăn chủ yếu, Julian, Dick, Anne và George dành phần lớn thời gian lang thang hết chỗ này đến chỗ khác. Trong đó, George thực ra là con gái, nhưng vì muốn làm con trai nên cô bé cắt ngắn tóc và hành động như con trai. George rất ghét mỗi khi người ta gọi mình bằng tên thật, Georgina. Cô bé có một chú chó tên Timmy và cả một hòn đảo cho riêng mình. Đúng thế, hầu hết những đứa trẻ đều có chó, nhưng cha mẹ của George sở hữu đảo Kirrin và để cô bé chạy rông như thể đó là sân chơi vậy. Và thế là bộ năm lừng danh có chuyến phiêu lưu đầu tiên của mình trong Bộ năm trên đảo giấu vàng. Đã gần 70 năm trôi qua kể từ lần đầu được xuất bản, Bộ năm lừng danh vô cùng sống động của Enid Blyton tiếp tục làm say mê hàng triệu bạn nhỏ trên toàn thế giới. Bộ sách đã nhiều lần được chuyển thể truyền hình, điện ảnh, hoạt hình, truyện tranh, kịch bản sân khấu, trò chơi điện tử. Còn tác giả Enid Blyton thì vững vàng trong hàng ngũ những nhà văn thiếu nhi kinh điển và cuốn hút nhất thế kỷ XX. Bộ Năm Lừng Danh đã xuất bản tại Việt Nam gồm có: Bộ NămTrên Đảo Giấu Vàng Chuyến Phiêu Lưu Mới Bộ Năm Chạy Trốn Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu Bộ Năm Chinh Chiến Dưới Lòng Đất *** Enid Mary Blyton (11 tháng 8 năm 1897 – 28 tháng 11 năm 1968) là nữ nhà văn người Anh chuyên viết truyện thiếu nhi. Bà còn có bút danh khác là Mary Pollock. Enid Blyton nổi tiếng với nhiều loạt truyện dựa trên những nhân vật quen thuộc và dành cho mọi lứa tuổi. Sách của bà được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bán được hơn 600 triệu bản. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của bà là Noddy trong quyển sách dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ đạo của Enid nằm ở dòng văn học phiêu lưu mạo hiểm dành cho thanh thiếu niên. Những bộ truyện thuộc thể loại này bao gồm Bộ năm lừng danh, The Secret Seven và The Five Find-Outers and Dog. Ngoài ra, bà còn viết truyện ngắn và thơ nhưng ít được biết đến hơn. Các tác phẩm của Enid Blyton đôi khi cũng có yếu tố phép thuật. Đến tận ngày nay, chúng vẫn được ưa chuộng ở Khối Thịnh vượng chung Anh và nhiều nước trên thế giới. Trong suốt 40 năm, bà viết gần 800 quyển sách và chúng đã được dịch ra gần 90 thứ tiếng. Tác phẩm tiêu biểu Bộ truyện The Wishing-Chair, 1937 – 2000 Bộ truyện The Circus, 1938 – 1942 Bộ truyện The Secret, 1938 – 1953 Bộ truyện The Magic Faraway Tree, 1939 – 1951 Bộ truyện The Naughtiest Girl, 1940 - 1950 Bộ truyện The St. Clare's, 1941 – 1945 Bộ truyện The Famous Five, 1942 – 1963 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Bộ năm lừng danh, NXB Hội Nhà Văn, Nhã Nam, 2011) Bộ truyện Malory Towers, 1946 -1951 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Tòa tháp Malory, NXB Văn Học, 2010) Bộ truyện The Mistletoe Farm, 1948 - 1950 Bộ truyện The Secret Seven, 1949 – 1963 Bộ truyện The Barney Mystery, 1949 – 1959 *** MỘT NGÀY đẹp trời, ngay đầu kỳ nghỉ lễ Phục sinh, bốn đứa trẻ và chú chó bắt đầu chuyến du lịch bằng tàu hỏa. “Sắp đến nơi rồi,” Julian, cậu bé cao lớn khỏe mạnh với vẻ mặt kiên định, nói. “Gâu,” chú chó Timothy kêu lên đầy phấn khích, chú đang cố gắng nhìn ra ngoài cửa sổ. “Ngồi xuống, Tim,” Julian nói. “Để Anne còn xem với chứ.” Anne là em gái cậu. Nó thò đầu ra ngoài cửa sổ. “Chúng ta đang tiến vào Ga Kirrin!” nó nói. “Em rất hy vọng cô Fanny sẽ ở đó để đón chúng ta.” “Chắc chắn rồi!” Georgina, chị họ cô bé, nói. Cô nhóc trông giống con trai hơn là con gái, vì mái tóc rất ngắn, lại còn xoăn tít thò lò. Nó cũng có một vẻ mặt kiên định giống Julian. Nó đẩy Anne sang một bên và nhìn ra ngoài cửa sổ. “Được về nhà thích quá,” nó nói. “Tôi thích trường học - nhưng sẽ rất thú vị khi được ở tại Lều Kirrin, dong thuyền ra Đảo Kirrin thăm tòa lâu đài ở đó. Từ hè năm ngoái tới giờ chúng mình có ra đấy đâu.” “Giờ đến lượt Dick,” Julian nói, quay về phía cậu em mình, một đứa có khuôn mặt vui tươi, đang ngồi đọc sách trong góc. “Kirrin đang dần hiện ra trước mắt đấy, Dick ạ. Em có thể dừng đọc một lúc được không?” “Thật là một cuốn sách hấp dẫn,” Dick nói rồi ập sách lại. “Câu chuyện phiêu lưu kỳ thú nhất mà em từng được đọc!” “Xì! Em cá là nó chẳng kỳ thú bằng vài chuyến phiêu lưu mà chúng ta đã trải qua đâu!” Anne lập tức nói. Đúng là năm đứa chúng, tính cả chú chó Timmy vốn luôn chia sẻ mọi thứ với bọn trẻ, đã cùng nhau trải qua những chuyến phiêu lưu cực kỳ ngoạn mục. Nhưng giờ đây xem ra chúng sắp có những ngày nghỉ yên bình, với những chuyến tản bộ dài trên các vách núi, và có thể chúng sẽ dong thuyền của George tới hòn đảo Kirrin của cả bọn. “Học kỳ này anh đã học cực kỳ chăm chỉ ở trường,” Julian nói. “Anh có thể tận hưởng một kỳ nghỉ lễ đây!” “Cậu gầy đi đấy,” Georgina nói. Chẳng ai gọi cô nhóc bằng cái tên đó. Tất cả đều gọi nó là George. Cô nhóc sẽ không bao giờ trả lời khi người ta gọi nó bằng bất cứ cái tên nào khác. Julian cười toe toét. “Ồ, anh sẽ sớm phát phì ở Lều Kirrin thôi, đừng có lo! Cô Fanny sẽ lo việc đó. Cô ấy rất giỏi trong việc vỗ béo mọi người. Thật tuyệt khi em lại được gặp mẹ, George ạ. Cô ấy quả là một người rất tốt bụng.” “Phải. Hy vọng kỳ nghỉ này bố sẽ vui vẻ,” George nói. “Chắc là vậy thôi vì mẹ bảo ông vừa hoàn thành khá thành công một vài thí nghiệm mới.” Bố của George là nhà khoa học, luôn phải nghiên cứu phát triển những ý tưởng mới. Ông thích không gian yên tĩnh, đôi khi ông trở nên cáu kỉnh nếu không thể có được sự yên tĩnh mà ông cần hay mọi việc không diễn ra chính xác như ông muốn. Bọn trẻ thường nghĩ Georgina rất giống bố ở cái tính khí nóng nảy! Nó cũng có thể phát cáu kinh khủng khiếp khi mọi thứ không như ý muốn. Cô Fanny đã chờ sẵn ở ga để đón chúng. Bốn đứa trẻ nhảy xuống sân ga và lao tới ôm bà. George lao tới đầu tiên. Nó rất yêu quý người mẹ dịu dàng của mình, người luôn cố gắng che chở cho nó khi bố nó nổi cáu. Timmy thì nhảy tưng tưng xung quanh và vui sướng sủa vang. Chú chó rất thích mẹ của George. ... Mời các bạn đón đọc Bộ Năm Lừng Danh Tập 4: Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu của tác giả Enid Blyton.
Bố Già Trở Lại! - Mark Winegardner
Hơn bốn mươi năm trước, Mario Puzo - tiểu thuyết gia người Mỹ đã cho ra đời cuốn Bố già (The Godfather), một tác phẩm được rất nhiều người ưa chuộng. Bố già là một trong những cuốn sách xuất bản có số lượng phát hành lớn nhất thế giới. Hãng phim Francis Ford Coppola cũng đã dựng thành phim. Đến nay, nhà tiểu thuyết gia Mark Winegardner sẽ lại tiếp tục câu chuyện Bố già với tác phẩm Bố già trở lại (The Godfather’s returns). Đó là vào năm 1955, sau khi đã toàn thắng trong cuộc chiến máu lửa với các gia đình tội ác ở New York, Bố già Michael Corleone ra sức củng cố quyền lực, cứu cuộc hôn nhân của mình với cô sinh viên Mỹ Kay Adams khỏi đổ vỡ và chuyển mọi hoạt động của gia đình sang phần bên này của biên giới pháp luật. Nhưng để hoàn tất ba mục tiêu này, Michael còn phải đối phó với đối thủ nguy hiểm nhất là Nick Geraci, một cựu võ sĩ quyền Anh đã leo lên các nấc thang xã hội bằng việc học và tốt nghiệp nghề luật sư, dù lúc nào hắn cũng là một sát thủ kinh khủng nhất của cánh Corleone. Độc giả nào từng thắc mắc chuyện gì đã xảy ra khiến bố già Michael phải ra lệnh cho thủ hạ bắn chết chính anh của mình là Fredo Corleone sẽ được giải đáp trong Bố già trở lại của Mark Winegardner. *** Mark Winegardner nhận bằng Thạc sĩ Văn chương về viết truyện ( Master of Fine Arts in Fiction Writing) tại Đại học George Mason và xuất bản quyển sách đầu tay ở tuổi hai mươi sáu, khi còn trên ghế nhà trường. Những quyển sách của ông đã được chọn là những sách hay trong năm bởi The New York Times Book Review, Los Angeles Times, Chicago Sun Times, USA Today và Thư viện Công New York. Tác phẩm của ông đã xuất hiện trong nhiều ấn phẩm gồm GQ, Playboy, Family Circle, American Short Fiction, Ladies’ Home Journal, Parents và The New York Times Magazine. Nhiều truyện của ông được chọn như là Truyện ngắn Xuất sắc của Năm trong The Best American Short Stories. Ông cũng là thành viên của các Chương trình Viết văn Liên kết. Hiện nay ông là Giáo sư và Giám đốc của Chương trình Viết Sáng tạo tại Đại học Bang Florida ở Tallahassee, Florida. *** Vào một chiều xuân lạnh, thứ hai năm 1955, Michael Corleone gọi Nick Geraci về gặp ông ở Brooklyn. Khi Ông Trùm mới bước vào ngôi nhà của người cha quá cố ở Long Island để gọi điện thoại, hai thuộc hạ ăn mặc giống như những con khỉ dính đầy dầu mỡ đang ngồi xem sô múa rối trên truyền hình, chờ kẻ phản bội của Michael đến nộp mạng và thích thú ngắm hai đầu núm vú của cô gái tóc vàng diễn với các con rối. Michael, đơn độc, đi vào căn phòng hơi cao hơn ở một góc mà người cha quá cố vẫn thường dùng làm văn phòng. Ông ngồi sau cái bàn xoay nhỏ trước đây là bàn làm việc của Tom Hagen. Bàn giấy của tay consigliere . Michael lẽ ra đã gọi điện thoại từ nhà riêng- Kay, vợ anh và mấy đứa nhỏ sáng nay đã rời nhà để về thăm bên ngoại ở New Hampshire- ngoại trừ chuyện điện thoại nhà của ông bị nghe lén. Đường dây khác trong nhà này cũng thế. Ông hành xử theo kiểu đó để đánh lạc hướng những thính giả sỗ sàng. Nhưng cách đấu dây sáng tạo dẫn đến điện thoại nơi văn phòng này – và dây chuyền hối lộ để bảo vệ nó- đủ sức cản trở cả một đạo binh cớm. Michael quay số. Ông không có sổ ghi địa chỉ và số điện thoại mà chỉ dựa vào sự khéo tay theo thói quen để nhớ các số cần liên lạc. Ngôi nhà lặng yên. Mẹ ông đang ở Las Vegas với em gái ông, Connie, Đến tiếng chuông reng lần thứ hai thì vợ Geraci trả lời. Ông chỉ biết sơ về cô ta nhưng vẫn gọi cô bằng tên (Charlotte) và hỏi thăm mấy con gái của cô. Thường thì Michael tránh dùng điện thoại và trước nay ông chưa từng gọi đến nhà cho Geraci. Theo thông lệ thì lệnh lạc đưa ra đều được đệm qua ba lớp người truyền để bảo đảm chẳng có cái gì bị lần dấu cho đến Ông Trùm. Charlotte trả lời giọng run run đối với những câu hỏi lịch sự của Michael và đi gặp chồng. Nick Geraci đã có một ngày thật là dài. Hai con tàu chở đầy heroin, mà không chiếc nào được dự báo sẽ đến từ Sicily, cho đến tuần tới. Thế mà đêm rồi chúng lại lù lù xuất hiện, một chiếc ở New Jersey, chiếc kia ở Jacksonville. Một kẻ kém cỏi hơn có lẽ giờ này đã phải nằm hộp, nhưng Geraci đã biết cách làm cho mọi chuyện trơn tru bằng cách tự tay trao một món quà tặng tiền mặt cho Quĩ trợ cấp của Hội Hữu nghị Quốc tế Tài xế Xe tải với con số hội viên đông đảo ở Florida, và bằng cách đến thăm (với một cống phẩm tầm cỡ!) cho vị đầu lĩnh thuộc Gia đình Stracci, người kiểm soát các bến tàu ở Bắc Jersey. Đến năm giờ, Geraci mệt lữ nhưng đã về nhà ở East Islip, thảnh thơi ngồi ở vườn sau chơi trò móng ngựa với hai đứa con gái của mình. Một bộ lịch sử hai quyển về chiến tranh thời Đế chế La mã mà chàng ta vừa mới bắt đầu đọc được để gần cái ghế dựa nơi phòng riêng để nghiền ngẫm tối nay. Khi điện thoại reo, Geraci đã lai rai vài ngụm ở ly Chivas pha xô đa thứ nhì. Chàng ta đang có mấy miếng sườn kêu xèo xèo trên vĩ nướng và một cặp Dodgers/Phillies để trên chiếc radio. Charlotte, trước đó đang ở trong bếp thu gom phần còn lại của bữa ăn , đi ra đến sân trong, mang theo chiếc điện thoại với sợi dây dài , bộ mặt thất sắc. ... Mời các bạn đón đọc Bố Già Trở Lại! của tác giả Mark Winegardner.
Anh Là Ai? - Hồ Phương
Khi chiếc xe ca chở khách còn cách thành phố Z một quãng khá xa, Trẫn Mẫn đã nhìn thấy thành phố đẹp xinh ấy thấp thoáng hiện lên sau những rừng cây thưa thớt uốn lượn, kéo dài. Anh không khỏi bồi hồi. Những kỷ niệm cũ tưởng đã bị thời gian và công việc chôn vùi, nay như những ngọn lửa nhỏ cùng nhau chấp chới thức dậy. Phải, cách đây đã gần sáu năm, trong chiến dịch mùa xuân 1975, anh đã từng sống ở thành phố này ít nhất cũng được trên ba tháng với tư cách một cán bộ trong ủy ban quân quản đặc trách công tác dân vận và an ninh của một quận trong thành phố. Ba tháng ấy, chắc chắn suốt đời anh sẽ không sao quên. Đó là ba tháng ngây ngất, say sưa, tràn ngập những niềm vui. Ba tháng với vòng hoa nguyệt quế của những người chiến thắng, anh đã sống giữa tình yêu thương ngưỡng mộ và cả sùng kính tràn trề của quần chúng, nhất là tuổi trẻ. Anh vẫn còn nhớ rõ có lẽ không thiếu một gương mặt nào. Nhưng có một gương mặt đã làm cho anh khó quên hơn cả. Đó là Thùy Dương, cô nữ sinh đại học văn khoa năm thứ nhất, một đóa hoa trinh trắng và dịu dàng của thành phố. Cô học ở Sài Gòn. Khi thành phố quê hương được giải phóng, cô đã trở về và lao ngay vào phong trào thanh niên, học sinh với tất cả niềm tin tưởng, say mê. Cô luôn luôn gần gũi anh. Và dần dần anh cảm nhận thấy được một điều xiết bao xúc động: cô nữ sinh ấy đã dành cho anh những tình cảm nồng nàn hoàn toàn khác với tất cả những người cán bộ, chiến sĩ mà cô vẫn hàng ngày gặp gỡ, hoặc cộng tác. Nhưng tiếc thay, giữa lúc tất cả mọi chuyện hãy còn đang ở bước đầu e ấp, hé mở, hai người chưa kịp nói với nhau bất cứ một lời nào thì, đùng một cái, Mẫn được lệnh trở ra Bắc và được vào trường đại học. Mẫn cứ tưởng sẽ được trở về tiếp tục học ở khoa sử trường Tổng hợp, vì trước khi đi bộ đội, anh đã là sinh viên năm thứ nhất ở đó. Nhưng tổ chức lại yêu cầu anh thi vào trường An ninh quốc gia. Từ bất ngờ nọ sang bất ngờ kia, Mẫn hơi buồn, nhưng vốn là một người lính có kỷ luật, quen chịu đựng, anh đã chấp nhận hết, kể cả sau đó ít lâu vì chiều lòng mẹ, anh đã lấy vợ. Đó là một cô nữ dân quân, bạn học cũ từ thời tiểu học. Một cuộc hôn nhân hoàn toàn không bắt đầu bằng tình yêu, giống như hầu hết mọi cuộc hôn nhân xưa cũ của các lớp cha anh trước đây. Tuy vậy, trong mấy năm ở nhà trường, cũng may, anh đã tìm thấy được một niềm vui và ham thích mới: đó là cuộc chiến đấu trên mặt trận thầm lặng. Lẽ ra anh còn có thể thích hơn nếu đó là cuộc chiến đấu ở bên kia chiến tuyến. Còn đây lại là cuộc chiến đấu ở ngay trong hàng ngũ của mình. Tốt nghiệp với những lời phê khá đẹp, Mẫn đã được điều về cơ quan an ninh của quân đội… Cũng không ngờ hôm nay anh đã có dịp trở lại thành phố này. Nhưng anh hiểu: anh trở về đây lần này không phải là để tìm lại cái địa chỉ 20 đường Võ Tánh xiết bao quen thuộc, thân thương của Thùy Dương. Anh về đây cũng đúng là để đi tìm một địa chỉ, nhưng là một địa chỉ của “ma quỷ”. Mẫn trở về thành phố này hôm nay không phải vì nó đang được nổi tiếng về một thắng lợi trong việc dùng mưu phá tan và bắt gọn một tổ chức phản động khá lớn ở địa phương. Không! Mẫn về đây vì một nhiệm vụ đặc biệt… ... *** Hồ Phương là Thiếu tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam và là một nhà văn nổi tiếng, ông đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012. Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương tên thật là Nguyễn Thế Xương, sinh năm 1931 tại Hà Đông, Hà Nội.(có tài liệu ghi 1930, tại Tây Hồ (quận), Hà Nội) Hồ Phương là nhà văn trưởng thành từ "Chiến sĩ Quyết tử" của Thủ Đô sáu mươi ngày đêm khói lửa bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của cha ông, gìm chân quân xâm lược cho cả nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến. Trực tiếp tham gia nhiều chiến dịch lớn suốt những năm chống Pháp trong đội hình của Đại đoàn quân chủ lực đầu tiên của Quân đội là Đại đoàn 308, sau này là Sư đoàn Quân Tiên phong Anh hùng, từ người lính lên Chính trị viên đại đội. Hồ Phương bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tay về bộ đội từ khi mới 17 tuổi. Năm 1949 ông phụ trách một trong những tờ báo đầu tiên của Quân đội là báo Quân Tiên phong của Đại đoàn 308. Từ năm 1955 ông về Tổng cục Chính trị, là thành viên tham gia thành lập tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1957. Nhà văn Hồ Phương từng giữ chức Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1990 ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Hiện nay ông đang là chủ nhiệm hội văn nghệ sĩ Xứ Đoài. Mời các bạn đón đọc Anh Là Ai? của tác giả Hồ Phương.