Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khát Vọng Đổi Đời

Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig, bậc thầy về phân tích tâm lý con người, đã phơi bày ra những góc khuất của chủ nghĩa tư bản. Câu chuyện kể về cô gái tên là Christine, nhân viên tại một trạm bưu điện xa xôi thuộc nước Áo. Bố và anh trai đã mất trong chiến tranh, Christine sống với bà mẹ già nua bệnh tật trong một căn phòng ọp ẹp tồi tàn và ngày qua ngày làm công việc nhàm chán. Cho đến một hôm, người dì đã lưu lạc sang Mỹ 25 năm trước của Christine mời nàng đến nghỉ cùng vợ chồng họ trên dãy núi Alps thuộc Thụy Sĩ. Christine gói ghém đồ đạc tới chỗ dì Claire ở Pontresina và hoàn toàn choáng ngợp trước cảnh giàu sang phú quý nơi đây. Dì Claire đã đưa nàng bước chân vào thế giới thượng lưu hào nhoáng. Từ đây, cuộc đời nàng bước sang một trang mới với những mật ngọt cùng những giăng mắc mà nó bày ra. Khát vọng đổi đời được Stefan Zweig hoàn thành trong những năm 30 của thế kỷ XX nhưng chỉ được xuất bản 40 năm sau khi ông qua đời. *** Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig đã khám phá từng chi tiết của đời sống thường nhật với một văn phong làm rung động cả khối óc lẫn tâm hồn… Câu chuyện sầu thảm, và có lẽ là một trong những bản cáo trạng u tối nhất từng xuất hiện trong văn chương về việc sự nghèo đói hủy diệt hy vọng, niềm vui, sắc đẹp và tiếng cười như thế nào. - The Spectator (UK) Một tác phẩm vô cùng hấp dẫn cho thấy lịch sử có thể tác động lên đời sống mỗi con người như thế nào. - The Financial Times Khát vọng đổi đời táo bạo, buồn và cảm động… Với hình tượng nhân vật Christine và đặc biệt là Ferdinand, Zweig đã cho chúng ta thấy chân dung của một thế giới đang đến ngày tàn. - The Guardian … Không một tác phẩm nào của Zweig đòi đấu trực diện với di sản của Thế chiến thứ nhất với độ sâu sắc về xã hội lẫn sự chi tiết về con người như Khát vọng đổi đời… chúng ta may mắn có được cuốn sách này, không chỉ bởi nó là bức tranh đau buồn về đời sống nước Áo sau chiến tranh mà còn bởi nó rất khác các tác phẩm khác của Zweig. - William Deresiewicz, The Nationb *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ.   Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. *** Ai đã có lần ghé vào phòng làm việc của một trạm bưu điện nông thôn nước Áo thì có thể coi như mình đã biết tất cả các trạm bưu điện khác, bởi lẽ chúng hầu như chẳng khác nhau là bao. Vẫn những đồ vật được sắp đặt, hay nói cho đúng hơn là được quy định sắp đặt theo một quy chế thống nhất, vẫn những dụng cụ có từ thời Franz Josef[1] và ở bất cứ đâu những vật dụng ấy đều mang dấu ấn của thói quan liêu nặng nề, ngay cả ở tận những xóm làng hẻo lánh vùng Tyrol băng giá cũng thế. Trong các trạm bưu điện ấy lúc nào cũng bốc lên mùi tù hãm của thuốc lá rẻ tiền và bụi giấy, những mùi vị đặc trưng cho các phòng giấy của nước Áo cổ. Các trạm bưu điện đó dù có ở nơi nào cũng đều được thiết kế giống nhau: từ tấm vách ngăn bằng gỗ với những ô cửa sổ nhỏ lắp kính chia căn phòng theo một tỷ lệ nhất định, như muốn ngăn đôi thế giới thành hai khu vực - khu vực dành cho khách hàng và cho nhân viên phục vụ. Trong khu vực dành cho mọi người chẳng có lấy một chiếc ghế hoặc những đồ dùng cần thiết dành cho khách hàng, điều ấy đã nói lên một cách rõ ràng rằng chính phủ rất ít quan tâm đến sự có mặt trong giây lát của mọi công dân trong khu vực ấy. Đồ gỗ duy nhất ở đây thường chỉ có một chiếc bàn viết phủ vải sơn dựng hờ hững vào tường. Tấm vải sơn nứt nẻ, loang lổ vết mực dù chẳng ai nhớ nổi trong cái lọ mực được bắt chặt trên mặt bàn đã bao giờ có một thứ gì, ngoài một chất lỏng lổn nhổn như cháo. Còn nếu tình cờ cạnh đấy có một chiếc bút thì chắc chắn là ngòi bút bị tòe, không thể viết được. Cơ quan ngân khố quốc gia chẳng những chỉ tiết kiệm trong các tiện nghi mà ngay cả trong hình thức cũng vậy. Kể từ khi nước Cộng hòa ra lệnh bãi bỏ các bức chân dung của Franz Josef đến nay thì vật trang trí duy nhất ở những nơi công cộng là những tấm quảng cáo lòe loẹt dán đầy trên các bức tường không quét vôi bẩn thỉu, kêu gọi mọi người đến xem các phòng triển lãm đã đóng cửa từ lâu hoặc mua vé xổ số. Còn trong một vài văn phòng khác, ít được ai ngó tới, vẫn treo những tấm áp phích hô hào mọi người mua công trái chiến tranh, với những thứ trang trí rẻ tiền như vậy lại còn kèm theo một lời yêu cầu không được hút thuốc lá và hầu như chẳng ai thèm chấp hành, sự hào phóng của quốc gia trong các văn phòng bưu điện chỉ được giới hạn có từng ấy. Tuy nhiên, ngăn của nhân viên phục vụ trông có vẻ đáng kể hơn nhiều. Tại đây, với một quy mô thích hợp, chính phủ muốn phô trương sự hùng cường của mình dưới mọi hình thức. Ở góc phòng thường đặt một chiếc két sắt chống cháy mà dựa vào những chấn song lắp trên cửa sổ ta có thể đoán được trong chiếc két ấy đôi khi có chứa những khoản tiền lớn. Trên bàn làm việc ngự trị chiếc máy điện báo bằng đồng thau sáng loáng, trông như một vật trang sức quý giá. Cạnh đấy là chiếc máy điện thoại đang yên nghỉ trên cái giá đỡ mạ kền. Hai thứ dụng cụ trên được cố tình để riêng ra trong một vị trí trang trọng như vậy bởi lẽ chúng đã nối liền cái thôn hẻo lánh này với mọi miền của đất nước bằng những dây dẫn bằng đồng. Những dụng cụ vặt vãnh còn lại của ngành bưu điện đành phải chịu cảnh lép vế: những chiếc cân và những chiếc túi đựng thư, các bảng tra cứu, những chiếc cặp giấy nhét đầy sổ sách, cuốn sổ thống kê, chiếc hộp tròn đựng tiền trả cước phí đầy tiền xu hễ cứ động vào là kêu lẻng xẻng, những quả cân, những chiếc bút chì xanh, đỏ, đen và bút chì hóa học, những chiếc kẹp giấy, cuộn giấy buộc hàng, hộp đựng xi, miếng bọt biển thấm nước, cái bàn thấm, con dao rọc giấy, lọ keo cùng với những chiếc kéo - tất cả những dụng cụ khác nhau đó đành phải chen chúc lộn xộn nơi mép bàn. Còn trong các ngăn kéo thì nhét đầy mọi thứ giấy tờ đủ loại và những biểu mẫu. Thoạt nhìn, tất cả cái đống vật dụng ấy có vẻ như được sử dụng rất hoang phí, nhưng cảm giác ấy hoàn toàn sai lầm - Nhà nước thường xuyên kiểm tra rất nghiêm ngặt từng thứ vật dụng rẻ tiền mau hỏng đó. Từ mẩu bút chì cho đến con tem rách, từ tờ giấy thấm nhàu nát cho tới mẩu xà phòng ở chỗ rửa tay, từ chiếc bóng điện chiếu sáng văn phòng cho tới chìa khóa để khóa văn phòng lại - chính phủ yêu cầu các nhân viên phục vụ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả những tài sản quốc gia đó, cho dù chúng đã hỏng hay đang sử dụng. Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng gang có treo một bảng đánh máy liệt kê tất cả mọi thứ vật dụng, bên dưới có đóng dấu hẳn hoi và một chữ ký loằng ngoằng. Với một sự chính xác của toán học, tất cả mọi thứ dụng cụ, kể cả những thứ rẻ tiền và không đáng kể của trang thiết bị đã được tính toán, cân nhắc để cung cấp cho từng trạm bưu điện tương ứng. Không một thứ vật dụng nào không có tên ở trong bảng lại có quyền tồn tại trong phòng làm việc, và ngược lại mỗi một dụng cụ có tên trong bảng phải luôn luôn có mặt trong phòng để bất cứ lúc nào cũng có thể sử dụng được. Chính quyền, luật lệ và thể chế đã quy định như vậy. Nghiêm khắc mà nói thì trong cái bảng liệt kê được đánh máy cẩn thận ấy cần phải ghi thêm một nhân vật nữa - đó là người nhân viên cứ sáng sáng vào đúng bảy giờ lại nhấc tấm kính ở vách ngăn ra rồi đưa toàn bộ cái thế giới vô tri vô giác ấy vào hoạt động. Người đó sẽ mở các bao thư, đóng dấu vào các bức thư, thanh toán các giấy chuyển tiền, viết hóa đơn, cân các bưu kiện, ghi chép và đánh những cái dấu bí hiểm không ai hiểu nổi lên giấy tờ bằng bút chì xanh đỏ, nhấc ống nghe lên và quay điện thoại. Nhưng có lẽ vì tế nhị mà người ta không đưa cái nhân vật vẫn thường được khách hàng gọi là nhân viên bưu điện ấy vào trong bảng liệt kê vật dụng nói trên. Tên họ của người đó đã được đăng kí trong một bộ phận khác của ban giám đốc bưu điện. Tuy nhiên cũng giống như những thứ vật dụng khác, người đó cũng nằm trong diện được kiểm tra thường xuyên. Trong căn phòng làm việc đáng tôn kính ấy hầu như không bao giờ xảy ra một sự thay đổi đáng kể nào. Những quy luật vĩnh cửu về cuộc sống và cái chết đành phải lùi bước khi đụng vào bức tường chắn của quốc gia. Xung quanh bưu điện, cây cối đâm chồi nảy lộc rồi trút lá, trẻ con lớn lên còn người già lại chết đi, những ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp đổ sập xuống và người ta lại xây những ngôi nhà mới, chỉ riêng cái công sở của nhà nước ấy là vẫn khoa trương sức mạnh không hề bị khuất phục bởi bất cứ điều gì. Bởi lẽ, trong cái môi trường ấy, mỗi một vật dù bị mòn hay bị mất, bị hỏng hay bị gãy, liền được các nhà chức trách yêu cầu phải thay thế ngay bằng một tiêu bản khác giống y như vậy. Chính điều đó đã chứng minh sự hơn hẳn của cơ quan nhà nước với thế giới bên ngoài đang tàn rữa. Nội dung chứa đựng bên trong có thể chỉ nhất thời nhưng hình thức thì không bao giờ thay đổi. Trên bức tường có treo một tấm lịch. Cứ mỗi ngày trôi qua, một tờ lịch lại được bóc đi. Sau một tuần mất bảy tờ, sau một tháng - ba mươi tờ. Vào ngày ba mươi mốt tháng mười hai, khi lốc lịch đã hết, người ta làm đơn xin cái mới, cũng với kích thước y như vậy, hình thức ấn loát y như vậy. Và thế là một năm mới đã bước sang nhưng tấm lịch thì vẫn như cũ. Trên bàn có một cuốn sổ kế toán với những hàng số chi chít. Khi những dãy số ở hàng bên trái vừa cộng xong, kết quả liền được đưa sang hàng bên phải và công việc tính toán lại tiếp tục, hết trang này đến trang khác. Khi trang cuối cùng được viết kín cuốn sổ cũng coi như hết, lại bắt đầu một cuốn mới, vẫn hình dạng y như thế, chiều dày y như thế, không khác chút nào so với cuốn trước. Còn tất cả mọi công việc đã kết thúc trong ngày hôm ấy thì hôm sau sẽ bắt đầu lại, tẻ nhạt, đơn điệu như chính bản thân công việc. Trên mặt bàn sẽ lại xuất hiện chính những đồ vật ấy, vẫn những tập biểu mẫu in sẵn với những cây bút chì, vẫn những chiếc kẹp giấy và những tờ phiếu ghi, lần nào công việc cũng có vẻ như mới nhưng thực ra vẫn như cũ. Không có chuyện gì thay đổi hoặc thêm vào trong cái thế giới do nhà nước quản lý này. Cuộc sống cứ thế lặp đi lặp lại, không chút sinh khí, nói cho đúng hơn là sự chết dần chết mòn ấy không bao giờ chấm dứt. Điều duy nhất khác nhau giữa những đồ vật là nhịp độ hao mòn và khả năng phục hồi của chúng, nhưng điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào bản thân đồ vật. Chiếc bút chì chỉ tồn tại trong một tuần và sau đó được thay bằng chiếc khác giống y như chiếc cũ. Cuốn sổ bưu điện sống được một tháng, chiếc bóng điện - ba tháng, còn tấm lịch thì một năm. Chiếc ghế mây được quy định phải dùng trong ba năm mới được thay thế còn người ngồi trên đó thì phải ngồi suốt đời - khoảng ba mươi đến ba lăm năm. Sau đó trên chiếc ghế ấy người ta sẽ bổ nhiệm một người khác, song chiếc ghế vẫn như cũ, chẳng khác gì chiếc trước. Vào năm 1926, trong trạm bưu điện Klein-Reifling nằm ở một làng nhỏ bình thường cạnh thành phố Krems và cách thủ đô Vienna khoảng hai giờ xe lửa, thứ vật dụng có thể thay thế được mà ta vẫn thường gọi là “nhân viên phục vụ” lại là một người phụ nữ. Và bởi lẽ trạm bưu điện này được xếp vào loại nhỏ, do đó người nhân viên cũng chỉ được mang tước vị “trợ lý ngành bưu điện”. Qua tấm kính của vách ngăn ta không thể nhìn rõ cô gái được, nhưng có thể thấy một khuôn mặt thiếu nữ nhìn nghiêng không có gì đặc biệt song rất dễ thương: cặp môi nhỏ, đôi má hơi nhợt nhạt, phía dưới cặp mắt có một quầng tối. Vào buổi chiều, khi cô gái bật ngọn điện sáng gắt lên, người tinh mắt có thể nhận thấy một vài nếp nhăn nhỏ trên trán và hai bên thái dương. Mặc dù vậy, bên cạnh cành miên quỳ lấp ló sau khung cửa sổ và bó hoa cơm cháy sáng nay cô vừa cắm trong chiếc lọ bằng sắt tây, cô gái vẫn là một đối tượng sinh động hơn cả giữa những vật dụng của trạm bưu điện Klein - Reifling. Và cũng dễ dàng nhận thấy cô gái ấy còn có thể tiếp tục công việc của mình ít nhất là hai mươi lăm năm nữa. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay trắng xanh kia sẽ còn phải nhấc lên đặt xuống hàng nghìn lần nữa cái tấm kính ngăn. Và hàng trăm nghìn lần nữa, mà cũng có thể là hàng triệu lần nữa, bằng những động tác máy móc, cô sẽ còn phải đặt những bức thư lên miếng đệm cao su, rồi cũng hàng nghìn lần nữa có thể hàng triệu lần nữa, đóng cái dấu bằng đồng nhem nhuốc lên những con tem. Có lẽ cái thao tác thành thạo của cánh tay cô gái sẽ ngày càng trở nên chính xác hơn, nhanh nhẹn hơn nhưng đồng thời cũng trở nên vô ý thức hơn. Hàng trăm nghìn bức thư nữa sẽ qua tay cô gái, tất nhiên những bức thư khác nhau nhưng chúng luôn luôn chỉ là những bức thư, và những con tem dẫu có khác nhau, nhưng dù sao thì đó cũng chỉ là những con tem. Những tháng ngày khác nhau sẽ trôi qua, nhưng ngày nào cũng bắt đầu từ tám giờ sáng, đến mười hai giờ trưa, từ hai giờ chiều đến sáu giờ tối, rồi năm tháng sẽ trôi qua, không chút hứng thú, không chút thay đổi vì vẫn chỉ là những công việc ấy, cứ lặp đi lặp lại mãi. Cũng có thể vào chính cái buổi trưa mùa hạ êm ả ấy, người thiếu nữ có mái tóc màu hung nhạt ngồi sau ô cửa kính đang nghĩ về tương lai của mình, mà cũng có thể nàng chỉ đang mơ mộng. Dù có thế nào thì cô gái vẫn ngồi đấy, hai cánh tay tuột khỏi mặt bàn nằm yên trên đầu gối, những ngón tay thon nhỏ, trắng xanh mệt mỏi đan vào nhau. Vào những buổi trưa tháng bảy oi nồng với bầu trời xanh nhạt như thế này, trong trạm bưu điện Klein - Reifling hầu như chẳng có việc gì làm. Công việc buổi sáng đã kết thúc, người đưa thư Hinterfellner, một người đàn ông gù lưng lúc nào cũng nhai thuốc lá đã chuyển xong những bức thư từ lâu. Từ giờ đến chiều tối sẽ chẳng có một cái công văn hoặc một mẫu hàng nào từ các nhà máy gửi đến nữa, còn người dân trong làng thì chẳng muốn hoặc chẳng có thời gian đâu mà viết thư. Những người nông dân đầu đội mũ rơm rộng vành đang vun gốc nho, đám trẻ con chân đất vẫn đang nghỉ hè thì dẫn nhau ra sông. Mảnh sân lát đá trước cửa vắng hoe bị ánh nắng mặt trời nung nóng. Giá bây giờ được ngồi ở nhà thì thật là tuyệt và cũng thật là tuyệt nếu được ngồi yên mà mơ mộng. Dưới bóng râm của cánh cửa chớp, những tờ biểu mẫu và những tấm bưu ảnh đang ngủ yên trên giá và trong hộp gỗ, chiếc máy điện báo uể oải lười biếng hắt ra ánh kim loại trong bóng tối nhờ nhờ vàng đục. Sự tĩnh lặng giống như một lớp bụi vàng dày đặc bao trùm lên tất cả mọi thứ dụng cụ trong phòng, chỉ còn lại dàn nhạc violon nhỏ xíu của đàn muỗi và của bầy ong đất là vẫn còn tiếp tục chương trình hòa nhạc buổi chiều của mình ngoài khung cửa. Vật duy nhất còn hoạt động trong căn phòng mát mẻ là quả lắc chiếc đồng hồ treo tường vỏ gỗ treo giữa hai khuôn cửa sổ. Mỗi một giây trôi qua, chiếc đồng hồ nuốt chửng một giọt thời gian. Tuy nhiên tiếng lắc đều đều yếu ớt của nó chỉ càng làm cho người ta dễ ngủ hơn là đánh thức người ta dậy. Cô gái trợ lý ngành bưu điện vẫn ngồi yên trong cái thế giới nhỏ bé của mình và uể oải thiếp đi với một cảm giác dễ chịu. Đúng ra mà nói, cô cũng định tranh thủ thêu thùa một chút. Cô đã chuẩn bị sẵn kim chỉ và một chiếc kéo nhỏ, nhưng tấm vải thêu tuột khỏi đầu gối rơi xuống đất, nhặt nó lên thì cô không đủ sức và cũng chẳng có ý định ấy. Ngửa người ra thành ghế, cô gái nhắm mắt lại thở nhè nhẹ, hoàn toàn đắm chìm trong cảm giác khoan khoái, dễ chịu vì được nghỉ ngơi. Những giây phút như vậy thật hiếm trong đời nàng. Chú thích [1] Franz Josef (1830 - 1916): hoàng đế Đế quốc Áo - Hung từ năm 1848 tới năm 1916.   Mời các bạn đón đọc Khát Vọng Đổi Đời của tác giả Stefan Zweig.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cáp Treo Tình Yêu
Tác phẩm mới nhất đến từ nhà văn trinh thám hàng đầu Nhật Bản Keigo Higashino. Trong tuần đầu tiên xuất bản (01/11/2016), Cáp treo tình yêu đã nắm giữ vị trí đầu trong bảng doanh số hàng tuần. Và tiếp tục ở trong top 10 nhiều tuần sau đó. Một nữ nhân viên văn phòng bị hôn phu phản bội... Một chàng trai ôm mộng tìm được tình yêu đích thực sau năm lần bảy lượt thất bại tình trường... Một cô gái trẻ gặp phải gã đàn ông dối trá... Một cặp đôi mới cưới vướng vào rắc rối với bố mẹ vợ... Mỗi người họ đều ôm trong lòng nỗi phiền muộn riêng. Những cuộc đời tưởng chừng như không có điểm giao thoa ấy lại được gắn kết với nhau tại một khu trượt tuyết lạ kỳ, nơi có khả năng phơi bày sự thật và những điều thầm kín dù chúng ta có được con người ta che đậy kỹ càng tới đâu. Vậy, sự thật liệu có luôn là điều mà con người ta muốn biết? Đứng trước tình yêu, con người sẽ trở nên thảm hại, ích kỷ, hoặc nhiều dũng khí đến thế nào? Những tình tiết bất ngờ trong Cáp treo tình yêu sẽ khiến bạn phải bật cười và tự hỏi điều gì tiếp theo có thể xảy ra. --- Một số thành tích nổi bật: - Đứng đầu bảng xếp hạng tổng doanh số của các nhà sách Kinokuniya - Đứng đầu bảng xếp hạng tổng doanh số theo tuần của Nippan tháng 2 năm 2018, tác phẩm được mua bản quyền và xuất bản sang tiếng Hàn. Lập tức lọt top những tác phẩm bán chạy nhất Hàn Quốc. Cùng trong top 10 đó là tác phẩm “Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya” . - Được mua bản quyền dịch bởi Trung Quốc đại lục, Đài Loan và Hàn Quốc. *** Cáp treo tình yêu (Koi no gondora) cuốn tiểu thuyết như một thử nghiệm mới mẻ của Higashino Keigo trên mọi phương diện từ chủ đề, đề tài, kết cấu tác phẩm, xây dựng nhân vật, trong bối cảnh tên tuổi ông  đã quá nổi danh, đồng thời những đỉnh cao trong sự nghiệp của Keigo-sensei, phần lớn đã tập trung trong những năm cuối 9x, đầu 2000. Những thể nghiệm mới của Higashino Keigo ở cuốn sách xuất bản năm 2016. Trước hết, cần phải nói rằng, Koi no gondora – Cáp treo tình yêu, đúng như tựa đề, cuốn sách chỉ là những mẩu chuyện tình yêu đầy màu sắc, muôn hình muôn vẻ: hạnh phúc, trọn vẹn, viên mãn có; đau đớn, khổ đau, nghiệt ngã cũng có. Nhưng tuyệt nhiên, tác phẩm ấy không dính dáng chút gì đến thể loại trinh thám, điều tra, phá án. Vì thế, nếu bạn kiếm tìm ở Cáp treo tình yêu một câu chuyện chứa những cú twist liên tục, khiến bạn đi từ hết bất ngờ này tới bất ngờ khác như Phía sau nghi can X, Ác ý; hay một câu chuyện tạo nên bầu không khí đặc quánh đêm đen như Bạch dạ hành hay chứa đựng day dứt ám ảnh như Thư; hoặc ẩn chứa vấn đề vĩ mô như Thánh giá rỗng, Phương trình hạ chí… thì chắc chắn một điều, bạn sẽ phải thất vọng. Nói như thế để thấy, tiếp cận Cáp treo tình yêu, độc giả trước tiên cần giữ một thái độ không mang định kiến, trung lập hết sức và hãy tạm thời quên đi, cái danh mà trước nay vẫn thường gán cho Keigo tiên sinh: “tác giả viết truyện trinh thám”. Để thấy rằng, ở sáng tác này, Higashino Keigo đã có những thể nghiệm để làm mới bản thân trên hầu khắp mọi khía cạnh: từ chủ đề, đề tài đến cách thể hiện chủ đề, đề tài đó, cách tạo dựng nhân vật tới cách đặt điểm nhìn trần thuật của tác phẩm. Về đề tài, thật sự, rất hiếm thấy hay có thể nói là gần như không có một tác phẩm của Keigo-sensei lại chỉ gói gọn trong đề tài tình yêu như Koi no gondora. Đó là những câu chuyện tình yêu cá nhân hết sức vụn vặt, nhỏ nhặt gắn liền với một khu trượt tuyết: vùng núi suối nước nóng Satozawa; gắn liền với những chiếc cáp treo chuyên chở tình cảm, và cũng chở cả bao bí mật của những người đang yêu. Đó có thể là câu chuyện về tình cảm gia đình gắn liền với niềm yêu thích một bộ môn thể thao. Đó có thể là sự đơn phương của một chàng trai tốt bụng nhưng lại như luôn vô duyên với phụ nữ. Đó có thể là những phản bôi, tan vỡ, tái hợp của một cặp đôi khi người đàn ông đã từng phản bội người phụ nữ. Hay đó cũng có thể là sự tác hợp của bạn bè đến với cặp đôi khác, vẫn dùng dằng chưa quyết… Vẫn với kết cấu quen thuộc trong sáng tác của Higashino Keigo: kết cấu truyện lồng truyện, tạo cho tác phẩm một cấu trúc vòng cung, trùng điệp, đầu cuối tương ứng: hình ảnh cáp treo xuyên suốt tác phẩm, mở ra không gian sáng tác và cũng khép lại những câu chuyện nhỏ vụn vặt. Nhưng ở Cáp treo tình yêu, độc giả thấy được một Higashino Keigo, đang trên đường đổi mới chính mình. Ở đây, tác giả đã cố gắng tập trung vào một đề tài thường nhật hết mực. Không gian truyện gần như gói gọn ở một địa điểm; thời gian truyện, dẫu có nhắc tới quá khứ cũng là một quá khứ gần của nhân vật chứ không kéo dài quá xa. Nên có thể nói, chí ít, Cáp treo tình yêu vừa mang tới những cảm xúc khác nhau qua từng chương, từng câu chuyện của một nhân vật; song cũng vừa mang tới nét lạ lẫm về một Higashino Keigo đã gần gũi, đời thường trong một áng văn nhẹ dịu, ít bất ngờ đến thế. Chính vì đề tài, cách triển khai cốt truyện như vậy mà hệ thống nhân vật trong Cáp treo tình yêu cũng được thu hẹp lại. Và ở đó, đều là những cá nhân hết sức đời thường. Họ không gắn với bất kỳ một vụ án nào, họ chẳng phải nghi can, chẳng phải hung thủ hay nạn nhân của một án mạng nào đấy cần phải tìm lời giải đáp. Họ sống một cuộc sống đời thực, yêu ghét, hận thù, đơn phương, tin tưởng, hi vọng rồi thất vọng. Vì thế, mỗi cá nhân, mỗi con người xuất hiện trên trang văn của Higashino Keigo trong Cáp treo tình yêu, như trở nên gần gũi, đời thực hơn. Bởi một sự thật, con người chúng ta, trong nhịp chảy đời sống thường nhật, đâu dễ dàng để liên đới trực tiếp tới một vụ án mạng nào đấy. Cho nên, với truyện vụ án, ta có thể đồng cảm với nhân vật, cuốn hút theo hành trình truy tìm sự thật của một vụ án song lại rất khó để đặt bản thân vào vị trí một người trong cuộc. Nhưng ở Cáp treo tình yêu thì khác. Người đọc có thể rất dễ nhìn thấy bóng hình người cũ phụ bạc trong hình ảnh Kota, một người đàn ông “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” trong hình ảnh Mizuki, một anh chàng ngờ nghệch trên mọi phương diện tình trường như Hida… Vì vậy, có thể không có một nhân vật đặc biệt nổi trội hẳn lên như các tác phẩm trước đấy, nhưng với Cáp treo tình yêu, Higashino Keigo đã ngày càng tiệm cận trong việc đi gần hơn tới đời sống cùng muôn mặt con người. Đổi mới không có nghĩa là hoàn toàn thành công. Thông thường, khi độc giả đã quá quen với phong cách sáng tác của một tác giả, hoặc khi mặc nhiên gắn tên tuổi tác giả đó với một thể loại riêng biệt, thì sẽ rất khó để dễ dàng tiếp nhận một tác phẩm mới, trái ngược hoàn toàn với phong cách trước giờ của con người ấy. Và chính bản thân tác giả đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, cũng chẳng thể đảm bảo sẽ tạo ra một tác phẩm hoàn thiện, thành công trên mọi phương diện. Trường hợp của Koi no gondora – Cáp treo tình yêu cũng như vậy. Để rồi, chúng ta – những độc giả khi đã giữ thái độ trung dung nhất đón đọc cuốn sách sẽ đủ khoan dung mà không phủ nhận sạch trơn mọi cố gắng, nỗ lực của Keigo-sensei trong việc đổi mới bản thân; song cũng vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra những thiếu sót ở tác phẩm gần 300 này. Một điều dễ nhận thấy, Cáp treo tình yêu, dẫu đã kéo đề tài về gần với đời sống cùng tâm lý thực của con người nhất, thì đây vẫn như một dạng bình mới rượu cũ trong kho tàng sáng tác đồ sộ mang tên Higashino Keigo. Nói như thế không có nghĩa mâu thuẫn với những gì đã viết ở phía trên; bởi dẫu đã cố gắng đổi mới thì một cây viết gạo cội như Keigo-sensei hẳn từ lâu đã hình thành một phong cách sáng tác cố định cũng như một lối mòn ở tư duy nghệ thuật. Chính vì thế, ở Cáp treo tình yêu dù đề tài, không gian tác phẩm được thu hẹp lại thì vẫn có nét tương đồng rất lớn với những sáng tác khác của Higashino Keigo, đặc biệt là Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya. Vẫn là kết cấu: mỗi chương là một câu chuyện riêng biệt song mọi liên hệ cuối cùng lại quy về một địa điểm như mối cơ duyên tiền định của tạo hóa. Tuy nhiên, Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya sử dụng cách trần thuật như vậy và thành công, bởi Keigo-sensei đã xây dựng lên đủ muôn mặt kiếp người với những số phận khác nhau, trong những chiều không gian, thời gian khác nhau mà hình ảnh tiệm tạp hóa Namiya hiện lên chỉ mang ý nghĩa một địa điểm trung chuyển hiện tại – quá khứ – tương lai. Còn với trường hợp của Cáp treo tình yêu, Keigo-sensei sử dụng cách kể như thế với đề tài, không gian hẹp vô hình chung khiên cốt truyện bị xé nhỏ. Thêm việc tác giả vẫn giữ lối viết vừa muốn đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, vừa muốn tạo khoảng trắng bất ngờ để độc giả liên tưởng lại càng làm cho tình tiết truyện tủn mủn, nát vụn. Đặc biệt, nếu chỉ viết riêng về tình yêu, không mở rộng đề tài, không gắn liền cốt truyện với một vụ án nào đấy; quả thực, bút lực của Higashino Keigo có phần khá yếu. Người đọc vẫn thấy trên trang sách những chi tiết mang đậm đặc trưng cảnh sắc, văn hóa, con người Nhật Bản. Song tình tiết truyện lại có phần nghèo nàn, cách triển khai tâm lý, tình cảm nhân vật có phần non nớt, muốn đào sâu vào nội tâm con người mà chẳng thể đi được tới tận đáy sâu những xúc cảm của một cô gái đang yêu, một anh chàng cục mịch nhút nhát, một anh chàng đào hoa hay xúc cảm một người phụ nữ bị phụ bạc… Có lẽ, đây chính là tác phẩm dễ khiến độc giả cảm thấy thất vọng nhất về cách Higashino Keigo khai thác, miêu tả tâm lý nhân vật. *** Sau khi trượt tuyết được một hiệp, Kota quay trở lại trạm lên cáp treo. Ở đây, người ta đang xếp thành một hàng dài, hơn cả những gì anh tưởng tượng. Vừa tháo đai trượt tuyết khỏi giày, Kota vừa tặc lưỡi. “Sao mà đột nhiên đông người thế không biết?” “Không phải bây giờ là lúc xe buýt chở khách du lịch đi theo đoàn đến sao?” Momomi đã tháo xong giày và đang ngồi trên tuyết. Cô ôm ván trượt, từ từ đứng dậy. Cô mặc một chiếc áo jacket kẻ trắng, hồng kết hợp cùng quần màu xanh lá cây. Theo như lời Momomi thì bộ quần áo này gợi cho ta liên tưởng tới một cây đào. “À, cũng có thể. Chẹp, đen quá. Đúng lúc anh lại đang có hứng.” “Anh vội gì chứ? Em thấy có sao đâu nhỉ. Ta cứ thong thả mà trượt thôi.” Kể ra thì Momomi nói cũng đúng. Bởi vì mục đích chuyến du lịch lần này của Kota không phải là việc tận hưởng những cú bay người tuyệt đẹp trên tuyết bột hay cú rẽ cắt ngang bề mặt lớp tuyết phủ dày bằng mép ván, mà quan trọng nhất vẫn là việc được trải qua quãng thời gian vui vẻ cùng với Momomi. “Anh có vội gì đâu. Nhưng anh không nghĩ Momomi lại trượt giỏi đến thế này nên anh đang thấy rất phấn khích.” “Ôi, cũng bình thường thôi mà. Anh Kota mới siêu ấy. Ban nãy, anh vừa trượt xoay ngược ván phải không? Cả xoay ván một trăm tám mươi độ nữa.” Kota phổng mũi vì những lời khen ngợi của Momomi. Hình như Momomi đã rất chăm chú dõi theo màn biểu diễn trổ tài kỹ thuật trượt ván của anh. “Mấy thứ đó có là gì đâu em.” “Ôi, vậy ư? Em thì lại nghĩ nó điêu luyện tới mức người thường không thể làm được đâu.” “Em cứ nói quá. Ai mà chẳng làm được. Ngay cả Momomi, chỉ cần luyện tập một chút cũng sẽ trượt được ngay thôi.” “Có thật thế không?” “Anh đã nói được là được. Lần tới, Momomi thử sức xem sao.” “Ối, em không làm được đâu.” “Không làm được là thế nào? Em nên biết thách thức bản thân mình. Ta sẽ không nghỉ cho tới khi thực hiện được nó.” “Ôi, chiến binh quả cảm!” Momomi nói với vẻ thích thú. Đương nhiên, Kota cũng thấy thú vị không kém. Hai người họ cùng ôm ván trượt và đứng xếp vào cuối hàng. Ngay lập tức, có một nhóm những cô gái từ đâu đến đứng nối ngay sau Kota và Momomi. Đám người đó khá là ồn ào nhưng nó khiến cho bầu không khí xung quanh trở nên sôi nổi hơn. Nghe nói hằng năm số lượng khách tới trượt tuyết ngày càng giảm đi, vậy mà riêng hôm nay có vẻ khu trượt tuyết lại náo nhiệt hơn thường lệ. Mặc dù khách đứng xếp hàng rất đông, nhưng mọi người vẫn tiến về phía trước, từng chút một. “Dù sao thì chúng ta cũng đã thật may mắn vì điều kiện khá thuận lợi.” Momomi nói. Kota nhìn thấy được nụ cười dịu nhẹ của Momomi hiện ra giữa kính trượt tuyết và lớp khăn quàng cổ giữ ấm rất dày. “Đúng thế nhỉ. Anh không nghĩ tuyết lại đẹp đến vậy. Thật tốt biết bao khi điều mà dự báo thời tiết nói đã không xảy ra, tại vì anh đã nghe người ta bảo là có thể có cả mưa nữa.” “Trời mưa sẽ chán lắm anh nhỉ?” “Thế thì thật khủng khiếp. Gì chứ đừng có mưa vì lần này, từ đầu đến chân anh toàn đồ mới hết.” “A, đúng rồi.” “Thực sự chúng ta quá may mắn.” Kota mặc chiếc áo jacket màu xanh thẫm và chiếc quần màu xám. Nói thật thì anh đã mua chúng để dành riêng cho ngày hôm nay, buổi hẹn hò trượt tuyết lần đầu tiên với Momomi. À, đâu chỉ có thế. Cả ván trượt, giày trượt, thậm chí đến cả chiếc mũ len màu vàng, anh cũng mua nó vì hôm nay. Dòng người vẫn chậm rãi tiến về phía trước. Cuối cùng họ cũng tới được chỗ có mấy bậc thang. Mọi người vừa phải để ý chân nhau, vừa tiến lên từng bậc. “Anh này, ở đây có tiệm mì tantanmen1 rất nổi tiếng phải không?” Momomi nói. “Chuẩn đó em. Có cả rau Nozawana2 trong bát mì nữa. Ngon khỏi phải nói. Lần nào anh cũng phải ăn một bát đó.” “Vậy ư? Em muốn ăn thử!” “OK. Vậy trưa nay chúng ta ăn ở đó nhé. Tiệm mì nằm ngay phía dưới của khu nghỉ dưỡng trượt tuyết Hinata.” “Anh giỏi quá. Anh Kota chắc rành về khu trượt tuyết này lắm nhỉ?” “Thì bởi vì năm nào anh cũng tới đây mà.” “Anh giỏi ghê!” Momomi nhắc lại thêm một lần nữa. “Tuyệt vời thật.” Kota nhâm nhi niềm sung sướng vì anh được tới đây để trượt tuyết - sở thích lớn nhất của mình, và được tận hưởng giây phút cùng với cô gái mình yêu trong không gian chỉ có hai người. Kể từ hôm nay, anh và Momomi sẽ ở bên nhau suốt hai ngày liền. Nơi nghỉ ngơi là một khách sạn nằm ngay cạnh khu trượt tuyết. Không biết mình và Momomi sẽ cùng nhau trải qua một đêm nồng cháy như thế nào đây? Trí tưởng tượng của Kota cứ bung nở không giới hạn. Chỉ có điều, nếu cứ thổi phồng lên những ý nghĩ đó thì chẳng còn gì là cái thú khi đi trượt tuyết nữa, thành thử Kota sẽ cố kìm nó lại. Cuối cùng, bọn họ cũng leo lên hết các bậc thang. Kota với tay ra lấy hai chiếc túi đựng ván trượt đã được để sẵn trong giỏ, một chiếc anh đưa cho Momomi và giúp cô cho chiếc ván vào túi đựng vì Momomi đang phải vất vả với nó. Mỗi lần leo lên cáp treo ở bất kỳ khu trượt tuyết nào, Kota vẫn luôn trăn trở rằng tại sao mấy chiếc túi đựng ván trượt lại khó dùng đến thế? Rằng người ta chẳng thể cải tiến để nó tốt hơn lên hay sao? Họ sắp đến được gần trạm lên cáp treo. “Xin lỗi, đề nghị quý khách ngồi ghép với các đoàn khác.” Cô nhân viên với tông giọng cao vút thông báo. Đó là tình huống chẳng mấy thú vị đối với Kota, người đang nung nấu ý định sẽ được ngồi riêng với Momomi trong một cabin cáp treo. Nhưng hành khách đông đến mức này thì anh cũng chẳng thể buông được lời phàn nàn nào cả, bởi vì cabin cáp treo ở đây thuộc loại to, chứa được tối đa mười hai người. Đã tới lượt của Kota và Momomi. Chiếc cabin trống từ từ tiến lại gần. Anh để Momomi lên trước rồi mới leo lên sau. Kota chọn vị trí đối diện với Momomi đang ngồi ở góc trong cùng. Và đương nhiên là nhóm những người họ không quen biết cũng lần lượt leo lên theo sau. Họ là một nhóm gồm bốn người phụ nữ, mặc dù vẫn chưa ổn định được chỗ ngồi nhưng đã bắt đầu mở miệng nói về những chuyện gì đó mà Kota chẳng thể hiểu nổi. Từ lúc đứng xếp hàng để đợi lên cáp treo, đám người đó đã nói liên hồi. Vẫn biết đây là chuyện ngoài ý muốn và vì thời gian ngồi trong cabin cũng chỉ hơn chục phút nên Kota chỉ còn cách bấm bụng chịu đựng cho qua. Cửa cabin đóng lại, cáp treo dần dần tăng tốc. Nhìn ra bên ngoài, Kota thấy quang cảnh trước mắt là một vùng tuyết trắng trải rộng mênh mông. Những vị khách tới đây để trượt tuyết, trượt ván được bao bọc bởi lớp quần áo dày, nhiều màu sắc. Khắp mọi nơi, tất cả bọn họ đều đang trình diễn những cú trượt ngập tràn cảm xúc tự do và ngẫu hứng. ”Chà, tớ thấy phấn khích quá, cũng lâu lắm rồi chứ ít đâu.” Một trong số bốn người phụ nữ hào hứng lên tiếng. Đó là người phụ nữ ngồi ngay cạnh bên trái Kota. “Chắc từ hồi sinh viên tới giờ tớ không trượt ván rồi. Ừm... cũng phải bảy năm rồi ấy.” “Erika, cậu biết trượt ván cơ à? Tớ thì hoàn toàn không có chút tự tin nào hết ấy.” Người mặc chiếc áo khoác màu xanh lá cây, ngồi phía đối diện chếch bên tay trái của Kota lên tiếng. Hình như người ngồi bên cạnh Kota tên là Erika. “Kiểu gì chẳng trượt được. Với lại bảy năm trước, nói thẳng ra thì lúc đó chẳng ai biết cậu có biết trượt ván hay không, nên kể cả bây giờ cậu có trượt kém hơn ngày ấy đi chăng nữa thì tớ nghĩ vẫn được gọi là biết trượt thôi.” Dứt lời, người phụ nữ ấy cười phá lên. Kota lẩm nhẩm tính trong đầu. Bảy năm rồi mới trượt kể từ thời sinh viên ư? Vậy lần cuối người này đi trượt tuyết hồi còn là sinh viên năm thứ mấy? Nếu là sinh viên năm nhất thì bây giờ người này hai mươi lăm tuổi. Không, với cách nói chuyện và thần thái thế này thì không thể có chuyện đó được, Kota đoán. Vậy nếu lần cuối trượt tuyết là thời điểm trước khi tốt nghiệp, tức là hồi hai mươi hai tuổi thì bây giờ người này hai mươi chín. Phải, chắc khoảng tầm đó thì chính xác hơn, Kota tự đưa ra câu trả lời của mình. “Vốn dĩ việc bốn người chúng ta cùng nhau đi du lịch như thế này cũng là cơ hội hiếm thấy mà.” Một người phụ nữ khác nói với giọng trầm tĩnh hơn. Từ hướng giọng nói phát ra, Kota đoán người này ngồi cách anh hai ghế. “Xin lỗi vì bắt các cậu phải cất công tới tận đây.” “Ơ hay, tại sao cậu lại phải xin lỗi? Nói thật thì tớ thấy chuyến đi này cực kỳ thú vị mà.” Người phụ nữ ban nãy ngồi cạnh Kota, người được gọi bằng cái tên Erika lên tiếng. “Phải đấy. Lâu lắm rồi chúng ta mới được đi chơi cùng nhau như thế này, cho nên Chiharu cũng phải tận hưởng đi.” Người mặc áo khoác xanh nói. Hình như người ngồi cách Kota hai ghế tên là Chiharu. “Nhưng mà thời tiết không lạnh như chúng ta đã nghĩ nhỉ? Tớ tưởng còn phải lạnh hơn ấy chứ.” Erika nói. “Ừ. Có khi chỉ nên mặc ba lớp áo trong thôi thì vừa.” Bất giác, Kota hướng mắt nhìn về phía người phụ nữ mặc áo khoác xanh. Mặc ba lớp thì vừa ư? Vậy lúc này cô ta đang mặc mấy lớp nhỉ? Chính là lúc đó. Người phụ nữ còn lại đang ngồi cạnh người mặc áo khoác xanh, im lặng mãi từ đầu cho đến tận lúc này mới lên tiếng: “Hình như tớ cũng mặc nhiều quá. Bộ quần áo trượt tuyết này ấm hơn tớ nghĩ.” Nói rồi, người đó nắm lấy tay chiếc áo khoác màu đỏ mình đang mặc. Kota thấy bất ngờ trước giọng nói ấy. Là bởi vì nó cực kỳ giống với giọng nói của một người mà anh biết rất rõ. Anh liếc nhìn sang ngang. Kính và khẩu trang che kín khiến Kota không thể nhận ra khuôn mặt đó là ai. “Cậu đã nói mua bộ quần áo này vì chuyến đi nhỉ?” Erika chỉ tay về phía người phụ nữ mặc áo đỏ. “Đúng thế. Tại bộ trước của tớ dùng cũng khá lâu rồi. Đúng lúc tớ cũng đang muốn mua một bộ mới.” Quả nhiên là giống. Ngữ điệu nói cũng giống y chang. Một dự cảm không mấy vui vẻ bỗng dâng lên trong lồng ngực của Kota. Nhìn vào ván trượt tuyết, Kota đoán hình như nó là đồ đi thuê. “Cậu đã mua cả bộ đấy à?” Người có tên Chiharu hỏi. “Tớ mua bộ quần áo và găng tay. Nhưng mà đúng ra nên mua thêm cả kính nữa. Kính này mau bị mờ lắm.” Dứt lời, người mặc áo đỏ đưa tay gỡ cặp kính. Chiếc khẩu trang trượt xuống trong sự hồi hộp của Kota, rồi gương mặt ấy dần hé lộ. Tim của Kota suýt chút nữa thì bắn ra ngoài. Người mặc bộ đồ trượt tuyết màu đỏ là Miyuki. Và Miyuki lại chính là người hiện đang chung sống với Kota. Mời các bạn đón đọc Cáp Treo Tình Yêu của tác giả Higashino Keigo & Nguyễn Hải Hà (dịch).
Gia Đình Trộm Cắp
"GIA ĐÌNH TRỘM CẮP" (Shoplifters) - những xó xỉnh nằm ở rìa xã hội không được ánh sáng chiếu đến. Được chuyển thể từ bộ phim cùng tên của tác giả Kore-eda Hirokazu giành giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes lần thứ 71, cuốn tiểu thuyết thuộc thể loại tâm lý xã hội đã làm xúc động hàng triệu trái tim trên toàn thế giới. Vào một đêm mùa đông lạnh giá, Osamu và đứa con trai Shota vừa ăn cắp khỏi một tiệm tạp hóa gần nhà thì tình cờ gặp một bé gái bốn tuổi đang sắp chết cóng trên ban công. Hắn quyết định mang cô bé về nhà mình mà không suy nghĩ quá nhiều. Cuốn tiểu thuyết về một gia đình kì quái được tạo thành bởi những mảnh đời phiêu dạt nằm bên ngoài xã hội, không được ánh sáng chiếu tới. Một người đàn ông ở tuổi trung niên chỉ biết dạy những đứa trẻ ăn cắp, sống vạ vật không đi làm. Một người phụ nữ bị ám ảnh bởi quá khứ bất hạnh yêu thương những đứa trẻ không thuộc về mình. Một cô gái bỏ nhà ra đi sống nương tựa vào một bà già chỉ sống bởi trợ cấp từ chồng cũ và tống tiền gia đình của chồng. Và hai đứa trẻ "bị bắt cóc", không đi học, không được dạy dỗ tử tế, coi việc ăn cắp là tất nhiên. Họ không phải vợ chồng, cha mẹ con cái, nhưng họ lại là một gia đình, sống với nhau bởi những ràng buộc nằm ngoài mối ràng buộc ruột thịt. *** Cuốn tiểu thuyết Gia đình trộm cắp được chuyển thể từ kiệt tác điện ảnh cùng tên đã giành được nhiều giải thưởng danh giá: Cành Cọ Vàng liên hoan phim Cannes lần thứ 71, Phim điện ảnh hay nhất của năm, Giải Viện Hàn Lâm Nhật Bản lần thứ 42… Cuốn tiểu thuyết dung dị này đã chạm đến trái tim của hàng triệu độc giả trên đất nước Mặt trời mọc và được chuyển ngữ tại nhiều quốc gia. Câu chuyện kể về cuộc sống của 5 con người hoàn toàn xa lạ sống với nhau như một gia đình, mỗi người có một hoàn cảnh, câu chuyện riêng nhưng tình yêu, nỗi đau và khát vọng hạnh phúc là điểm chung đã gắn kết những con người này như một gia đình. Mọi chuyện bắt đầu khi Osamu – một gã lười biếng kiếm ăn bằng món nghề trộm cắp vặt tại các cửa hàng, đã dắt một cô bé về nuôi trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Cuộc sống của gia đình cũng bắt đầu đảo lộn từ đây, họ đấu tranh xem có nên trả cô bé đáng thương này về với người cha mẹ vô tâm đã bỏ mặc cô giữa đêm đông, hay tiếp tục giữ đứa trẻ này đồng nghĩa với việc phạm tội bắt cóc? Cuối cùng Nobuyo – người phụ nữ từng bị chồng đánh đập – trong một giây đã quyết định giữ đứa trẻ vì bản năng làm mẹ bỗng được đánh thức. Cô nghĩ về bố mẹ của đứa trẻ rằng: “Những kẻ bỏ quên đều chẳng ra gì” vậy nên những thứ họ lấy: “Đứa trẻ” hay những món đồ ở cửa hàng tạp hóa, tất cả chỉ là “nhặt được” vì chúng chẳng thuộc về ai. Câu chuyện về những con người bị bỏ quên bên lề xã hội, nhưng họ vẫn có trái tim, vẫn có tình yêu và ước mơ dù chúng trông méo mó trong mắt người khác: Một “người cha” dạy “con” hành nghề trộm cắp vì gã chẳng có thứ gì khác để dạy. Một người đàn ông tha thiết được nghe đứa trẻ gọi “cha” nhưng không bao giờ được thỏa mãn. Một người phụ nữ từng đổ vỡ trong hôn nhân chấp nhận sống bên một người đàn ông (chỉ biết đi ăn cắp) như vợ chồng chỉ vì so với những gã đàn ông khác thì “đàn ông không có thói đánh đập đã tốt hơn kẻ khác rất nhiều rồi“ Một bà cụ 80 tuổi đã “cướp” người thân trong gia đình người khác để mình được hả hê khi chứng kiến họ nếm trải mùi vị bất hạnh như bà đã từng. Một cô gái trẻ dùng tên của em gái hành nghề dịch vụ khiêu dâm để trả thù gia đình. … Tất cả những con người ấy đáng thương tới mức những ước mơ đã trở thành xa xỉ đến nỗi họ chỉ dám mơ đến việc ngắm pháo hoa từ tòa chung cư cao nhất vùng này. Vậy mà sau những gì họ làm xuất phát từ lương tâm, tình yêu và mưu cầu hạnh phúc thì họ vẫn bị xã hội nhìn vào bằng cái tên kì dị: “Gia đình trộm cắp”. Cuốn sách này khiến chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn và nhìn vào mặt khuất của những gì chúng ta thường thấy. Có những tội ác lại bắt nguồn từ đạo đức, sự ích kỉ bắt nguồn từ bao dung, và lòng thù hận lại bắt nguồn từ yêu thương… Hà Nội, 31/3/2020   *** Lần đầu tiên Shouta gặp cô bé ấy là vào mùa hè năm ngoái. Hòm thư màu bạc được gắn bên hông cửa ra vào của dãy nhà tập thể năm tầng đã cũ, phía bên dưới xếp ngổn ngang xe đạp dành cho trẻ em và những bìa các tông quên vứt. Cô bé ngồi đó như đang phải chịu phạt, đưa mắt nhìn người qua đường. Dãy nhà tập thể ấy nằm chính giữa nhà của họ và một siêu thị mang tên “Shinsengumi” mà Shouta vẫn đi cùng bố mỗi tuần một lần. Ngày xưa, trên bức tường trắng toát, những vết nứt đã xuất hiện, và để che đi những vết nứt đó, người ta đã quét lên một lớp sơn trắng mới. Lớp sơn trắng ấy như càng làm nổi bật hiện trạng của bức tường đang dần bị màu tro tàn bao phủ. “Làm ăn gì mà chán thế. Đúng là nghiệp dư mà”. Mỗi khi đi ngang qua bức tường của dãy nhà tập thể đó, người bố Osamu sẽ ngẩng lên nhìn, huých khuỷu tay vào. Shouta và nói như vậy. Nghe nói trước kia, chính gã cũng từng làm nghề quét sơn. “Tại sao chú lại nghỉ việc?”, mỗi lần Shouta hỏi, Osamu lại cười và nói, “Vì bố sợ độ cao mà”. Người bố gọi khu nhà tập thể ấy là “koudan”[2]. Còn người mẹ Nobuyo lại gọi là “toei”[3]. Shouta không thể phân biệt được đâu là cách gọi đúng và sự khác nhau giữa hai từ đó là gì. Lời Nobuyo thốt ra “Tiền nhà rẻ đến khó tin” vừa như ghen tị lại vừa như khinh miệt, có biết bao điều ẩn chứa trong nụ cười lạnh của cô. Việc tới siêu thị vào mỗi thứ tư hằng tuần không phải để mua sắm, mà đó là công việc quan trọng nhằm duy trì kinh tế gia đình Shibata. Thứ tư là ngày bán hạ giá của cửa hàng này nên rất đông khách. Mặc dù khắp nơi đều dán giấy ghi “Nhân 3 tích điểm”[4], nhưng Shouta cũng chẳng hiểu rõ nó có lợi hơn bao nhiêu so với ngày thường. Hai người chen vào được bên trong cửa hàng tầm năm giờ chiều thứ tư hôm đó. Họ nhắm vào khoảng thời gian chuẩn bị bữa tối, lúc cửa hàng nhộn nhạo nhất. Đó là ngày mà dự báo thời tiết đã gây xôn xao rằng, buổi sáng sẽ lạnh tới mức kỷ lục trong tháng hai và chiều tối sẽ bắt đầu có tuyết rơi. Đi từ nhà tới siêu thị chỉ mất có mười lăm phút mà đầu ngón tay Shouta đã lạnh tới mức mất cảm giác. “Lẽ ra nên mang theo găng tay”, cậu hối hận. Cứ thế này sẽ không thể làm việc được. Shouta bước qua cửa ra vào của siêu thị thì dừng lại, vừa quan sát bên trong cửa hàng, vừa cử động năm ngón tay đang đút trong túi, cậu muốn đầu ngón tay nhanh lấy lại cảm giác. Osamu vào chậm hơn Shouta vài bước, lặng lẽ đứng cạnh cậu. Ở đây không được liếc nhìn nhau. Điều này là quy tắc ngầm giữa hai người kể từ khi bắt đầu công việc này. Cầm lấy quả quýt là mặt hàng mẫu được đặt bên hông lối vào, Osamu khẽ lẩm bẩm “ừm” trong miệng, vẫn không nhìn Shouta mà đưa qua một nửa. Miếng quýt vừa nhận được trong tay đã trở nên lạnh lẽo. Như để bảo vệ bàn tay đang dần ấm lên, Shouta bỏ cả miếng quýt đó vào mồm. Vị chua lan rộng trong miệng. Quả nhiên vì chỉ là hàng mẫu nên không được ngọt lắm. Hai người vô thức nhìn nhau rồi cùng đi sâu vào tận bên trong cửa hàng. Osamu nhanh nhẹn bỏ chùm nho vào cái giỏ đựng đồ màu xanh gã đang cầm trên tay. Chùm nho trông có vẻ cao cấp với màu xanh đọt chuối. “Nho này có hạt nên ăn sẽ phiền phức lắm”, Osamu nói rồi chỉ ăn một quả nho hạt nhỏ màu đỏ tía. Shouta biết đó là loại nho rẻ tiền nhất, nhưng cậu không nói ra. Tuy nhiên, hôm nay không cần chú ý đến giá cả. Osamu dễ dàng bỏ hai túi nho vào trong giỏ. Từ đây, nếu tiếp tục đi thẳng sẽ đến quầy bán thực phẩm tươi sống như cá, thịt lợn... ở cuối đường, còn nếu rẽ trái sẽ đến góc bán mì ly và các loại bánh kẹo. Ở vị trí đó, như mọi khi, hai người cụng nắm đấm rồi tách nhau ra. Shouta chầm chậm rẽ trái rồi dừng lại trước một cái giá đựng bánh kẹo đã nhắm từ trước, đặt ba lô xuống dưới chân. Móc khóa hình máy bay treo trên ba lô khẽ nảy lên. Hình ảnh của một nhân viên cửa hàng phản chiếu trong chiếc gương trước mặt Shouta. Đó là một thanh niên mới được nhận vào làm bán thời gian từ tháng trước. Người thanh niên này không thành vấn đề với Shouta. Khi cậu xác nhận xong vị trí của anh ta rồi quay sang trái thì cũng vừa lúc Osamu đi vòng quanh trong cửa hàng đã quay lại. Osamu dựng ba ngón tay lên, chỉ chỗ đứng của từng nhân viên trong cửa hàng. Shouta khẽ gật đầu, sau đó chống hai bàn tay vào nhau, xoay vòng hai ngón trỏ rồi nắm tay trái lại áp lên miệng. Shouta thuận tay trái. Nghi thức này là do Osamu dạy cho, trước khi tiến hành “công việc”, cậu nhất định sẽ thực hiện nó. Shouta vẫn không rời mắt khỏi người nhân viên trong chiếc gương kia, thận trọng vươn cánh tay trái đã tự mình cầu phúc lúc nãy, với lấy thanh sô cô la. Cậu nắm chặt thanh sô cô la mà không phát ra bất kỳ tiếng động nào, ánh mắt không hề nhìn xuống, nhanh tay kéo khóa ba lô quẳng vào trong. Âm thanh nhỏ đó chìm nghỉm giữa tiếng nhạc ồn ào trong cửa hàng. Nhân viên, và tất nhiên cả khách khứa đông đúc cũng không một ai chú ý đến. Quả là một khởi đầu tốt đẹp. Shouta lại đeo ba lô lên lưng, di chuyển vị trí. Mục tiêu chính của công việc hôm nay là mì ly. Shouta dừng lại trước giá đựng mì ly kim chi heo cay mà cậu vốn rất thích, lần nữa hạ cái ba lô xuống dưới chân. Tuy nhiên, một nhân viên cửa hàng đứng trước giá hàng hóa đang chắn mất lối đi nhỏ hẹp, mãi mà không di chuyển. Đối phương là một người trung niên kỳ cựu trong nghề, khá khó đối phó. “Nếu có thể một mình đánh bại ông ta thì con sẽ trưởng thành đấy”, vì những lời này của Osamu, Shouta đã lựa chọn đỉnh điểm trong “công việc” ngày hôm nay chính là đối đầu với ông ta. Tuy nhiên, ông ta chỉ đơn giản là không để lộ sơ hở của mình cho Shouta thấy. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Trộm Cắp của tác giả Kore-eda Hirokazu.
Nghệ Thuật Chinh Phục Khách Hàng
Trong Nghệ thuật Chinh Phục Khách Hàng bậc thầy Janelle Barlow và Claus Moller đã giới thiệu một ý tưởng đột phá mang tính cách mạng: Biến những lời phàn nàn, chỉ trích thành một món quà. Thật vậy, lời phàn nàn của khách hàng là thông tin phản hồi quý báu có thể giúp các doanh nghiệp cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cấp dịch vụ, ứng xử của con người và xác định trọng tâm định hướng sản xuất, kinh doanh, thị trường một cách nhanh chóng, hiệu quả và ít tốn kém nhất. “Ấn bản đầu tiên của quyển sách đã là một viên ngọc quý. Phiên bản mới được cập nhật toàn diện này còn tuyệt vời hơn nữa. Những ví dụ mới vừa mang tính chất chỉ dẫn vừa truyền cảm hứng và thực sự hữu ích cho những người làm công tác chăm sóc khách hàng. Tôi tin rằng quyển sách sẽ gây sửng sốt cho bất cứ ai đang nghi ngờ sức mạnh từ việc lắng nghe khách hàng của mình”... *** NHỮNG LỜI KHEN NGỢI DÀNH CHO “NGHỆ THUẬT CHINH PHỤC KHÁCH HÀNG” “Barlow và Moller đã vạch ra lý do tại sao một khách hàng phàn nàn có thể trở thành tài sản quý giá nhất của công ty và hướng dẫn bạn cách giành lại khách hàng, thúc đẩy thêm giao dịch và tích lũy thêm những lời chứng thực thuận lợi. Nếu thành công trong kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với bạn, bạn cần phải đọc quyển sách này!” Ron Kaufman, Tác giả và nhà sáng lập trường UP Your Service! “Đối với những công ty đang dành ngày càng nhiều tiền vào việc nghiên cứu kỳ vọng của khách hàng, quyển sách này là một làn gió mới mẻ. Quyển sách cũng có thể được đặt tên là: Biến những cảm xúc thông thường thành lợi nhuận.” Paul Clark, Tổng giám đốc, Country Energy, Úc “ Nghệ thuật chinh phục khách hàng cung cấp một phương tiện tuyệt vời để giải thích cách thức một công ty có thể cung cấp dịch vụ hoàn hảo và xử lý lời phàn nàn thông qua những mối quan hệ khách hàng được cải thiện, mà cuối cùng là giúp gia tăng doanh số cũng như cải thiện sự hài lòng của khách hàng.” Thom Ray, Tổng Giám đốc British Telecom “Ngày nay mọi thứ dường như quá phức tạp. Nhưng Barlow và Moller đã chọn một vấn đề gai góc và biến nó thành điều dễ hiểu, không chỉ trong thế giới kinh doanh, mà còn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tôi sẽ không bao giờ cảm thấy lời phàn nàn có tính hủy hoại nữa.” Tiến sĩ Russ Volckmann, Chủ bút và Biên tập viên, Tạp chí Integral Leadership Review “Trong ngành kinh doanh cửa hàng tiện ích, sau tốc độ giao hàng thì dịch vụ là quan trọng nhất. Quyển sách này đào sâu nghiên cứu những điều kiện cần thiết giúp hoạt động khôi phục dịch vụ diễn ra một cách nhất quán.” Lee Barnes, Chủ tịch Chuỗi Cửa hàng tiện ích Family Fare “Quyển sách này mang lại một sự chuyển đổi thái độ mang tính cảm hứng cho những nhân viên trong ngành dịch vụ, một công thức đột phá tạo ra sự khôi phục dịch vụ khi phải đối mặt với những lời phàn nàn khó khăn, và một sự cải tổ hệ thống quản lý.” Rick Brandon, đồng tác giả quyển Sự tồn tại của Tri thức “Quyển sách này xử lý việc khôi phục dịch vụ như một nghệ thuật. Bài kiểm tra thực sự của một thương hiệu vĩ đại là khả năng tận dụng cơ hội để hình thành mối quan hệ khách hàng mới. Thông qua sự pha trộn kỹ lưỡng khả năng phân tích, tính sáng tạo trong kinh doanh và các ví dụ thực tế, những trang sách này sẽ thuyết phục bạn rằng những lời phàn nàn thực sự là những món quà.” Mike English, Phó Giám đốc Trung tâm Liên lạc Khách hàng, Starwood Hotels & Resorts Worldwide Inc. “Khái niệm trong quyển sách này là một thái độ mà chúng tôi đã áp dụng để bổ sung cho lời hứa thương hiệu của mình tại Royal Plaza ở Scotts, Singapore. Chúng tôi đã gieo mầm cho sự quan trọng của nó vào tất cả các nhân viên để họ thực sự biết ơn sự phản hồi của khách hàng, dù chúng thuận lợi hay bất lợi.” Patrick Garcia Fiat, Tổng giám đốc, Royal Plaza, Scotts, Singapore “Quyển sách này rất sâu sắc. Nó trở lại với những nền tảng cơ bản đang thúc đẩy ngành của chúng tôi. Các tác giả đưa bạn đi qua quá trình từ lúc đề cập đến một trải nghiệm không hay của khách hàng đến lúc biến vị khách đó thành một khách hàng trung thành. Tựa đề quyển sách này không thể đúng hơn được nữa.” Rich Hicks, Giám đốc Nhà hàng Tin Star “Chúng tôi sở hữu một trong những địa điểm hùng vĩ nhất trên thế giới: cầu bộ hành trên không (Sky Walk) ở Grand Canyon West. Và chúng tôi vẫn nhận được những lời phàn nàn. Quyển sách này có thể giúp bất kỳ tổ chức nào đạt được những mục tiêu trải nghiệm của khách hàng. Khái niệm này có tác dụng rất tốt ở nhiều nền văn hóa khác nhau. Ngày nay, điều này trở nên rất quan trọng nhằm tạo nên một đặc trưng thực sự mang tính quốc tế trong dịch vụ mang lại trải nghiệm cho khách hàng.” Waylon Honga, Giám đốc điều hành, Grand Canyon West “Quyển sách này dành cho bất cứ nhà quản lý nào hiểu được rằng những khách hàng thực sự thỏa mãn sẽ mang lại những cơ hội tốt nhất để kiếm thêm nhiều khách hàng khác. Nghệ thuật chinh phục khách hàng là một công cụ mạnh mẽ cần được chia sẻ cho mọi nhân viên trong toàn công ty.” Andy Jorishie, Phó Chủ tịch The Zimmerman Agency “Quyển sách này là một tác phẩm nghệ thuật. Tôi sẽ giới thiệu cho bất cứ ai đang tìm kiếm sự hoàn hảo và học hỏi về hoạt động chăm sóc khách hàng nói chung và xử lý phàn nàn nói riêng.” Omran Al Shansi, Giám đốc Xử lý Phàn nàn, Emirates Telecommunications Corp. “Đây là một quyển sách kỳ diệu với những công cụ và kỹ thuật thực tiễn nhằm đảm bảo tạo ra những trải nghiệm thú vị cho khách hàng và giải quyết tốt ngay cả những lời phàn nàn mang tính thách thức nhất từ phía họ. Nó bao gồm rất nhiều gợi ý nhằm cung cấp dịch vụ khách hàng hoàn hảo ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất. Những công cụ này thực sự có hiệu quả, mang tính thực tiễn.” Michael Krumpak, cựu Giám đốc Tiểu ban Đào tạo và Phát triển, Hạ viện Mỹ “Khái niệm ‘Lời Phàn nàn là một Món quà’ chỉ ra sự khác biệt mang tính dài hạn. Chúng tôi tin rằng, là một mạng lưới các ngân hàng, chúng tôi có thể sửa chữa một số lượng lớn các sai sót của chúng tôi từ phản hồi của khách hàng. Chắc chắn chúng tôi sẽ trở nên độc đáo hơn trong cách thức phục vụ khách hàng. Quản lý phàn nàn là một yếu tố then chốt trong chiến lược kinh doanh của chúng tôi.” Andrey Litvinov, Phó Chủ tịch, Life Financial Group, Nga “Thật thú vị khi cuối cùng chủ đề ‘phàn nàn’ cũng được đề cập và thảo luận sâu sắc. Hoạt động kinh doanh của chúng tôi, vốn được dựa trên việc xây dựng quan hệ, đã nhận được lợi ích rất lớn từ những kiến thức sâu sắc được cung cấp trong quyển .” Cliff Miller, Chủ sở hữu M. J. Christensen Diamonds “Triết lý ‘Lời Phàn nàn là một Món quà’ đã mang lại quyền lực cho những nhân viên tiếp xúc khách hàng của chúng tôi trong việc cải thiện và cũng cố quan hệ với khách hàng. Phương pháp tiếp cận bằng sự giao tiếp độc đáo này đối với những dịch vụ sai sót rất có ích cho tổ chức chúng tôi, giúp xây dựng những nhóm nhân viên mạnh hơn và hiệu quả làm việc cao hơn.” Peta Peter, Giám đốc Giáo dục và Đào tạo, Amway Úc và New Zealand. “Quyển sách này là một thành phần vô giá trong bộ công cụ của chúng tôi nhằm tạo ra nền văn hóa dịch vụ khách hàng khác biệt. Nó tập trung vào việc tiếp nhận những lời phàn nàn của khách hàng để tinh chỉnh dịch vụ và thu phục khách hàng trở lại, thay vì xem những lời phàn nàn là những điều tồi tệ cần né tránh.” Muriel Roake, Giám đốc Phát triển Thương hiệu và Tổ chức, Air New Zealand “Tôi luôn là người ủng hộ triết lý xem phàn nàn là quà tặng của Janelle và Claus trong lĩnh vực này nhiều năm qua. Các kênh giao tiếp và sự thông suốt của cách tiếp nhận lời phàn nàn, thông qua blog và phòng chat trực tuyến, đã tạo điều kiện cho cả những nhu cầu thiết yếu hơn trong việc xử lý sự phàn nàn một cách hiệu quả và nhanh chóng.” Nigel Roberts, Phó Chủ tịch Điều hành, The Langham Hotels & Resorts “Dịch vụ khách hàng là một nghịch lý: một doanh nghiệp càng có nhiều sự tương tác với khách hàng, họ càng nhận được nhiều phản hồi ‘tiêu cực’, nhưng đồng thời cũng có nhiều cơ hội để tạo ra những điều ‘tích cực’. Nhiều yếu tố trong quyển đã được Boyd Gaming sử dụng và tỏ ra hữu ích khi chúng tôi tiếp tục xây dựng khả năng cung cấp và giám sát dịch vụ khách hàng cũng như các chương trình phản hồi chủ động.” Brian Shultz, Phó Chủ tịch Tiếp thị, Midwest and South Region, Boyd Gaming Corp. “Đây là một quyển sách về lĩnh vực tâm lý – tâm lý của những khách hàng vẫn còn quan tâm để phàn nàn, tâm lý của những tổ chức có đủ tự tin để tiếp nhận lời phàn nàn và xử lý chúng, và tâm lý của những người trong tổ chức cũng như mức độ tự tin khác nhau trong việc xử lý phàn nàn.” Sanjay Tiwari, Giám đốc Kinh doanh và Dịch vụ Khách hàng, KLM Cargo USA “Nếu bạn muốn biết điều gì thực sự có hiệu quả trong việc quản lý lời phàn nàn, hãy nghiên cứu quyển sách này. Nó bao gồm những ví dụ thực tiễn và những tư duy mới nhất về chủ đề này. Thật hiếm khi có thể tìm thấy một quyển sách như vậy dành cho những người liên quan đến hoạt động xử lý những khách hàng phàn nàn và rút tỉa tốt những nghiên cứu học thuật có giá trị.” Jochen Wirtz, Giáo sư, Đại học quốc gia Singapore, đồng tác giả quyển Tiếp thị Dịch vụ: Con người, Công nghệ, Chiến lược “Phương pháp tiếp cận mới mẻ này đối với sự khôi phục dịch vụ và lòng trung thành của khách hàng đã trở thành một phần trong những từ ngữ thường dùng trong văn phòng Butterfield Bank. Janelle và Claus cung cấp nguồn thực phẩm cho ý tưởng, những ví dụ có thể giảng dạy và giải trí, những hướng dẫn dễ sử dụng nhằm đưa triết lý của họ vào thực tế.” Lori Baker-Lloyd, Phó Chủ tịch phụ trách Phát triển Tổ chức và Nguồn Nhân lực, Ngân hàng N. T. Butterfield & Son, Bermuda Xin dành tặng quyển sách này cho Khổng Tử, người đã thông thái chỉ ra rằng: “Người phạm lỗi mà không biết sửa lỗi là phạm lỗi thêm một lần nữa”. Khổng Tử không biết về lời phàn nàn của những khách hàng hôm nay, nhưng ông đã lý giải một cách thật dễ hiểu rằng tại sao những khách hàng phàn nàn lại là người tặng quà cho ta. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Chinh Phục Khách Hàng của tác giả Janelle Barlow & Claus Møller.
Người Mẹ Trinh Trắng
Họ là 3 người bạn gái chơi rất thân với nhau, có những hoài bão, có những ước mơ, đáng lẽ họ sẽ có được một tương lai tốt đẹp như bao nhiêu cô gái bình thường khác. Nhưng...một biến cố xảy đến và họ đã rẽ những ngã rẽ khác nhau. Mỗi người một số phận riêng, một cuộc sống riêng, chỉ có một điểm chung là chẳng ai có thể trở về nơi bắt đầu ... *** Đứa con trai nhỏ mới lên 3 tuổi của tôi từ bên ngoài chạy thẳng vào trong bếp ôm chặt chân tôi. Thằng bé ngước cái mặt nhỏ đẫm nước mắt lên nhìn tôi, giọng nói ngọng nghịu: “Mẹ! Bo bị ngã”. Tôi vội vàng tắt bếp gas, đặt đôi đũa sang một bên, ngồi xổm xuống ôm lấy thằng bé, xót xa hỏi: “Làm sao con bị ngã? Có phải lại chạy theo anh Thắng đá bóng không?”. Thằng bé phụng phịu, nó ra sức lắc đầu: “Không phải Bo chạy theo anh Thắng đâu, mẹ không được mắng Bo.” “Ừ, mẹ không mắng Bo” tôi vỗ mấy cái vào mông nó. “Thế làm sao con ngã?” “Anh Thắng đá bóng vào người con, con ngã.” Thằng bé dùng bàn tay nhỏ quẹt ngang nước mắt trên cái má hồng hồng, tỏ vẻ ấm ức lắm. Điệu bộ đó làm tôi suýt bật cười nhưng vẫn cố nghiêm giọng: “Con không chạy theo anh Thằng thì làm sao anh Thắng đá bóng vào người con được?” Nghe tôi nói thế thì nó khóc òa lên. Tôi phủi hết đất cát bám trên quần áo thằng bé rồi ôm nó vào nhà tắm. “Ngoan! Bo là con trai, không được khóc nhè. Lần sau mà còn chạy theo các anh lớn đi đá bóng là mẹ phạt nghe chưa?” Thằng bé nấc lên một cái, gật gật đầu. Nó rất sợ bị tôi phát hiện ra đi chơi đá bóng với mấy thằng bé lớn hơn trong làng. Con trai tôi rất kỳ lạ, nó không chịu chơi với mấy đứa cùng tuổi mà rất thích chơi với mấy đứa lớn hơn, cũng có thể vì từ lúc nó còn bé xíu thì mấy đứa trẻ trong làng đã hay lôi tha nó đi cùng nên thành quen. Con trai tôi tên thật là Thành Đạt, nó là đứa trẻ rất đáng yêu, thân hình nhỏ tròn xinh, đôi mắt to đen láy lanh lợi, hai cái má mũm mĩm trắng hồng, lại được cái hay cười, khóc chút là quên ngay. Mặc dù ai cũng bảo con trai tôi không có nét giống tôi mấy nhưng tôi chẳng quan tâm, tôi chỉ mỉm cười tự hào, thơm lên cái má búng ra sữa của nó và bảo: “Dù sao nó vẫn là con trai tôi.” Mãi mãi là con trai tôi. Tôi chính là một bà mẹ đơn thân, nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy mặc cảm hay tủi thân. Ngày tôi ôm Bo trở về nhà gặp bố mẹ và nói nó là con trai tôi, bố mẹ tôi đau khổ khóc lóc, thậm chí là muốn đuổi hai mẹ con tôi ra khỏi nhà vì xấu hổ với làng xóm, họ hàng. Tôi cắn răng chịu đựng tất cả những lời trách móc, những ánh mắt khinh bỉ coi thường, những lời dị nghị của hàng xóm xung quanh. Tôi không trách bất kỳ ai, họ có quyền như vậy, không chồng mà có con, là lỗi tại tôi, tôi bất hiếu. Bố mẹ tôi cũng nhiều lần gặng hỏi về cha đứa bé nhưng tôi thà bị mắng thậm tệ chứ quyết không hé răng nửa lời. Lúc ấy, nghị lực duy nhất giúp tôi vượt qua tất cả chính là đứa con trai nhỏ, dù có chuyện gì đi nữa tôi cũng phải nuôi con trai tôi. Và cuối cùng tôi đã thắng, bố mẹ tôi đành đầu hàng trước sự gan lỳ của tôi. Mẹ tôi bảo: “Con dại thì cái mang” nên mẹ đã bao dung cho tôi, dang tay đón nhận đứa cháu ngoại không mong muốn. Gia đình tôi cũng chẳng phải dư giả gì, bố tôi làm việc trong nhà máy lương không được bao nhiêu, mẹ tôi ở nhà làm nông, chỉ đủ tiền nuôi hai chị em tôi ăn học. Cũng may là còn một mảnh đất ông cha để lại nên bố mẹ tôi đồng ý cho hai mẹ con tôi ra ở đó, tự kiếm sống nuôi nhau. Tôi cũng đã hoàn thanh chương trình cao đẳng Y Tế nên thuận tiện xin vào làm trong bệnh viện huyện, lương đủ nuôi sống hai mẹ con. Chớp mắt một cái đã 3 năm, thời gian khó khăn nhất cũng đã qua, họ hàng làng xóm cũng đã chấp nhận mẹ con tôi. Ai cũng yêu quý Bo, khen nó vừa xinh vừa ngoan. Nhiều người con bảo tôi trông không giống phụ nữ đã có con, vẫn còn y như thời con gái, chẳng thay đổi gì. Cũng có người mai mối cho tôi, có cả mẹ tôi, bà muốn tôi lấy chồng để có chỗ dựa sau này, bớt vất vả khi nuôi con một mình nhưng tôi cứ lẩn tránh. Làm sao tôi biết được những người đàn ông đó có thật sự tốt với con trai tôi không, tôi không muốn vì tôi mà thằng bé phải sống theo sắc mặt người khác. Dù sao thì cuộc sống của mẹ con tôi cũng rất tốt, không thiếu thốn gì, cho nên không nhất thiết phải dựa dẫm vào một người đàn ông xa lạ nào đó. Vật lộn với Bo trong nhà tắm ra, người tôi cũng ướt sũng. Thằng bé cười nắc nẻ chạy vòng vòng quanh nhà đùa nghịch để tôi phải đuổi theo sau bắt nó mặc quần áo. “Bo! Đứng lại mặc quần áo đã. Xấu hổ quá đi thôi.” Tôi túm lấy nó kéo lại làm nó cười giòn tan. Thằng Thắng, con nhà anh Huy bên cạnh chạy vào sân nhà tôi gọi to: “Cô Vân ơi! Thằng Bo bị ngã có sao không cô? Tại nó cứ đứng gần chỗ bọn cháu nên mới bị ngã.” Tôi cười, chắc thằng bé sợ tôi trách nên mới sang báo cáo tình hình. Thắng mới học lớp 4, trẻ con nghịch ngợm làm chuyện thường, tôi không quan trọng truyện đó. Vừa mặc áo cho Bo, tôi vừa nói vọng ra: “Em Bo không sao. Lần sau nó còn chạy theo thì Thắng về mách cô nhé!” Con trai tôi thấy Thắng sang thì hớn hở gọi to: “Anh Thắng!” Nó định chạy ra ngoài nhưng tôi đã nhanh tay kéo ngay lại, cau mày nghiêm khắc: “Đến giờ ăn cơm rồi, con biết chưa?” Thắng chào tôi một tiếng rồi chạy về nhà, còn thằng nhóc của tôi thì chạy lon ton vào trong bàn, nhón chân trèo lên ghế, xếp chân ngồi nghiêm chỉnh, mặt ỉu xìu. Tôi chỉ tủm tỉm cười rồi đi vào bếp dọn cơm. Không phải con trai tôi đói hay nó thích ăn cơm gì đâu, nó cũng nghịch ngợm, lười ăn như bao đứa trẻ khác, nhưng sau không biết bao nhiêu lần dọa dẫm, có khi là cả đánh đòn nó mới chịu ngồi im cho tôi đút hết bát cơm đầy.   Mời các bạn đón đọc Người Mẹ Trinh Trắng của tác giả Poulp.