Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Tách Trà (Greg Mortenson)

‘Ba tách trà’, câu chuyện phi thường từ một lời hứa.

Trong cuốn hồi ký, nhà leo núi Greg Mortenson kể lại một câu chuyện ngạc nhiên, cảm động về tác động phi thường của lời hứa khi anh thực hiện một chiến dịch nhân đạo tại những miền hẻo lánh của Pakistan và Afghanistan.

Greg Mortenson là giám đốc điều hành tổ chức từ thiện Central Asia Institute (CAI). Cuốn hồi ký Ba tách trà do nhà báo David Oliver Relin chấp bút từ lời kể của Mortenson, ghi lại công việc giáo dục cộng đồng, xây dựng những ngôi trường ở Pakistan và Afghanistan của anh.

Ba tách trà dày 279 trang, bắt đầu từ lời hứa xây dựng một ngôi trường cho ngôi làng cùng khổ trong vùng núi hẻo lánh của Pakistan - nơi mà người ta có thể hy sinh mạng sống vì nhau sau 3 tách trà kết thân. Greg Mortenson đã bắt đầu cuộc hành trình gian nan hiểm nghèo đi tìm kiếm tài trợ và xây trường học tại các vùng hoang vu nhất Pakistan và Afghanistan. Để rồi, trong suốt hơn một thập kỷ, anh đã dựng nên không chỉ một mà là 50 ngôi trường, đặc biệt dành cho các bé gái, tại vùng địa hình hiểm trở sản sinh ra nhóm Taliban và cả những cây cầu đưa người dân ra thế giới bên ngoài. Hành trình xây dựng nên những ngôi trường đầy hy vọng này không chỉ là câu chuyện ly kỳ mà còn là bằng chứng cho thấy một người bình thường, chỉ cần kết hợp đầy đủ nghị lực và quyết tâm, thật sự có thể thay đổi thế giới.

Năm 1993, nhà leo núi Greg Mortenson lang bạt vào một ngôi làng của người Pakistan cùng khổ nằm trong dãy Karakoram sau nỗ lực leo lên đỉnh K2 bất thành. Anh vô cùng cảm động trước lòng tốt và sự ấm áp của người dân làng đã chăm sóc và giúp anh khôi phục sức khỏe. Anh muốn làm điều gì đó cho người dân nơi đây. Khi thấy những đứa trẻ nơi đây phải học trên một mảnh đất trống trong tiết trời vô cùng lạnh giá, trái tim anh như muốn rách toạc. Mortenson hứa sẽ xây dựng cho nơi đây một ngôi trường. Tìm mua: Ba Tách Trà TiKi Lazada Shopee

Greg Mortenson không ngờ rằng lời hứa ấy đã đưa con đường đời của anh rẽ sang một lối mòn khác, ngoằn ngoèo gian khổ hơn những khúc quanh mà anh đã lạc trên đỉnh K2. Bắt đầu cho chiến dịch gầy dựng ngân quỹ trường học của mình, anh đã sống một cuộc sống vô cùng khắc khổ. Mortenson đã lục tìm và cất giữ hàng trăm danh sách những người giàu có, quyền lực và nổi tiếng trên khắp nước Mỹ và viết đến 580 bức thư kêu gọi. Tất cả đều rơi vào sự im lặng vô vọng. Một ngày nọ, khi tình cờ gọi cho nhà vật lý Hoerni, anh đã được ông đồng ý tài trợ một số tiền để xây trường.

Ra đi cùng với số tiền quyên góp được, Mortenson lại thực hiện cuộc hành trình gian khổ để đến được Korphe với đầy đủ mọi thứ để có thể xây dựng một ngôi trường. Nhưng trước khi có được một ngôi trường thì người dân nơi đây lại cần một cây cầu.

Rơi vào trạng thái tuyệt vọng lần thứ hai, bần cùng, khánh kiệt, Mortenson chìm trong nỗi trầm cảm. Được sự gợi ý từ một người bạn, anh tiếp tục nhờ vào sự giúp đỡ của Hoerni và anh lại đứng lên. Sau những nỗ lực vượt qua những địa hình trắc trở của anh cùng dân làng, cây cầu đã được hoàn thành, nối liền người dân với thế giới rộng lớn bên ngoài.

Ngôi trường cũng dần được hoàn thành ngay sau đó, là minh chứng cho những nỗ lực và đấu tranh phi thường cho lời hứa tưởng chừng đơn giản của Mortenson. Nhưng lời hứa của Mortenson không chỉ dừng lại ở một mà anh còn muốn nhiều ngôi trường hơn được mọc lên trên vùng đất hẻo lánh này. Anh tiếp tục cuộc hành trình của đời mình bất chấp những định kiến, khó khăn về văn hóa, tôn giáo cùng với chiến tranh, bom đạn đang ngày ngày nổ ra trên vùng đất này.

Chính điều đó đã lay động trái tim nhiều người, tạo nên cộng đồng những người ủng hộ Mortenson. Điều đó khiến cho những ngôi trường của anh được xây lên nhanh và dễ dàng hơn trước kia rất nhiều.

Với những ý nghĩa sâu sắc, những tình tiết hấp dẫn đầy hồi hộp trong một cuốn hồi ký phi thường, tác phẩm đã được nhận giải thưởng Kiriyama và là một trong những cuốn sách bán chạy nhất của tờ New York Times(2007).

Một vài nhận xét:

“Tại Pakistan và Afghanistan, chúng tôi uống ba tách trà để kết thân: tách thứ nhất, anh là người lạ, tách thứ hai, anh trở thành bạn bè, và tách thứ ba, anh nhập vào gia đình chúng tôi. Và đối với gia đình, chúng tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì, kể cả bỏ mạng”. - HajiAli, trưởng làng Korphe, núi Karakoram, Pakistan.

“Ba tách trà là một trong những chuyến phiêu lưu đặc biệt nhất trong thời đại chúng ta. Hành trình gian nan hiểm nghèo đi xây trường học tại các vùng hoang vu nhất Pakistan và Afghanistan của Greg Mortenson không chỉ là câu chuyện li kì mà còn là bằng chứng cho thấy một người bình thường, chỉ cần kết hợp đầy đủ nghị lực và quyết tâm, thật sự có thể thay đổi thế giới”. - Tom Brokaw (Hãng truyền hình NBC).

“Hấp dẫn và hồi hộp, với những đoạn mô tả cuốn hút về thái độ thù địch lẫn tình bạn không tưởng, cuốn sách này sẽ chiếm được cảm tình của vô số độc giả”. - Publishers Weekly.

“Greg Mortenson đại diện cho những điều tốt đẹp của nước Mỹ. Anh ấy là người hùng của chúng tôi. Và sau khi bạn đọc xong Ba Tách Trà, anh ấy cũng sẽ trở thành người hùng của bạn”. - Mary Bono (Nghị viên Đảng Cộng hòa Mỹ).

“Greg Mortenson là người giao thiệp xuất chúng… Một anh chàng có ý tưởng tuyệt vời, chịu bắt tay vào công việc nhỏ nhặt nhất rồi theo đuổi, chỉ cần nó mang lại tác động lớn, và cống hiến cả đời cho công việc ấy. Anh thành công tại một vùng đất không hoan nghênh người Mỹ bởi lẽ anh gắn kết người khác bằng tấm chân tình”. - Bill Clinton

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ba Tách Trà PDF của tác giả Greg Mortenson nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Quê Hương Tôi - Tràng Thiên
Trong tập tuỳ bút này, Tràng Thiên bàn về đủ chuyện của nước Việt: từ chiếc áo dài, cho đến những món ăn, rồi những tập tục, tiếng nói, ngôn ngữ, v.v.. Dù bàn luận về chuyện gì, thì trong đó luôn hàm chứa một nỗi niềm trăn trở, khắc khoải với quê hương. *** Nhã khúc quê hương  Đọc Quê Hương Tôi của Tràng Thiên (Võ Phiến), tôi chợt nghĩ tới ca từ trong bài hát Mái Đình Làng Biển: "Gửi vào đây vào đây vui buồn người Việt Gửi vào đây vào đây tâm hồn người Việt...., Ơi nước non ân tình Hồn Việt Nam như thế Hơ ... thuở bình minh" Có lẽ "Quê hương tôi" (QHT) chính là vậy! Và trước mắt tôi hiển hiện hình dáng cụ Võ Phiến đang so dây chiếc đàn bầu, gảy từng tiếng lòng của đất nước, giữa một khán phòng nhạc giao hưởng phương Tây. Tiếng đàn dân tộc độc đáo chợt như lạ lẫm, và bỡ ngỡ trước những đổi thay của xã hội trong thời đại mới... đàn đôi lúc ngân nga cung đúng của dân ca miền Bắc, lúc là cung oán của dân ca miền Nam, rồi lại chuyển sang cung ai trong dân ca Thừa Thiên - Quảng Trị. Đọc QHT để cảm nhận tình yêu đất nước tha thiết của một người Việt đã sống hơn nửa đời người, nhìn đất nước thay da đổi thịt theo vòng quay của thời cuộc, mà hoài niệm, mà lo lắng; đó có lẽ cũng là tâm trạng chung của một thế hệ cha ông chúng ta trước sự du nhập của một trào lưu mới, đang làm thay đổi phần nào cách sống, cách nghĩ của dân tộc mình, đất nước mình. Với tôi, QHT như một điệu lý dân dã, ngọt ngào nhiều luyến láy, trúc trắc, lại gần gũi thân thương. Điệu hò ấy sẽ dẫn ta đi suốt chiều dài đất nước, từ Bắc, lên Thượng du, xuôi dọc Trung, vào tới Nam.  Thủ thỉ cho ta nghe đặc điểm của từng vùng miền, từ giọng Huế dịu dàng, đến vẻ bình thản của người Huế, chững chạc mà khuôn phép...Từ cuộc di dân Nam tiến của người Bình Định, làm thay đổi cả giọng nói, cách nói... Từ nhận xét rằng trong huyết quản của mỗi người dân Quảng hình như đều có tí máu "chính trị luân lưu"... đến cái tính cách "rụp rụp" mau mắn của dân miền Nam, với cái tiếng" rồi" tiếng "luôn" rất đặc trưng điển hình. Từ câu lục bát ru con của dân tộc Chàm, đến hình ảnh cô giáo người Thượng ngày ngày điệu con lên lớp; giải nghĩa cho ta biết xuất xứ của tên gọi nhiều địa danh, nghe quen đọc hoài mà giờ mới hiểu như Đà Nẵng, Hội An, kinh Vĩnh Tế...  Đàn cũng réo rắt tỉ tê với tôi về chiếc áo dài dân tộc, như tự hào về nét đẹp truyền thống, tuy kín đáo mà lại gợi mở nhẹ nhàng thướt tha đón gió. Và chiếc áo dài quốc phục này hầu như chỉ dành riêng nhất cho dáng vẻ dịu dàng của phụ nữ Việt Nam. Và trong giai điệu trầm bổng lao xao cả tiếng rao hàng nơi góc chợ: "Hai tay xách hai vịm, Một vài mụ le te, Tiếng non rao lảnh lót: Chốc chốc: 'Ai ăn chè'?" Quê hương có chè Huế tế nhị, thanh tao, có món bún bò Huế cay cay dậy mùi quyến rũ, hay với bát nước chè Huế ngon lành được nấu tỉ mỉ, công phu, bát chè phải thật nhiều bọt, đầy bọt, bọt hầu như phủ kín mặt nước, thứ bọt dẻo quánh lại, và nhỏ hạt, uống một bát là uống cả niềm sảng khoái dân dã, thâm tình. Món ngon rải đều khắp mọi miền đất nước, những món ăn gắn với lịch sử nước nhà như bánh tráng của Bình Định, có món là đặc thù của vùng miền như nước mắm Phan Thiết, sa-kê và mắm của miền Nam. Đâu chịu dừng ở món ăn, Võ Phiến còn vẽ những bức tranh rất thơ với cây liễu, cây nhãn lồng ở Huế, hoa dầu bay bay Sài Thành, sắc anh đào hồng thắm Đà Lạt, cây bàng đất Vũng Tàu... hay phượng đỏ rực trời Đà Nẵng. Nhưng điệu xàng xê của QHT không chỉ là giọng kể, mà tràn đầy nỗi niềm lo lắng trước sự đổi thay, lo về những tập tục truyền thống như cúng giỗ, thờ tổ tiên bị xem nhẹ, lo về cái thú hưởng nhàn tao nhã của tiền nhân sắp bị thay thế, về cái tình trong đối nhân xử thế rồi sẽ bị cái lý soán ngôi. Cả nỗi lo về vốn từ ngữ của dân tộc không phong phú, không phát triển như Tàu, như Tây.  Nhẩn nha đọc lại Võ Phiến mới thấy câu ca dao xưa thật hay: "Yêu nhau trái ấu cũng tròn Ghét nhau bồ hòn cũng méo" Trái ấu trong QHT nằm trong hai tập tính của dân mình: chửi (chửi tục) và không cười. Kiểu nào thì Võ Phiến vẫn cứ "đáng yêu" và lập luận thật lý lẽ, nghe xong chỉ có thể mỉm cười xoa tay hài lòng.  Điệu hò QHT khi kết thúc vẫn còn âm vang trong tôi tiếng chim én "những cánh én lao tới lao lui, rộn cả lên," nó ríu rít, "nó cuống quýt, nôn nao, rộn rực một niềm vui không chịu được, niềm vui rung lên trong tiếng kêu." Cùng với đó là hình ảnh "ở chân trời, vài đám khói ùn lên, chậm chạp, tỏa cao và rộng. Khói đốt cỏ: Nông dân phát cỏ, dồn lại đốt, để chuẩn bị làm mùa. Chao ơi, những đám khói đốt cỏ ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúc động, cảm hoài." Chao ôi! Tiện tay phóng bút sao hay đến vậy? Bằng lối hành văn bình dị mà giàu cảm xúc, êm như thơ mà hóm hỉnh, trào lộng, thêm chút châm biếm tê người, Võ Phiến đã tấu lên một nhã khúc mang bóng hình Đất - Nước - Tâm - Hồn người Việt chúng ta. Lichan - Happiness Project Mời các bạn đón đọc tập tùy bút Quê Hương Tôi của tác giả Tràng Thiên.
Miếng Ngon Hà Nội - Vũ Bằng
Văn học Việt Nam thời xưa có nhiều tác phẩm có giá trị to lớn về mặt nhân văn và nghệ thuật, đã được công nhận và chứng thực qua thời gian. Bộ sách Việt Nam danh tác bao gồm loạt tác phẩm đi cùng năm tháng như: Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Việc làng (Ngô Tất Tố), Gió đầu mùa, Hà Nội băm sáu phố phường (Thạch Lam), Miếng ngon Hà Nội (Vũ Bằng), Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân)... Hy vọng bộ sách sau khi tái bản sẽ giúp đông đảo tầng lớp độc giả thêm hiểu, tự hào và nâng niu kho tàng văn học nước nhà. *** Vào khoảng năm tàn tháng hết, ở miền Nam nước Việt có những buổi tối đìu hiu lạnh như mùa thu đất Bắc. Gió buồn đuổi lá rụng trên hè. Mây bạc nặng nề trôi đi chầm chậm như chia mối buồn của khách thiên lý tương tư. Người xa nhà đột nhiên thấy trống trải trong lòng. Lê bước chân trên những nẻo đường xa lạ, y thấy tiếc nhớ một cái gì không mất hẳn, nhưng không còn thấy. Nhớ vẩn vơ, buồn nhẹ nhẹ. Cái buồn không se sắt, cái nhớ không day dứt, nhưng chính cái buồn và cái nhớ đó mới thực làm cho người ta nhọc mệt, thẫn thờ. Lòng người, cũng như cánh hoa, chóng già đi vì thế. Người ta không nặng lắm về hiện tại, nhưng thiết tha với quá khứ hơn. Một tiếng dế ở chân tường, một ngọn gió vàng heo hắt, hay một tiếng lá đụng cành trâm đều nhắc nhở ta những kỷ niệm xa xôi, dìu dịu. Ngày xưa, người cung nữ ở trong tiêu phòng lạnh ngắt thấy xe dê thì nhớ đến lúc được quân vương ấp ủ thương yêu. Tiếng con ý nhi gợi lại ở trong lòng người chinh phụ buổi người tráng sĩ “lâm hành”. Tại kinh đô Trương Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn trở về quê cũ. “Gió thu một tiếng bên tai, Thuần, lư sực nhớ đến mùi Giang Nam.” Đôi khi cũng mang bệnh nhớ nhung, người viết sách này vào lúc năm tàn hầu hết cũng ưa nghĩ đến một vài kỷ niệm xa xưa. ... Mời các bạn đón đọc Miếng Ngon Hà Nội của tác giả Vũ Bằng.
Món Lạ Miền Nam - Vũ Bằng
Suốt những năm tháng ròng rã vật lộn mưu sinh tại miền Nam, của ngon vật hiếm nơi đất khách đã giúp Vũ Bằng vơi đi nỗi buồn hoang hoải hướng về cố hương. Món lạ miền Nam đã ra đời như vậy, cuốn tùy bút độc đáo của Vũ Bằng về những trải nghiệm hương vị ẩm thực mà mới nghe tên thôi người ta đã cảm thấy thích thú. Công bằng mà nói, món ngon hay không là do khẩu vị mỗi người. Mỗi miếng ngon có thể sẽ thay đổi, biến chuyển theo từng giai đoạn để vừa lòng ông thần khẩu. Nhưng đồ ăn miền Nam thì không đổi thay. Thứ hương vị làm người xa quê cảm thấy ngon lành, khang khác, nhận thức được lòng thương yêu của cõi nhân sinh ở chung quanh vì thế mà tự nhiên rõ rệt đậm đà. *** Có người đọc cuốn "Miếng ngon Hà Nội" 1 của tôi xong, thúc giục: - Miền Nam nước Việt có nhiều thức ngon lành lắm, sao không sưu tầm lại mà viết thành một cuốn nữa coi chơi? Tôi bỏ nhà đi lang bạt từ lúc mười bảy tuổi. Đến Sài Gòn dạo đó, tôi đã ăn nem Thủ Đức, thưởng thức phá lấu Lồ Ồ, ăn tóp mỡ nhiễn đường ở Sa Đéc, nếm suông ở Cây Mai, thịt bò bảy món Bà Hom, mì Cột Đèn Năm Ngọn. Rồi đến kỳ này, lại trở về quê ngoại mến thương, tôi đã thưởng thức nhiều món hơn, nhưng thú thực tôi không thấy các món đó có nói lên được cái gì mới mẻ, lạ lùng cho lắm. Có lẽ tô cá chìa vôi ngon thực, nhưng lòng còn gởi về cố lý nên cá rô đầm Sét vẫn là hơn, trái su su mát như da cô gái tuyết trinh, ô hay, sao lại như đăng đắng, mà miếng thịt gà muốn chế hóa cách gì đi nữa cũng vẫn cứ nhạt phèo? Mãi đến gần đây, tôi mới nhận ra rằng hương vị của những miếng ngon không hoàn toàn do nơi khẩu cái. Tự nhiên, không vì lý do gì hết, vào một buổi chiều xuống mầu kia, mình thấy miếng thịt gà đậm đà hơn, trái su su thoang thoảng ngọt và con cá chìa vôi ăn béo mà thơm. Ồ, tại sao lại thế? ... Mời các bạn đón đọc Món Lạ Miền Nam của tác giả Vũ Bằng.
Viết Lên Hy Vọng - Erin Gruwell
Người Pháp có câu "Vouloir, c'est pouvoir" - "Muốn là sẽ được". Câu nói này dường như rất gần với "Never give up!" - "Đừng từ bỏ". Nếu mong muốn đủ lớn, mục tiêu đủ cao cả và nghị lực đủ nhiều, có lẽ mọi nghịch cảnh sẽ đều nằm dưới sức mạnh chinh phục của con người.  Cuốn nhật kí được dựng thành phim "Nhật kí những nhà văn tự do" với Hilary Swank - nữ diễn viên từng đoạt 2 giải Oscar - vào vai chính (2007).  Năm 1994, Erin Gruwel - một giáo viên ngữ văn mới 23 tuổi và tràn đầy lý tưởng - về dạy tại trường trung học Wilson, Long Beach, bang California. Cô phải đương đầu với một lớp toàn học sinh cá biệt, những thành phần "hết thuốc chữa" và vô cùng nguy hiểm.  Những đứa trẻ (hầu hết là da màu) lớn lên tại một thị trấn của nạn phân biệt chủng tộc, của những tay găngxtơ sẵn sàng xả súng chỉ vì sự khác biệt, của những ông bố bà mẹ thất học khốn khổ vì nhập cư trái phép. Không một ai trong số họ đã từng tốt nghiệp trung học, chứ đừng nói đến học đại học. Và mỗi ngày trôi qua, lại có những đứa trẻ trong vùng ngã xuống vì những vụ bạo động và nổ súng.  Học sinh của cô giáo Erin Gruwel trẻ tuổi thủ sẵn súng trong người khi bước ra ngoài đường phố. Có những em trốn học để hút chích, lang thang, có những em đánh vật với gia đình thiếu thốn và thậm chí phải ngủ ngoài đường. Những em còn lại thì thất vọng cùng cực. Mời các bạn đón đọc  Viết Lên Hy Vọng của tác giả Erin Gruwell.