Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khu Trại Trong Thảo Nguyên

Bộ tiểu thuyết Sóng Hắc Hải - Valentin Kataev gồm 4 phần: Phần 1: Cánh buồm trắng cô độc Phần 2: Khu trại trong thảo nguyên Phần 3: Gió mùa đông Phần 4: Đường hầm Ô đét xa   KHU TRẠI TRONG THẢO NGUYÊN trong bộ bốn tập - “SÓNG HẮC HẢI” Năm 1910, trên báo “Người đưa tin Ôđexxa” - xuất hiện bài thơ đầu tiên của cậu bé Valia1 mười bốn tuổi - bài thơ “Mùa thu”. Ở đây dường như có điều gì báo trước về một nhà văn tương lai có tâm hồn thơ mộng, sớm gắn bó lòng mình với thiên nhiên. Bài thơ đầu tay là những suy tưởng trữ tình, những nét phác họa về mùa thu, về thiên nhiên Nga tươi đẹp. Mùa hè năm 1913, lần đầu tiên nếm hương vị thành quả văn chương, khi nhận được giấy mời của một tờ báo nhỏ ở Ôđexxa mời các nhà thơ trẻ tham gia câu lạc bộ văn nghệ địa phương, nhà văn tương lai ấy đã đắn đo suy nghĩ: “Liệu một học sinh trung học 16 tuổi đầu đã có thể coi mình là “trẻ”? Với dăm ba bài thơ đăng trên báo hàng ngày liệu đã có thể coi mình là “nhà thơ”?. Nhưng anh vẫn lên đường đến câu lạc bộ. Ở đây việc kết nạp hội viên phải thông qua đầu phiếu. Nhưng trong số những người đã từng đọc thơ mình ở đây chỉ có hai người được hưởng cái vinh dự lớn là được mời thẳng lên đoàn chủ tịch mà không phải bầu bán gì cả. Đó là V. Kataep và E. Bagrixki2. Khi trở thành nhà văn nổi tiếng, V. Kataep đã nhắc lại sự việc trên trong truyện ngắn “Gặp gỡ”. Cái thuở ban đầu ấy có cái gì đã kết tinh, không thể hòa tan mà sau này bạn đọc vẫn còn gặp lại trên nhiều trang sách của nhà văn, đó là nụ cười châm biếm, có khi nhân hậu, có khi cay độc như một nét riêng của miền duyên hải Ôđexxa, bắt nguồn từ quá khứ xa xưa: từ người dân chài trên bãi biển, từ anh công nhân lam lũ, từ người lính thủy can trường hay ở những em bé đồng biển với nước da đen sạm vì sóng gió Hắc hải và mặt trời phương nam. Cũng như nhiều nhà văn khác thuộc thời kỳ này, V. Kataep bước vào làng văn qua lối chiến hào bằng những bản tin và bút ký mặt trận. Tiếp theo là những ngày sôi nổi của Cách mạng. Trong những giờ phút gay go và căng thẳng, con người thường trưởng thành sớm hơn tuổi tác, nhất là nhà văn, và chính trong cơn lốc cách mạng ấy tài năng của nhiều nhà văn, trong đó có V. Kataep đã nảy nở một cách mau lẹ và vững chắc. V. Kataep đã trưởng thành trước khi ông từ giã tuổi thiếu niên. Thế nhưng đối với V. Kataep ngay cả khi tuổi niên thiếu đã qua rồi, ông vẫn còn giữ được rất lâu tâm hồn khát khao được quay lại đầm mình trong tuổi niên thiếu, và quả thực nhà văn đã trở lại sau những lần “trở về” ấy. V. Kataep là một trong những người trong khi vẫn vui vẻ tiếp nhận tuổi đời và say sưa với những công việc của “tuổi tác mình” nhưng vẫn háo hức sống với những năm tháng đã qua, có khi là những tháng năm xa xôi tưởng như chẳng mấy ai còn nhớ tới nữa - những năm tháng có khi vui tươi, đầy mơ ước háo hức, song cũng có khi buồn. Vào những năm thứ hai mươi, khi tuổi đời và tuổi nghề của nhà văn chưa có bao lăm, các nhân vật trong sáng tác của ông thường là những kẻ nhàn tản vô vị: người ta chơi cờ, chơi bài, người ta đùa với tình yêu và dỡn trong đủ mọi quan hệ. Thế nhưng ông chưa có đủ ngay lòng căm thù với những kẻ thù của nhân dân để hành động và chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng, đấu tranh với bản thân để đưa ông đến “Cái giếng thần” (1966), thì lòng căm thù trong ông mới chín muồi, mới trở nên sôi sục, và được sử dụng không đến nỗi uổng phí. Nhà văn đã thấy được mình viết cho ai và chống ai. Lúc này trong sáng tác của ông thể hiện rõ khuynh hướng bi hùng và châm biếm: “Trong thành phố bị bao vây” (1922); “Bút ký về cuộc nội chiến” (1924). Tuy nhiên người ta vẫn thấy trong sáng tác của ông phảng phất “cái thứ triết lý của anh tiểu tư sản, cái thứ triết lý của những người không muốn xây dựng lại cuộc đời, văng vẳng tiếng thở dài mệt mỏi trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo, dốt nát...”. Vào những năm 30, khi nhân dân Liên Xô náo nức hưởng ứng dự định táo bạo của Đảng CSLX: xây dựng trong thảo nguyên hoang vu “Pugatsep” một nhà máy: liên hợp luyện kim, V. Kataep đã say mê với cái nhà máy “Magnitka” tương lai ấy và viết tiểu thuyết thời sự “Thời gian ơi, tiến lên!”, tác phẩm này của ông cũng mới mẻ và táo bạo như bản thân cái công trường xây dựng kia vậy. Cuốn tiểu thuyết đã từng làm cho nhiều bạn đọc ngạc nhiên. Cuốn sách ca tụng những con người chỉ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong sự nghiệp xây dựng lại cuộc đời, đấu tranh với đói nghèo, dốt nát, những con người không biết tới khoái lạc tầm thường ngoài lao động quên mình - lao động là nhu cầu sống còn số một. Trong tiểu thuyết, lối văn châm biếm với cái giọng nhát gừng, đầy sức sống kết hợp với lối văn nhanh gọn của báo chí và ngôn ngữ đanh thép, chính xác của các quy phạm công vụ, tạo nên một lối văn phong hỗn hợp, độc đáo mà vẫn gắn bó hữu cơ - người đương thời gọi là phong cách thời đại. Trong cuốn sách đầy nhiệt tình tiến lên phía trước: lao động, lao động vượt mức kế hoạch, tiến trước thời gian! Con người ở đây hăng say lao động như một cơn lốc, cơn lốc của một điệu Vanxơ vui tươi và phấn kích... Lúc này V. Kataep cộng tác với báo “Pravda” và nhiều báo khác, ông có dịp lăn lộn trên khắp các ngả đường của đất nước, viết nhiều bài thơ cổ động phục vụ những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, cả trong thời chiến cũng như trong lúc xây dựng hòa bình. Công cuộc lao động xây dựng đất nước đã mang lại cho ông nhiều cảm nghĩ vui tươi, nụ cười của ông trở nên lạc quan và châm chọc đúng chỗ. Ông viết những vở kịch vui “Hình vuông của hình tròn”, “Một triệu nỗi khổ cực”, “Con đường hoa” - ông tiếp tục chế giễu tên tiểu tư sản; mặc dù ông đã nhiều lần đọc điếu văn bên nấm mồ của hắn, vậy mà hắn vẫn ngoan cố, thay hình đổi dạng trở về bằng đủ mọi cách. Ông biểu lộ niềm sung sướng trước thắng lợi của cuộc sống mới, trước những đổi thay ngày một tốt đẹp hơn trong nhiều quan hệ giữa người với người bằng những sáng tác kịp thời. Đến đây bỗng nhiên ta thấy thêm một đổi thay bất ngờ. Khi ông đang say sưa bám sát thời gian và sáng tác theo nhịp độ của công trường, tìm thấy ở đấy những nguồn cảm hứng không bao giờ cạn, đang tiếp tục cười nhạo báng tất cả những gì lạc lõng, sai với nhịp bước của điệu Vanxơ thời đại kia, thì bỗng nhiên cuốn tiểu thuyết “Cánh buồm trắng cô độc” (1936) xuất hiện như một hành trình đường đột, bí mật quay lại thời thơ ấu xa xưa tưởng như đã lu mờ sau khói bụi của công trường và nhà máy - thời gian. Uống nước nhớ nguồn. Cái hôm nay đã bắt đầu từ đâu và bắt đầu như thế nào?! Ông quay lại quá khứ không phải “đơn giản” như người ta tưởng, và sự ra đời của cuốn “Cánh buồm trắng cô độc” cũng không phải là một “bỗng nhiên”, vì một nhà văn nghiêm khắc viết về quá khứ không thể là “bỗng nhiên”. Cuộc sống của ông diễn ra theo hai chiều đối nhau: chạy nhanh lên phía trước sánh bước với thời gian và đồng thời quay lại suy tư về những cái đã qua, đó quả là một quá trình lao động gian khổ: thu thập tư liệu, xác định tâm trạng - cái quyết định sắc thái của cuốn sách. Chính V. Kataep đã xác nhận rằng từ lâu ông vẫn hằng mong ước được hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình: - Năm 1905, một ngày tháng sáu oi bức. Trên kè đá bờ biển Ôđexxa chật ních người. Bầu không khí trầm lặng đầy vẻ lo âu, rùng rợn. Một chú bé tám tuổi, trố mắt ra vì kinh ngạc, cố lách mình qua đám đông, len lỏi đến tận hàng rào sắt. Chú bé nhìn thấy chiếc chiến hạm ba ống khói “Pôchômkin” với lá cờ đỏ tung bay trong gió đã nổi dậy và giờ đây đang tiến gần về phía bờ biển Ôđexxa, Và ông kể lại rằng: “Cả thành phố vui mừng chào đón tin nổi dậy của chiến hạm. Và từ giờ phút ấy trong tôi bắt đầu nhen nhóm một ý thức. - Hình ảnh kỳ diệu của con tầu “nổi loạn” cứ bám riết theo nhà văn trên mọi nẻo đường sáng tạo của ông. Nhưng thời thơ ấu ấy không phải chỉ là sự hồi tưởng cá nhân đầy xúc động, mà còn là một giai đoạn lịch sử đẫm máu. Về cái bi tráng của tháng năm này ông đã viết truyện ngắn “Rôđiôn Giukốp” (1926). Rôđiôn Giukốp là một trong 700 thủy thủ của chiến hạm “nổi loạn” “Pôchômkin” đã đổ bộ lên bờ biển Rumani. Sau đó họ tản đi khắp thế giới và không mấy ai biết đến số phận của họ ra sao nữa. Nhưng Rôđiôn Giukốp là một người không thể sống xa tổ quốc, biết là nguy hiểm anh vẫn tìm cách trở về. Anh đã trở về và sau nhiều ngày đêm lang thang trong thảo nguyên Ukrain: ốm yếu, đói khát với tâm trạng phấp phỏng lo âu, anh dốc nốt đồng 50 kôpếch cuối cùng để mua tấm vé tầu trở về Ôđexxa, nhưng anh đã bị bắt ngay trên bến cảng. Truyện được tả lại bằng lối văn thích hợp với đề tài, không cường điệu và phô trương. Nhưng trong, đó dường như vẫn vấn vương một điều gì chưa giải quyết xong, nó tựa hồ như một hạt giống nếu gặp môi trường ắt sẽ nảy sinh. Vào những năm 20, rõ ràng nhà văn không hề nghĩ tới cuộc đời thứ hai của Rôđiôn Giukốp, ông cho rằng nói thế là đủ rồi. Nhưng khi ông có ý định quay về với thời thơ ấu, trở lại năm 1905 thì những cái tưởng đã phai mờ lại sống lại trong ký ức của ông dưới một nhãn quan khác, tinh tường hơn, trong đó có Rôđiôn Giukốp. Khi ông viết “Cánh buồm trắng cô độc” kể về những người bạn ấu thơ giãi dầu trong sóng gió Hắc hải và cháy sạm dưới mặt trời phương nam, thì cái chất bi tráng của câu chuyện mà ông đã viết về Giukốp không thật thích hợp với sắc diện của cuốn sách nữa. Nhưng Giukốp vẫn trở lại, anh trở thành cái cầu để đưa Pêchya và Gavrik đến với cuộc cách mạng đang sinh sôi và phát triển. Trong bộ bốn tập “Sóng Hắc hải”, tuy là nhân vật quan trọng, song Rôđiôn Giukốp vẫn chỉ đứng ở bình diện thứ hai. Từ câu chuyện cũ, chỉ vài ba tình tiết được chọn lọc dựa vào bộ tiểu thuyết bốn tập này, Giukốp con người thực đã nhường chỗ cho Giukốp tượng trưng và Giukốp biểu tượng cho bối cảnh đấu tranh cách mạng đầy nguy hiểm của thời kỳ bí mật. Đối với trẻ em, nhất là đối với cậu học sinh hay mơ mộng Pêchya Batsây, thế giới này đầy những bí ẩn hấp dẫn: những nhiệm vụ bí mật, những cuộc gặp gỡ đáng ngờ văng vẳng những câu nói nghe lạ tai... Ở đây tính lãng mạn nhiều màu sắc vốn có của biển khơi được nâng lên thành tính lãng mạn mộc mạc, kín đáo của cuộc cách mạng. Sự kết hợp hài hòa ấy đã làm cho câu chuyện vừa êm ái, thơ mộng vừa có cái không khí oi nồng, tức tối của lúc trời sắp nổi cơn giông. Ở đây không còn thấy cái nhịp điệu hối hả, dồn dập của bao sự kiện trong tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!”, không còn cái sắc thái bông đùa riễu cợt của những truyện ngắn thuở xưa. Ở đây đã hình thành một phong cách mới - một lối văn xuôi điềm tĩnh, trầm mặc với những sắc thái muôn hình muôn vẻ, một lối viết súc tích cổ điển, chú ý nhiều đến những chi tiết tưởng như vụn vặt, chẳng có gì quan trọng, nhưng lại là chất liệu tạo ra nội dung mềm mại của câu chuyện. Đó là những tình tiết hết sức thông thường và đồng thời cũng rất bất ngờ. Biển ở đây cũng sống một cuộc sống gắn bó với các nhân vật nhỏ bé và với những sự kiện vĩ đại. “Khi thì biển yên tĩnh, xanh biếc màu da trời, đôi chỗ có những dải nước lặng, trăng trắng như những con đường nhỏ. Khi thì nó rực lên một màu xanh lơ bừng chói lấp lánh. Khi thì nó dập dờn như những đàn cừu tung tăng đùa dỡn. Khi thì một làn gió mát thoảng qua, làm nó bỗng nhiên ngả sang màu chàm xẫm và xù lên như lông cừu bị vuốt ngược. Khi thì bão ập tới, biển thay hình đổi dạng nom đến đáng sợ. Một trận cuồng phong rồ lên một đợt sóng lớn. Trên bầu trời màu than chì, những con hải âu vừa bay vừa kêu la ầm ĩ. Những làn sóng hung cuồn cuộn đi và quăng quật dọc bờ biển một cái xác cá heo bóng nhẫy. Phía trên nhưng đám mây nâu của cơn bão biển, chân trời màu lá mạ sáng chói dựng lên như một bức tường lởm chởm. Những con sóng nhào đầy bọt hệt như tấm đá khổng tước chằng chịt những đường vân rộng trắng xóa, đâm xô vào bờ, vỡ tan ra, làm dội lên những tiếng ầm ầm như tiếng súng đại bác. Tiếng dội âm vang ngân lên trong bầu không khí đầy tiếng động inh tai. Bụi nước bắn lên, tạo thành một làn sương mù mỏng mảnh, rủ xuống như một tấm sa mỏng phơ phất trên suốt chiều cao đồ sộ của những bờ dốc đang rung chuyển. Nhưng vẻ mê hoặc chủ yếu của biển là trong khoảng không bao la của nó bao giờ cũng giữ kín một điều gì bí mật. Ánh lân quang của biển chẳng phải là điều bí mật sao, khi mà trong một đêm tháng sáu không trăng, bàn tay ta dúng xuống làn nước ấm đen sì bỗng sáng rực lên, lấp lánh những tia sáng xanh. Hay những đốm lửa chuyển động của những con tàu vô hình và những luồng sáng nhợt nhạt, bừng lên một cách chậm chạp của ngọn hải đăng chưa từng biết? Hay số hạt cát mà trí tuệ con người không thể nào đếm xuể? Cuối cùng là hình ảnh kỳ ảo của chiếc thiết giáp hạm nổi loạn có lần đã xuất hiện ở ngoài khơi xa tắp, chẳng phải là một điều hoàn toàn bí ẩn sao?” Đọc những đoạn văn trên đây ta có cảm tưởng rằng đó không thể là ký ức của nghệ sĩ dù là một nghệ sĩ từng trải và có tài, mà phải là cặp mắt trong sáng và tinh tường của một đứa bé mẫn cảm mới chộp nổi. Ngay từ những dòng đầu của tập I, “Sóng Hắc hải” đã được viết theo một phong cách khác hẳn, tạo nên một tâm trạng khác tất cả những gì ông đã viết, nhất là tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!” Lối văn mô tả chậm rãi, dẫn dắt người đọc đi vào suy tư và hồi tưởng, trong đó hứa hẹn một cái gì chân xác và trữ tình. Chất thơ thấm vào các trang sách và tô điểm cho chúng bằng những màu sắc êm ái, làm cho chúng trở nên hấp dẫn và độc đáo: lúc vui, lúc buồn nhưng bao giờ cũng là sự chân xác lãng mạn. Trong hành động của hai đứa trẻ Pêchya và Gavrik tính tự nhiên không phải chỉ do logic nội tâm mà còn do cả logic cuộc sống riêng của chúng tạo nên: mỗi đứa một vẻ. Song đó cũng là cái logic, và tâm lý thông thường: trẻ con ở tuổi đó thường muốn bứt mình ra khỏi người lớn, muốn sống một cuộc sống độc lập, nhất là trong những hành động hấp dẫn của trẻ con, không muốn cái khôn ngoan chán ngắt của người lớn can thiệp vào. Càng nguy hiểm càng hấp dẫn, càng là việc làm vô cùng thích thú. Bí mật là cái gì đè nặng lên con tim đến ngạt thở, nhưng ngọt ngào xiết bao, cái hương vị của khám phá. Do đó chúng đã bị lôi cuốn vào cuộc cách mạng như tham gia vào một trò chơi thích thú đang tiếp diễn ở giai đoạn gay go, căng thẳng. Bị thua trắng tay trong cuộc chơi uski, Pêchya trở thành “nô lệ” của Gavrik và nó phải theo “hầu” ông chủ, tha cái túi nặng đầy tài sản uski lang thang khắp thành phố giữa lúc hỗn mang, chui rúc qua các ngõ hẻm heo hút và rùng rợn. Thoạt tiên Pêchya không biết cái túi nó mang trên lưng là đạn và việc luồn lánh qua các ngõ ngách kia là làm nhiệm vụ tiếp vận đạn dược cho những người khởi nghĩa đang chống cự với cảnh sát và quân lính chính phủ. Nhưng khi đã vỡ lẽ, nó lại hồ hởi tiếp nhận thêm nhiệm vụ mới. Bây giờ cố nhiên thằng bé đã hiểu rõ nó mang thứ uski gì. Giá vào lúc khác thì có lẽ nó đã vứt tuốt và chạy về nhà. Nhưng hôm ấy, mê say với cái công việc nguy hiểm nhưng hấp dẫn này; niềm mê say còn mãnh liệt gấp trăm lần những lúc ham chơi, nó nhất định không chịu bỏ bạn một mình. Nhưng ngay trong trường hợp này tác giả cũng không quên tuổi đời của nhân vật, tính hiếu danh trẻ con vốn có của lứa tuổi đó. “Hơn nữa, - nhà văn viết thêm, - nó không thể từ bỏ cái vinh quang của Gavrik. Chỉ riêng một ý nghĩ rằng sau này nó sẽ không có quyền kể lại những chuyện mạo hiểm của mình, đã lập tức buộc nó phải coi thường nguy hiểm”. Ở đây bộc lộ cái năng khiếu quan sát tinh tường của nhà văn: ông thận trọng quan sát, không bỏ sót một chi tiết nhỏ để nhận ra những tính chất mới, quan điểm mới đang hình thành trong tâm hồn thằng bé Pêchya, trong khi cuộc sống xung quanh hầu như vẫn bình thường. Tuổi thơ là tuổi của những tìm tòi, khám phá, và quả thực những khám phá vĩ đại đều bắt đầu ngay từ những bước đi đầu tiên, những tiếng nói đầu tiên trong đời người. Mỗi đứa trẻ đều tìm ra một châu Mỹ của mình, và tạo ra cho nó - cái châu Mỹ ấy, một cuộc sống riêng theo ý mình. Những cuốn sách về tuổi thơ là những cuốn sách về tìm tòi và khám phá cái mới - khám phá thế giới. Tuy nhiên bất kỳ một khám phá nào cũng đều xảy ra trong những giờ phút nhất định của lịch sử và trong những tình huống nhất định. Khi nhận ra cái túi nó mang trên lưng là đạn, Pêchya hiểu rõ rằng việc làm của nó và Gavrik không còn là trò chơi trẻ con nữa. Trong hai tập đầu của bộ sử thi “Cánh buồm trắng cô độc” và “Khu trại trong thảo nguyên” sự khám phá thế giới trong tâm hồn cậu bé diễn ra dưới ánh sáng của ngọn lửa cách mạng đang cháy lan ra khắp nước Nga. Thế giới hiện lên trong sự đổ vỡ khốc liệt của năm 1905. Những biểu tượng tưởng như không gì lay chuyền nổi của tuổi thơ về nước Nga, về Sa hoàng, về Thượng đế và về người bố thế là bắt đầu sụp đổ. “... Thì ra nước Nga là một nước bất hạnh, và ngoài bố ra còn có những người ưu tú nào đó đang chết mòn ở những nơi làm việc khổ sai. Thì ra Sa hoàng là thằng ngốc và một tên nát rượu, lại còn bị người ta dùng gậy tre đánh vào đầu. Ngoài ra, các bộ trưởng là những kẻ bất tài, các tướng tá là những kẻ bất tàỉ, và té ra không phải nước Nga đánh bại nước Nhật - điều mà cho đến nay không ai mảy may nghi ngờ - mà là nước Nhật đánh bại nước Nga. Và điều chủ yếu nhất là bố và bác đều nói về việc đó. Tuy nhiên, chính Pêchya cũng đã đoán được đôi điều. Trong bót cảnh sát, người ta nhốt những người hoàn toàn tử tế, không say rượu, thậm chỉ nhốt cả một ông già tuyệt diệu, mà còn đánh cả ông cụ nữa chứ.” Lưng đeo cái xắc cốt nặng, ngoan ngoãn theo Gavrik đi khắp hang cùng ngõ hẻm, lần đầu tiên Pêchya nhìn thấy cái cảnh bần cùng vừa đáng kinh sợ, vừa nên thơ của những khu phố nghèo của Ôđexxa, nhìn thấy cái tử thi có bộ mặt vàng ệch như sáp ong trong trận chiến đấu mà Pêchya có cảm tưởng như một trò chơi trẻ con. V. Kataep là một nhà văn hay viết về trẻ em và hai tập đầu của bộ bốn tập “Sóng Hắc hải” là những cuốn sách viết về niềm sung sướng đầu tiên của bản tính trẻ em và những đau khổ đầu tiên khi tiếp cận với sự thật. Trong cuộc đời của một đứa trẻ, và nhất là của một đứa trẻ mơ mộng, lãng mạn như Pêchya, thì liệu có những tấn bi kịch nào có thể so sánh được với những thất vọng đầu tiên, với việc phải đánh giá lại những giá trị đã ăn sâu trong ý niệm của nó! Cuộc sống không thương tiếc những ảo mộng. Đó là quá trình tất yếu, nhưng lại diễn ra khác nhau tùy theo môi trường của mỗi cá nhân và ảnh hưởng của lịch sử. Ở đây nhà văn phải dựng lại toàn bộ bối cảnh lịch sử và không khí xã hội của những năm ấy một cách chính xác: hoàn cảnh gia đình ông giáo Batsây, quanh cảnh đường phố Ôđexxa và tất cả những gì tạo nên môi trường vật chất và đạo đức của Pêchya. Nhưng tuổi thơ của Gavrik là căn lều nghèo nàn của ông lão đánh cá, ở đây không có chỗ cho những ước mơ và viễn tưởng rực rỡ. Viễn tưởng lãng mạn là cái cốt do môi trường của Pêchya tạo nên. Một chú bé được nuôi dưỡng trong môi trường chính trực, liêm khiết và yêu cái thiện, nó sẽ hướng về cái thiện, cái công bằng. Khi vào đời, cái sức mạnh vốn có của cái ác, mà cái ác bao giờ cũng có khuynh hướng chà đạp lên cái thiện sơ khai của con người, mới bắt đầu tác động đến con người. May mắn thay, vừa bước chân ra khỏi cửa, Pêchya đã gặp ngay Gavrik, một người bạn đường đáng tin cậy, một đứa trẻ nghèo mà tâm hồn trong sáng, ý chí thông minh, bản năng chiến đấu vượt lên trên những thiếu niên cùng lứa tuổi. Do hoàn cảnh gia đình, ngay từ tấm bé, Gavrik đã phải lăn lộn với thiên nhiên để kiếm sống và phải va chạm với đủ loại người, nó sớm trưởng thành và là một đứa trẻ tháo vát, có đầu óc thực tế. Ý thức đoàn kết và công bằng xã hội đã ăn sâu trong tâm khảm nó ngay từ tấm bé. Khi đưa Pêchya. đến tiếp xúc với những người lao động nó không quên giới thiệu: “Đây là con trai ông giáo Batsây” và “đó là một gia đình không có gì làm giàu sang, hiện đang gặp khó khăn.” Như một người lớn, chín chắn không phải do tuổi đời song Gavrik vẫn là một thủ lĩnh tí hon tinh nhanh và nghịch ngợm, nó luôn luôn tự hào với vai trò của mình trong đám trẻ con trên đường phố, nó cũng ham chơi, nhiều khi quên cả công việc. Sắc thái đó làm cho nhà văn có thể mang vào câu chuyện chút ít hài hước, làm cho “chú Gavrôs Tênarđiê của Ôđexxa” có sức cảm hóa đặc biệt. Gavrik tháo vát, đảm đang và chu đáo, Pêchya mơ mộng mà ngờ nghệch trước việc đời. Do đó trong tình bạn của chúng có cái gì thiếu bình đẳng. Những cái mà đứa con của đường phố Ôđexxa nhận thức một cách dễ dàng và chắc chắn thì đối với Pêchya - đứa con của một gia đình trí thức, một học sinh trường quốc lập, lại là một điều bí ẩn. Pêchya chỉ có mỗi một ưu thế là thầy dạy tiếng la tinh cho Gavrik. Tuy vậy Gavrik cũng không xem thường cái khôn ngoan thông thái của nhà trường. Đối với nó những kiến thức sách vở không phải là điều thích thú, nhưng nó hiểu được giá trị thực tiễn của kiến thức đó: cần học, học vẫn là điều bổ ích. Viết về tình bạn của hai đứa trẻ có cá tính khác nhau, được giáo dục trong những môi trường khác nhau, nhưng vẫn giữ được tình thân ái, ngay cả khi chúng đã khôn lớn, là một khó khăn lớn: tình bạn đó rất dễ rơi vào tình trạng gượng gạo, nhưng ở đây tác giả đã khắc phục được khó khăn ấy một cách tài tình. Cái khôn ngoan của Gavrik thường có giá trị thực tiễn hơn kiến thức sách vở của Pêchya, nhất là khi vấp phải những vấn đề không hề có trong giáo trình. Ở đây nhà văn đã giải quyết khá tốt vấn đề khác biệt giữa đôi bạn: dù ảnh hưởng của Gavrik đến Pêchya có mạnh đến mấy, dù tâm hồn của chàng thiếu niên mơ mộng và lãng mạn này có ngây thơ và trong trắng thế nào, dù Pêchya có hướng đến cái thiện, cái công bằng đến mấy thì nó vẫn là một đứa con cưng của một gia đình trí thức đang dao động; hoang mang trước thời cuộc. Mỗi đứa có một thế giới nội tâm riêng của mình. Khi nói đến gia đình Batsây, đến người chủ gia đình ấy, ngay cả khi họ đang gặp khó khăn như trong “Khu trại trong thảo nguyên”, V. Kataep vẫn tả với nụ cười vốn có của ông - nụ cười nhân từ, thấu hiểu, rộng lượng và có cái gì như ái ngại. Thực ra trong cái chất Đôngkisốt của Vaxili Pêtrôvits Batsây có cái gì vừa tức cười vừa cảm động, cũng như trong tình trạng tuyệt vọng của bà bác Tachyana Ivanôvna, khi phẫn nộ bà thốt ra một tràng những lời phỉ báng có tính chất chính trị của bà. Trong gia đình Batsây không phải tất cả bao giờ cũng rõ ràng và luôn luôn nổ ra những cuộc tranh cãi. Ở đây chủ nghĩa duy tâm không phải như một hệ thống triết học mà là một loạt những nguyên tắc sinh hoạt gọi là vô tư, trung thực, lề thói, những ý niệm cao cả về người trí thức và bổn phận, của nó. Với Vaxili Pêtrôvits hai tiếng “chính trị” cũng làm ông e ngại chứ đừng nói tới giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thế nhưng trong gia đình ông hầu như người nào cũng thấy rõ cái ranh giới xã hội đã được bàn tay vô hình vạch ra giữa những con người: “Pêchya biết rằng chính ở đây, ở phía trên, bên kia đại lộ Nicolai là cái khu phố rực sáng, ồn ào, vô cùng quyến rũ, cao sang, huyền ảo mà trong gia đình Batsây người ta thường nói đến với một vẻ vừa kính trọng, vừa khinh bỉ là “Khu trung tâm”. Dĩ nhiên là gia đình Batsây không ở “khu trung tâm”. Ở đấy là “những người giàu có”, tức là những người đặc biệt, đi tàu bay hay xe đều đi vé hạng nhất, ngày nào cũng có thể đi xem hát, và không hiểu tại sao mãi bẩy giờ tối mới ăn trưa...” Nhưng không phải vì ghen tức mà ông bất mãn, ông Vaxili Bátsây vốn có thái độ ôn hòa, bất đối kháng, lý tưởng hóa cuộc sống - cái thái độ cố hữu của trí thức Nga. Nhất là ông, một con người nhân từ, đa cảm trong giọng nói thường nhiều nước mắt hơn là sắt thép. Nhưng khi phải đi đến quyết định: chỉ cần tỏ thái độ đầu hàng hay nhượng bộ trong phút chốc thôi để giữ cho cuộc đời yên hòa và sung túc, thì trong con người ông lại bộc lộ cái thái độ cứng rắn trước mọi thứ dọa dẫm và mua chuộc vì sự thánh thiện của đạo lý và vì lòng tự trọng. Cuộc sống nghiệt ngã, những bất công và đau khổ đã mở cho tầm mắt ông nhận ra cái bản chất của thứ uy lực tối thượng mà ông đang thờ phụng. Sau lần xung đột với thượng cấp, lần đầu tiên trong đời ông hiểu: “Ở nước Nga một khi đã ra làm việc Nhà nước thì không thể làm một con người ngay thẳng, không khom lưng cúi đầu được. Chỉ có thể là một quan chức đần độn của Sa hoàng, một viên chức không có ý kiến riêng của mình, chỉ biết tuân lệnh, tức là tuân lệnh quan trên, cho dù đấy là những mệnh lệnh bất chính và tội lỗi đi nữa. Với Vaxili Pêtrôvits, điều khủng khiếp nhất là tất cả cái đó lại bắt nguồn chính từ uy lực tối thượng của người đã được thượng đế ban cho ngai vàng để cai quản nước Nga”. Những giây phút tỉnh ngộ ấy hiếm hoi và quý giá vô cùng. Nó đã hướng ông Batsây đi vào một cuộc đời mới. Khác với gia đình ông Vaxili Batsây, trong xóm Cối xay Gần, ở cái thế giới người nghèo này của Gavrik, tất cả đều được thực hiện một cách dứt khoát, nhanh chóng, chắc chắn và không khoan nhượng. Ở đây, người ta không thừa nhận những cảm lụy, suy tư và dao động, ở họ - những người lao động bao giờ cũng sẵn sàng một quyết định hành động và ai cũng biết rõ là phải thực hiện quyết định đó như thế nào. Đối với V. Kataep, thì Rôđirôn Giukốp, Terenti, Tsernoivanepko, Gavrik và những chiến hữu của họ đều là những anh hùng. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” ảnh hưởng của Gavrik đối với Pêchya quá rõ ràng và cụ thể. Nhà văn đã bám sát đôi bạn của mình lang thang đi khắp chốn: trên bãi biển, trên đường phố và chui cả vào những ngõ ngách của Ôđexxa. Đối với Gavrik thì bãi biển, đường phố, xó chợ... chỗ nào cũng thân thuộc như trong căn lều rách nát của ông nó trước đây và ngôi nhà lụp xụp của anh nó hiện nay. Việc kiếm sống đã dạy cho nó tính tháo vát, khôn khéo, đôi khi ranh mãnh và tính thận trọng, đã khơi lên lòng căm thù. Do đó thái độ của nó rất dứt khoát: một lần thôi và suốt đời. Pêchya luôn luôn khâm phục cái khôn ngoan mà bạn nó đã học được trên đường phố. Và tất cả “những gì ở nhà đối với nó đều trở nên chán ngắt và vô vị, mặc dù nó rất yêu bố và bà bác “bướng bỉnh” của nó. Khi đến xóm Cối xay Gần, ở đây cái gì đối với nó cũng mới mẻ và mỗi lúc một khác. Nhưng nó không quay lưng lại với gia đình. Ngôi nhà, bầu không khí gia đình, những ảo tưởng của bố và lòng bất mãn cao thượng của bác là một dòng tư tưởng, những câu chuyện của anh Terenti, tấm gương của Rôđiôn Giukốp, những hoạt động của Gavrik lại là một dòng khác. Và hai dòng tư tưởng đó thoạt nhìn mới trái ngược làm sao. Trong cả bộ sử thi “Sóng Hắc hải” Pêchya luôn luôn là điểm xoáy của các luồng gió từ bốn phương thổi tới. Cuộc đời Pêchya: tham gia cách mạng, tham gia nội chiến và sau này tham gia cuộc chiến tranh yêu nước luôn luôn là sự tiếp diễn và phát triển của điểm giao lưu của các luồng tư tưởng đó. * * *       “Khu trại trong thảo nguyên” là tập thứ hai của bộ “Sóng Hắc hải” đã được mở đầu bằng cuốn tiểu thuyết mang cái tên thơ mộng “Cánh buồm trắng cô độc”, bắt nguồn từ chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tô điểm cho những bước đi ban đầu ít nhiều có suy nghĩ của nhân vật trung tâm là Pêchya Batsây và tình bạn của nó với Gavrik Tsornôivanenko. Trong “Khu trại trong thảo nguyên”, vẫn thông qua cuộc sống của hai gia đình ông giáo Batsây và anh công nhân Tsornôivanenko mà tiêu biểu vẫn là Pêchya và Gavrik. V. Kataep tái hiện lại một cách chi tiết cuộc sống của Ôđexxa, của nước Nga và phong trào cách mạng Nga vào những năm 1910 - 1915, cũng như phong trào dân chủ trên quy mô thế giới, thông qua chuyến du lịch của ba bố con Batsây qua một số nước. Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905, chính phủ Nga hoàng tăng cường đàn áp phong trào công nhân và truy lùng những người hoạt động cách mạng, Đảng rút vào hoạt động bí mật, đồng thời kết hợp với hoạt động công khai: sự ra đời của tờ báo “Sự thật” và việc chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào viện Đuma. Chính việc kết hợp giữa hoạt động hợp pháp với hoạt động bí mật là nét đặc trưng của giai đoạn cách mạng này giai đoạn chuẩn bị điều kiện cho một cuộc cách mạng mới, - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong những chương đầu của “Khu trại trong thảo nguyên”, vốn là một người trí thức Nga trung trực, một con chiên ngoan đạo, một người yêu nước theo kiểu thánh đường và hết mực tin yêu Sa hoàng, ông giáo Batsây ra sức bảo vệ nhà thờ và nhà nước với tấm lòng chân thiện của một nhà sư phạm mẫu mực. Ông làm ngơ trước mọi hoạt động của những người cách mạng, tuy không chống đối nhưng cương quyết không tham gia và cũng không để họ lợi dụng mình vào mục đích “chính trị” của họ. Hai chữ chính trị bao giờ cũng làm ông bối rối, ông xa lánh nó như người ta xa lánh những kẻ nhiễu sự. Ông không muốn ai quấy rầy cuộc sống “lương thiện” và yên hòa của gia đình ông. Nhưng sự thật đã không như ông tưởng! Trước cái tang lớn của nước Nga - nhà văn vĩ đại Lep Tônxtôi từ trần, ông đã đọc bài diễn văn tưởng niệm - “Mặt trời của nước Nga đã tắt” trước học sinh. Nhưng việc làm trung thực của ông lại trái với “nghĩa vụ” của người viên chức nhà nước, lại là hoạt động chống đối chính phủ. Giữa L. Tônxtôi và nhà nước thì chân lý ở đâu? Một câu hỏi hiện lên và niềm tin của ông bắt đầu lung lay. Còn nhà thờ ư? Sau lần tiếp xúc với lão linh mục đại diện cho nhà thờ ở nghĩa trang, bên nấm mồ của vợ ông, ông thấy rõ đó chẳng qua cũng chỉ là trò xảo trá! Và niềm tin của ông tiêu tan. Sau câu nói “kháng cự” đầy công phẫn: “Ngài làm nhục tôi!” ông bắt buộc phải thôi việc. Sau lần tống cổ tên hối lộ Blagienxki ra khỏi nhà, ông trở nên thất nghiệp và lần này thì vô phương cứu chữa. Ông hiểu ra rằng chẳng qua mình chỉ là một “tên nô lệ”. Tiếng ấy đúng nhất. “Thoạt đầu tôi là tên nô lệ của Bộ giáo dục nhân dân mà đại diện là Xmôlianinôp, đốc học ty giáo dục và y đã đuổi tôi như đuổi một con chó, bởi vì tôi đã cả gan có ý kiến riêng về Tônxtôi. Sau đó tôi trở thành nô lệ của Faigơ, kẻ cải đạo và là kẻ đầu óc thô thiển, y cùng đuổi tôi như đuổi con chó, bởi vì lương tâm tôi không cho phép tôi ghi điểm ba cho Blagienxki, một tên dốt đặc và ba hoa, trong khi người ta muốn tôi cho hắn điểm ba chỉ vì một lý do duy nhất hắn là con trai một nhà triệu phú. Tôi muốn nhổ toẹt vào mặt cả Xmôlianinôp lẫn Faigơ, và đồng thời phỉ nhổ cả toàn bộ chính phủ Nga! Và nếu ở nước Nga ta không thể không làm nô lệ cho kẻ khác, thì thà tôi làm một tên nô lệ bình thường, còn hơn làm tên nô lệ trí thức. Ít ra thì tôi còn giữ được sức sống cho tâm hồn tôi...” Theo sáng kiến của bác Tachiana Ivanôvna - gia đình Batsây thuê khu trại trồng cây ăn quả trong thảo nguyên với ý định cứu sống gia đình bằng lao động của mình. Nhưng trong một xã hội mà quan hệ giữa người với người là chó sói, thì gia đình ông làm sao tránh khỏi tai họa khánh kiệt. Ở đây lại xuất hiện mụ Xtôrôgienkô, một nhân vật hắc ám, ngày xưa buôn hàng cá, đã cướp cơm của ông cháu Gavrik và bao người khác, giờ đây lại chuyển sang buôn trái cây, đang ra sức dìm giá vườn quả của gia đình Batsây với ý định cướp trắng cả vụ trái cây lẫn khu trại. Nhưng mụ đã vấp phải kẻ thù cố cựu của mình: Gavrik. “Có điều hồi xưa nó bé tí và bất lực, mụ muốn làm gì nó thì làm, nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn khác, và do bản năng mụ đánh hơi thấy nó có sức mạnh nguy hiểm chưa rõ đến mức nào”. Phải chăng đó là sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, đã đến lúc làm cho kẻ thù kiêng nể. Những cuộc tìm kiếm để xây dựng cuộc sống điền viên, những lo âu và xung đột của Vaxili Batsây rút cục cũng có cái gì giống với tính chất lãng mạn tích cực của những người trong ủy ban bí mật. Giữa ông giáo Batsây và họ có những cái giống nhau: họ có chung một kẻ thù. Trong lúc gia đình Batsây đã bó tay trước sự chèn ép của cái xã hội “cá lớn nuốt cá bé”, mọi người đã an phận chờ đợi cái tai họa phải đến, thì vào một buổi sáng đẹp trời anh em công nhân ở Xóm Cối xay Gần đã đến giúp gia đình Batsây thu hoạch vụ trái cây theo lệnh của ủy ban bí mật. Ở đây có một cái gì rất cảm động, phóng khoáng như một khúc ca đồng nội. Và để trả công, - theo nguyên tắc có đi có lại, ông giáo Batsây giảng cho anh em công nhân một số bài học phổ thông về lịch sử, địa lý, văn học... Sau cái phút tỉnh ngộ kia giờ đây đã đến lúc ông dậm chân quật vào mặt bọn cảnh sát khi chúng ập đến muốn phá rối cuộc sống điền viên của ông “Tôi yêu cầu những người lạ mặt đêm hôm không được xộc vào trang trại của tôi”. Phút tỉnh ngộ đã đưa đến bước ngoặt lớn là sự giác ngộ tư tưởng của ông. Hành động đó làm ta liên hệ tới hành động của ông cách đấy mấy năm (“Cánh buồm trắng cô độc”): chính ông đã che chở cho anh lính thủy của chiến hạm Pôchômkin là Rôđiôn Giukốp thoát khỏi sự truy nã của cảnh sát - lúc này, hành động của ông mới xuất phát từ lòng nhân từ. Về Rôđiôn Giukốp khi anh ra đi thì “Thuyền ai thấp thoáng lẻ loi cánh buồm!” (“Cánh buồm trắng cô độc”) và giờ đây anh trở về thì mặt biển nhộn nhịp những cánh buồm. Khi ra đi anh chỉ là anh lính thủy quả cảm được ông cháu Gavrik cứu sống, giờ đây anh trở về với tư cách là đại diện của Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân xã hội dân chủ. Còn ông giáo Batsây thì đứng nghe anh nói chuyện về “tình hình chính trị” một cách chăm chú đến nỗi Pêchya đi ngang qua và chạm vào người ông cũng không hay. Và trong mỗi mắt kính của ông “lấp lánh một đốm lửa nhỏ”. Chính những tình tiết này làm cho câu chuyện dịu dàng và hấp dẫn về đôi bạn tâm giao trở thành câu chuyện về sự tất yếu của cách mạng, về sự hấp dẫn tất nhiên của cách mạng đối với những tinh hoa của xã hội và của mỗi con người dù đó là cậu học sinh hay ông giáo trung học. Trong cả hai tập “Cánh buồm trắng cô độc” cũng như “Khu trại trong thảo nguyên”, thời đại được quan sát và mô tả một cách xúc động dưới con mắt của những người sống trực tiếp trong các sự kiện. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” gia đình Tsornôivanenko hầu như không có gì thay đổi, ngoài việc Gavrik bỏ nghề đi biển và sau khi đã làm đủ nghề để cuối cùng trở thành thợ sắp chữ học nghề. Việc vào nghề in của nó cũng là do yêu cầu của cách mạng. Ở đây thông qua việc mô tả sinh hoạt của gia đình Tsornôivanenko và quan hệ của Terenti để nói lên phong trào công nhân và ngư dân Ôđexxa. Trong trường học nhân dân của ông giáo Batsây, ngoài Terenti ra, còn thấy bác lính thủy già Fêđia, anh Akim Perepelitxki. Và ở đây việc xuất hiện thêm một nhân vật mới: bà quả phụ Pavlôpxkaia, làm cho trường học của ông Batsây trở thành như một nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân. Khi Rôđiôn Giukốp nhảy lên con thuyền nhỏ nhoi một mình một bóng vượt biển khơi thì Pêchya mới lên tám. Vào năm Lép Tônxtôi qua đời Chương mở đầu của “Khu trại trong thảo nguyên” Pêchya đã 13 tuổi, nó đã có những hồi tưởng. Những sự kiện rối ren nó không thể nào gỡ ra được. Trong đầu nó đã có nhiều điều đáng suy nghĩ hơn là cuộc chơi uski thua lỗ. Nhìn cảnh tượng thành phố trong những ngày có tang bỗng nhiên quá khứ trở về xâm chiếm tâm hồn nó: “bầu không khí lo âu và rùng rợn của “năm thứ năm”, Nỗi lo âu đó khi tỏ, khi mờ đã xuyên suốt cuốn tiểu thuyết thứ hai “Khu trại trong thảo nguyên”. Không gian đã mở rộng ra ngoài phạm vi Ôđexxa. Đi du lịch ra nước ngoài ba bố con ông Vaxili Batsây tiếp xúc với thế giới bao la đủ màu sắc, với nhiều dân tộc và tiếng nói khác nhau, sức tưởng tượng vô hạn và không biết mệt của tuổi thơ bừng lên trước vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ và đầy rẫy những cái bất ngờ hiện lên sau khung cửa tàu xe. Vẫn với nụ cười nhân hậu, nhưng cũng rất hóm hỉnh, tác giả mô tả tình cảm của Pêchya với cô bé người Nga mà nó vừa nhác thấy trên sân ga nước người. Tình cảm say đắm ấy nảy sinh có lẽ vì đã lâu nó chưa được gặp người bạn gái nơi quê nhà. Chúng ta đã mấy ai không có một thời muốn giấu đi “cái đuôi trẻ con” bằng cách cố làm ra vẻ mình là người lớn: từ lời ăn tiếng nói đến dáng điệu, nhất là khi tiếp xúc với bạn nữ. Những cảm giác mơ hồ nhưng vấn vương bồi hồi, khi ta đi bên bạn ở chỗ vắng người, những cảm xúc làm bật ra những ý thơ tuyệt vời mà cho đến lúc đã làm người bố ta vẫn còn thấy xốn xang mỗi khi nhớ lại. Những cảm giác thơ ngây, trong trắng ấy - vào cái thuở chuẩn bị làm người lớn ấy, ta cứ thích gọi là “tình yêu”. Có thể đó sẽ là tình yêu, nhưng không hẳn. Ở đây ta lại thấy nụ cười của V. Kataep khi ông mô tả những xúc cảm yêu đương của cậu học sinh mơ mộng Pêchya Batsây với Môchya và Mariana. Nhưng đối với cậu thiếu niên Gavrik không được học như trẻ khác vì hoàn cảnh gia đình thì lại khác. Niềm khao khát của cậu là được học. Cậu sẵn sàng bỏ những đồng Kôpếch rất khó kiếm và cũng rất cần để nuôi sống gia đình, để trả tiền học phí. Cậu cũng muốn tỏ ra mình là người lớn, nhưng khác với Pêchya, cậu muốn mình là người lớn để làm được những việc lớn hơn. Chính Gavrik đã quắc mắt tống cổ mụ Xtôrôgienko ra khỏi trang trại của ông giáo Batsây. Tuy nhiên, đối với Pêchya trong số những tình tiết dịu dàng và vui vẻ, trong cái ống kính vạn hoa các ấn tượng cứ luôn luôn thay đổi một cách nhanh chóng, qua cả một dòng ngôn ngữ xa lạ đầy huyên náo trên đường du lịch, đôi khi vẫn thoáng hiện lên nỗi lo âu mơ hồ, những phong thanh về đời sống của nước Nga xa xôi và khuất nẻo. Nỗi hốt hoảng của Pêchya khi nó bỏ quên ở tiệm cà phê chiếc mũ lính thủy mà b&a

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Pháo Đài Cấm
Chuyện kể về Billy, một cậu bé mười bốn tuổi nghịch ngợm, chán học, tò mò về sự phát triển cơ thể phụ nữ. Cậu lên kế hoạch cùng nhóm bạn thân của cậu cho “cuộc phiêu lưu” trộm tờ tạp chí Playboy tại một tiệm tạp hóa, để ngắm nhìn những bức ảnh nóng bỏng của cô người mẫu Vanna White và photo những bức ảnh đó để bán cho các bạn trong trường. Từ đó, những chuyện dở khóc dở cười xảy ra xung quanh “cuộc phiêu lưu” của cậu và nhóm bạn. Một điều trớ trêu trong “cuộc phiêu lưu” ngốc nghếch này, cậu lại phải lòng chính cô con gái ông chủ tiệm bán tờ tạp chí mà cậu có ý định lấy cắp và cũng là một “chuyên gia” trong lập trình trò chơi máy tính. Điều này khiến cậu gặp không biết bao nhiêu rắc rối, những nút thắt khó gỡ làm đảo lộn cuộc sống của cậu, nhưng cũng là lần đầu trong đời cậu hiểu được tình yêu thực sự. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh thập niên tám mươi, thời đại của chiếc máy C64 như một hồi ức mạnh mẽ trong tâm trí của Jason Rekulak. Ông kể về nó, xuyên suốt qua Pháo đài cấm theo dòng cảm xúc, suy nghĩ nội tâm và những tình cảnh éo le của Billy trước những nhập nhằng giữa cái tốt đẹp và cái xấu xa, giữa tự do và khuôn khổ, giữa sa ngã trong sự trụy lạc và sự thức tỉnh nhân tâm, giữa sự tha hóa các giá trị đạo đức và sự cố gắng cứu vãn các giá trị ấ qua tình cảm Billy dành cho cô bạn Mary như thanh sô-cô-la mùi bạc hà có vị ngọt ngào, thơm tho nồng nàn. Pháo đài cấm – cuốn tiểu thuyết của Jason Rekulak lấy cảm hứng từ lĩnh vực lập trình máy tính mang đậm những cá tính độc đáo của những đứa trẻ vị thành niên. Câu chuyện mang thông điệp rất đặc biệt về sự giáo dục con trẻ. Tất cả được thể hiện tự nhiên, trần trụi mà không kém phần tinh tế qua ngòi bút “đậm bản năng về sự tò mò tính dục” ở Jason Rekulak. Tác giả Jason Rekulak là một nhà văn người Mỹ. Ông sinh ra và lớn lên tại New Jersey. Ông làm biên tập cho dòng sách hư cấu và phi hư cấu tại Nhà xuất bản Quirk Books trong nhiều năm. Pháo đài cấm là cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông. *** Câu chuyện kể về Billy, Alf và Clark là những cậu bé mười bốn tuổi sống ở cuối thập niên 80. Khi mấy câu chàng nhìn thấy tin tức từ gameshow “The Wheel of Fortune” về hình ảnh “lộ hàng” của nữ nghệ sĩ Vanna White có trên trang bìa của tạp chí Playboy, họ đã quyết định phải có bằng được quyển tạp chí này dù ở độ tuổi của mấy cậu này thì không được phép mua loại tạp chí đó. Khi nỗ lực đầu tiên của họ trong việc mua tạp chí thất bại, họ đã nghĩ ra một kế hoạch để đánh cắp nó. Họ có thêm động lực sau khi thu tiền từ các bạn cùng lớp – những cậu chàng mới lớn cũng đang tìm cách xem hình của Vanna White. Kế hoạch đã được triển khai với việc đột nhập vào cửa hàng tiện lợi sau nhiều giờ và điều kiện để thành công đều phụ thuộc vào việc Billy có thu hút được con gái của chủ cửa hàng tên là Mary hay không. Và kỳ ngộ đã xảy ra khi cả hai cô cậu này rất đều đam mê với việc lập trình máy tính. Mary thích một trò chơi do Billy tạo ra và khuyến khích cậu tham gia vào một cuộc thi từ một công ty game uy tín, cùng với đó là sự hỗ trợ của cô nàng. Chính trong thời gian này, Billy thấy mình đang ở ngã tư đường và phải lựa chọn giữa Mary và Vanna White. Trong khi Alf và Clark làm công việc hậu cần cho kế hoạch của bọn họ thì Billy rất vui khi dành thời gian mỗi buổi tối với Mary, làm việc trong trò chơi của họ. Trong lòng Billy biết rằng cậu cảm thấy điều gì đó hơn cả tinh thần đồng đội và tình bạn đối với Mary và cậu nghĩ Marry cũng có cảm giác đó nhưng cậu ta không biết phải làm gì hoặc làm thế nào cả. Khi trò chơi đã được tham gia vào cuộc thi và mọi thứ trở nên hơi rắc rối, Billy phải đối mặt với một tình huống khó xử là liệu cậu có nên nói với bạn bè về cảm giác của bản thân với Mary và thuyết phục họ dẹp đi cái kế hoạch vớ vẩn kia hay vẫn giữ lời hứa thực hiện kế hoạch?! “Pháo đài cấm” đã miêu tả xuất sắc sự tò mò cũng như thiếu chín chắn của những cậu bé tuổi teen và sự theo đuổi tiền bạc, sự nổi tiếng và những bức ảnh khỏa thân của phụ nữ. Đó là một câu chuyện thú vị về lòng trung thành với bạn bè, sự bùng nổ của tình yêu đầu đời, những mong muốn tạo ra một cái gì đó của chính mình và sự phấn khích của trí tuệ sáng tạo ở người trẻ. Jason Rekulak gợi lên khoảng thời gian của những năm 80 cực kỳ tốt. Thật đáng ngạc nhiên khi mọi thứ trở nên khác biệt, khi bạn không thể dựa vào internet để biết thông tin, khi chỉ một số người nhất định có lập trình riêng để giao tiếp qua email một cách chậm chạp và khi sự liên lạc chưa phải là một điều dễ dàng trong xã hội. Tôi thực sự rất thích đoạn hội thoại gợi lại những hồi tưởng cùng với nỗi nhớ về thập niên 80. Cảm giác như bản thân đã được đưa trở lại thời của đĩa mềm máy tính và cuộc sống không có mạng xã hội. Tác giả đã hoàn toàn thành công trong việc miêu tả sự tương tác giữa các thanh thiếu niên với các bài học về cuộc sống. Nếu nhìn nhận những khuyết điểm trong quyển sách này thì có thể thấy tác giả Rekulak không thực sự mang đến cho các nhân vật của mình nhiều chiều sâu hay sự hấp dẫn từ trong tính cách. Mọi thứ khác trong cuốn sách đều khá dễ đoán và các nhân vật cư xử đúng như mình mong đợi. Sẽ không là vấn đề gì to tát nếu như được biết thêm về Alf và Clark nhưng chúng ta chỉ thấy họ hành động như những kẻ ngốc và gây áp lực với Billy. Mary là một nhân vật hấp dẫn mà tôi thực sự rất thích vì cô nàng có cá tính riêng. Nếu ai đã từng trưởng thành trong thập niên 80 hoặc thích những câu chuyện giải trí về tình bạn tuổi teen và những thách thức của tuổi dậy thì thì hãy xem “Pháo đài cấm” vì đây chắc chắn là một lựa chọn phù hợp cho bạn. Quyển sách đề cập đến hàng loạt thứ khác nhau như nghèo đói, máy tính, trò chơi điện tử, những người bị ruồng bỏ ở trường trung học, những người mọt sách, nhạc New Wave, những người bạn tốt, những cô gái trường Công giáo, và những bộ phim của John Hughes,… Chi tiết yêu thích của mình là Billy hoàn toàn không phải là một thiên tài máy tính. Cậu ấy không phải là một hacker đáng sợ hay một kẻ thua cuộc trong xã hội. Cậu ấy thực tế hơn nhiều. Cậu ta là người đam mê việc tự học hỏi, người đã mắc phải lỗi lập trình và mơ ước làm game để kiếm sống bằng cách biến những câu chuyện trong đầu thành sản phẩm trên màn hình. Rõ ràng tác giả đã xây dựng một cậu bé bình thường và rất gần gũi với bạn đọc. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 08-01-2020) *** Mẹ tôi tin rằng tôi sẽ chết trẻ. Mùa xuân năm 1987, vài tuần sau sinh nhật lần thứ mười bốn của tôi, mẹ bắt đầu làm ca đêm ở Food World (Thế giới ẩm thực) vì ca đêm người ta trả thêm mỗi giờ một đô la. Tôi ngủ một mình trong căn nhà trống trải trong khi mẹ nhận điện thoại đặt hàng và lo lắng về tất cả những thứ tồi tệ có thể xảy ra: Lỡ tôi mắc nghẹn món gà viên chiên thì sao? Lỡ tôi trượt té trong khi tắm thì sao? Lỡ tôi quên tắt lò và căn nhà sẽ nổ tung trong một trận hỏa hoạn kinh hoàng thì sao? Cứ mười giờ tối, mẹ sẽ gọi điện xem tôi đã làm xong bài tập và khóa cửa trước chưa, đôi khi bà dặn dò tôi kiểm tra hệ thống báo khói, chỉ là phòng hờ thôi. Tôi thấy mình là đứa học trò lớp chín may mắn nhất. Mỗi đêm, hai đứa bạn tôi, Alf và Clark, đều đến nhà tôi, hào hứng ăn mừng tự do mới có được của tôi. Chúng tôi xem ti vi hàng giờ, pha hàng mấy lít sữa lắc, ngốn bánh Pop-Tart và pizza bagel đến phát ngán thì thôi. Chúng tôi chơi những ván game Rick và Monopoly kéo dài đến mấy ngày, và bao giờ tàn cuộc đứa nào thua cũng nổi giận hất bàn cờ khỏi bàn. Chúng tôi múa miệng nói về âm nhạc và phim ảnh; hào hứng tranh luận rằng ai sẽ là người chiến thắng: Rocky Balboa hay Freddy Krueger? Bruce Springsteen hay Billy Joel? Magnum P.I. hay T. J. Hooker hay MacGyver? Mỗi đêm trôi qua như một bữa tiệc ngủ* vậy, và tôi nghĩ rằng khoảng thời gian tuyệt vời này sẽ không bao giờ kết thúc. Tiệc ngủ (nguyên tác: “slumber party”) tức một buổi tiệc vui chơi kéo dài thâu đêm nhân một dịp nào đó và trẻ con thường ngủ chung ở nhà người tổ chức tiệc. Có nghĩa là “Vòng quay may mắn”. Ở Việt Nam là trò chơi “Chiếc nón kỳ diệu” của Đài Truyền hình Việt Nam, được mua bản quyền từ chương trình “Wheel of Fortune”. Nhưng sau đó, trên tờ tạp chí Playboy có đăng những tấm hình của Vanna White, người dẫn chương trình “Wheel of Fortune”* mà tôi si mê đến cuồng dại, và mọi thứ bắt đầu thay đổi. Alf thấy tờ tạp chí trước tiên, nó chạy hộc tốc từ sạp báo Zelinsky về để kể cho chúng tôi nghe. Clark và tôi đang ngồi trên sofa trong phòng khách, xem top 20 video đếm ngược của MTV thì Alf đâm sầm vào từ cửa trước. “Mông cô ấy ngay trên trang bìa!” Nó thở hổn hển. “Mông ai?” Clark hỏi. “Trang bìa gì vậy?” Alf ngã sấp trên sàn, ôm chặt hai bên sườn và thở dốc: “Vanna White. Tờ Playboy. Tao vừa thấy một bản, và mông cô ấy ở ngay trang bìa.” Rõ là tin sốt dẻo, “Wheel of Fortune” là chương trình nổi tiếng nhất trên truyền hình, người dẫn chương trình Anna White là niềm tự hào của cả nước, cô gái tỉnh lẻ đến từ Myrtle Beach, nhanh chóng nổi tiếng nhờ may mắn khi lật ô chữ trong một cuộc thi giải đố ô chữ. Tin tức về những bức ảnh trên tờ Playboy đã phủ kín những dòng tít của các tờ báo khổ nhỏ phát hành ở siêu thị: VANNA ĐANG RẤT SỐC VÀ NHỤC NHÃ, thừa nhận các BỨC HÌNH HỞ HANG đó được chụp trước đây và chắc chắn không phải cho tờ Playboy. Cô ấy đã đệ trình một vụ kiện 5,2 triệu đô để ngừng phát tán các bức hình này, và bây giờ - sau nhiều tháng râm ran đồn đoán và ngờ vực - tạp chí ấy cuối cùng cũng lên sạp. “Đó là điều đáng kinh ngạc nhất tao từng thấy”, Alf tiếp tục. Nó nhảy lên một cái ghế, bắt chước dáng điệu của Vanna trên tờ bìa. “Cô ấy đang ngồi bên khung cửa, như thế này phải không? Và cô ấy đang nhướng ra ngoài. Như thể đang xem thời tiết nhỉ? Chỉ có điều cô ấy không mặc quần!” “Không thể nào”, Clark nói. Ba đứa chúng tôi sống trong một khu nhà, sau nhiều năm chúng tôi biết Alf rất thích lối cường điệu. Như lần nó nói John Lennon bị ám sát bằng một khẩu súng máy. Trên nóc tòa nhà Empire State. “Tao thề trên mạng mẹ tao”, Alf nói, giơ tay lên như đang thề trước Chúa. “Nếu tao nói láo, mẹ tao sẽ bị máy kéo cán.” Clark kéo tay nó xuống: “Mày không nên nói những điều như thế. Mẹ mày thật may mắn vì bà ấy vẫn còn sống.” “À, mẹ mày thì như cửa hàng McDonald ấy”, Alf búng tay. “Bà ta chiều lòng tỷ tỷ khách hàng.” “Mẹ tao?” Clark hỏi. “Sao mày lôi mẹ tao vào đây?” Alf cãi lại: “Mẹ mày thì giống như thủ môn khúc côn cầu vậy. Ba lần hành kinh mới thay băng một lần.” Nó như một cuốn bách khoa về trò đùa “Mẹ mày…”, và đây là mức trêu đùa nhẹ nhất của nó. “Mẹ mày như một tiệm thịt nướng kiểu Nhật ấy…” Clark ném cái gối tựa trúng mặt Alf. Alf nổi điên, ném trả thật mạnh, nhưng không trúng Clark mà trúng ly nước Pepsi của tôi. Bọt ga và soda loang đầy thảm. “Chết tiệt!” Alf hoảng hốt, bò đến lau dọn. “Tao xin lỗi, Billy.” “Không sao”, tôi nói. “Lấy khăn giấy ra đây.” Làm lớn chuyện cũng chả có ích gì. Không phải tôi muốn đá Alf và Clark để tìm vài đứa bạn mới ý tứ hơn hai đứa chúng nó. Chín tháng trước, ba đứa tôi đến trường và xem đám bạn học gí đầu vào các môn thể thao, câu lạc bộ hay bộ môn học thuật nào đó. Nhưng chúng tôi chỉ đi vòng quanh, vì thấy chẳng cái nào phù hợp. Trong đám lớp chín, tôi là đứa cao nhất, nhưng tôi không thuộc loại cao khỏe; tôi cứ lảo đảo quanh trường như một chú hươu cao cổ con, chân gầy trơ xương, hai cánh tay khẳng khiu, như đang chờ phần còn lại của cơ thể lắp vào vậy. Alf lùn hơn, vâm chắc hơn, nhiều mồ hôi hơn và khổ sở vì trùng tên với nhân vật ngoài hành tinh nổi tiếng trên truyền hình - một con rối cao chừng một mét trong chương trình hài nhộn trên kênh NBC. Cả hai đều mang vẻ bí hiểm. Cả hai tên Alf đều giống như gã khổng lồ vậy, mũi to, mắt nhỏ và sáng, tóc nâu bù xù. Ngay đến giáo viên của chúng tôi cũng đùa rằng họ nhìn như sinh đôi vậy. Vì những nhược điểm lồ lộ ấy, Alf và tôi biết là chúng tôi không thể bì được với Clark. Mỗi sáng, nó ra khỏi giường nhìn như người nổi tiếng xuất hiện trên tạp chí Tiger Beat. Nó vạm vỡ với mái tóc vàng lượn sóng, cặp mắt sâu xanh biếc và làn da hoàn hảo. Mấy cô nàng trong khu mua sắm hễ trông thấy Clark bước đến thì há hốc mồm như thể nó là River Phoenix hay Kiefer Sutherland* không bằng - cho đến khi họ đến đủ gần để thấy cái càng của nó, họ sẽ lập tức quay đi chỗ khác. Một khuyết tật bẩm sinh quái gở đã nối các ngón trên bàn tay trái của Clark thành một thứ giống như càng cua màu hồng. Về cơ bản là vô dụng - nó có thể nắm mở được bàn tay nhưng không thể cầm vật gì to và nặng hơn một tờ tạp chí. Clark thề khi mười tám tuổi, dù phải tốn cả triệu đô, nó vẫn quyết tìm một bác sĩ tách rời các ngón tay ra. Cho đến khi đó, nó tiếp tục sống cúi đầu và giấu cái càng vào trong túi để tránh sự chú ý của người khác. Chúng tôi biết Clark phải sống độc thân cả đời, nó sẽ chẳng tìm được một cô bạn gái bằng xương bằng thịt nào trên quả đất này nên nó cần Vanna White trên tờ Playboy hơn ai hết. Các tài tử nổi tiếng Hollywood. “Có hình cô ấy ở tờ gập giữa không nhỉ?” Nó hỏi. “Tao không biết nữa”, Alf đáp. “Ở sạp Zelinsky nó được bày trên giá đằng sau quầy thu tiền. Kế bên kệ thuốc lá. Tao không lại gần đó được.” “Mày không mua à?” Tôi hỏi. Alf khịt mũi: “Ừ, tao chỉ đến Zelinsky và hỏi mua một tờ Playboy. Lốc sáu gói thuốc. Cả ống điếu nữa, tại sao không chứ? Mày điên à?” Chúng tôi đều biết là không nên hỏi mua tờ Playboy. Mua đĩa nhạc rock đã khó lắm rồi, Jerry Falwell đã cảnh báo về những ảnh hưởng xấu, còn Tipper Gore khuyến cáo các bậc phụ huynh về những ca từ mang tính kích động. Không người bán hàng nào ở Mỹ đi bán tờ Playboy cho một đứa trẻ mười bốn tuổi cả. “Howard Stern bảo những bức hình quả rất đáng kinh ngạc”, Clark giải thích. “Ông ấy nói ta có thể thấy cận cảnh cả bộ ngực khủng. Hai ti, ốn dẫn sữa, đó là cả một tác phẩm nghệ thuật.” “Ốn dẫn sữa?” Tôi hỏi. “Ống dẫn chứ”, Clark sửa lại. “Quầng hồng quanh ti ấy”, Alf giải thích. Clark lắc đầu: “Đó là núm, ngốc ạ! Ống dẫn sữa là phần lõm vào của ti. Nơi mà sữa chảy ra.” “Ti không lõm”, Alf vặc lại. “Chắc chắn có”, Clark khẳng định. “Thế nên chúng rất nhạy cảm.” Alf kéo áo thun, để lộ khuôn ngực và cái bụng nhão nhèo: “Của tao thì sao? Chúng có lõm không?” Clark che mắt: “Cất đi. Làm ơn!” “Ti của tao không lõm”, Alf khăng khăng.   Mời các bạn đón đọc Pháo Đài Cấm của tác giả Jason Rekulak & Minh Hiền (dịch) & Tuyết Vy (dịch).
Trong Chúng Tôi Có Kẻ Nói Dối
Năm học sinh có mặt trong phòng phạt buổi chiều thứ Hai. Nhưng chỉ có bốn người sống sót rời khỏi đó. Bronwyn, nữ sinh đứng đầu trường với tương lai xán lạn ở Yale trong tầm tay Addy, nữ hoàng dạ hội xinh đẹp, sang chảnh với một cuộc sống lung linh trong mắt mọi người Cooper, ngôi sao thể thao, vận động viên bóng chày được các trường đại học và các đội tuyển săn đón Nate, tay buôn thuốc trái phép đang trong thời gian quản chế Và cuối cùng là Simon, người nắm giữ những bí mật kinh khủng của bốn người bạn kia. Nhưng cậu đã chết trước khi công khai những bí mật đó trên ứng dụng tin đồn khét tiếng của mình. Cảnh sát tin rằng đây là một vụ giết người, và mỗi học sinh có mặt trong căn phòng đó đều có lý do để hạ sát Simon. Ai là kẻ thủ ác, ai là con rối, ai là nạn nhân? Một câu chuyện hấp dẫn đan cài giữa mặc cảm, thù hằn, hồ nghi, tin tưởng, tình yêu, dũng cảm, và trên hết là sự trưởng thành. Đánh giá sách: “Cốt truyện ngoắt ngoéo, nhịp độ chóng mặt và cách xây dựng nhân vật đầy lôi cuốn, tất cả góp phần tạo ra một bữa tiệc giật gân, độc đáo và cuốn hút.” - The Guardian “Đây là một tác phẩm trinh thám không hề tầm thườ gây ngạc nhiên và hết sức đáng đọc” - USA Today “Độc giả sẽ thấy rất khó có thể đặt cuốn sách hấp dẫn này xuống.” - BookP “Một tiểu thuyết trinh thám gây nghiện với vô số bất ngờ sẽ khiến bạn phân vân cho đến phút chót: Ai đã giết Simon?” - Kara Thomas “Khi bí ẩn căng thẳng của McManus dần hé lộ mỗi nhân vật đều trở nên phức tạp và sắc nét hơn, và điều đó đã thêm thắt chiều sâu cũng như sự đa diện vào cảm giác hồi hộp nơi cuốn sách.” - VOYA, Starred Review *** Karen M. McManus nhận bằng Cử nhân ngành ngôn ngữ Anh ở trường College of the Holy Cross và bằng thạc sỹ ngành Báo chí ở trường Northeastern University. Cô bắt đầu viết văn từ năm 2017 với tác phẩm đầu tay là Trong chúng tôi có kẻ nói dối. Cuốn sách được độc giả đón nhận nồng nhiệt và đã nằm trong danh sách best-seller của New York Times trong 79 tuần liên tiếp. Tác phẩm của cô đã được dịch sang 40 thứ tiếng trên thế giới. *** 5 học sinh bước vào phòng phạt. Chỉ 4 em sau đó còn sống. Người đã chết là Simon - admin của ứng dụng tin đồn khét tiếng, người nắm giữ những bí mật của 4 bạn kia. Sự thật về cái chết của Simon là như thế nào? Có phải một trong số 4 học sinh còn sống là người đã giết Simon? Cuốn này những tưởng hoàn toàn là trinh thám, thế nhưng càng đọc thì mình lại thấy nó giống dạng tiểu thuyết về đề tài học đường xoay quanh một sự kiện bí ẩn hơn. Yếu tố điều tra, phá án một cách chuyên nghiệp thì không có nhiều, có suy luận thì cũng chủ yếu đến từ 4 học sinh dính dáng đến vụ án. Tuy nhiên, truyện đọc vẫn cuốn vô cùng, mình không thể bỏ sách xuống được, nếu không phải đi làm thì chắc là đã đọc xong cuốn này vào hôm qua rồi. Cái chết của Simon được phía cảnh sát xem là một vụ án mạng, và những gì diễn ra sau đó đã cuốn hút mình vào câu chuyện, khi mà 4 học sinh có mặt trong phòng phạt hôm đó dường như đều có một bí mật úp mở nào đó. Rồi còn cả thế giới học đường bên Mỹ được tác giả vẽ nên vô cùng sinh động và cũng đầy rẫy những mặt trái. Thêm sự can thiệp của truyền thông, sự tắc trách từ phía cảnh sát, nói chung là hay và hấp dẫn. Một số bạn bảo càng về sau truyện càng có vẻ cụt cụt, cơ mà cá nhân mình thì lại thấy tác giả viết khá tốt đấy chứ. Với tình huống dẫn đến cái chết của Simon như thế, thì mình cũng có dự liệu trước đáp án về cái chết của Simon rồi. Nhưng mà điều làm mình bất ngờ đó chính là sự thật về một số nhân vật và kế hoạch được dựng nên khi mọi thứ đã được phơi bày hoàn toàn, cảm giác đáng sợ vãi luôn, không ngờ lại là như thế. Fan trinh thám quen đọc mấy cuốn “nặng đô” chắc là sẽ chê cuốn này rồi. Nhưng mà vì trong tim mình luôn có chỗ cho những câu chuyện thuộc thể loại không hẳn là trinh thám đặt trong bối cảnh học đường này, nên là mình vẫn rất kết “Trong Chúng Tôi Có Kẻ Nói Dối”. Cảm giác giống giống như khi xem phim “Elite” của Tây Ban Nha ấy, mặc dù trình kể chuyện của tác giả cuốn này vẫn thua trình viết kịch bản của biên kịch “Elite” một bậc ^^ À mà cuốn này cũng đang được dựng thành phim truyền hình đấy nhé, thấy dàn cast có vẻ khá giống với những gì mình đã mường tượng khi đọc truyện đó. Đúng là dàn cast được tác giả chấp thuận có khác :))) Kết Bronwyn với Nate quá cơ, cute vãi luôn ^^ Mong là hai đứa chẳng chóng thì chày sẽ chính thức trở thành một cặp :D Đoạn Vĩ thanh mang đến cho tôi nhiều hy vọng quá mọi người ơi :D Review sơ sơ là vậy ha. Vì đang trong tuần nên mình không có thời gian rảnh để ngồi vắt não là viết nguyên cái full review dài thòng lòng đâu (mặc dù mình rất muốn hu hu, nhưng mà chất xám 8 tiếng ở chỗ làm lấy hết rồi…). Sắp tới hy vọng sẽ có review chi tiết hơn, không thì trước mắt tạm xài nhiêu đây đi :D *** Tác phẩm của Karen M.McManus đặt ra rất nhiều vấn đề của học đường; nạn bắt nạt, sự trầm cảm, những bốc đồng dẫn đến bạo lực... Ai đã giết Simon? Câu hỏi được đặt ra từ những phút giây đầu tiên khi bắt đầu vào hành trình của 5 cô cậu học sinh trong phòng phạt và chỉ 4 học sinh có cơ hội hé lộ dần bí mật của mình. Cả 5 đều chứng kiến Simon, "Admin" của ứng dụng NGHE ĐỒN nơi đăng những tin sốt dẻo về đời tư, những thứ nhạy cảm tại trường trung học BayView, nằm khò khè, ngạt thở cho đến chết. Sách Trong chúng tôi có kẻ nói dối do Trương Trung Tín dịch, Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn phát hành. Liệu trong 4 học sinh trong phòng phạt gồm Bronwyn, nữ sinh bảng vàng với thành tích học tập khủng hay Addy xinh đẹp luôn nhận được cái nhìn ngưỡng mộ vì có người bạn trai đẹp mã hoặc Cooper, ngôi sao bóng chày với sự săn đón nồng nhiệt từ các trường đại học và các đội tuyển, và biết đâu người cuối cùng trong bộ tứ Nate, lạnh lùng buôn "cỏ" với đôi mắt buồn biết nói, đã giết Simon? Câu hỏi được bỏ ngỏ để khi đi dần tới cuối hành trình, cũng là lúc nút thắt của câu chuyện được mở ra với 4 lời nói dối được che đậy bằng nước mắt, sự khổ đau và nỗi dằn vặt khôn nguôi. Không đơn thuần là một tiểu thuyết trinh thám với cái chết được bày ra và có hơn một nghi can trong vụ án mạng mà ở Trong chúng tôi có kẻ nói dối dễ dàng bắt gặp những vấn đề nhức nhối xảy ra hầu như mỗi ngày ở chốn học đường. Ở đó, có nạn bắt nạt, sự trầm cảm, con cái hư hỏng đến từ một gia đình đổ vỡ, thiếu quan tâm và những bốc đồng dẫn đến bạo lực cùng với sự mất kiểm soát với các thông tin nhạy cảm dần đưa các học sinh vào chiếc kén cô độc và không tìm nổi một ai để giãi bày. Mỗi nhân vật trong câu chuyện lần lượt đổi vai thành nhân vật "tôi" dần trao từng mảnh ghép rời rạc cho độc giả và chính trong đường dây câu chuyện ấy, mảnh ghép cuối cùng "đội mồ sống dậy" với vô số bất ngờ mà chỉ khi dấu chấm câu cuối cùng ở chương Vĩ thanh, độc giả mới nhận ra mình đang đứng ở cái kết trọn vẹn. Phần kết thúc khép lại bi kịch học đường và mở ra tương lai xán lạn khi những lỗi lầm được cứu chuộc và thứ tha bằng chính sự thật thà. Với tác phẩm đầu tay Trong chúng tôi có kẻ nói dối, Karen M.McManus sớm định hình phong cách riêng bằng cốt truyện lắt léo, dựng xây nhân vật với cá tính độc đáo, nối những chi tiết tưởng chừng rời rạc thành một nút thắt đầy kịch tính và chạm "điểm nổ" với vô số bất ngờ đầy thú vị. Mời các bạn đón đọc Trong Chúng Tôi Có Kẻ Nói Dối của tác giả Karen M. McManus & Trương Trung Tín (dịch).
Tôi Đã Chết Vào Một Ngày Nào Đó
"Tôi đã chết vào một ngày nào đó, liệu cái chết của tôi có ý nghĩa gì không?" Hai dòng đầu cuốn nhật ký Jae Joon để lại, giống như một điềm gở về sự ra đi đột ngột của cậu. Nó ngăn trở đồng thời cũng thôi thúc Yoo Mi thu hết can đảm lật từng trang nhật ký, bước vào thế giới của cậu bạn thân, và gặp lại một Jae Joon vừa quen vừa lại. Bắt đầu bằng bi kịch nhưng lại không hoàn toàn chìm đắm trong nỗi buồn, Tôi đã chết vào một ngày nào đó mang đến sức mạnh của sự sống và hi vọng. Những băn khoăn, mất mát, nổi loạn và trưởng thành của tuổi trẻ được miêu tả sống động qua một cốt truyện tự nhiên. *** REVIEW “TÔI ĐÃ CHẾT VÀO MỘT NGÀY NÀO ĐÓ”: NHỮNG BĂN KHOĂN, MẤT MÁT, NỔI LOẠN VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA TUỔI TRẺ Jae Joon, cậu bạn thân có một không hai của Yoo Mi, đột ngột qua đời do một tai nạn xe máy, làm cho cô bé không khỏi ngỡ ngàng và đau đớn. Trốn tránh khỏi nỗi đau thương giằng xé, cô không dám đối mặt với cái chết của Jae Joon, lại càng không dám đến thăm ngôi nhà của cậu ấy, đối diện với những con người có lẽ còn đang đau đớn gấp hàng nghìn cô.  Jae Joon, cậu bạn thân có một không hai của Yoo Mi, đột ngột qua đời do một tai nạn xe máy, làm cho cô bé không khỏi ngỡ ngàng và đau đớn. Trốn tránh khỏi nỗi đau thương giằng xé, cô không dám đối mặt với cái chết của Jae Joon, lại càng không dám đến thăm ngôi nhà của cậu ấy, đối diện với những con người có lẽ còn đang đau đớn gấp hàng nghìn cô. Đứng trước lời đề nghị đọc cuốn nhật ký của Jae Joon, Yoo Mi lại càng nhớ về những kỉ niệm cùng với người bạn cũ của mình, rồi thu hết can đảm, đọc những dòng suy nghĩ của cậu khi còn sống, để rồi gặp một Jae Joon “vừa quen vừa lạ.” Như lời giới thiệu nằm ở bìa của cuốn sách, “Tôi đã chết vào một ngày nào đó” bắt đầu bằng bi kịch nhưng lại không hoàn toàn chìm đắm trong nỗi buồn. Đọc nhật kí của Jae Joon gợi nhớ cho Yoo Mi rất nhiều về người bạn cũ, cũng như cho cô hiểu thêm về những khía cạnh mà cô chưa bao giờ biết tới. Như tình cảm dành cho cô bạn cùng lớp Jung So Hee mà cậu mãi không từ bỏ được, trò chơi “giả làm người chết” hay góc nhỏ mà cậu vẫn để dành cho cô bạn thân Yoo Mi trong trái tim mình. Những điều được viết trong cuốn nhật ký đó càng làm cho cô không thể tin được rằng Jae Joon đã mãi rời xa thế giới này rồi, nhưng cuối cùng lại phải chấp nhận rằng cậu ấy đã ra đi mãi mãi, để sống tiếp mà luôn giữ một góc nhỏ cho Hwang Jae Joon trong trái tim. Trò chơi giả làm người chết của Jae Joon thực sự đã để lại cho tôi rất nhiều suy nghĩ. Chính trò chơi này đã giúp cậu nhìn thế giới dưới một con mắt khác, một con mắt đau buồn hơn và tự biết trân trọng sự sống và những con người xung quanh mình hơn. Có lẽ, mỗi chúng ta cần dành một chút thời gian để thử chơi trò chơi của cậu thiếu niên ấy, để nhìn đời theo một cách nhìn khác, để thêm yêu quý và trân trọng những con người xung quanh mình, hay đơn giản chỉ là bình tĩnh lại sau giây phút nóng nảy. Như cái cách Jae Joon làm hòa với em trai của mình vậy. Gấp lại "Tôi đã chết vào một ngày nào đó", tôi đã thực sự hỏi bản thân mình rằng "Liệu cái chết của tôi có ý nghĩa gì không?" Nhưng rồi câu hỏi ấy cũng không tồn tại được quá lâu trong tâm trí tôi, vì tôi biết: mình có gia đình, có bạn bè - những con người sẽ mãi nhớ về tôi sau khi tôi ra đi. Đọc xong cuốn sách, tôi lại càng trân trọng và yêu quý thêm những con người xung quanh mình, cũng như trân trọng sự sống này vậy. Nội dung: Anh Thư - Bila Team *** “Yoo Mi à, cô... cô có chút việc muốn nhờ. Hôm nào đó con gặp cô một lát được không?” Tôi vô cùng bất ngờ khi nhận được điện thoại của cô. Nghĩ thế nào tôi cũng không đoán ra nổi cô có việc gì nhờ đến mình. Đã hai tháng rối, kể từ ngày Jae Joon qua đời, nhưng tôi chưa một lần đến nhà cậu ấy. Ngay cả mấy đứa chẳng thân thiết lắm cũng đã đôi lần qua động viên mẹ Jae Joon, thế mà tôi - cái đứa bạn thân có một không hai của cậu - lại chẳng bén mảng dù chỉ một bước chân về phía ngôi nhà đó. Cả cô cũng vậy. Dù thi thoảng có hỏi thăm lũ bạn về tôi, nhưng cô khỏng hề gọi tôi đến, một cuộc điện thoại cũng không. Tôi không đủ dũng khí để gặp cô. Dường như nếu gặp cô thì sự thật rằng Jae Joon đã chết sẽ ập đến và tôi sẽ chẳng thể vượt qua nổi nỗi khổ đau khi ấy. Tôi đã không hề liên lạc trong suốt hai tháng liên vì cho rằng cô cũng có cảm giác tương tự, thế nên tôi hoàn toàn không ngờ cô lại đột nhiên gọi điện và hẹn gặp mình. Trên đường đến chỗ hẹn, chưa gì khóe mắt tôi đã ướt rượt. Tôi nôn nao sợ rằng chỉ cần nhìn thấy cô, mình sẽ òa khóc mất. Cô ngồi lặng lẽ gần cửa sổ trong góc quán trà, đăm đắm nhìn ra ngoài. Dáng vẻ ấy chẳng khác nào một cành hoa héo úa. Như thể hai tháng qua đã rút cạn nước trong cơ thể cô. “Cô ơi...” Tôi đứng đó khó nhọc mở lời, nhưng cũng chỉ nói được một câu như vậy. Tôi không khóc như đã sợ, nhưng những lời chào hỏi “Con chào cô”, “Cô có khỏe không?” nghẹn ứ trong cổ họng, không sao thoát ra được. “A, Yoo Mi đến rồi đấy à. Mau ngồi xuống đi con.” Cô rời mắt khỏi khung cửa sổ và nhìn về phía tôi, thoáng nở nụ cười. Vậy nhưng, ngay khoảnh khắc trông thấy tôi, đôi mắt cô bỗng ngập những nước. Nước mắt tôi quả nhiên lập tức trào lên, tôi cúi gằm đầu. Chúng tôi đã không gặp nhau vì biết là sẽ thế này đây... Cô đưa mu bàn tay quệt qua vành mắt, rồi lại nhìn tôi mỉm cười. Tôi cũng cố ngăn nước mắt trào ra, gượng cười nhìn cô. “Ở trường học tốt chứ con?” Cô hỏi. “Vâng ạ...” “Cô nhớ con lắm...” “Con, con xin lỗi cô...” “Không đâu. Cô cũng không gọi cho con mà... Cô vừa nhớ con, lại vừa không dám gặp con...” Tôi chẳng biết nói gì thêm nữa. “Cô tự nhiên gọi con ra thế này...” Vừa nói, cô vừa rút trong túi xách ra một quyển sổ, đưa cho tôi. Quyển sổ bìa màu xanh da trời, vừa nhìn tôi đã nhận ra ngay. Đó là quyển nhật ký tôi tặng Jae Joon. “Đây là sổ nhật ký của Jae Joon... Hôm qua cô vô tình tìm thấy. Nhưng mà... Con có thể đọc nó trước giúp cô được không...” “Dạ? Sao cô không đọc luôn ạ...” Dù nói vậy tôi vẫn nhận lấy quyển sổ không chút đắn đo. Nhưng ngay sau khi lơ đãng giở ra trang đầu tiên, nhìn thấy những dòng chữ được viết trên đó, tôi liền hoảng hốt gập vội sổ lại. Tôi đã chết vào một ngày nào đó. Liệu cái chết của tôi có ý nghĩa gì không? Như bị giội cả xô nước lạnh, toàn thân tôi bỗng dưng run lên bần bật. Những ngón tay đang đặt trên quyển sổ cũng run lẩy bẩy. Nhìn bộ dạng đó của tôi, cô nói: “Con cũng bất ngờ phải không, Yoo Mi à, mấy lời này là thế nào chứ? Cô... Tim cô run lắm, một trang thôi cô cũng không đọc nổi.” Cô rùng mình, như đang rũ tấm thân ướt nhẹp. “Con là bạn thân nhất của Jae Joon nhà cô, con thay cô đọc có được không... Cô... Cô...” Cô cuối cùng cũng bật khóc. “Cô ơi...” Tôi cũng chỉ gọi được như vậy, rồi thấy họng mình nghẹn cứng, không nói thêm được lời nào. Jae Joon, bạn của tôi - Jae Joon, người bạn tôi yêu quý nhất từ khi sinh ra trên đời - Jae Joon, người bạn bỗng dưng bỏ tôi đi mất như những cánh hoa bay tan tác - Jae Joon... Nước mắt lăn dài trên má. Nhưng tôi vội vã lau đi. Nếu tôi cứ thế này thì tâm trạng cô sẽ ra sao chứ? “Cô, cô xin lỗi con, Yoo Mi à. Cô không muốn khóc đâu, nhưng...” Đôi vai cô rung lên. Hẳn là cô đang cố hết sức để ngăn mình khóc. “Không sao đâu ạ. Cô cứ khóc cho thỏa đi cô...” Những người khách xung quanh liếc nhìn chúng tôi, nhưng tôi vẫn nói vậy. Chẳng ở đâu và chẳng ai trên thế gian này có quyền ngăn cản nước mắt của một người mẹ mất con hết... Tôi im lặng chờ cho tới khi cô ráo nước mắt. Lúc này, hình ảnh Jae Joon cũng hiện lên trong tâm trí tôi, khiến tôi suýt chút nữa thì òa khóc; nhưng ngay lập tức, tôi ép mình hướng dòng suy nghĩ tới kỳ thi giữa kỳ sẽ diễn ra vào ngày kia. Kỳ thi giữa kỳ hai của năm lớp chín sẽ ảnh hưởng đến thành tích vào cấp ba. Thế mà giờ này, đến phạm vi ôn tập của kỳ thi tôi còn chưa biết. Trước cái chết của đứa bạn thân nhất thì thi giữa kỳ có ý nghĩa quái gì cơ chứ. Chậc, tôi lại nghĩ đến Jae Joon mất rồi. Tôi đưa mắt nhìn quyển nhật ký bìa xanh. Đã chết vào một ngày nào đó, câu nói như điềm gở khủng khiếp ấy lại một lần nữa thắt chặt lấy tim tôi. Tại sao cậu ấy lại viết như thế chứ? Lẽ nào Jae Joon đã...? Tôi lắc đầu. Không lý nào lại vậy. Jae Joon tuy rất hứng thú với cái chết, nhưng cậu ấy tuyệt đối không phải người có thể tự kết liễu mạng sống của mình. Nếu vậy thì tại sao chứ...? “Giờ thì cô ổn rồi. Thực sự xin lỗi con, Yoo Mi à... Cái đó... Được không con... Con có thể đọc hộ cô được không?” Cô nói sau khi chật vật nín khóc. “Vâng, con sẽ đọc ạ. Nhưng mà... có lẽ sẽ hơi lâu. Nếu cô có thể cứ quên chuyện này đi...” Tôi nói lí nhí. “Được, được mà... Cô sẽ không giục gì đâu, con cứ đọc hết, nếu thấy có chuyên gì muốn nói thì gọi cho cô nhé.” Cô nói vậy, rồi lại một lần nữa đưa mắt nhìn xa xăm ra ngoài cửa sổ. Tôi ngẩn ngơ nhìn gương mặt quay nghiêng của cô, tìm ra trong đó hình bóng Jae Joon. Làn da trắng, nét mặt thanh tú, hai hàng lông mi rủ xuống... Jae Joon vẫn còn đây, trong gương mặt mẹ cậu ấy. Có thế nào cũng không thể trốn nổi cậu. Cậu vẫn ở đây, đâu đâu tôi cũng nhìn thấy cậu... Tôi thì thào nói với chính mình. Sau khi chia tay cô, tôi lơ đãng lên bừa một chiếc xe buýt. Tôi muốn ngồi trên xe buýt lang thang chỗ nọ chỗ kia rồi mới về nhà. Nước mắt cứ chực tuôn ra, khó khăn lắm mới có thể kìm lại. Trên xe hầu như chẳng có ai. Tôi ngồi xuống một ghế trống ở phía cuối xe, nhìn ra ngoài cửa sổ, đúng lúc một chiếc xe máy chở hộp sắt giao hàng của tiệm cơm Trung Quốc phóng vụt qua. Khoảnh khắc ấy, trái tim tôi bất giác ngã quỵ. Làm sao tôi có thể quên được ngày hôm ấy? Đó là một ngày Chủ nhật. 3 giờ sáng ngày Chủ nhật. Tôi thức thâu đêm ngồi trước bàn học. Trước đó tôi đã bật băng xem hết bộ phim Ghost World, rồi đọc tận chín quyển truyện tranh 20th Century Boys đến khuya, mà chẳng hiểu sao vẫn thấy lòng trống trải quá đỗi, thế là bèn ngồi thử viết lời bài hát. Dưới chân tôi, con mèo Geombi cuộn tròn mình lại, rên ư ử và ngủ ngon lành. Đêm đã chìm sâu nhưng cải chết vẫn chưa đến Ném tuổi thanh xuân xuống dòng sông đang chảy kia đi Hôm nay bạn có sống không Ngày mai bạn có sống không Dượng tôi đã nói thế này. Viết một cách bình dị, đúng với cuộc sống của mình, đúng với những cảm nhận của mình, ca từ như vậy mới là ca từ hay. Thế nhưng tôi không muốn viết kiểu đấy. Tôi mà viết đúng với cái cuộc sống mình đang sống thì có gì hay. Thức dậy rồi tới trường, bị ăn mắng, học bài; ngủ gật, về nhà, xem ti vi rồi đi ngủ. Còn những gì tôi cảm nhận ấy à, chán ngấy bọn xung quanh, căm ghét mấy thầy cô giáo, nổi cáu với mẹ, ngoài ra thì còn gì nữa đâu. Tôi muốn viết một ca khúc với toàn những từ như là “cái chết”, “thanh xuân”, hay “tuyệt vọng”. Mấy cái thứ “tình yêu”, “cô độc”, tôi thấy ghét đến sởn gai ốc, nhưng “cái chết”, “tuyệt vọng”, “thanh xuân”, dù viết thế nào cũng không bao giờ chán. Bình minh đã đến nhưng cái chết vẫn chưa rời Bắt lấy tuổi thanh xuân trên ngọn núi phủ tuyết kia đi Hôm nay bạn có sống không Ngày mai bạn có sống không Dượng mà nhìn thấy đoạn ca từ này thể nào cũng lại tặc lưỡi, nhưng nếu là Jae Joon thì chắc chắn cậu ấy sẽ sáng mắt lên rồi khen tôi cho mà xem. Nhìn cái từ “bắt lấy” kìa, quá sức tuyệt vời luôn, Tôi cực kỳ hài lòng. Tôi muốn chia sẻ tâm trạng hào hứng này với Jae Joon luôn và ngay. Giờ này thì hẳn là cậu ấy đang ngủ say đến nỗi có vác lên đem đi cũng không hay, nhưng dù thế cũng phải khoe với cậu ấy ít nhất là một dòng chứ. Tôi mở điện thoại và gửi tin nhắn. Viết xong ca từ rồi mau chúc mừng đê đêm đã chìm sâu nhưng cái chết vẫn chưa đến câu đầu tiên đấy hết sảy phải không thức dậy thì lập tức trả lời nha ngủ ngon... Đúng lúc ấy, Jae Joon bay lên khỏi con đường trống trải thênh thang. Như một chú chim tự do, với tốc độ không ai tin nổi. Và rồi rơi xuống, nát tan. Như một hòn gạch vỡ, với dáng hình không ai tin nổi. Đêm đã chìm sâu nhưng cái chết vẫn chưa đến... Jae Joon đã chết ngay tại chỗ. Mời các bạn đón đọc Tôi Đã Chết Vào Một Ngày Nào Đó của tác giả Lee Kyung Hye & Liên Hương (dịch).
Sống Thử
SỐNG THỬ Nguyễn Nhật Thương dtv-ebook.com Ngoại Truyện 1 Tiếng chuông báo thức vang lên inh ỏi cả căn phòng nhỏ, tôi đưa tay lên khẽ dụi đôi mắt của mình rồi lay nhẹ chị Ly đang nằm ở bên cạnh: - Chị ơi, đến giờ rồi kìa, dậy đi! Ly nghe vậy cũng cựa mình một cái rồi mở mắt: - Thôi, hôm nay tao nghỉ làm, lâu lắm rồi mày mới về đây, nghỉ một hôm tao với mày đi chơi thả ga. Tôi nghe vậy lại nhìn chị bật cười: - Điên à, khó khăn lắm mới xin được một công việc tử tế, đi làm đầy đủ cho người ta không có cái nói/ - Tao làm cả năm cả tháng chứ không có làm 1 ngày, nghỉ thì đâu chết ai. - Thôi, đi làm đi, với cả hôm nay em cũng muốn đến một vài công ty thử xin việc xem như thế nào. - Sao mày mới về mà đã lo xin việc rồi? Nghỉ ngơi cho thoải mái đã, việc thì lúc nào xin chẳng được. - Thì cũng phải lo trước chứ, đâu phải mình cứ đến xin một cái là người ta nhận liền đâu. Thôi, chị dậy đi, tối nay chúng ta sẽ đi nhậu một bữa là được chứ gì. Tôi vừ nói vừa ngồi dậy kéo chị Ly, chị thấy vậy cũng chỉ liếc xéo tôi một cái rồi thở dài: - Được rồi, mày không phải xua đuổi, tao tự đi. Nói rồi chị cũng ngồi lên bước xuống giường rồi đi vào nhà tắm làm vệ sinh cá nhân. Chị Ly đã đổi nơi trọ của mình cũng được một năm rồi, có lẽ nơi cũ kia nó có quá nhiều ký ức mà chỉ có thể rời khói đó mới cảm thấy nhẹ lòng được. Bây giờ chị cũng đã xin được 1 công việc bán giày dép cho một cửa hàng trong chợ, lương không quá cao nhưng cũng được thêm doanh thu mỗi tháng nên cũng khá ổn. Chị quay trở ra đi đến tủ thay quần áo rồi nói với tôi: - Mày đưa tao đến chợ rồi lấy xe mà đi cho tiện. - Vậy chiều em đến đón chị hả? - Sao nữa? Không lẽ mày để tao đi bộ vệ? - Hay để gọi anh Hoàng đến đón? - Hoàng gì mà Hoàng, tao với lão đây không có liên quan gì cả. Một năm trước chị Ly chuyển nơi ở, một phần cũng là chuyện nyaf. Tôi còn nhớ tối hôm đó chị khóc lóc gọi điện cho tôi, sau chuyện vợ anh Hoàng đến làm ầm ĩ ở xóm chị thì đấy là lần đầu tiên chị nhắc về anh ấy với tôi. Ly nói Hoàng và vợ đã ly dị, nguyên do chỉ là giữa hai vợ chồng có mâu thuẫn đã quá sâu sắc, chú không phải là do chị cố tình xen vào gia đình nhà người khác. Nhưng có lẽ vợ của Hoàng có nhiều cái bất mãn, nên thời gian đấy luôn tìm đến chị để làm ầm ĩ, Ly cũng một phần vì đó mà mới chuyển đi nơi khác. - Anh ấy bây giờ độc thân, chị cũng độc thật, tại sao không cho nhau cơ hội nhỉ? Ly nghe vậy lại nhìn sang tôi: - Thế sao mày không cho lão Duy cơ hội? Câu nói của chị làm tôi sững người lại, mỗi lần nhắc đến anh là tôi không thể nào vô cảm được: Cũng như ngày hôm qua gặp được anh giữa con phố đông đúc ấy, tôi đã phải tự dặn lòng mình rất nhiều mới có thể bình thản mỉm cười với anh đơn giản như một người quen rồi người đi. Tôi cứ nghĩ đủ bản lĩnh để trở về đây thì sẽ chẳng còn điều gì trở ngại nữa nhưng rồi cuối cùng đối diện với anh, tim tôi vẫn nhói lên 1 cảm giác khó tả, một chút đau đớn, một chút day dứt, và một chút của người đã cũ. - Em và Duy khác, làm sao có thể giống chị với Hoàng được. - Tao thấy chẳng có gì khác cả. Ngày ấy mày và lão cũng vì hoàn cảnh gia đình, tao và Hoàng cũng vậy. Khi đấy mày vì mất đứa bé, tổn thương quá lớn nên không dám đối diện. Tao cũng vì sự day dứt khi chen chân làm kẻ thứ ba nên cũng không dám tiếp tục nữa. Nhưng mày biết không, bây giờ nếu tao tiến đến với Hoàng sẽ vĩnh viễn bị xem là kẻ phá hoại gia đình người khác, người đời mỉa mai. Còn mày và Duy, tất cả các rào cản đều biến mất rồi. Nghe chị nói vậy bàn tay tôi bất giác lại đưa lên bụng mình, nếu lần đó đứa bé không sao thì có lẽ giờ này tôi đang cùng nó chơi đùa. Tôi cũng chưa từng hận anh vì chuyện đó, chỉ trách bản thân mình không đủ khả năng làm mẹ nhưng sự mất mát ấy quá lớn, có lẽ điều đấy khiến tôi không dám mở vết thương của mình ra xem lại nó: - Không ai đi tiếp trên lối mòn cũ cả. - Vậy sao? Nếu vậy sao mày không yêu Kiệt đi. Tao thấy anh ấy tốt lắm, giúp mày trả nợ, giúp mày xử lý con Trang, không quay trở lại Pháp chỉ đơn giản vì mày khi đó còn chông chênh, và giờ hai năm rồi, anh vẫn đang đợi mày. Đấy, con người mới, đường đi mới, sao mày không chọn? Lời chị nói làm tôi bỗng nhiên cảm thấy day dứt, đứng dậy đi vào nhà vệ sinh mà trả lời qua loa: - Kiệt quá tốt, em cảm thấy mình không xứng. Chị Ly lúc này cũng tiến lại chỗ tôi mà nói vọng vào: - Một khi đã yêu thì không có chuyện xứng và không xứng ở đây. Mày đừng lấy cái đó ra để bao biện cho việc mày vẫn đang còn yêu Duy. Không hiểu sao tôi nghe đến đấy lại cảm thấy trong lòng có chút bực bội, vệ sinh cá nhân xng quay ra nhìn chị mà gắt nhẹ chị: - Thôi, di làm nào, nói rõ nhiều. - Ơ con này, mày cáu bẩn cái gì? Là tao nói đúng quá à? - Đúng cái gì mà đúng, chị còn không đi nữa là muộn đấy. Nói rồi tôi cũng đi lại trang điểm qua loa, chỉnh trang quần áo một chút, hồ sơ xin việc cũng mang sẵn cầm ở tay rồi xách túi đi ra ngoài. Ly thấy vậy cũng không nói thêm gì nữa trở ra khóa cửa lại rồi chúng tôi cùng lên xe rời đi. Chị đưa tôi đến chợ rồi xuống xe: - Này, đi cẩn thận nhé, phố xá dạo này đông lắm, vài thằng thanh niên trẩu tổ lái nên chậm chậm mà đi thôi. Buổi trưa tao ăn cơm ở quầy luôn, không về đâu nên mày không phải đón, ra tạm quán bình dân nào mà ăn nhé. Tôi cầm lấy chiều khóa xe từ tay chị rồi nói: - Em biết rồi, chị dặn gì mà như mẹ dặn con thế. - Chẳng không à? Còn hơn mẹ ấy chứ, thôi đi đi, tao vào đây. Nói rồi chị quay người trở vào, tôi cũng lên xe lái đi thẳng. Phố xa bây giờ đông thật, ô tô đi đầy đường, xe máy lại chen chúc nhau, dừng ở các ngã tư đèn xanh đèn đỏ bây giờ phải kéo lên những vài phút, ấy thế mà vẫn có nhiều thằng trẻ trâu, đầu không mũ nón cứ vượt ầm ầm. Tôi đi dọc dọc vài khu phố, thật ra ở đây xin việc vốn không khó, nơi nào cũng cần nhân lực nhưng đa số là các cửa hàng quần áo, những công việc part time ngoài giờ cho sinh viên, rồi quán café, quán ăn...có đến ti tỉ việc để xin làm. Nhưng tôi muốn tìm một công việc phải khá ổn định, lương không cần cao nhưng cũng phải thỏa đáng, công việc không cần quá nhàn hạ nhưng hạn chế việc phát sinh làm ngoài giờ hay tăng ca, bởi sau ngày làm việc mệt mỏi tôi muốn bản thân có thời gian để chăm chút cho mình, tận hưởng cuộc sống. Đi lòng vòng vài con phố, vô tình thấy được một thông báo tuyển dụng của một nhà hàng khá đẹp mắt trông có vẻ là mới khai trương, không hiểu sao tôi lại có hứng thú rẽ vào, dù sao với chuyên ngành quản trị kinh doanh, tôi không tin vào đây tôi lại không có một vị trí để làm. Dựng xe gọn lại một chỗ, chú bảo vệ thấy tôi liền tươi cười nói: - Cứ để đó chú dắt cho, đến xin việc hả? Tôi nghe vậy cũng nhìn chú cười mà gật đầu một cái: - Dạ. - Ừ, vào trong đi, ở quầy lễ tân có cái cô trẻ trẻ tên Phương, cháu lại đưa hồ sơ cho cô ấy là được. - Vâng, cháu cảm ơn! Nói rồi tôi cũng đi vào bên trong, không gian nhà hàng này rất rộng, cách bố trí cũng khá ưa nhìn, nội ngoại thất bắt mắt, nhìn qua cũng biết là hàng chất lượng. Từ đèn, rồi những chậu hoa cảnh, đến vị trí đặt bàn ghế rất hợp lý, tạo cho người ta bước vào có cảm giác thoải mái nhưng vẫn không kém phần sang trọng. Đôi mắt dừng ở quầy lễ tân, tôi theo đó tiến lại, nhìn thấy một người phụ nữ khá đứng tuổi nhưng còn nét trẻ, nhìn cái thẻ cài ngực của chị thấy cái tên Đỗ Trúc Phương tôi mới mỉm cười một cái rồi lại gần: - Chào chị, em thấy ở ngoài kia có dán thông báo tuyển dụng, không biết bên mình còn cần không ạ? Chị ta nghe vậy cũng lịch sự mỉm cười rồi nhẹ nhàng nói: - Em có mang theo hồ sơ không? - Dạ, có! Nói rồi tôi cũng đưa bộ hồ sơ cho chị ta, chị Phượng nhận lấy mở ra xem một hồi rồi cất lại: - Hiện tại sếp không có ở đây, em cứ để hồ sơ lại, có gì chị sẽ liên lạc sau nhé. Tôi nghe vậy cũng gật đầu một cái: - Dạ, vậy có gì chị liên lạc với số điện thoại em ghi trong hồ sơ nhé, em xin phép. Nói rồi tôi cũng chào chị ta một cái mà quay trở ra ngoài, đi lại phía xe thì chú bảo vệ khi nãy lên tiếng: - Sao rồi, có xin được không? Tôi nhìn ông cười một cái: - Dạ, cháu mới đưa hồ sơ, còn phải đợi người ta xem xét nữa. Ông đi lại chỗ tôi dắt chiếc xe quay đầu ra nối nói: - Ừ, nói chung ở đây cũng dễ xin thôi mà, chú cũng mới đến làm được vài ngày, vào nói cái họ nhận luôn. Chắc sếp cũng dễ tính. - Ơ thế chú chưa biết mặt sếp ạ? - Biết đâu, chú mới đến đây làm vài ngày, biết mỗi cô Phương đấy còn sếp hình như không thấy xuất hiện, chắc mở ra để thuê nhân viên làm thôi. Tôi nghe vậy cũng gật đầu cười một cái rồi chào ông mà đi lại xe, còn chưa kịp đội mũ vào thì một chiếc ô tô dừng lại ngay trước đầu xe của tôi khiến tôi có chút khó chịu mà nghĩ thầm trong đầu: "Mẹ nó, có cái dốc để đi xuống mà nó lại chắn đi, cứ nghĩ ô tô là muốn đỗ ở đâu cũng được chắc". Tôi đợi cho cái người trong xe bước xuống là sẽ định lên tiếng nói, chỉ là cánh cửa mở ra, người bước xuống đấy làm tôi sững người. Vẫn là màu trắng quen thuộc của chiếc áo sơ mi, cũng quần âu đen đồng bộ như vậy, anh vẫn chẳng thay đổi gu thời trang của mình, nhưng kỳ lạ chẳng hiểu sao tim tôi vẫn như ngày ấy bỗng nhiên đập nhanh hơn một nhịp thì phải. Phan Bá Duy, thì ra tôi vẫn chưa thể nào bình tâm được với anh. Anh từng bước đi lại phía tôi, kéo đến cả một không khí căng thẳng, bởi vì lần gặp này cũng quá bất ngờ, khiến tôi không kịp phản ứng nên chỉ đứng yên ở đấy nhìn gương mặt của người đàn ông trước mắt. - Hôm qua nhìn thấy em, còn chưa kịp có lời chào. Bây giờ thật tốt quá, em khoẻ không? Tôi nghe vậy cũng nhìn anh cười gượng gạo một cái rồi trả lời: - Vẫn tốt. - Thời gian qua em đã ở đâu vậy? Tôi có đến tìm Ly và xuống nhà nhưng mọi người đều nói là không biết. Có gì lạ đâu, bởi vì mọi người đều đã bị tôi căn dặn từ trước rồi, nếu dám nói đia chỉ, tôi chắc chắn sẽ biến mất không một vết tích. - Chỉ là đến một thành phố khác để thay đổi bản thân, mọi người không biết cũng là vì tôi không nói, tôi cần yên tĩnh một thời gian. - Lần này trở lại em có đi nữa không? - Không nói trước được. Cảm thấy ở cạnh anh khiến tôi có chút lúng túng nên cũng vội dắt xe định đi sang hướng khác mà rời đi: - Tôi còn có việc phải đi trước. Khi tôi vừa mới rời được một bước, Duy bỗng nhiên đưa tay ra giữ lấy cánh tay tôi lại làm tôi có chút bất ngờ nhìn sang anh, cái giây phút đối diện nhau ở khoảng cách này, người đàn ông ấy lại làm tôi dao động bởi giọng nói trầm ổn: - Hai năm trước tôi bở lỡ em, khoảng thời gian đấy tôi cứ nghĩa đã đánh mất cuộc đời mình. Gặp lại hôm nay, trời bỗng nhiên nở nắng đẹp......tôi có thể theo đuổi em được không? Tôi cảm nhận được hai bên má đang trở nên nóng bừng, tim cũng đập nhanh dữ dội, có chút bối rối khẽ gạt tay anh ra mà dắt xe đi rồi nói: - Đồ điên! Dứt lời tôi cũng cố gắng rời khỏi đấy nhanh một chút, không khí vừa rồi thật sự khiến tôi không thể nào bình tĩnh được. Không hiểu sao nghe những lời anh nói sống mũi tôi lại trở nên cay, tôi cũng cảm nhận được đôi mắt đã long lanh nước, ngồi lên chiếc xe mà rời đi cũng chẳng muốn quay đầu nhìn lại. Nếu như là hai năm trước, nói đúng hơn là nếu như việc đau lòng của hai năm trước không xảy ra, khi nghe được những lời đấy, tôi có thể sẽ mỉm cười mà gật đầu, chỉ là sự mất mát quá lớn ấy khiến tôi đến bây giờ vẫn không thể nào bình tâm tiếp nhận được. Thời gian hai năm qua ở một nơi khác, tôi không ngày nào là không mường tưởng đến chuyện nếu đứa bé còn thì bây giờ sẽ như thế nào, gặp lại anh chỉ khiến tôi nghĩ đến những điều tồi tệ khi ấy cho dù tôi tự biết bản thân mình đối với anh vẫn chưa thể nào dứt. Chỉ là bây giờ, lý trí đã ở trên con tim rồi. Tôi vừa đi vừa thơ thẩn suy nghĩ, tiếng chuông điện thoại vang lên mấy lần mới sực tỉnh mà nghe thấy liền vội dừng xe ở bên mép đường rồi nghe máy: - Alo! - Em là Lê Bích Huyền phải không? - Dạ. - Ừ, chị là ở bên nhà hàng em mới gửi hồ sơ xin việc đấy. - A, vâng. Sao vậy chị? - Ừ, em được nhận rồi nhé, có thể đến làm việc bất cứ lúc nào. Tôi nghe vậy lại cảm thấy kinh ngạc, vừa mới đó mà được nhận rồi, cứ nghĩ phải ít nhất vài ngày hay một tuần. - Dạ, vậy để em thu xếp một chút, hai, ba ngày nữa sẽ đến làm được không chị. - Được em, vậy nhé. Hôm nào làm chị sẽ nói rõ về phần công việc của em. - Dạ Nói rồi tôi cũng tắt máy, vẫn còn đứng ngây ở đấy vì chưa tin mình được nhân nhanh đến như vậy. Lúc này chuông điện thoại lại tiếp tục vang lên, tôi nhìn cái tên được lưu trên màn hình ròi liền bắt máy: - Anh gọi đúng lúc thế, tâm trạng đang tốt. - Sao? Có chuyện gì thế? - Tối anh em mình đi nhậu một bừa nhé, hôm nay em xin được việc nên sẽ mời. - Xin việc rồi sao? Vội thế? - Vâng, nhưng mà mình muốn làm khi nào cũng được anh. - Thế công việc là làm gì? - Tốt thì là quản lý, không thì là kế toán cho nhà hàng, hôm nào đi làm em mới nhận việc. - Làm nhà hàng à? Sao không xin công việc nào nhẹ nhàng một chút, anh có người quen làm ở.... - Kiệt, như vậy là được rồi, em cảm ơn nhưng em muốn tự lực cánh sinh, không muốn dựa dẫm hay nhờ vả ai nữa. Tôi lên tiếng cắt ngang câu nói của anh, đâu bên kia bỗng im lặng một hồi rồi mới lên tiếng: - Được rồi, tối nay mấy giờ thế? Anh đến đón hai chị em nhé. - Ok, khoảng 7h nhé, có gì em sẽ gọi. - Ừ. Nói rồi tôi cũng tắt máy, lại phóng xe đi lượn lờ một vài chỗ, ngó nghiêng phố phường, ghé vào vài quán mua sắm đôi chút. Chị Ly buổi trưa không về tôi cũng chỉ về phòng pha một gói mì tôm ăn tạm rồi gọi điện về cho bố: - Bố và thằng Tí đã ăn cơm chưa? - Vừa mới ăn xong. - Con hôm nay xin được việc ở trên thành phố rồi. Chắc mai sẽ về thu xếp đồ đạc rồi chuyển lên đây. - Xin rồi sao? Công việc gì thế? Tôi nghe vậy cũng hiểu được sự lo lắng của ông, trong lòng cũng chẳng có gì tức giận: - Làm quản lý của một nhà hàng thôi. - Làm nhà hàng sao? Môi trường có tốt không con? - Bố yên tâm, 2 năm qua bố không hề nghĩ gì, tai sao bây lại lo lắng như vậy? - Huyền à, bố không phải không tin tưởng con, bó chỉ sợ có nhiều chuyện khiến con nhớ lại sẽ lại đau lòng. Tôi lại khẽ cười một cái rồi trả lời ông: - Mọi chuyên, con đã quên từ lâu rồi. Thôi, bố nghỉ trưa đi, ngày mai con sẽ về. - Ừ. À mà Huyền này. - Sao ạ? - Cô Sáu nó nói con Na nó lên đấy vừa học vừa làm, có nhờ bố bảo con, xem xem nó ở đâu thử liên lạc, có gì thì giúp đỡ nó một tí nhé. - Vâng, con biết rồi. Nói rồi tôi cũng tắt máy, thả mình xuống chiếc giường một cách thoải mái, tính ra tôi cũng chẳng ưa con Na hay cô Sáu, chỉ là hai năm qua những tổn thương kia còn xóa đi được thì dù sao hai người bọn họ cũng là người nhà, tôi có thể bỏ qua được. Không phải vì dè chừng họ, mà vì tôi muốn tâm mình thoải mái mà sống. Khi trời đã đổ về chiều, tiếng chuông điện thoại đánh thức tôi dậy, nhìn thấy là số chị Ly mới giật mình để ý đến giờ rồi bắt máy: - Em đây, ngủ quên mất, bây giờ em ra đón chị nhé. - Đón gì nữa mày, tao bắt xe ôm về rồi. Đợi mày ra đón thì tôi nay ở phòng pha mì tôm ăn à. Tao gọi mấy cuộc thấy không nghe lo có chuyện gì thôi, sở soạn đi, tao về luôn đấy. - Vâng. Tôi tắt máy rồi vội vàng đi vào nhà vệ sinh tắm rửa một chút, không hiểu sao hôm nay lại ngủ miên man đến không biết trời đát nữa như vậy. Quay trở ra ngoài đi đến phía gương trang điểm qua loa thì chị Ly cũng về đến phòng, tôi thấy vậy liền lên tiếng: - Em hẹn anh Kiệt rồi, anh ấy bảo đến đón hai chị em mình. - Ừ, chứ uống rượu rồi, tao cũng ngại lái xe lắm. Chị vừa nói vừa lao vào nhà vệ sinh, nước xối xả ở trong đấy một lúc rồi đi ra, phải nói là chị sở soạn cực nhanh, vài phút là đã phấn son, quần áo tươm tuốt. Kiệt cũng đã gọi cho tôi nói anh ấy đang chờ ở đầu ngõ, tôi và chị trở ra khóa cửa rồi đi ra ngoài, thấy chiếc xe quen đấy là liền mở cửa ngồi lên. Chúng tôi đi đến một quán nhậu khá bình thường, thật ra ăn uống ở những nơi như thế này nó thoải mái hơn rất nhiều so với nấy cái nhà hàng sang trọng kia. Ngồi vào bàn gọi lên vài món rồi thêm vài chai rượu Vodka X, đúng là xa nghề lâu rồi nhưng đi đâu ăn uống tôi đều có thói quen gọi rượu của công ty. Uống đôi ba chén, chị Ly lúc này lên tiếng: - Thế hôm nay xin được việc ở đâu rồi? Tôi nghe vậy cũng trả lời chị: - Nhà hàng MISS. - MISS? Tao nghe cái tên này quen quen, nghe ai nói qua rồi thì phải. - Nó nằm ở đường ...đấy, em vô tình đi qua, bắt mắt với cái tên nên mới vào xin, MISS - BỎ LỠ, nghe nó có cảm giác kiều gì ấy. - Thôi thôi, mày lại bắt đầu phân tích tâm lý học đi. Uống đã nào. Mời các bạn đón đọc Sống Thử của tác giả Nguyễn Nhật Thương.