Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Made In Vietnam (Thuận)

Bạn muốn viết văn?

Nếu viết tình yêu, tựa đề nhất định phải bắt đầu bằng “Chuyện tình kể” như­ hai nhà văn đ­ương thời danh tiếng nhất Việt Nam. Đừng nên coi thường chữ “kể”, nó cho ngư­ời ta dốc bầu tâm sự như­ dốc n­ước khỏi chai. Kỷ niệm ơi kỷ niệm, có ngư­ời Việt nào không tôn thờ kỷ niệm? Ngay trong cái tựa đó, tùy thẩm mỹ mà sẽ thêm “trong nắng chiều” “lúc mư­a khuya” mộng mơ Tự lực văn đoàn, hoặc “trư­ớc bình minh” “buổi ban mai” hồn nhiên hiện thực xã hội chủ nghĩa. Sau đó, bạn sẽ chia nhân vật thành hai tuyến thiện và ác, đương nhiên nhân vật tốt phải là tấm gương cho độc giả soi vào. Còn nếu muốn tỏ ra sắc sảo hơn, bạn có thể làm như­ nhà văn nam danh tiếng: ác tí ti thiện tí ti. Hãy để cho nhân vật nữ bị em chồng hiếp, bố chồng nhìn trộm khi tắm, đừng kể lể gì về những khoái cảm hay giận dữ của cô ta, mà cho cô thốt lên lời đức hạnh: “Khổ chứ. Nhục lắm. Như­ng thương lắm”. Sẽ có nhà phê bình ví cô với Đức mẹ đồng trinh cho mà xem! Cho đến năm 2001, mọi cuộc tranh luận sôi nổi nhất của văn học Việt, chính thống hay không chính thống, đều luẩn quẩn ở cái Tâm: cả ngư­ời đọc lẫn ngư­ời viết ai cũng lo nó không cạnh tranh nổi môn luân lý học. Cuộc bút chiến Trí thức/Phản trí thức vư­ợt trùng dương, sau một hồi náo nhiệt, cũng bị cái Tâm cho xí xóa hòa cả làng.

Về câu chữ, chỗ nào cần thư­ơng cảm ắt phải có nư­ớc mắt, lá mà rơi thì đ­ương nhiên phải xào xạc. Nhịp điệu thì lúc nhặt lúc khoan, lên xuống tuỳ cảm hứng. Đôi lúc nên xen kẽ vài đoạn thơ, gọi nôm na là “tiếng nói vô thức”. Bạn cũng cần có vài xen kiếm hiệp cho thêm ly kỳ, kiểu c­ưỡi ngựa bắn súng hay công an đuổi bắt tù v­ượt ngục, hay cả hai. Nếu có chút ngoại lai nữa thì tuyệt: Tây bắc này, Cali này, hứng lên có thể cho cô gái Mèo khóc ở Ba lê hoa lệ. Cuối cùng xin đừng quên những câu giầu tính suy t­ư như­ “Tình yêu đấy là một hung thần” hay “Về bản chất đàn bà đứng về phía trật tự… Không có trật tự nào dung được tình yêu to lớn”. Bí quyết là làm thế nào cho ngư­ời đọc phải cảm thấy ở tận cùng văn bạn là nỗi cô đơn, sự trải đời, khả năng yêu th­ương và đau đớn, là con ngư­ời viết hoa! Họ phải sờ đư­ợc cả nếp nhàu trên mặt bạn! Họ phải nhìn bạn như­ tín đồ thiên chúa giáo nhìn Giê-su chịu nạn ấy chứ!

Cứ viết như­ thế đi, nếu không thành công, bạn sẽ chẳng thất bại.

Như­ng nếu bạn lại bảo: “Rằng hay thì thật là hay…”? Tìm mua: Made In Vietnam TiKi Lazada Shopee

Viết một tiểu thuyết không kết không mở không cao trào-xung đột-mâu thuẫn, không thắt nút-mở nút, một tiểu thuyết không ch­ương đoạn, không dấu xuống hàng, ý này vắt sang ý kia, tiết kiệm chấm phẩy và các mỹ từ, thán từ cùng các câu trau chuốt. Tạo cho tiểu thuyết một nhịp điệu gồ ghề. Tránh cho ng­ười đọc các đoạn tả cảnh tả tình, phân tích tâm lý nhân vật vừa dông dài vừa vô nghĩa. Tha cho họ những xúc động, ngợi ca. Viết tình yêu mà không cần phải trữ tình. Kể một Việt Nam đ­ương đại mà không nhất thiết phải lôi ra các vết th­ương chiến tranh, chế độ toàn trị, quan liêu tham nhũng, đói nghèo hay suy đồi đạo đức.

Made in Vietnam của Thuận là một thử nghiệm như­ thế.

Nó sẵn sàng lặp lại, từ hai lần trả lời không khác nhau một dấu chấm dấu phẩy của giám đốc Nguyễn Đức L­ương, từ hai mư­ơi người bạn trai cùng tên Khánh của nhân vật nữ chính, từ các buồng tắm giống nhau như­ những giọt n­ước của ngư­ời dân thủ đô thời mở cửa, từ cái phải làm phải ăn phải mặc, ng­ười phải gặp trong bảy ngày tết Nguyên đán. Made in Vietnam là cái nhàn nhạt của xã hội Việt Nam hôm nay, ở đó thời gian cứ trôi đi mà chẳng ai nói “Tại sao thế?”, chẳng ai hỏi “Phải chăng ta đang yêu cái mà tám m­ươi triệu ngư­ời khác đang yêu, sống cuộc sống mà tám m­ươi triệu ng­ười khác đang sống?”.

Và tr­ước hết, nó cùng ng­ười đọc kiếm tìm một thẩm mỹ mới, một nhận thức mới về văn học.

***

Cuối cùng Hà Nội cũng đến được năm 2000. Đêm mồng một tháng một một phụ nữ trẻ Hà Nội tên là Trần Minh Phượng lên giường ngủ từ chín giờ tối, sớm hơn thói quen đúng một tiếng, để chuẩn bị cho buổi đi làm lần đầu tiên trong đời vào sáng hôm sau, để trở thành một cán bộ công nhân viên nhà nước. Kĩ sư canh nông Nguyễn Thanh Bình, chồng của Phượng, không thể xem vô tuyến trong lúc vợ ngủ đã ngồi đánh xi cả năm đôi giầy màu đen cỡ bốn mươi ba. Đêm hôm ấy, giám đốc Nguyễn Đức Lương hoà giải với vợ bằng cách quay lại phòng riêng của hai vợ chồng sau ba đêm ngủ trên đi-văng phòng làm việc. Cũng đêm hôm ấy, nhiều người Việt Nam nhớ lại bài trả lời phỏng vấn các nhà báo Mỹ của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, hai mươi năm trước, về tương lai của chủ nghĩa xã hội có khẳng định câu trả lời sẽ là năm 2000. Hai mươi năm đã qua, Hà Nội không còn là thành phố của thế hệ những người nói tiếng Pháp còn nhanh hơn tiếng Việt. Hai mươi năm đã qua, Hà Nội cũng không bỡ ngỡ nhiều khi bước vào năm cuối của thiên niên kỉ. Bởi vì thực ra năm 2000 của Hà Nội đã bắt đầu từ hai mươi năm trước, từ một nụ cười chiến thắng đại diện cho ba triệu nụ cười của thủ đô, cho sáu mươi triệu người dân Việt. Năm 2000 Hà Nội đếm được hai mươi nghìn khoảng không gian khép kín, khoảng nào cũng nép dưới gậm cầu thang, cũng giới thiệu giải pháp tối ưu biến nhà kho thành văn phòng. Hai mươi nghìn gậm cầu thang là hai mươi nghìn chuyện cơm bữa của thành phố nơi dân cư rất ư giản dị, coi trang trí nội thất là điều xa xỉ. Giữa khu phố cổ hay vùng mới mở rộng, đâu đâu cũng bắt gặp những diện tích mười mét vuông sáng bán phở, ngày cho thuê băng hình, tối cà phê giải khát. Hà Nội năm 2000 của năm triệu sinh mạng sùng sục sống vứt qua một bên những gì không thuộc nhu cầu ăn, uống, ngủ, nghỉ sau hai mươi năm phấn đấu cho năm triệu con người mới xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy mười mét vuông phòng làm việc của Tâm Sự Bạn Gái trực thuộc tòa soạn báo Phụ Nữ đến năm 2000 càng thấy không cần dấu đi gốc gác nhà kho của mình. Đổi mới trên nguyên tắc tôn trọng hoàn toàn cái đã có. Chiếc cửa sổ xanh duy nhất nhện nhởn nhơ chăng mạng, hai cánh cửa chỉ còn lại một ô kính, mấy tờ giấy báo dán trên khung gỗ cũng đã ngả màu xanh, mỗi khi gặp gió hớn hở vẫy đám vữa túm năm tụm ba trên trần nhà, rồi cả bọn quay ra cùng lớp bụi trong phòng làm đủ hai mươi vòng khiêu vũ. Trên tường, năm chục cô gái trong áo may ô đỏ, quần đùi đỏ, ngắn hơn quần đùi đàn ông, đi guốc đỏ, nở năm mươi nụ cười, tạo nên một cuộc thi hoa hậu được tổ chức kiểu Hà Nội. Người ngồi, kẻ đứng, người nghiêng phải, kẻ nghiêng trái, động tác duy nhất được tập luyện trước là hếch mông, góc bốn mươi lăm độ làm chuẩn. Đấng nam nhi nào trông thấy cảnh này mà chẳng thốt lên vài tiếng thở dài. Đi về đâu hỡi em, mọi trò thi cử đều phù du, sao không nhìn gương các hoa hậu đi trước. Các ứng cử viên phái nữ phớt lờ. Cả năm chục cô chẳng ai bảo ai cứ cong người mãi, chúm chím mãi chẳng hướng về ai mà hướng về đống bàn ghế, thư từ, sách báo ba ngày một lần được xếp lại trong một trật tự hết sức mất lịch sự. Tâm Sự Bạn Gái chắc phải rất ý tứ mới có thể tâm sự được trong một không gian như vậy. Bốn giờ chiều, căn phòng tanh bành như sau phiên chợ. Bốn giờ chiều, chiếc bóng đèn sáu mươi oát tự động bật sáng rồi khép nép đứng trong một góc, thành thử ánh sáng chỉ rón rén đến hai phần ba căn phòng là dừng lại, giống y hệt lần nguyệt thực lâu nhất trong lịch sử Hà Nội. Phần không được chiếu sáng âm thầm giấu đi những thành quả của nền kinh tế kế hoạch sẽ được nhà nước tổng kết tháng 5 năm 2000: bộ máy vi tính, chiếc quạt điện, cái siêu đun nước cùng phích và bộ ấm chén uống chè. Cứ thế từ bao lâu không rõ, Tâm Sự Bạn Gái, người và đồ vật, chen chúc trong phòng làm việc cựu nhà kho, chiều cao chỉ cao hơn người Hà Nội bảy xăng-ti-mét. Chiếc cửa sổ để thông thống hai mươi tư giờ một ngày cũng không đủ khả năng tắm rửa lũ không khí lúc nào cũng nặng mùi giấy mốc nhưng không biết chạy đi đâu, trong phòng thì ngột ngạt còn bên ngoài là hai quán bia hơi, hàng ngày cho vào lò thiêu hoàn vũ vài chục xác động vật từ thú rừng đến gia súc, không con nào rõ thời điểm qua đời. Đầu năm một nghìn chín trăm tám mươi có một phụ nữ tên là Trần Thị Lan đến tòa soạn xin việc. Sau mười chín năm ngồi lại trong phòng Tâm Sự Bạn Gái, cô đã trở thành người đàn bà kín đáo nhất tòa soạn, quyến rũ nhất làng báo, lộng lẫy như trên sân khấu. Một hôm cô đến phòng tổ chức tự nguyện xin thôi việc để vào Sài Gòn. Ngày làm việc cuối cùng cô đến tòa soạn, giấu mình trong chiếc áo măng tô mùa đông màu cà phê.

Vào đến căn phòng quen thuộc cô mới trút bỏ áo khoác để lộ chiếc may ô đỏ, chiếc quần đùi đỏ và đôi guốc cao gót đỏ, giống hệt như năm mươi cô gái đang dự thi hoa hậu trên tường. Cả ngày hôm ấy cô không đi ra khỏi phòng cũng không ai vào phòng cô, mà nói chung đã từ lâu không ai vào phòng cô cả. Ngày cuối cùng cô đã ngồi lại tâm sự đủ tám tiếng với Tâm Sự

Bạn Gái không một lỗi văn phạm, không một lần tẩy xóa, rồi ra đi không một lời từ biệt. Không một ai nghe nói về cô nữa. Tâm Sự Bạn Gái phải đóng cửa chín tháng trời. Cho đến một ngày cuối năm một nghìn chín trăm chín mươi chín, có một phụ nữ trẻ đến tòa soạn xin việc. Cô chính là Phượng, ba mươi hai tuổi, đã có gia đình, đã có một con. Cô nghĩ tâm sự với bạn gái còn hơn ngồi tâm sự một mình nên rất vui vẻ nhận việc, lại còn cho rằng cô may mắn. Ngày thứ hai năm 2000 cô bắt đầu đến làm việc trong căn phòng ẩm ướt, cả sàn nhà cả bốn bức tường méo mó, cả năm mươi cô gái, năm mươi nụ cười đều sũng nước. Cô đành phải chọn một chiếc ghế đẩu nguyên vẹn để cho cả hai chân lên, còn cổ và đầu co vào cái khăn quàng cổ to xụ. Cô để cửa mở cho hơi nước bay bớt ra ngoài, ai đi qua cũng vô tình nhìn vào tận bên trong, nhìn vào tận cuộc thi hoa hậu đã từ lâu nổi tiếng trong tòa soạn. Ba ngày sau khuôn mặt và cơ thể cô chia các đồng nghiệp thành ba nhóm ý kiến khác nhau. Nhóm thứ nhất bảo cô tầm thường vô vị. Nhóm thứ hai cho là cô cực kì hấp dẫn vì cô luôn giấu mình dưới một vài thứ gì đó, ví dụ như hơi nước, ví dụ như chiếc khăn len to quá cỡ, chiếc áo choàng quá dài. Nhóm thứ ba gồm những người thích phụ nữ tươi trẻ thì không ưa cô, lại còn ví cô với con gà trúng mưa. Sáng sớm ngày thứ ba trưởng phòng biên tập gọi điện giục Tâm Sự Bạn Gái gấp rút bài vở cho báo Tết. Phượng trả lời tết năm nay hay tết năm sau. Cả một núi thư cao hơn đầu cô cái nọ dính vào cái kia vì ẩm, cái nào cũng dài hai trang. Tổng biên tập thuộc về nhóm ý kiến thứ hai nên đề nghị cô đi ăn trưa cùng ở quán cơm bụi Trần Hưng Đạo, nhưng nói thêm chỉ được ăn trong năm phút thôi.

Không khí chạy sô của toàn xã hội đã bẩy tung cả những kẻ ù lì nhất.

Những ai còn đủ hai chân đều thấy nên sử dụng chúng một cách triệt để, như thể bao nhiêu may mắn, tài lộc nằm cả ở cung di. Năm phút ăn trưa cùng tổng biên tập đủ để Phượng hiểu là các đồng nghiệp của cô cũng lao đi các cơ sở, nào ai nỡ câu nệ chuyên môn. Năm phút ăn trưa tổng biên tập cũng gợi ý cho cô mỗi nghề có một phép màu nhiệm riêng, ví dụ như cô có thể vừa tâm sự bạn gái, vừa là nhà báo đa năng. Báo chí ngày nay như cơm bình dân, mỗi nhà báo là một đầu bếp trái nghề, bí quyết giữ khách duy nhất là giá rẻ và nêm nhạt ai ăn cũng được, nếu cần mặn có thể xin thêm chén nước mắm. Mỗi bài báo là một món nẫu sẵn đã có công thức khỏi tính toán canh chừng, hôm trước còn thừa hôm sau có thể cho vào đun lại, còn bốc nổi hơi tức là còn xơi được. Phương châm chung là càng tiết kiệm, càng đỡ mất công, càng lợi.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Made In Vietnam PDF của tác giả Thuận nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Sương Mù Tháng Giêng (Uông Triều)
Xoay quanh những mối quan hệ nhiều bất trắc của vương triều nhà Trần ở giai đoạn kháng chiến chống quân Nguyên Mông, tác giả đã xây dựng nên không khí một thời đại hào hùng của nước Đại Việt. Những nhân vật lịch sử như Trần Khánh Dư, công chúa Thiên Thụy, vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông hay Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo hiện lên với tâm tư, tình cảm của những con người cụ thể, họ mang những nỗi niềm của dòng tộc mâu thuẫn với lợi ích quốc gia, và thậm chí cả những sân si dục vọng của con người thông thường. Vì nguyên tắc đạo đức và rường mối triều chính, nhà vua phải trừng trị kẻ thông dâm với công chúa, nhưng vì xã tắc, nhà vua vẫn để tướng tài Trần Khánh Dư được sống để sau đó lập công chống giặc. Vì sự hưng vong của quốc gia, Hưng Đạo vương phải bỏ qua hiềm khích đời trước để phụng sự hai vua đánh thắng giặc hai lần. Cuốn tiểu thuyết đan xen giữa giọng điệu hào sảng của sử thi với những trang viết phản ánh nội tâm con người cá nhân, để kể về một thời đại con người vẫn chưa hoàn toàn lệ thuộc vào khuôn khổ Nho giáo cứng nhắc, thời nước Việt vẫn là của những người khảng khái, lẫm liệt mà đầy đam mê, khao khát.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sương Mù Tháng Giêng PDF của tác giả Uông Triều nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kẻ Cướp Bến Bỏi (Tô Hoài)
Kẻ cướp bến Bỏi lấy bối cảnh cuộc nổi dậy của Cao Bá Quát và các nghĩa quân chống triều đình nhà Nguyễn vào năm 1854 bị thất bại, Tự Đức đã tiến hành cuộc trả thù hết sức dã man đối với tộc họ Cao, để là nền cho tác phẩm này, Tô Hoài đã kể cho chúng ta cuộc sống thật của vùng nông thôn Việt Nam dưới thời phong kiến. Những người dân chài ven sông tuy nghèo khó, đói khát trăm bề nhưng đầy nghĩa khí và thắm tình nghĩa thầy trò, tình bạn thủy chung trong lúc khó khăn. Sau khi không còn chủ tướng Cao Bá Quát, một số nghĩa quân tập họp lại để tìm kế trả thù cho thầy, một số người khác tổ chức các vụ trộm cướp.Tuy nhiên, họ chỉ cướp của các phú hộ, của bọn quan lại giàu có lại để chia cho người nghèo. Điển hình trong số này là Cõi-kẻ cướp vùng bến Bỏi trong lốt người bán đầu, người “có tài bơi lội như con dái cá, leo tường chẳng khác gì con nhái bén, khóa nào cũng móc được, mở êm ru…”. Tuy nhiên, sức dân nghèo cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc làm sao chống lại được súng gươm triều đình, lực lượng nghĩa quân ngày một sút giảm, người bị bắt, người bị chết thảm thương như Trắc-bạn nối khố của Cõi. Một ngày, Cõi bị quân của lãnh Quang bắt vì vi phạm lệnh cấm bán dầu nhưng Cõi lại được bác Cả và anh em bến Bỏi cứu thóat. Trở về chùa Xiển trong tình trạng hai chân mất gân do bị lãnh Quang tra tấn, Cõi không còn sức để tiếp tục làm “quân cướp tốt bụng” vùng sông nước, nhưng đứa con trai đã đủ sức thay cha làm việc nghĩa, còn Cõi ở lại làm ông sãi chùa Xiển … “Phải khi mùa hanh hao, gió bấc thổi đêm ngày liên hồi kỳ trận, trời đất mù mịt trên sông Cái, thoạt trông sang chẳng thấy Bà Móc, chợ Cầu Cháy đâu, cả đất Kẻ Chợ vùi vào làn cát đỏ rực. Song để ý kỹ, dần dần nhìn ra những cái nan, cái thúng, người với gồng gánh sang ngang và đôi chốc, một cái mảng, một chiếc thuyền đại tạt vào ăn bến chợ Ống Nước, bọn người neo lái phải vừa chèo vừa hò ơi ới để lấy đường nước giữa làn cát mờ mờ táp vào mặt. Tưởng như gió cát triền miên, đò giang cách trở thế, chẳng mấy ai qua lại, thế nhưng mọi đồn thổi thì chỉ một nhát, bên này sông, bên kia sông đã dậy lên. Cái tin ông giáo thụ Cao bị hại ở Kệ đưa về đến Dâu Chùa hầu như ai cũng biết. Dĩ nhiên bởi có người ở các xóm trong bãi dâu này bấy lâu đã đi theo ông. Ai cũng còn mong ngóng tin tức người khác nữa. Nhưng cái hung tin ông giáo thụ bị chém chết, lại nói rõ bị đội Quang đã khét tiếng ác ở Sơn Tây chém ngã ngựa giữa trận thì đích rồi. Có người làng khi vỡ trận chạy từ trên ấy về đã kể được mắt thấy rõ ràng.Có một người bụng nóng như lửa đốt, ấy là cái nhà Cõi ở làng bên. Cõi đã cắp sách cắp tráp hầu thày từ hồi ông giáo thụ còn ngồi bảo học ở làng nhà. Rồi thày vào Kinh làm quan, chẳng biết phạm thượng phải tù tội thế nào, đến khi thày về phủ Quốc làm giáo thụ, nhưng làng nước cứ gọi tôn lên chức huấn đạo. Thày về làng ai cũng một điều thưa bẩm quan huấn. Thày lại gọi Cõi lên theo. Tháng ba ngày tám, rồi những khi chưa đến kỳ hạn tải dầu xuôi, Cõi lại lên phủ Quốc. Thôi thì cắp sách hay cắp tráp, mài mực hay cầm cờ, cầm súng vẫn một dạ vậy. Một ngày nên nghĩa, vả chăng, Cõi cũng được đứng hàng môn sinh, đồng môn học trò thày. Hàng năm, đồng môn thuộc ngày kỵ hai cố sinh ra thày, hay khi cơm mới và tết nhất, thày ở nhà trong làng, thày ra ngoài đình Ngang hay trên hồ Tây, Cõi cũng được dự. Gia cảnh thày thanh bạch, nhưng một nhà có đông đủ học trò bố, học trò con, đồng môn đơn đồng môn kép, thật phúc đức hiếm thấy. Tìm mua: Kẻ Cướp Bến Bỏi TiKi Lazada Shopee Ngày thày Cao về phủ Quốc rồi nổi quân, Cõi theo ngay. Cái gánh dầu kiếm ăn độ nhật để nhà cho mụ Cõi. Ra đi, chỉ nói: “Này nhà nó, thày nhắn việc nước như lửa cháy, ta phải đi đây”. Mụ vợ vùng vằng, lẩm bẩm: cháy thiên hạ chứ cháy đâu nhà mình mà mua việc. Chẳng biết Cõi có nghe tường câu than vãn ấy không, nhưng Cõi đã đi buột ra ngoài cổng rồi. Vợ Cõi gánh dầu đi bán các xóm, hết lại sang đong bên bến Bà Móc. Bần cùng mới phải lấy xỉ thế, chẳng được mấy lời lãi…”.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Tô Hoài":Dế Mèn Phiêu Lưu KýCát Bụi Chân AiGiữ Gìn 36 Phố PhườngKý Ức Phiên LãngChuyện Cũ Hà Nội - Tập 1Chuyện Cũ Hà Nội - Tập 2Tuổi Trẻ Hoàng Văn ThụBa Người KhácChiếc Áo Xường Xám Màu Hoa ĐàoChuyện Để QuênKhách NợKí Ức Đông DươngKý Ức Phiêu LãngNhà ChửNhững Ngõ PhốTrạng HítMười NămQuê NhàMiền TâyMẹ Mìn Bố MìnKẻ Cướp Bến BỏiĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kẻ Cướp Bến Bỏi PDF của tác giả Tô Hoài nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kẻ Cướp Bến Bỏi (Tô Hoài)
Kẻ cướp bến Bỏi lấy bối cảnh cuộc nổi dậy của Cao Bá Quát và các nghĩa quân chống triều đình nhà Nguyễn vào năm 1854 bị thất bại, Tự Đức đã tiến hành cuộc trả thù hết sức dã man đối với tộc họ Cao, để là nền cho tác phẩm này, Tô Hoài đã kể cho chúng ta cuộc sống thật của vùng nông thôn Việt Nam dưới thời phong kiến. Những người dân chài ven sông tuy nghèo khó, đói khát trăm bề nhưng đầy nghĩa khí và thắm tình nghĩa thầy trò, tình bạn thủy chung trong lúc khó khăn. Sau khi không còn chủ tướng Cao Bá Quát, một số nghĩa quân tập họp lại để tìm kế trả thù cho thầy, một số người khác tổ chức các vụ trộm cướp.Tuy nhiên, họ chỉ cướp của các phú hộ, của bọn quan lại giàu có lại để chia cho người nghèo. Điển hình trong số này là Cõi-kẻ cướp vùng bến Bỏi trong lốt người bán đầu, người “có tài bơi lội như con dái cá, leo tường chẳng khác gì con nhái bén, khóa nào cũng móc được, mở êm ru…”. Tuy nhiên, sức dân nghèo cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc làm sao chống lại được súng gươm triều đình, lực lượng nghĩa quân ngày một sút giảm, người bị bắt, người bị chết thảm thương như Trắc-bạn nối khố của Cõi. Một ngày, Cõi bị quân của lãnh Quang bắt vì vi phạm lệnh cấm bán dầu nhưng Cõi lại được bác Cả và anh em bến Bỏi cứu thóat. Trở về chùa Xiển trong tình trạng hai chân mất gân do bị lãnh Quang tra tấn, Cõi không còn sức để tiếp tục làm “quân cướp tốt bụng” vùng sông nước, nhưng đứa con trai đã đủ sức thay cha làm việc nghĩa, còn Cõi ở lại làm ông sãi chùa Xiển … “Phải khi mùa hanh hao, gió bấc thổi đêm ngày liên hồi kỳ trận, trời đất mù mịt trên sông Cái, thoạt trông sang chẳng thấy Bà Móc, chợ Cầu Cháy đâu, cả đất Kẻ Chợ vùi vào làn cát đỏ rực. Song để ý kỹ, dần dần nhìn ra những cái nan, cái thúng, người với gồng gánh sang ngang và đôi chốc, một cái mảng, một chiếc thuyền đại tạt vào ăn bến chợ Ống Nước, bọn người neo lái phải vừa chèo vừa hò ơi ới để lấy đường nước giữa làn cát mờ mờ táp vào mặt. Tưởng như gió cát triền miên, đò giang cách trở thế, chẳng mấy ai qua lại, thế nhưng mọi đồn thổi thì chỉ một nhát, bên này sông, bên kia sông đã dậy lên. Cái tin ông giáo thụ Cao bị hại ở Kệ đưa về đến Dâu Chùa hầu như ai cũng biết. Dĩ nhiên bởi có người ở các xóm trong bãi dâu này bấy lâu đã đi theo ông. Ai cũng còn mong ngóng tin tức người khác nữa. Nhưng cái hung tin ông giáo thụ bị chém chết, lại nói rõ bị đội Quang đã khét tiếng ác ở Sơn Tây chém ngã ngựa giữa trận thì đích rồi. Có người làng khi vỡ trận chạy từ trên ấy về đã kể được mắt thấy rõ ràng.Có một người bụng nóng như lửa đốt, ấy là cái nhà Cõi ở làng bên. Cõi đã cắp sách cắp tráp hầu thày từ hồi ông giáo thụ còn ngồi bảo học ở làng nhà. Rồi thày vào Kinh làm quan, chẳng biết phạm thượng phải tù tội thế nào, đến khi thày về phủ Quốc làm giáo thụ, nhưng làng nước cứ gọi tôn lên chức huấn đạo. Thày về làng ai cũng một điều thưa bẩm quan huấn. Thày lại gọi Cõi lên theo. Tháng ba ngày tám, rồi những khi chưa đến kỳ hạn tải dầu xuôi, Cõi lại lên phủ Quốc. Thôi thì cắp sách hay cắp tráp, mài mực hay cầm cờ, cầm súng vẫn một dạ vậy. Một ngày nên nghĩa, vả chăng, Cõi cũng được đứng hàng môn sinh, đồng môn học trò thày. Hàng năm, đồng môn thuộc ngày kỵ hai cố sinh ra thày, hay khi cơm mới và tết nhất, thày ở nhà trong làng, thày ra ngoài đình Ngang hay trên hồ Tây, Cõi cũng được dự. Gia cảnh thày thanh bạch, nhưng một nhà có đông đủ học trò bố, học trò con, đồng môn đơn đồng môn kép, thật phúc đức hiếm thấy. Tìm mua: Kẻ Cướp Bến Bỏi TiKi Lazada Shopee Ngày thày Cao về phủ Quốc rồi nổi quân, Cõi theo ngay. Cái gánh dầu kiếm ăn độ nhật để nhà cho mụ Cõi. Ra đi, chỉ nói: “Này nhà nó, thày nhắn việc nước như lửa cháy, ta phải đi đây”. Mụ vợ vùng vằng, lẩm bẩm: cháy thiên hạ chứ cháy đâu nhà mình mà mua việc. Chẳng biết Cõi có nghe tường câu than vãn ấy không, nhưng Cõi đã đi buột ra ngoài cổng rồi. Vợ Cõi gánh dầu đi bán các xóm, hết lại sang đong bên bến Bà Móc. Bần cùng mới phải lấy xỉ thế, chẳng được mấy lời lãi…”.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Tô Hoài":Dế Mèn Phiêu Lưu KýCát Bụi Chân AiGiữ Gìn 36 Phố PhườngKý Ức Phiên LãngChuyện Cũ Hà Nội - Tập 1Chuyện Cũ Hà Nội - Tập 2Tuổi Trẻ Hoàng Văn ThụBa Người KhácChiếc Áo Xường Xám Màu Hoa ĐàoChuyện Để QuênKhách NợKí Ức Đông DươngKý Ức Phiêu LãngNhà ChửNhững Ngõ PhốTrạng HítMười NămQuê NhàMiền TâyMẹ Mìn Bố MìnKẻ Cướp Bến BỏiĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kẻ Cướp Bến Bỏi PDF của tác giả Tô Hoài nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Không Có Gì Và Không Một Ai (Nguyễn Đông Thức)
Ba nhân vật chính là ba người bạn than là Phong, Tiềm và Thương. Giữa họ vừa là tình bạn vừa lấn cấn chút tình yêu. Tuy mỗi người xuất thân từ mỗi hoàn cảnh khác nhau, nhưng vượt lên trên tất cả tình yêu thương, sự tin tưởng họ dành cho nhau không gì lay chuyển nổi. Vì thế họ đã sống và sẵn sàng hi sinh tình cảm cá nhân để bạn mình được hạnh phúc. Ba người bạn bước đi trên ba lối rẽ, mỗi người một cách vào đời, cùng trắc trở theo những thăng trầm của đất nước sau ngày giải phóng. Sau những khó khăn chia lìa họ càng quý trọng tình bạn và dẫu mỗi người ở một phương trời cuối cùng họ vẫn hội ngộ, bởi vì không có gì và không một ai có thể chia cắt tình bạn của họ.*** Mỗi lần cầm trên tay tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đông Thức, trong tôi lại có cảm giác gần như là bồi hồi, chờ đợi. Như thể chính mình sẽ được cùng các nhân vật trở về thời mà nhà văn đã sống, đã cống hiến bằng tất cả lý tưởng của tuổi trẻ, thời đại có lẽ rồi sẽ chẳng bao giờ trở lại thêm một lần nữa trong cuộc sống đã nhiều bôn ba, vội vã này. Một năm trước, khi đọc Không quên - tập truyện ngắn cũng từ ký ức của nhà văn về những năm tháng thanh niên xung phong - tôi đã chia sẻ với ông niềm cảm phục về một thế hệ thanh niên sống thiếu thốn mọi bề nhưng sao tràn đầy nhiệt tâm, lý tưởng đến vậy. Chừng như những câu chuyện của quá khứ được nối dài bằng thời gian trở thành những con chữ bao giờ cũng mang giá trị của sự chiêm nghiệm, của một hành trình đã nhìn thấu được những vạn biến quanh đời. Lần này cũng vậy, với tiểu thuyết Không có gì và không một ai, nhà văn Nguyễn Đông Thức lại gửi đến độc giả một hành trình đã được minh chứng bằng thời gian, có hồn nhiên tinh khôi, rồi chia ly, nước mắt; có nông nổi, sai lầm và cả những tiếc nuối, đau xót. Và thứ tha… Tìm mua: Không Có Gì Và Không Một Ai TiKi Lazada Shopee Sẽ không ai biết được ngày mai sẽ như thế nào, những lựa chọn của hiện tại rồi sẽ dẫn bước chân người về đâu. Hôm nay hạnh phúc hay khổ đau, vẫn chẳng thể nói lên được điều gì ở phía cuối con đường. Với Không có gì và không một ai, tác giả của Ngọc trong đá, Vĩnh biệt mùa hè, Trăm sông về biển… chọn một lát cắt để lý giải tất cả những điều đó. Cuộc đời, dài mấy mươi năm đó, nhưng có khi cũng chỉ là một cái chớp mắt của số phận, để những người từng thương yêu nhau được gặp lại nhau. "Không có gì và không một ai có thể thay đổi tình bạn tụi mình", một phần câu nói được chọn làm tựa truyện, và đó cũng là nguyên tắc "số 1" trong mối quan hệ giữa 3 người bạn thân, nhân vật chính: Phong, Tiềm và Thương. Gắn bó với nhau từ thời còn học đệ nhất (lớp 12 bây giờ), những tưởng cả 3 người sẽ có được những ngã rẽ hạnh phúc khi họ tràn đầy sức sống của niềm tin, của lý tưởng tuổi trẻ. Nhưng câu chuyện không chỉ xoay quanh mối tình tay ba của các nhân vật. Giữa thời đại vẫn còn đầy những biến động của thời cuộc, nhà văn đã để cho những nhân vật của mình có những ngã rẽ không ngờ tới được của lựa chọn và cả mất mát. Nếu như ở Vĩnh biệt mùa hè, Nguyễn Đông Thức từng khiến người đọc xót lòng khi “xuống tay” chọn cái chết cho nhân vật, thì ở Không có gì và không một ai, lý do cho cuộc chia ly giữa Tiềm và Thương, một tình yêu thiết tha mà không dám ngỏ, đau đớn theo một cách khác. Phong làm báo, Thương làm cô giáo vùng cao, Tiềm đi thanh niên xung phong. Phong yêu Thương, Thương lại dõi theo Tiềm, Tiềm vì không muốn Phong đau khổ mà chọn cách ra đi. Mỗi người một lý lẽ, một lựa chọn hy sinh vì hạnh phúc của bạn thân nhưng không ai nghĩ rằng cũng sẽ “không có gì và không một ai” có thể làm thay đổi khi trái tim đã chọn yêu thương một người. Hạnh phúc là một món quà, nhưng cũng là một ẩn số trong cuộc đời của mỗi người. Không có gì và không một ai là một câu chuyện đầy những ẩn số. Những câu hỏi, những con chữ bỏ lửng của nhà văn: “Nếu ngày mai ta không còn nhìn thấy nhau… Có phải cuộc đời này cuối cùng sẽ không còn lại gì? Có những sai lầm thật quá khó để lấy lại những gì đã mất”, “Hãy ngồi xuống đây, cho nhau lần này…” khiến người đọc như bị dẫn dụ, phải đi tìm câu trả lời, những lý giải trong từng trang viết của nhà văn. “Đây là cuốn tiểu thuyết mà ba nhân vật đã trôi theo dòng nhạc, từ Cho lần cuối của Lê Uyên Phương đến You’ve got a friend của Carole King. Có hay không một tình bạn giữa người nữ và người nam? Bạn đọc sẽ có câu trả lời khi cùng trôi theo dòng nhạc - dòng đời đó, để hiểu về tình bạn và tình yêu của chính mình”, nhà văn Đoàn Thạch Biền đã chia sẻ như vậy về tác phẩm. Thật vậy, cuốn sách đã đưa người đọc đi theo hành trình của 3 nhân vật chính, khóc cười cùng họ, thấu hiểu và chia sẻ, mong chờ một cái kết ít nhất là trọn vẹn cho hai con người trái tim vốn dĩ thuộc về nhau. Rồi thì có lẽ cũng được “toại nguyện” khi nhà văn đã chọn sự đoàn tụ cho kết thúc của những hành trình đi dài trong suốt mấy mươi năm. Nhưng có lẽ “không một ai” đọc tác phẩm lại nghĩ rằng các nhân vật sẽ có một kết thúc như thế, trong sum vầy nhẹ hẫng, trong nụ cười của bình yên. Dẫu rằng nếu phải quay nhìn lại thì đôi chân nào cũng đã đi qua gian nan, khắc nghiệt và đau đớn tưởng như đến tận cùng của một cuộc đời. Khép lại tác phẩm, tôi vẫn nhớ câu nói: “Không có gì và không một ai…”. Ừ, mọi thứ có thể bị bào mòn, nhưng tình thương sẽ mãi mãi ở lại. Tiểu Quyên *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook Như Núi Như Mây...Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Không Có Gì Và Không Một Ai PDF của tác giả Nguyễn Đông Thức nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.