Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Quái Dị - Agatha Christie

Ngôi Nhà Quái Dị (Crooked House) NXB Thời Đại, Phạm Tùng Vĩnh dịch Các bản dịch khác: - Cái chết bí ẩn: Trịnh Ngọc Tuấn dịch. - H. : Nxb. Hà Nội, 1993. - 351tr. - Ngôi nhà kỳ dị: Lê Thu Hà dịch. - H. : Nxb. Hội Nhà văn, 2001. - 298tr ; 19cm. ; - Những cái chết bí ẩn: Phạm Tùng Vĩnh dịch.- H.: Công an nhân dân, 2003.- 306 tr Truyện quay xung quanh cái chết của Aristide Leonidès, một điền chủ giàu có. Ông bị ám sát bởi một liều lượng cao ésérine bị tráo thay cho insulin trong thuốc tiêm hàng ngày. Những người bị nghi ngờ gồm Brenda Leonidès, người vợ thứ kém ông hơn năm chục tuổi đời, Laurence Brown, anh chàng gia sư dường như có mối quan hệ dan díu với bà chủ; Roger, con trưởng và vợ Clemency, con thứ Phillip và vợ Magda cùng 3 đứa con, Sophia con gái cả, Eustace, đứa con trai thứ bệnh tật và Josephine, đứa con gái út luôn thích chọc mũi vào mọi chuyện, và cuối cùng là Edith de Havilland, bà cô già của cả gia đình. Gia đình ba thế hệ của ông già Leonides cùng sống trong căn nhà "ba đầu hồi" quái dị do ông tự thiết kế. Leonides là một doanh nhân thành đạt giàu có, bảo bọc cho gia đình hai con trai Roger và Philip, ba đứa cháu con của Philip. Ông có hai đời vợ. Vợ trước mất do bị trúng bom thời chiến tranh, cô em gái không lấy chồng của bà vợ này đến giúp anh rể chăm sóc các cháu. Khi các cháu đã lớn cả, ở tuổi 80 ông Leonides lại đi bước nữa với một phụ nữ trẻ đẹp. Rồi một anh gia sư trạc tuổi bà vợ sau của ông xuất hiện trong gia đình, những ghét bỏ khinh khi lâu nay của các con cháu ông Leonides bùng lên với đồn đoán về cuộc tình vụng trộm giữa bà mẹ kế trẻ đẹp và anh gia sư. Giữa lúc đó ông Leonides bị chết do tiêm nhầm thuốc! Bác sĩ từ chối chứng tử vì dứt khoát nghi ngờ đây là một vụ giết người. Cảnh sát tiến hành điều tra và điên đầu vì bất cứ ai trong gia đình đó cũng có động cơ giết ông Leonides… Ngoài ra, di chúc ông đã đọc cho con cháu nghe và đã ký tên biến mất? Một trong số ít tiểu thuyết trinh thám mà Agatha Christie không xây dựng quanh hai nhân vật lừng danh mà bà đã tạo ra là Hercule Poirot hoặc nữ thám tử Marple. Câu chuyện Ngôi nhà Quái dị được kể từ góc nhìn của người thứ ba – người yêu của cô cháu gái lớn nhất của ông Leonides – không là cảnh sát điều tra, cũng không là thám tử độc lập, nhưng buộc phải giúp tìm ra chân tướng kẻ giết người thì mới có thể cùng người mình yêu kết hôn. Agatha Christie tự viết lời tựa đánh giá đây là cuốn tiểu thuyết tâm đắc nhất của bà. *** Sau này tôi tự hỏi tại sao tôi có thể mù tịt trước một sự thật rành rành. Thủ phạm chỉ có thể là Josephine. Nó hay khoe khoang, nó tự cho mình là quan trọng, nó lấy làm vui thú khi được nói ra, nó nhấn mạnh nhiều lần rằng nó rất giỏi, mà cảnh sát thì ngốc lắm, tất cả đã chỉ rõ như thế. Bởi vì nó chỉ là một đứa trẻ nên tôi không hề nghĩ rằng nó đã giết người. Nhưng người ta đã biết những đứa trẻ giết người vậy thì các vụ án mạng ở “Ba Đầu Hồi” thuộc về một trong số đó. Chính bản thân ông già Leonidès đã giải thích cho con bé phải tiến hành thế nào và nó chỉ việc tuân theo các chỉ dẫn ấy của ông. Nó chỉ cần chú ý không để lại các vết tay, nó đã đọc khá nhiều truyện trinh thám để không quên điều đó. Phần còn lại chỉ là một mớ hổ lốn bắt nguồn trực tiếp từ các “tiểu thuyết trinh thám” mà Josephine thường đọc: một cuốn sổ tay, các cuộc điều tra “cá nhân”, những điều ngờ vực tự bịa ra, ý chí quyết không tiết lộ những điều bí mật. Cũng như vụ mưu sát mà nó đã tiến hành chống lại chính nó. Một chuyện điên rồ, nếu coi như nó rất có thể đã tự giết mình. Nhưng chuyện ấy đã trở nên sáng tỏ vì đó là một giả thuyết mà, vì nó là trẻ con nên nó chưa lúc nào chú ý tới. Nó là nhân vật chính của chuyện phiêu lưu ấy. Nhân vật chính lại không chết, nhưng nó đã để lại đằng sau nó một dấu hiệu ở đó: những mảnh đất nằm lại trên ghế. Nó là người duy nhất trong nhà này buộc phải trèo lên cái gì đó mới đặt được khối đá cẩm thạch trong thế thăng bằng trên cánh cửa. Những lỗ trên mặt đất do nhiều lần diễn đi diễn lại đã chứng minh điều đó, sự vụ đã không thành công ngay lần đầu. Kiên trì, nó lại bắt đầu lại, bê con sư tử cẩm thạch trong đôi tay bọc bằng chiếc khăn quàng để tránh để lại dấu vết trên khối đá. Cuối cùng thần chết suýt nữa bắt nó đi. Thành công gần như trọn vẹn, mục tiêu đã đạt. Josephine bị đe dọa, nó “đã biết cái gì đó” người ta đã cố giết nó. Ai chẳng nghĩ thế? Rất khéo léo, nó đã làm tôi chú ý đến phòng có các bồn nước. Và với mục đích rõ ràng nó đã làm tung tóe gian buồng của nó trước khi đi xuống xưởng giặt. Từ bệnh viện trở về, nó đã rất thất vọng. Brenda và Laurence đã bị bắt, sự vụ đã kết thúc, nó, Josephine, còn đâu được ở trong ánh sáng của các đèn chiếu nữa. Chính vì thế nó đã vào phòng của Edith lấy trộm digitaline đem bỏ vào cốc sô-cô-la của mình nhưng nó không uống mà cố tình để lại trên bàn ăn. Nó có biết là Vú có thể uống cốc ấy không? Chắc là có. Theo điều chính miệng nó đã nói với tôi, nó tiếp thu không tốt những lời nhận xét của bà hầu già ấy. Vú là người giàu kinh nghiệm về trẻ nhỏ, Vú đã ngờ ngợ biết sự thật chăng? Không phải là tôi không tin điều đó. Bà không coi Josephine như đứa trẻ bình thường. Trí tuệ nó phát triển sớm nhưng không theo hướng bình thường. Có lẽ tính di truyền tác động. Độc đoán, “tàn nhẫn” như tính nết tổ tiên đằng mẹ nó, nó có tính ích kỷ của Magda, không thể nghĩ đến gì khác hơn đến chính mình. Rất nhạy cảm như Philip, có lẽ nó rất đau khổ vì nó xấu xí, xấu đến mức, mặc dù nó rất thông minh, nó vẫn bị mẹ nó gọi nó là “con bé ngốc”. Cuối cùng, từ ông nội, nó thừa kế được một đầu óc hết sức tinh nhanh và nhiều mánh khóe mưu mẹo. Nhưng trong khi ông già Leonidès có tấm lòng nhân hậu, trong khi ông nghĩ đến những người khác, đến gia đình và đến tất cả những người ông yêu, thì nó, nó chỉ nghĩ đến bản thân nó. Tôi nghĩ rằng ông nội đã nhận thấy điều mà mọi người khác không nhận thấy là Josephine có nguy cơ trở thành nguồn gốc của biết bao tai họa không những cho gia đình, mà còn cho bản thân nó và có lẽ chính vì ông linh cảm được điều mà nó có khả năng làm nên ông muốn nó phải được nuôi dạy ở trong nhà. Đó cũng chính là những lý do đã thúc đẩy ông cố nài Sophia để nàng chăm lo cho đứa trẻ ấy. Magda có đoán được sự thật ấy không? Việc bà vội vã đưa Josephine sang Thụy Sĩ cho phép đặt ra câu hỏi ấy. Tôi nghĩ rằng bà ta không biết gì cả, nhưng một bản năng mơ hồ của người mẹ đã làm bà ấy hết sức sợ hãi... Nhưng Edith De Haviland thì thế nào? Tôi bèn mở lá thư mà tôi cầm trong tay, bà đã đặt nó trong phong bì chứa cuốn sổ đen nhỏ. Cậu Charles, Lá thư này dành riêng cho cậu... và cho Sophia, nếu cậu xét thấy điều đó là cần. Nhất thiết phải có ai đó biết sự thật. Tôi đã tìm thấy cuốn sổ kèm theo đây trong cái chuồng chó vứt ở sau nhà. Chính ở đó nó đã giấu cuốn sổ. Nó đã xác nhận toàn bộ những gì tôi đã nghi ngờ. Không biết tôi có lý hay không nếu tôi hành động như tôi sắp làm? Tôi không biết nữa. Nhưng dù sao đi nữa, cuộc đời tôi chẳng bao lâu nữa sẽ kết thúc và tôi không muốn đứa trẻ phải chịu nỗi đau khổ dai dẳng không thể tránh khỏi nếu nó phải nhận thấy các hành vi của nó. Trong tự nhiên thường có những đứa con “không giống như những đứa khác”. Nếu tôi lầm, Chúa hãy phán xét! Nhưng đó là tình yêu hướng dẫn tôi. Cầu Chúa ban phúc lành cho hai cháu! Edith De Haviland Tôi chỉ do dự một phút, rồi tôi đưa lá thư cho Sophia. Khi nàng đã đọc xong thư chúng tôi lại một lần nữa mở cuốn sổ đen nhỏ ra xem. Hôm nay, tôi đã giết ông nội. Chúng tôi lật các trang sách. Những điều viết ra thật kinh hoàng. Tôi nghĩ, nó có thể làm cho thầy thuốc tâm thần phải quan tâm. Một tính ích kỷ điên loạn bộc lộ rõ ở mỗi trang giấy, đứa trẻ với một tính chân thật đáng thương trình bày những động cơ đáng tức cười về các tội ác của nó. Ông nội không muốn cho tôi trở thành vũ nữ. Vậy thì tôi đã quyết định giết ông. Như thế, tôi sẽ đến sống ở Luân Đôn cùng với mẹ và tôi sẽ trở thành vũ nữ ba lê. Những đoạn viết tiếp sau cũng không kém súc tích.... Tôi không muốn đi Thụy Sĩ và tôi sẽ không đi. Nếu mẹ ép tôi, tôi sẽ giết bà ấy. Nhưng tôi không có thuốc độc. Có lẽ tôi phải chế tạo ra nó bằng belladone. Có vẻ đó là chất độc mạnh.... Eustace làm tôi bực tức. Anh ấy bảo rằng tôi chỉ là một đứa con gái, rằng tôi hoàn toàn không biết gì cả và rằng một phụ nữ sẽ chẳng bao giờ thành một thám tử tài ba. Anh ấy sẽ không cho là tôi quá ngu xuẩn nếu như anh ấy biết rằng chính tôi đã giết chết ông nội.... Tôi rất thích Charles, nhưng anh ta cũng khá ngu ngốc. Tôi chưa biết tôi sẽ phải buộc tội cho ai đây, Brenda và Laurence, có lẽ thế. Brenda không thích tôi, bà ấy bảo rằng tôi không có đầu óc nguyên vẹn. Nhưng tôi rất thích Laurence. Anh ta đã nói với tôi về Charlote Corday. Cô ta đã giết ai đó trong bồn tắm của cô. Vả chăng cô ta rất vụng về. Trang sổ cuối cùng viết về Vú: Tôi ghét Vú. Tôi căm thù bà ấy. Bà nói rằng tôi chỉ là một con bé tự phụ muốn cho mình là quan trọng. Chính bà ấy đã khiến cho mẹ phải gửi tôi sang Thụy Sĩ. Tôi sẽ giết bà ấy. Tôi cho rằng những viên thuốc tròn nhỏ của bà Edith sẽ làm nên chuyện. Nếu có một vụ ám sát khác, thì cảnh sát sẽ lại đến nhà và mọi việc sẽ lại trở nên tuyệt vời.... Vú đã chết. Tôi chưa biết tôi sẽ giấu cái lọ đựng các viên thuốc tròn nhỏ vào đâu. Có lẽ trong buồng của bác Clemency, có thể trong buồng Eustace. Khi nào tôi chết lúc tôi rất già, tôi sẽ dàn xếp để đưa cuốn sổ này cho chỉ huy cảnh sát. Lúc ấy người ta sẽ nhận thấy rằng tôi là một thần tội ác. Tôi gấp sổ lại. Sophia khóc. - Ôi! Charles!... Charles!... Khủng khiếp quá! Con bé tội nghiệp này là một cái quái thai... Nó chỉ gợi ra cho em lòng thương xót! Tôi cũng có những tình cảm tương tự. Trước đây, tôi đã rất yêu Josephine, giờ đây, tôi vẫn còn yêu nó. Ai lại bớt yêu những người thân chỉ vì họ đã mắc lao hoặc bệnh khác. Josephine là một cái quái thai bệnh hoạn, như Sophia vừa mới nói, nó rất đáng xót thương. Sophia quay người sang tôi: - Nếu như nó còn sống, nó có thể sẽ thế nào? - Làm sao mà biết được? Dĩ nhiên người ta có thể gửi nó vào một trường học dành cho các trẻ không bình thường. Sau đó có thể trả nó về cho người nhà của nó, hoặc có thể giam giữ... Sophia rùng mình. - Những điều ấy tốt hơn như là chúng vốn thế - Nàng nói - nhưng có điều là bà Edith... Tôi ngắt lời nàng: - Bà ấy đã chọn sự hy sinh tính mạng mình. Anh không tin rằng bức thư của bà sẽ được công bố công khai để mọi người được biết. Có thể là việc buộc tội sẽ được hủy bỏ không hơn không kém và Brenda và Laurence sẽ được trả tự do. Tôi cầm lấy hai tay Sophia và bằng một giọng hoàn toàn khác, tôi nói tiếp: - Còn em, Sophia, em sẽ lấy anh chứ! Anh vừa mới được tin là anh đã được bổ nhiệm ở xứ Ba Tư. Em sẽ cùng anh sang bên ấy và anh chắc chắn anh sẽ làm em quên đi “ngôi nhà cổ quái nhỏ bé” này. Mẹ em sẽ dựng các vở kịch, cha em sẽ tiếp tục mua các sách và Eustace sẽ vào trường đại học. Không nên lo lắng về họ nữa, Sophia, và hãy nghĩ đến anh! Nàng nhìn chăm chú vào mắt tôi. - Anh không sợ phải kết hôn với em ư, Charles? - Thế anh sợ gì nào? Bé Josephine tội nghiệp đã phải chịu tất cả các tật xấu của gia đình, còn em, em thừa kế được mọi tính tốt của dòng họ Leonidès. Ông nội em đã đánh giá em rất cao, Sophia, và anh nghĩ rằng ông là một con người rất ít phạm sai lầm. Hãy ngẩng cao đầu, người yêu của anh! Tương lai thuộc về chúng ta! - Em tin là thế, Charles. Em yêu anh và em sẽ làm cho anh được hạnh phúc! Mắt cúi xuống cuốn sổ đen, nàng nói thêm khe khẽ: - Josephine tội nghiệp! Tôi cũng lặp lại theo nàng mấy từ đó. ... Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Quái Dị của tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sao Đen - Triệu Huấn
Trong khi hầu hết tiểu thuyết tình báo ở nước ta đều dựa vào một nguyên mẫu có thật: “Ông cố vấn” của Hữu Mai có nguyên mẫu là điệp viên huyền thoại Vũ Ngọc Nhạ; “Tiếng nổ trên chiến hạm Amyot D’inville” của Văn Phan đi từ câu chuyện của Anh hùng liệt nữ Nguyễn Thị Lợi; “Ông tướng tình báo với hai bà vợ” của Nguyễn Trần Thiết cũng là câu chuyện hoàn toàn có thật... thì “Sao đen” của Triệu Huấn lại có “nguyên mẫu” từ... “nhiều trong một” hư cấu mà thành. Ngay sau khi xuất hiện, (năm 1986) tiểu thuyết tình báo (TTTB) “Sao đen” (sau thành tên của cả bộ sách) của nhà văn Triệu Huấn đã gây được hiệu ứng nồng nhiệt với độc giả. Số lượng in hơn 200.000 bản mà nhiều người vẫn phải mua sách “chợ đen”. “Ly hương” (tập 2) cũng có số lượng không kém. “Cái tẩu” (tập 3), “Những người đến muộn” (tập 4) và “Vũ điệu thoát y” (tập 5) in vào thời điểm TTTB đã qua thời hoàng kim mà vẫn ở mức 30.000 bản... Cho đến nay, cả 5 tập đều đã được NXB CAND tái bản nhiều lần. Những con số lặng lẽ khiêm nhường mà có sức lan tỏa khi phần nào nói được sức hấp dẫn của “Sao đen”. Văn học là nhân học! “Sao đen” đã có cái kết nhân bản và hòa hợp, bởi tác giả có quan điểm rõ ràng: cần phải kết thúc đau thương và bớt tranh chấp, vì cuộc chiến 30 năm nhưng lại nhỏ bé so với chiều dài lịch sử dân tộc, nên cần lấy cuộc sống con người với con người làm trọng. Như khi trả lời phỏng vấn một phóng viên nước ngoài, ông cũng nói: “Quá khứ nên khép lại, nhưng không có nghĩa là bỏ và quên nó đi, bởi lịch sử là bất biến!”. *** Vừa hành quân từ Điện Biên Phủ về Phan Lương nghỉ ngơi được vài ngày thì đồng chí đại đội trưởng gọi tôi lên gặp riêng. Anh nói: - Cấp trên có lệnh điều cậu đi nhận công tác mới. Mình cũng chưa biết nội dung công việc, nhưng mình cứ chúc cậu gặp nhiều may mắn. Chỉ có điều là cả trung đoàn ta trên chỉ gọi mình cậu, do đó cậu cũng không nên nói rộng chuyện này cho ai. Chia tay anh em thì cậu cứ nói ra được chuyển sang đơn vị khác. Việc điều động quả bất ngờ với tôi. Thật tình tôi luôn luôn bị ám ảnh về thành phần giai cấp của của mình, khó mà có thể nhận được một sự tín nhiệm lớn lao. Tôi biết có một số con em địa chủ lúc đó buộc phải rời khỏi quân đội. Một số tuy là rất ít có vấn đề đối với nông dân được trả về địa phương để đối chứng với cuộc đấu tranh giai cấp. Phải chăng tôi cũng thuộc loại này? Tôi thấy tâm hồn mình u tối lại. Nhưng rồi lý trí cũng đánh thức tôi. Khi ở nhà tôi hãy còn trẻ đã làm nên tội lỗi gì. Hơn nữa vùng quê tôi còn trong địch hậu, chưa có cải cách ruộng đất. Như vậy làm gì có chuyện nông dân đòi tôi về. Thế là tôi lại yên tâm vui vẻ lên đường. Tôi nhớ mãi hôm chia tay đồng đội. Anh em nhìn tôi lưu luyến, nhưng cũng có những cặp mắt chứa đựng những dấu hỏi im lặnng. Đã vào sinh ra tử với nhau ngoài mặt trận, đã chân thành với nhau trong chỉnh quân chính trị thì mối thiện cảm với nhau cũng đã được xây dựng bền vững. Chúng tôi ôm nhau xúc động. Tôi ra đi một mình không ai đưa tiễn. Chỉ khi lên đến Phòng chính trị sư đoàn đồng chí trợ lý cán bộ mới đưa cho tôi giấy tờ và một bức thư nhỏ. Tôi mở ra đọc vội. Bức thư chỉ vẻn vẹn có mấy dòng: Cháu Phan Quang Nghĩa. Mẹ cháu ốm. Cậu xin phép cho cháu về thăm, tiện chuyến về Khu Ba công tác. Cậu chờ cháu ở xóm Trung xã Hoàng Văn Thụ, Đại Từ - Thái Nguyên. Cháu phải thu xếp nhanh, cậu sợ không kịp. Cậu của cháu - Nguyễn Hữu Đức 11 tháng 6 năm 1954 Thì ra câu chuyện chỉ có thế. Tôi vừa mừng vừa lo cho mẹ tôi. Không hiểu tại sao cậu Đức lại biết tôi hành quân về mà xin cấp trên cho tôi nghỉ phép. Câu chuyện đơn giản thế mà đại đội lại không thông báo cho tôi rõ ràng? Tại sao tôi lại phải mang toàn bộ tư trang và tấm giấy phép lại kèm theo cả giấy chuyển cung cấp về P.46? Khi tôi chưa thể lý giải được những sự kiện trên thì ký ức về người cậu họ lại dần dần tái hiện trong tôi lọc qua những lớp bụi thời gian mờ ảo. Cậu Đức là em họ xa của mẹ tôi. Là người có học hành đỗ đạt nên cậu nổi bật trong số những người thân bên ngoại. Quê mẹ tôi ở xa nên từ nhỏ tôi chỉ về thăm vài lần và cũng chưa được gặp cậu. Nhưng lần nào về tôi cũng được nghe họ hàng nói về cậu. Mười hai tuổi đầu cậu đã học xong những bộ sách chữ nho Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung Dung... dày cộp mà nhiều người khác sôi kinh nấu sử từ thuở thiếu thời tới lúc vợ con đàn đống mà vẫn chưa thông hiểu chữ nghĩa của Thánh hiền. Gia đình thấy cậu sáng dạ và cái chữ Nho cũng đến thời mạt vận nên quyết định cho cậu theo tân học. Nhà ông bà nghèo nhưng cả họ xúm vào giúp đỡ, cậu được ra tỉnh theo việc đèn sách và cậu đã không phụ lòng cha mẹ. Tám năm sau cậu kiếm được cái bằng "đíp-lôm", làm rạng danh tổ tông làng xóm. Cậu không tiếp tục học nữa mà đi kiếm việc làm. Nhưng hình như cậu cũng không gặp may vì tuy chí thú như vậy cậu cũng chẳng đưa được đồng nào về nuôi dưỡng mẹ cha, đền ơn họ mạc. Năm 1944 không còn ai gặp cậu. Người đồn cậu bị vào tù, người nói cậu trốn đi Xiêm. Năm 1945 cách mạng thành công mọi người mới vỡ lẽ là cậu theo Việt Minh lên chiến khu hoạt động. Tôi đã tưởng tượng ra cậu và luôn luôn tự hào qua những giai thoại về cậu được bà con kể lại. Mãi tới sau ngày kháng chiến toàn quốc, trong một lần đi công tác cậu mới tạt qua thăm gia đình chúng tôi. Tôi được nhìn cậu lần đần trong bộ ka ki màu vàng của Vệ quốc quân, một khẩu súng ngắn đeo lệch bên sườn, một chiếc thắt lưng tổ ong to bản "rất đúng mốt" vào những năm 47, 48. Mẹ tôi rất kiêu hãnh về người em họ của mình, đặc biệt khi cậu ngồi nói chuyện về thời sự đất nước và quốc tế trước đám cử tọa gọi là am hiểu nhất của cánh nội chúng tôi. Tôi thấv trái tim mình tràn đầy lòng yêu nước, và nếu như lúc này người ta chấp nhận cho tôi đứng dưới lá Quân kỳ thì tôi sẽ không bao giờ lùi bước trong những trận đánh đầu rơi máu chảy. Đêm hôm đó hai cậu cháu tôi nói chuyện với nhau đến khuya. Tôi ngỏ ý xin đi theo cậu nhưng cậu chê tôi còn nhỏ quá. Cậu khuyên tôi cố gắng học hành, sớm muộn nguyên vọng của tôi sẽ được thực hiện. Từ đó thỉnh thoảng tôi có thư từ qua lại với cậu theo nhiều địa chỉ. ... Mời các bạn đón đọc Sao Đen của tác giả Triệu Huấn.
Cổ Cồn Trắng - Nguyễn Như Phong
Đây là cuốn tiểu thuyết điều tra hình sự viết về chiến công của những người chiến sĩ công an đã dũng cảm, ngoan cường đấu tranh với bọn tội phạm buôn bán và tàng trữ ma tuý, đem lại bao nhiêu bất hạnh và đau khổ đối với những gia đình có con em trót sa vào vòng nghiện ngập. Lồng vào trong đó là những hoàn cảnh, những bi kịch, số phận, cuộc đời của những con người trực tiếp, gián tiếp, bị buộc phải theo hoặc chủ động lao vào guồng xoáy đầy tội lỗi đó.  Cuốn tiểu thuyết cho chúng ta hiểu tường tận hơn những công việc, những chiến công đôi khi là thầm lặng, và cả sự hy sinh, mất mát cũng rất thầm lặng, để có thể mang lại yên bình, hạnh phúc cho nhân dân của những người chiến sĩ công an đấu tranh chống tội phạm. Bởi bên cạnh cương vị là một cán bộ làm việc vì nước vì dân, trong gia đình các anh vẫn là những người con, người chồng, người cha. Phải làm sao đây để cân bằng cả hai nhiệm vụ (chưa biết bên nào nặng nề, phức tạp và khó khăn hơn) để có kết quả tốt đẹp cho mình, cho mọi người.  Đó là bài toán mà các chiến sĩ phải tìm ra lời giải thích đáng nhất. Và lời giải sẽ được tìm trong bộ tiểu thuyết này. Vẳng nghe đâu đây tiếng hát Ai giữ ngọn lửa qua đêm đen? Ai đếm những bàn chân thân quen, gửi làn hương thầm theo về trong gió, suốt chặng đường gian lao.... *** Đêm đã về khuya. Trời cuối thu đầu đông se lạnh. Chạy sát ven hồ Thủy Nguyệt là con đường nhỏ mang cái tên của một danh nhân rất mực tài hoa: Cao Bá Quát. Trên đường, thấp thoáng bóng những đôi trai gái đi như dựa vào nhau để tận hưởng sự êm ả, thanh khiết của trời thu. Cuối phố, nơi có những cây hoa sữa cổ thụ mốc thếch rêu phong là một quán bar khá đẹp mang tên Hoa Sữa. Đây là một biệt thự kiến trúc hoàn toàn Pháp đã có tuổi thọ hơn bảy mươi năm. Chủ của ngôi biệt thự là một nhân sĩ được Nhà nước kính trọng, có lẽ vì vậy mà trong hồi cải tạo tư sản những năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ trước, ngôi nhà đã không bị tịch thu. Năm 1990, ông qua đời để lại ngôi nhà cho hai người con trai. Người con cả là một Thiếu tướng quân đội thì được ở toàn bộ ba phòng tầng một và khu sân trước rộng hơn năm chục mét vuông. Người con thứ hai là một kỹ sư hóa chất ở toàn bộ tầng trên. Nhà Thiếu tướng có ít người, hơn nữa ông cũng được quân đội chia cho một khu đất khá đẹp ngoài ngoại ô, và ông đã xây ngôi nhà bốn tầng. Từ khi có ngôi nhà mới ông hầu như không về phố ở nữa cho nên ông đem tầng dưới cho thuê mở quán bar. Người đứng ra thuê là một tay kinh doanh bất động sản khá tiếng tăm tên là Trần Dung và có biệt hiệu là Dung Tỉ Phú. Trần Dung cho sơn sửa lại với một gam màu vàng nhạt và trang trí quanh tường bằng những bức tranh phiên bản của những họa sĩ nổi tiếng như Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh và đặc biệt là âm nhạc trong quán thường là nhạc cổ điển của Mozart, Chopin, Betthoven... Nhờ những cái đó, quán bar này đã tạo ra một bản sắc riêng biệt mà chỉ có những người ưa thích sự sâu lắng, nhẹ nhàng mới lui tới. Bar mở cửa từ 10 giờ 30 sáng và đóng cửa khi nào hết khách, nhưng thường thường là khoảng 12 giờ đêm thì vắng hẳn. Hôm nay cũng vậy, khi con chim cu từ trong chiếc đồng hồ quả lắc mang nhãn hiệu ODO thò đầu ra gáy mười một tiếng thì trong quán chỉ còn lại có bốn người. Hai thanh mến ngồi phía ngoài cửa và uể oải ngáp ngủ, còn phía góc trong của phòng có hai người vẫn đang nói chuyện - đó là một người đàn ông và một phụ nữ. Người đàn ông tên Tiên, biệt hiệu là Tiên Chỉ đã cứng tuổi, có mái tóc chải cẩu thả, mặt tròn, mắt nhỏ và môi mỏng. Tiên Chỉ tên chính là Hoàng Văn Tiên và do anh ta có tật khi nói chuyện cứ hay dùng ngón trỏ chỉ vào người đối thoại nên mới có biệt hiệu là Tiên Chỉ. Tuy nhiên, biệt danh Tiên Chỉ còn mang một ý nghĩa khác. Tiên vốn là một tay giang hồ có tiếng ở thành phố H, đã từng hai lần lĩnh án tù, tuy mỗi lần chỉ vài ba năm. Tiên được coi là thủ lĩnh của một băng nhóm tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen trên các lĩnh vực cờ bạc, cho vay nặng lãi, bảo kê vũ trường, kinh doanh bất động sản; và ngoài ra, Tiên còn lập cả công ty kinh doanh hàng điện máy, điện tử. Là kẻ mưu mẹo, có ý chí, được giới giang hồ nể trọng, xếp vào hàng chiếu trên, vì thế Tiên Chỉ thường được gọi thêm là "Cụ Tiên Chỉ". Năm 1996, Tiên ra tù và từ đó người ta thấy anh ta hiền lành hẳn. Tuy nhiên, cảnh sát hình sự thì vẫn coi anh ta là đối tượng điểm. Còn cô gái khoảng gần 40 tuổi - đó là Oanh, biệt hiệu là Oanh Sói. Cũng là một ả giang hồ, là nữ quái nổi tiếng một thời của đất cảng Hải Phòng. Oanh Sói không đẹp nhưng có nét hấp dẫn, đặc biệt là mái tóc cắt tém như con trai và ánh mắt nhìn sắc lạnh. Oanh hút thuốc liên tục và nét mặt xem ra có vẻ căng thẳng: - Em rất cảm ơn ý tốt của anh. Nhưng bây giờ thì em chưa cần... Em muốn phải thanh toán sòng phảng với hắn. - Hắn là ai? Cô cho anh biết. Anh sẽ giúp cô thanh toán món nợ đó? - Chuyện này của riêng em. Em không muốn ai biết và cũng không muốn phải nhờ ai. Tiên nheo mắt nhìn hai gã thanh niên trông còn rất trẻ con đang ngồi phía ngoài: - Đệ tử của em đấy à? - Vâng, em cũng cần phải bảo vệ mình. Em biết có kẻ muốn "chơi" em, nhưng đâu có dễ. Nói rồi Oanh vẫy tay gọi một đứa đến và bảo: - Các em về trước đi. Chị ở đây, lát nữa về sau. Hai gã thanh niên lễ phép chào hai người rồi bước ra. Tiên gật gù, nhìn theo chúng rồi quay lại: - Nếu em đồng ý, anh giao cho em ba sòng ở ngoại thành. Em không cần góp thùng tẩy [1], nhưng được ba chục phần trăm. Chỉ có điều là mấy sòng này đang bị bọn thằng Phướn Chột quấy phá. Em đưa mấy thằng đệ tử của em về, chắc chúng chịu thôi? - Đến như anh mà cũng sợ thằng nào quậy ư? Thế những cảnh sát hình sự chiến hữu của anh đâu rồi? ... Mời các bạn đón đọc Cổ Cồn Trắng của tác giả Nguyễn Như Phong.
Tôi Vô Tội - Agatha Christie
Tiểu thuyết trinh thám tiếp theo về Thanh Tra Hercule Poirot. Elinor Carlisle, một người bị nữ bị kết tội giết Mary Gerrard vào ngày hai bảy tháng bảy năm nay. Liệu rằng Elinor Carlisle có tội hay không có tội? Elinor đứng thẳng người, đầu hơi cúi. Đó là một phụ nữ trẻ, kiều diễm với những đường nét thanh tú và mái tóc dầy đen nhánh. Hàng lông mày thành một nét mảnh giản dị nằm bên trên cặp mắt xanh biếc. Không khí đột nhiên lặng lẽ... bấy giờ vấy lên một sự lặng lẽ ngột ngạt. Edwin Bulmer, luật sư của bị cáo, cảm thấy hoảng sợ. Thân chủ của ông định nhận tội chăng? Cô ta đã mất hết sự tự chủ rồi. Elinor hé miệng, nói khẽ : - Tôi vô tội. *** ... Anh bạn nên biết rằng, - Hercule nói - điều dối trá nhiều khi đáng quý ngang với sự thật đấy. - Nghĩa là người ta đã nói với ông những điều dối trá? - Bác sĩ Peter Lord hỏi. Hercule Poirot gật đầu. - Tất nhiên, và với nhiều lý do khác nhau. Nhưng người làm tôi ngạc nhiên chưa từng thấy là Elinor Carlisle. Cô ta nói dối vì quá nghiêm khắc trước lương tâm. Cô ấy bị nghi oan nhưng không đấu tranh mà định đầu hàng ngay, nhận trước tòa một tội mà cô không làm. Bác sĩ Lord mệt mỏi thở dài. - Quả là khó ai tin nổi. - Vậy mà lại có! Cô ấy tự kết án... bởi cô ấy tự đặt ra một tiêu chuẩn đạo đức cao hơn hẳn tiêu chuẩn của con người nói chung. Lúc mới tiến hành điều tra, tôi đã nghi cô ta chính là thủ phạm. Nhưng vì anh yêu cầu tha thiết nên tôi tiếp tục tìm hiểu thêm và tôi hiểu ra rằng các bằng chứng đều nói lên, thủ phạm là người khác. - Mụ y tá Hopkins? - “Đúng thế. Nhưng không phải tôi nghi mụ ấy ngay. Đầu tiên tôi nghi Roddy, mà trường hợp này cũng do một lời nói dối. Anh ta bảo anh ta rời nước Anh ngày 9 tháng Bảy và trở về ngày 1 tháng Tám. Trong khi mụ Hopkins lại tình cờ lộ ra với tôi rằng Roddy đến gặp Mary ở London, nhắc lại lời cầu hôn, nhưng Mary từ chối. Theo tin tức của anh thì ngày 10 tháng Bảy, Mary mới đến London... Một ngày sau khi Roddy rời khỏi đó. Vậy làm sao Roddy gặp cô ta được? Tôi bèn xem hộ chiếu của Roddy, thì ra anh ta có về Anh hai ngày, từ 25 đến 27 tháng Bảy. Anh ta đã cố tình nói dối tôi. Tôi nghĩ đến quãng thời gian ngắn ngủi từ lúc Elinor rời khỏi bếp, ra chỗ trạm bảo vệ rủ hai người phụ nữ kia vào cùng ăn. Tôi đã nghĩ có kẻ nào định giết Elinor, chứ không phải giết Mary. Mà Roddy lại có một động cơ rất quan trọng để thủ tiêu Elinor. Dùng một cách hỏi khéo léo, tôi phát hiện ra là anh ta có biết nội dung bản di chúc của Elinor Carlisle”. - Vậy sao ông lại biết anh ta vô tội? - “Nhờ một lời nói dối... Một lời nói dối vớ vẩn chẳng để làm gì. Mụ Hopkins bảo rớm máu ở cổ tay là do gai hoa hồng leo. Tôi đến tìm hiểu thì ra cây hoa hồng leo ở trạm bảo vệ không có gai. Câu nói dối đó rõ ràng là vô ích và ngu xuẩn, chẳng để làm gì, nhưng lại khiến tôi chú ý. Thế là từ đấy tôi bắt đầu quan tâm nhiều đến mụ ta. Trước kia tôi tưởng mụ ta thành thật. Tuy mụ ta đổ diệt tội cho Elinor, tôi vẫn nghĩ là tại mụ ta yêu Mary quá. Nhưng sau khi mụ nói dối một cách vụng về kia, tôi chợt hiểu tôi đã bỏ sót một chi tiết. Mụ ta biết một điều gì đó về Mary Gerrard nhưng giấu biệt, mà chỉ nói theo lời đồn của mọi người”. Viên bác sĩ ngạc nhiên kêu lên : - Vậy mà tôi lại đánh giá khác kia chứ! - “Mụ rất giảo quyệt. Mụ đóng vai một người biết một điều nhưng không nỡ nói ra. Sau khi suy ngẫm, tôi thấy mụ ta có một dụng ý, một mục đích. Và tôi đã tìm ra được mưu mẹo của mụ. Từ lúc ấy, tôi nhận ra sự khác nhau giữa kiểu nói dối của mụ với kiểu nói dối của người khác, thí dụ kiểu của Roddy Welman. Một bên là nói dối tội lỗi và một bên là nói dối vụng về nhưng vô tội. Roddy chính là thuộc loại thứ hai này. Vì không có mặt ở nơi xảy ra vụ án nên anh ta nói dối cho gọn là lúc đó ở nước ngoài. Roddy thuộc loại người ngại mọi phiền phức. Lọ moóc-phin vẫn trong tay mụ, nhưng mụ lại rao ầm lên là bị mất để đánh lạc hướng. Mụ sử dụng chị y tá O’Brien khờ khạo làm cái loa, để mỗi khi cần tung ra một cách hiểu nào đó. ... Mời các bạn đón đọc Tôi Vô Tội của tác giả Agatha Christie.
Thủy Triều Đen - Andrew Gross
Là đồng tác giả của 5 tiểu thuyết ăn khách với nhà văn nổi tiếng James Patterson, Andrew Gross một lần nữa khẳng định tài năng trong thể loại trinh thám với tiểu thuyết mới “Thủy Triều Đen”. Tác giả đặt người đọc vào trạng thái hồi hộp ngay ở những trang đầu tiên bằng vụ đánh bom ở nhà ga trung tâm thành phố New York. Vụ nổ đã khiến cho cuộc sống hạnh phúc và phẳng lặng của Karen Friedman rơi vào khủng hoảng bởi chồng cô cũng có mặt trên chuyến tàu định mệnh ấy. Charles Friedman, nhà quản lý tài chính thành đạt, chồng của Karen, là một trong những nạn nhân. Vài ngày sau, nghe tin nhiều thi thể không tìm thấy được, Karen phải chấp nhận sự thật đau buồn là người chồng sống với cô 18 năm nay đã mất. Cũng vào ngày hôm đó, một vụ tai nạn ôtô làm thiệt mạng một thanh niên cùng quê với Karen ở Greenwich, Connecticut. Ty Hauck, một nhà thám tử nhận điều tra vụ này và tìm được manh mối cho thấy mối liên hệ bất ngờ giữa hai sự kiện tưởng như không hề liên quan. Đọc Thủy Triều Đen, độc giả sẽ ít thấy những cảnh máu me, súng ống, đường hầm tăm tối hay những đường vòng quanh co khúc khuỷu lờ mờ ở xa phía trước, nhưng cuốn tiểu thuyết vẫn rất gay cấn ly kỳ đến nghẹt thở. Bởi Andrew Gross đã khéo léo xây dựng một nhân vật chính thú vị và một câu chuyện kết hợp giữa yếu tố hình sự truyền thống xen lẫn một âm mưu nhẹ nhàng và xúc động. Thủy Triều Đen còn khiến người ta phải đặt câu hỏi về cuộc sống hôn nhân hiện đại. Phải chăng sự hòa hợp của những đôi vợ chồng tưởng chừng như hạnh phúc nhất cũng chỉ là sự giả tạo bên ngoài khi vẫn còn nhiều bí mật riêng đáng sợ luôn tồn tại. *** Sáu giờ mười sáng. Khi ánh nắng ban mai xuyên qua lớp kính cửa sổ phòng ngủ, Charles Friedman mới thả chiếc gậy gỗ truyền tay chạy tiếp sức xuống. Đã nhiều năm rồi Charles không hề gặp lại giấc mơ đó, ấy vậy mà giờ đây anh thấy mình đang đứng đó, cao lớn ở cái tuổi mười hai, chạy tiếp sức vòng ba trong cuộc thi cắm trại hè, cuộc đua đấu loại trực tiếp giữa đội Xanh và đội Xám. Bầu trời xanh đến tận cùng, đám đông ngoài kia đang nhấp nhô như những làn sóng - làn sóng những đầu đinh, những cái má đỏ hồng mà cậu sẽ chẳng bao giờ được thấy ở một nơi nào khác ngoại trừ nơi này. Đồng đội của cậu là Kyle Bergman đang chạy về phía Charles, dẫn trước đội bạn ở khoảng cách không nhiều, hai má phập phồng theo từng nhịp thở. Tới rồi... Charles chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng đón lấy chiếc gậy tiếp sức. Những ngón tay cậu giật nhẹ, chờ đón chiếc gậy đập vào lòng bàn tay. Và đây rồi! Đã đến lúc! Charles đón lấy chiếc gậy. Bỗng nhiên một tiếng rên lớn vang lên. Charles ngừng lại, nhìn xuống hoảng sợ. Chiếc gậy nằm chỏng chơ dưới đường chạy. Đội Xám đã hoàn tất cung tiếp sức, vụt qua trước mặt Charles để tiến tới một chiến thắng mà trước đây không chắc sẽ xảy đến với họ. Đám cổ động viên cho đội Xám rồ lên vui sướng, tiếng hoan hô mừng vui hoà lẫn trong những lời chế giễu đầy thất vọng cứ vọng mãi trong đầu Charles. Đó cũng chính là lúc Charles bừng tỉnh. Bao giờ cũng vậy. Tỉnh dậy, thở nặng nhọc, ga trải giường ướt đẫm mồ hôi. Charles đưa mắt nhìn hai bàn tay trống không. Anh đập xuống tấm ga trải giường như thể chiếc gậy tiếp sức vẫn còn ở đó, sau ba mươi năm đã qua. Nhưng ở đó chỉ có Tobey, chú chó tha mồi Cao nguyên miền Tây màu trắng, đang nằm, hai chân xoài dưới ngực, chăm chăm nhìn anh chờ đợi. Charles thở dài, thả người xuống gối. Anh liếc nhìn đồng hồ. Sáu giờ mười. Mười phút trước chuông báo thức. Vợ anh, Karen, đang nằm úp thìa bên cạnh. Anh ngủ chẳng được bao nhiêu. Anh đã thức trắng từ ba giờ đến bốn giờ sáng, chăm chú theo dõi Giải vô địch Nữ lực sĩ trên kênh ESPN2, không bật tiếng vì không muốn làm ảnh hưởng tới vợ. Có điều gì đó đang đè nặng tâm trí Charles. Có lẽ đó là cái vị trí lớn lao mà anh đã chiếm được trên thị trường cát dầu ở Canada hôm thứ năm vừa qua và đã nắm giữ vị trí đó suốt mấy ngày cuối tuần đầy rủi ro, khi giá dầu đã bị rò rỉ ra ngoài bằng một cách nào đó. Hoặc có thể là cái cách anh dồn thêm vốn cho các hợp đồng khí đốt có thời hạn sáu tháng, trong khi lại rút bớt đi đối với những hợp đồng một năm. Hôm thứ sáu, chỉ số chứng khoán đối với các mặt hàng nhiên liệu tiếp tục giảm. Anh thực sự sợ hãi mỗi khi bước ra khỏi giường ngủ, bởi sợ không dám nhìn vào màn hình sáng nay để xem những gì đang diễn ra ở đó. Hay đó là Sasha? Trong mười năm qua, Charles điều hành quỹ đầu tư hợp tác năng lượng tại Manhattan, có năng lực tài chính thực sự trên mức đi vay lên đến một phần tám. Nhìn bên ngoài, với mái tóc hung hung nâu, cặp kính gọng sừng cùng dáng vẻ bình thản, trông anh giống nhà đầu tư bất động sản hay một nhà tư vấn hơn là một người sống nội tâm (trong cả những giấc mơ) luôn nghĩ về một thực tế là đã và đang phải sống trong địa ngục, mà thậm chí là địa ngục tầng hai. Charles, trong chiếc quần hộp, chống khuỷu tay đẩy người lên, và ngừng lại. Tobey nhảy ra khỏi giường, cuống quýt cào lên cánh cửa. “Cho nó ra đi anh.” Karen cựa quậy, cuộn người lăn sang bên, giật mạnh chăn phía trên đầu. “Có chắc là mày muốn ra ngoài không?” - Charles hỏi lại chú chó, lúc này hai tai đang vểnh lại phía sau, đuôi ngoáy tít, nhảy trên hai chân sau chờ đợi, như thể nó có thể sắp xoay nắm đấm cửa với hai hàm răng của mình đến nơi. - "Mày biết chuyện gì sẽ xảy ra mà.” “Thôi nào, Charles, sáng nay đến lượt anh đấy. Cho nó ra ngoài đi.” "Những từ cuối cùng mới thật hay...” Charles ra khỏi giường, mở cánh cửa dẫn ra khoảnh sân rộng chừng nửa yard (1) có hàng rào bao quanh, một khu nhà gần eo biển ở Old Greenwich. Tobey lao vụt ra khoảnh sân, đuổi theo mùi một con thỏ hay sóc nào đó vừa để lại. Rồi ngay lập tức, con chó bắt đầu rít lên cái thứ tiếng bản năng có thanh vực cao của nó. Karen vò chiếc gối trên đầu và cũng thốt ra những tiếng gầm gừ. "Ggggừừ....." Vậy đấy, mỗi ngày đều bắt đầu như vậy, Charles chậm chạp bước vào bếp, bật kênh CNN và cắm điện bình cà phê, nghe tiếng chó sủa vọng vào từ bên ngoài. Sau đó, anh vào phòng làm việc kiểm tra lượng hàng bán qua mạng ở châu Âu trước khi đi tắm. Sáng hôm đó, hàng bán không được tốt lắm, chỉ đạt giá 72.10 đô. Lại tiếp tục giảm. Charles làm nhanh một phép tính trong đầu. Anh lại buộc phải bán ra thêm ba hợp đồng nữa. Vài triệu đô đã không cánh mà bay. Charles ngâm mình trong bồn tắm, lúc đó mới chỉ hơn sáu giờ sáng một chút. Bên ngoài, Tobey đang sủa tới tấp, tới ba phút không nghỉ. Trong phòng tắm, Charles điểm lại hoạt động trong ngày. Anh sẽ phải thay đổi vị trí liên tục. Giải quyết các hợp đồng dầu phi truyền thống, sau đó là họp với một trong những nhà đầu tư vốn. Liệu đã đến lúc anh gột rửa sạch sẽ? Anh đã chuyển tiền vào tài khoản của cô con gái, Sam, để dành cho nó học đại học; mùa thu tới con gái anh sẽ bước vào năm cuối trung học. Khi đó cũng chính là lúc mọi việc đổ ụp lên anh. Chết tiệt thật! Anh sẽ phải đi lấy chiếc xe khốn kiếp đó vào sáng nay. Để bảo dưỡng cho xe Mercedes đã chạy được mười lăm ngàn dặm, tuần trước Karen đã kỳ kèo buộc anh phải làm chuyện này. Thế có nghĩa là anh sẽ phải đi tàu đến nơi làm việc. Anh sẽ bị muộn một chút. Trong khi anh muốn có mặt tại bàn làm việc của mình vào lúc bảy giờ ba mươi để thực hiện những công việc trong ngày như dự kiến. Sau đó Karen sẽ đón anh tại nhà ga vào buổi chiều. Quần áo chỉnh tề, thường thì giờ này Charles đã sẵn sàng cho giờ cao điểm. Đúng sáu giờ ba mươi, việc cần làm là đánh thức Karen dậy, gõ cửa phòng hai đứa con Alex và Samatha cho chúng kịp đến trường. Và còn một việc nữa là lướt qua tiêu đề các bài viết trên tờ Tạp chí Phố Wall (2) được đưa tới ở cửa trước. ... Mời các bạn đón đọc Thủy Triều Đen của tác giả Andrew Gross.