Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Nhân Mã Ở Trong Vườn

"Con Nhân mã trong vườn" trước hết là một câu chuyện rất hấp dẫn, lối kể chuyện giản dị, tình tiết lạ lùng, bất ngờ, và đọc xong rất sảng khoái. Ai đọc tiểu thuyết cũng cần được giải trí như vậy đã. Thứ đến, sau khi đã gập sách lại, đặt nó lên giá, bạn mới bắt đầu thấy vấn vương, mỗi lúc mỗi sâu xa, với những ý tưởng và cảm xúc mà câu chuyện ấy đã mang đến cho mình. Và đó mới thật là phẩm chất giải trí sâu xa của "Con Nhân mã ở trong vườn". Chủ đề của cuốn sách chính là câu chuyện muôn thủa về mối mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa bản ngã cá thể và luật chơi bầy đoàn. Cuốn sách này đã được 48 dịch giả ở 48 nước khác nhau dịch ra tiếng của mình cho đồng bào của họ thưởng thức. Và Trịnh Lữ là người thứ 49, Việt Nam là nước thứ 49. Trong cuốn "Cuộc đời của Pi" (một cuốn sách thu hút đông đảo bạn đọc Việt Nam), tác giả Yann Martel viết: "Còn về cái tia lửa thổi được sự sống vào cuốn tiểu thuyết, tôi xin mắc nợ ông Moacyr Scliar". Dịch giả Trịnh Lữ liền tìm đọc một số tiểu thuyết của ông Scliar, và lập tức mong muốn bạn đọc Việt Nam cũng được thưởng thức tác giả này. *** Trong khi dịch cuốn Cuộc đời của Pi, tôi thấy tác giả Yann Martel viết: “Còn về cái tia lửa thổi được sự sống vào cuốn tiểu thuyết, tôi xin mắc nợ ông Moacyr Scliar”. Tôi liền tìm đọc một số tiểu thuyết của ông Scliar và lập tức mong muốn bạn đọc Việt Nam cũng được thưởng thức tác giả này. Về thân thế sự nghiệp của Moacyr Scliar, cũng như chuyện thiên hạ đồn Yann Martel có lấy một cốt truyện của ông Scliar để viết cuộc đời của Pi, xin bạn đọc xem bài giới thiệu của Ilan Stavans về Con Nhân mã ở trong vườn, ấn bản năm 2003. Ông Stavans viết bài đó cho giới bạn đọc ở Mỹ, nên tôi nghĩ nên để ở cuối sách để bạn đọc Việt Nam tiện tham khảo. Còn với tư cách người dịch và giới thiệu cuốn tiểu thuyết này ở Việt Nam tôi trộm nghĩ mình nên có đôi lời về chuyện tại sao Con Nhân mã ở trong vườn lại đáng được có mặt trên giá sách của bạn, người đang đọc những dòng này. Trước hết là vì tôi thấy câu chuyện rất hấp dẫn, lối kể chuyện giản dị, tình tiết lạ lùng, bất ngờ, và đọc xong rất sảng khoái. Tôi nghĩ, ai đọc tiểu thuyết cũng cần được giải trí như vậy đã. Thứ hai, sau khi đã gập sách lại, đặt nó lên giá, tôi bắt đầu thấy vấn vương, mỗi lúc mỗi sâu xa, với những ý tưởng và cảm xúc mà câu chuyện ấy đã mang đến cho mình. Tôi thấy mình cũng giống như Guedali, nhân vật chính trong truyện, suốt đời thèm được mọi người chấp nhận, cố hết sức để có được điều đó, để khi có rồi lại chợt điên cuồng nhớ tiếc con người thật của mình. Đối với tôi, chủ đề của Con Nhân mã ở trong vườn chính là chuyện ấy, câu chuyện muôn thưở về mối mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa bản ngã cá thể và luật chơi bầy đoàn. Hồi nhỏ tôi nghĩ Người là cá thể. Lớn lên lại thấy Người là bầy đoàn; phải bầy đoàn mới sống được. Đến khi qua bờ dốc bên này của cuộc đời thì lại nghĩ chưa chắc đã phải thế. Bầy đoàn nghĩa là sói sống với sói, sơn dương sống với sơn dương, con nào khác lọt vào bầy là bị loại trừ ngay. Nhưng đấy là thú vật. Mà bây giờ tôi thấy hình như người với thú vật có khác nhau thì phải. Hình như vì được Thượng đế yêu, ghét, và nặn theo hình của mình, lại thổi hơi cho có sống nên Người có trong mình đủ thứ của Thượng đế (ADN mà, thoát làm sao được); nó vừa là Thần thánh vừa là Thú vật, vừa là Thiện vừa là Ác, vừa là Một vừa là Tất cả (một Người là thành được một cõi rồi). Thế thì nhẽ ra nó phải có quyền vừa là chính nó, một cá thể khác biệt với tất cả các cá thể khác, vừa là một thành viên của cộng đồng mình. Khi nào mà cá nhân còn phải trấn áp, loại trừ những riêng tư độc đáo của chính mình để có thể sống được với xã hội, thì xã hội ấy chưa thực là của Người. Nói theo kiểu học giả, xã hội ấy vẫn nằm trong phạm trù thú vật. Giờ đây (và liệu có khi nào chấm dứt) khi con người lại còn đang khủng bố chém giết nhau để khẳng định cái gọi là bản sắc riêng của mình (một biến tướng rất ung thư của mâu thuẫn cá nhân – cộng đồng) thông điệp đó trong Con Nhân mã ở trong vườn lại càng có ý nghĩa cấp bách hơn với chúng ta; và “cái tia lửa của sự sống” trong sáng tạo văn chương của Moacyr Scliar càng thêm Promethean hơn, gần gũi quí giá với chúng ta hơn. Đấy, nếu bạn đã nhiều lúc phải giấu diếm dẹp bỏ những cái độc đáo khác biệt của mình để có được sự chấp nhận của mọi người, và thường khắc khoải về chuyện đó, thì Con Nhân mã ở trong vườn là câu chuyện tâm đắc của bạn. Chắc phải có hàng tỷ người thường khắc khoải như thế nên cuốn sách này mới được những 48 dịch giả ở 48 nước khác nhau dịch ra tiếng của mình cho đồng bào của họ thưởng thức. (Tôi là người thứ 49, Việt Nam là nước thứ 49, vì tôi nghĩ người Việt chúng ta cũng có chung khắc khoải này với nhân loại). Và không phải chỉ có thế: trong khi theo chân nhân vật chính Guedali trong suốt cuộc hành trình gian khổ để trút bỏ phần ngựa của anh đặng hòa nhập được vào xã hội Người, chúng ta sẽ còn được trải nghiệm và vỡ nhẽ rất nhiều điều thú vị về Tình yêu, cái thứ mà chắc là ai cũng mắc phải nhiều lần, nào là tình ruột thịt, tình lứa đôi, tình vợ chồng, tình bạn bè, tình đồng chí, tình đồng loại... Và mọi người thứ tình ấy trong Con Nhân mã ở trong vườn đều hồi hộp, phập phồng chất nhục cảm phóng khoáng tự nhiên, với những bản năng tuôn trào khôn cưỡng, những thèm khát bạo liệt và những dịu dàng thơ mộng, những mưu mô tinh quái và ân hận nhầu nát, những lý tưởng ngây thơ và thực tại phũ phàng, những tình huống huyền thoại mà xù xì sặc sụa ngay trước mặt; nói tóm lại là những cái rất là “chúng ta”. Và thú vị hơn cả là toàn bộ câu chuyện chỗ nào cũng long lanh những giọt hài hước mà chỉ một tâm hồn trung thực, mạnh mẽ và hướng thiện mới toát ra được. Chắc ông bác sỹ - nhà văn Scliar theo thuyết cho rằng mọi hành vi của bạn và tôi đều chỉ do một vài giọt hóa chất trong cơ thể chúng ta quyết định, nên ông mới có được cái giọng hài hước không cố tình như thế. Phải, hài hước với tất cả - may, rủi, họa, phúc, yêu, ghét, được, mất – với một chút giễu cợt, nhất là với chính câu chuyện mình viết ra, với chủ đề mình đã chọn. Vì đọc xong, bạn sẽ có cảm giác rằng, ồ, có khi những cái riêng tư độc đáo của mình cũng chỉ là do mình tưởng tượng ra để cho cuộc đời có vẻ như ghê gớm hơn mà thôi. Chính cái chất hài hước bao dung và không hề làm dáng ấy của câu chuyện đã khiến cho người đọc, khi gập sách lại, cảm thấy cuộc đời vẫn đáng sống. Và đó mới thật là phẩm chất sâu xa của Con Nhân mã ở trong vườn. Và rồi chắc bạn cũng như tôi, cũng như nhân vật chính Guedali, lúc đến những dòng cuối cùng, sẽ thấy mình đã đang đứng lên, đang đứng lên rồi, như một con ngựa có cánh, à thôi (mình nên khiêm tốn) như một Con Nhân mã ở trong vườn, sẵn sàng nhảy qua tường rào... Ôi chao tôi lại nhiều lời rồi. Bạn hãy đọc câu chuyện của mình đi đã. *** Con Nhân mã ở trong vườn - Sự khác biệt từ bản năng Đồng hồ đã điểm đến 2 giờ 30 phút sáng. Và rõ ràng là tôi đã chẳng thể nào ngủ được. Tôi vừa đọc một mạch hết hơn 400 trang của Con nhân mã ở trong vườn. Nói là “không ngủ được” thì cũng không hẳn là chính xác, vì sự thực là tôi nghĩ mình đã thức giấc mất rồi, sau khi vừa trải qua một cơn mơ dài, rất dài, với tất cả những chuyện mà tôi đinh ninh là “không thể nào có thật trên đời”. Con nhân mã ở trong vườn - The Centaur in the Garden. Đây là lần đầu tiên tôi đọc một kiểu tiểu thuyết lạ lùng chưa từng thấy. Và sự “chưa từng thấy” này thể hiện ở nhiều mặt: cốt truyện, kết cấu, tuyến nhân vật, và đặc biệt hơn nữa, trí tưởng tượng mênh mông bát ngát lồng vào cái thần thoại huyền hoại ẩn nấp một cách rõ ràng đến mức có thể nhìn xuyên thấu của tác giả. Ừ thì, tôi cứ mặc nhiên công nhận rằng có lẽ mình đã bị phép thuật của Scliar mê hoặc có hơn không? Nhưng, còn hơn cả mê hoặc. Scliar đem đến cho tôi những thứ còn hơn thế. Với một cuốn sách mà tôi không biết phải dùng từ gì cho chính xác và tổng quát nhất để nói về nó, tôi chỉ có thể nói rằng, có lẽ trong một khoảnh khắc nào đó, nó đã tan biến trong tôi, và chúng tôi rất có thể đã từng tồn tại song song nhau ở cùng một thời điểm. Guedali, con Nhân mã trong vườn, gần với tôi đến mức như hơi thở của anh ta đang phà vào mặt tôi vậy. Câu chuyện xảy ra giản dị và êm thắm tựa như một lời bộc bạch, khiến tôi cảm thấy có phần hơi khó hiểu ở đoạn mào đầu. Và rồi Nhân mã. Thứ được miêu tả là một sinh linh huyền thoại, một sinh vật nửa người nửa ngựa vốn trước giờ chỉ có trong các truyền thuyết Hy Lạp cổ đại, hay sâu hơn nữa, trong sự hình dung lạ lẫm và ngạc nhiên của trí tưởng tượng con người, xuất hiện. Cách xuất hiện không bình thường của một kẻ không bình thường, và những phản ứng hoàn toàn bình thường của những con người rất đỗi bình thường xung quanh nó. Nó đến với thế giới này trước tiên bằng sự mong đợi háo hức của tất cả những người thân yêu và mở mắt ra sau những cái nhìn kinh hãi, lạnh lùng của cha nó, anh chị em nó và cú choáng váng đến nỗi ngất đi suốt mấy ngày liền của mẹ nó. Nó chẳng biết gì cả, và nó không có tội gì cả. Nhưng cay đắng thay, cái sự chẳng biết gì vô tình lại trở nên có tội, trong chính bản thân và hình hài của nó. Guedali, tên con Nhân mã, theo một cách nói nào đó, có thể là kẻ không may, cũng có thể là kẻ đáng nguyền rủa, một sinh vật không nên có mặt trên đời, cho dù nó đích xác là một sinh vật huyền thoại. Thế đấy, trong khi người Hy Lạp tôn sùng những vị thần nửa người nửa ngựa dũng mãnh tuyệt đẹp của họ, thì Guedali nhận ra mình đáng là thứ bị tống khứ đi khỏi cái thế gian này. Vấn đề ở chỗ là Guedali nhận thức rõ sự khác biệt sâu sắc giữa mình với người - những con người xinh đẹp, và họ, dưới mắt anh ta, xinh đẹp vì hoàn chỉnh. Đó là cái mà nó, một con Nhân mã, ao ước đến phát điên lên, mà vẫn không được. Nhưng như thế thì có sao. Bù lại Guedali có vẻ ngoài dễ coi, sự thông minh chăm chỉ và hơn nữa, một bộ chân khỏe mạnh đính trên nửa phần thân sau cường tráng, những cái giúp nó có thể phi nước đại trên thảo nguyên Nam Mỹ tươi đẹp và đầy nắng gió với tốc độ mà bất cứ chàng cưỡi ngựa nào cũng đều mơ đến. Phi nước đại, đó là một điều hay, và cũng là điều khiến Guedali hạnh phúc. Một cách nào đó, có thể nó đã từng hạnh phúc vì nó có, một chút, khác người. Với tôi, đó dù sao vẫn là một sự khác người đáng yêu ở một con Nhân mã. Nhưng không phải người nào cũng trông thấy sự đáng yêu đến ngạc nhiên đó. Guedali sống trong nỗi lo sợ nơm nớp của những người trong gia đình về sự phát hiện của những kẻ xung quanh. Thời đó, người Do Thái vẫn chưa được chấp nhận hoàn toàn. Thêm vào nữa là mâu thuẫn với người anh cả, Bernado. Guedali có một dự cảm mãnh liệt là anh không thể tiếp tục một kiếp sống chui rúc như thế này nữa, cho dù đó là cuộc sống bình an, thảnh thơi trong sự bảo bọc tuyệt đối của gia đình, những người mà anh yêu mến nhất. Hơn nữa, có một chuyện bất ngờ đã xảy ra với anh - đó là việc anh thầm thương trộm nhớ một cô gái. Đó là điều cấm kỵ, nghe cứ như tình yêu giữa Adam và Eva. Guedali ngắm trộm cô ta qua viễn vọng kính, mơ tưởng này nọ, ngồi hàng giờ ngơ ngẩn, nuôi bồ câu đưa thư, v.v… tóm lại là anh ta đang làm tất cả mọi chuyện vơ vẩn nhất trên đời. Anh ta biết tương tư, biết đau khổ, và biết gục ngã khi trông thấy một người đàn ông bước đến chỗ cô ta trên sân thượng và họ âu yếm nhau. Anh ta phát ốm. Và anh ta phát ngán. Anh ta muốn tự mình giải thoát cho mình khỏi sự ràng buộc này. Tất cả chỉ vì anh ta là Nhân mã. Thế rồi, mọi chuyện tiếp theo diễn biến thật nhanh. Guedali nhận ra cuộc sống tù ngục hoàn toàn trái ngược với những thèm khát ẩn sâu đằng sau cái ước nguyện tưởng nhỏ bé và điên rồ nhưng sẽ là một bước ngoặt lớn trong đời anh: lấy lại sự hoàn chỉnh của một con người và quan hệ như một tên đàn ông. Rõ ràng, Guedali - Nhân mã đã định hình được trong đầu cái tương lai của mình những điều anh muốn làm, những thứ mà anh muốn trở thành, và những cái mà anh hướng đến. Nhân mã cũng được quyền sống và được quyền ước mơ chứ, và để được chấp nhận, để được sống và ước mơ, để hòa đồng vào xã hội Do Thái và thế giới đầy biến động, Guedali chấp nhận rời bỏ phần thân thể không-giống-ai của mình. Anh bỏ nhà đi, rong ruổi tháng ngày trên khắp các đồng cỏ, phi nước đại cho đến khi cả bốn chân đều rã rời và đi đến những vùng đất xa lạ mà anh chưa từng biết đến. Anh đã đi rất nhiều nơi, đã gặp rất nhiều người, gây ra nhiều chuyện, thường nhật cũng có mà lạ lùng cũng có. Người-đàn-ông-Nhân-mã trải qua lần đầu tiên quan hệ với một con người, một đàn-bà-con-người, để tìm mọi cách thỏa mãn dục vọng điên cuồng của mình, nhưng không thành công, vì nói gì thì nói, anh ta vẫn là Nhân-mã. Anh ta làm cho mọi người phát cuồng, rồi sau đó làm họ kinh hãi, và cuối cùng, khiến họ chĩa súng vào anh ta khi phát hiện ra sự thật về anh. Mọi việc có vẻ đều ổn thỏa khi Guedali tìm được một Nhân-mã-cái, một cô gái xinh xắn tên là Tita, sống cùng cô, quan hệ với cô, và sau đó cả hai được Dona Cotinha đưa sang Morroco để phẫu thuật. Như thế là xong, mọi vấn đề được giải quyết, và Guedali những tưởng mình đã có thể có một cuộc sống hạnh phúc kể từ ngày anh không còn trông thấy cái hông to lớn của mình ngúng nguẩy trên bốn chân móng sắt và cái đuôi óng ả như lụa nữa. À, và tới đây thì, câu chuyện đã sẵn sàng rẽ qua một hướng khác. Guedali - Cựu Nhân-mã-đực. Đó là một thế giới thu nhỏ của những rắc rối mà một cựu Nhân mã phải đối đầu. Công việc, gia đình, hai đứa con sinh đôi với Tita, một hình hài đang dần dần trở nên hoàn chỉnh, những người bạn tốt và đáng tin cậy, một con Nhân-mã-đực khác, một con Nhân-sư-cái… tất cả mọi thứ xuất hiện và xoay vòng trong cái suy nghĩ đã già dặn hơn rất nhiều nhưng thỉnh thoảng vẫn không giấu nổi những sự bồng bột trẻ con của Guedali. Đã có lúc anh ta muốn lại trở thành Nhân-mã như ngày xưa, và rồi anh ta sợ hãi. Vợ anh ta, Tita, quan hệ với một con Nhân-mã-đực khác, trong hình dáng con người, và anh ta cũng thế, nhưng với một con Nhân-sư-cái. Mọi chuyện tưởng chừng như đã có lúc rối tung lên. Mọi sự rối tung quay quanh những loài sinh vật lẽ ra đã là huyền thoại. Tôi sẽ cảm thấy đau đầu, cảm thấy chóng mặt, nhưng tôi biết mình sẽ không bao giờ cảm thấy chán nản với Guedali. Cuộc sống là những chuỗi ngày dai dẳng và mâu thuẫn đối nghịch, và chính vì thế anh ta luôn phải phi nước đại để níu kéo nó. Và cũng vì, mỗi con người đều có riêng cho mình một cách phi nước đại, Guedali đã lựa chọn, với tư cách một con người, bằng việc trút bỏ lốt Nhân-mã, về mọi mặt, cho dù nó có phải là quá khứ của mình hay không. Anh ta muốn mình chỉ từng là Nhân-mã, ngoài ra, không hơn. Anh ta có thành công hay không? Câu trả lời nằm ngay trong sự phi nước đại của anh ta. Scliar đã không nói ra điều đó. Đoạn cuối cùng, ông kể lại một câu chuyện hoàn chỉnh quay quanh Guedali, với giọng kể đắc thắng và tự nhiên của Tita, vợ anh. Guedali đã thực sự là một con người, và cuộc đời đầy biến động của anh chẳng khác nào một đoạn phim quay chậm. Tôi thích điều đó. Thân phận và số phận của Guedali không nhất thiết phải rõ ràng và mặc định phải đi theo một con đường nào cả. Và, chính xác là như thế, tôi thích Guedali ở trong đoạn kết này, cười nói theo kiểu con người và quan sát một người phụ nữ theo kiểu con người. Như con ngựa có cánh sắp cất vó bay lên về phía những ngọn núi hoan lạc vĩnh hằng, về phía bộ ngực của Abraham. Như con ngựa với những bộ móng đang nhảy múa, sẵn sàng phi nước đại qua thảo nguyên. Như con Nhân mã ở trong vườn, sẵn sàng nhảy qua tường rào để tìm kiếm tự do. Tự do, không chỉ là hy vọng và nỗ lực của người Do Thái, của Guedali mà còn là của những ai thực sự muốn vươn tới và nắm bắt được nó. Đó là cách mà con người, theo đúng nghĩa đen, nhìn nhận sự tồn tại của mình. Một cái kết hay theo đúng phong cách Scliar. Con Nhân mã ở trong vườn. Nếu ai đó hỏi tôi rằng tác phẩm này có thực sự gây chú ý ngay từ những dòng đầu tiên hay không, tôi sẽ rất thẳng thừng trả lời là hoàn toàn không. Văn phong lạ lẫm của một người Brazil, cách xử lí cốt truyện theo vòng tuần hoàn, có xuất hiện chủ nghĩa cá nhân (vốn là cái mà tôi không hề ưa thích), tự do tín ngưỡng và tôn giáo, những nghi thức của người Do Thái xa lạ, và cuối cùng, một con Nhân mã, được tung ra như thể muốn níu kéo lại sự quan tâm của tôi hơn là muốn gửi gắm một thông điệp gì đó như các tác phẩm khác. Tôi đã đọc tiểu thuyết này với tất cả sự tò mò của mình hơn là một sự đam mê và yêu thích. Nhưng chính cái tò mò ấy đã dẫn đường và mở ra một lối đi cho sự đam mê yêu thích của tôi, sau đó, biến chúng thành cuồng nhiệt. Bằng một cách nào đó, Moacyr Scliar đã khéo léo biến những cái ngáp dài ngáp ngắn ban đầu của tôi thành ba giờ đồng hồ ngắn ngủi mà khó quên của một giấc mơ. Giấc-mơ-mà-tôi-thậm-chí-còn-không-biết-đến-sự-hiện-diện-của-nó. Moacyr Scliar, một bác sĩ y khoa tình cờ trở thành một tiểu thuyết gia. Bằng tất cả lòng chân thành và sự trân trọng của tôi, tôi xin cảm ơn ông vì đã viết Con nhân mã ở trong vườn, một quyển sách xứng đáng chiếm một vị trí quan trọng trên tủ sách mà tôi yêu thích. Ông đã chứng minh rằng những sự so sánh tầm thường, cố gắng loại bỏ một cái gì đó khác biệt, hay hơn thế nữa, những sự “hơn người” và lòng kiêu ngạo sẵn có sẽ chẳng làm nên được trò gì nếu thiếu niềm tin. Dưới ngòi bút giản dị mà quyến rũ và đầy thuyết phục, con Nhân mã hiện lên trong tiểu thuyết của Scliar như một hình hài bé bỏng và chân thật vẫn thường nép mình sau mỗi “chúng ta”. Là một con người không hoàn chỉnh, Guedali thiếu cái mà chúng ta có, và có cái mà chúng ta thiếu. Mặc dù vậy, trên hết, anh vẫn có một thứ ý chí đáng phục và tâm hồn trong sáng, chân thật đáng yêu. Nghĩ đến người khác một cách tự nhiên, luôn dằn vặt mình theo đúng kiểu của một Nhân-mã-muốn-trở-thành-người, và sau đó, đã có lúc tự chôn vùi mình trong mớ hỗn độn về nguyên nhân của mọi việc và mục đích sống, những cái đó đã khiến tôi yêu thích nhân vật này hơn Tita - nàng Nhân-mã-cái. Không phủ nhận rằng Tita đáng thương và nhạy cảm, nhưng tôi nghĩ, ở nàng, ở một phương diện nào đó, về lối sống và cách nhìn nhận, nhân vật này vẫn còn mang vẻ bi quan chán nản và dường như luôn gặp khó khăn mỗi khi đối diện với sự thật. Cô có lẽ đã không đủ tự tin để vượt qua nếu không có một người bạn đời như Guedali bên cạnh. Tuy nhiên, dù gì đi nữa, vì những điều mà Thượng đế không hề ưu ái khi chọn lựa một kiểu hình dáng cho họ, vì những gian khổ mà họ phải chịu đựng, suy cho cùng, họ vẫn xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Hạnh phúc “làm người”. Nói như Trịnh Lữ - người dịch tác phẩm này thì: “… Sau khi đã gập sách lại, đặt nó lên giá, tôi bắt đầu thấy vấn vương, mỗi lúc mỗi sâu xa, với những ý tưởng mà cảm xúc mà câu chuyện ấy đã mang đến cho mình. Tôi thấy mình cũng giống như Guedali. Nhân vật chính trong truyện, suốt đời thèm được mọi người chấp nhận, cố hết sức để có được điều đó, để khi có rồi lại điên cuồng nhớ tiếc con người thật của mình…” Và, tôi đặc biệt thích những dòng bộc bạch chân thật và cởi mở sau đây của Trịnh Lữ: “… Đấy, nếu bạn đã nhiều lúc phải giấu diếm dẹp bỏ những cái độc đáo khác biệt của mình để có được sự chấp nhận của mọi người, và thường khắc khoải về điều đó, thì Con Nhân mã ở trong vườn là câu chuyện tâm đắc của bạn… Và mọi thứ Tình ấy trong Con Nhân mã ở trong vườn đều hồi hộp phập phồng chất nhục cảm phóng khoáng tự nhiên, với những bản năng tuôn trào khôn cưỡng, những thèm khát bạo liệt và những dịu dàng thơ mộng, những mưu mô tinh quái và ân hận nhầu nát, những lí tưởng ngây thơ và thực tại phũ phàng, những tình huống huyền thoại mà xù xì sặc sụa ngay trước mặt; nói tóm lại, những cái rất là “chúng ta”. … Và, chính cái chất hài hước bao dung và không hề làm dáng ấy của câu chuyện đã khiến cho người đọc, khi gập sách lại, cảm thấy cuộc đời vẫn đáng sống…” Bản năng và cuộc sống, ấy là hai thứ mà tôi và bạn, và tất cả những người khác không dễ dàng gì chối bỏ. Tôi có lẽ sẽ để tâm tới sự kì thị, nhưng tôi sẽ không khước từ những sự khác biệt và khả năng mà tôi sẵn có. Tôi nên tự hào về điều đó, vì những điều khác biệt có thể làm nên một con người. Điều quan trọng là tôi có nhận ra được sự khác biệt đó, trân trọng nó hết mức mà tôi có thể và tìm mọi cách phát huy nó theo một chiều hướng tốt hay không. Và tôi tin vào sự phán quyết của mình. Cũng như Guedali, cũng như Con Nhân mã ở trong vườn, cứ hãy nỗ lực hết mình, để rồi sẽ có ngày vươn cánh bay lên, bay một cách thoải mái và tự do bằng chính đôi cánh trên lưng, bên trên những thảo nguyên hoang vu lộng gió. Moacyr Scliar, ông đã nghĩ gì khi viết Con Nhân mã ở trong vườn? Ông nghĩ gì khi khuyên những người đọc của ông hãy cứ vui sống và chấp nhận những khác biệt quanh mình cho đến một ngày họ có thể nói: BÂY GIỜ KHÔNG CÒN PHI NƯỚC ĐẠI NỮA. BÂY GIỜ, MỌI THỨ ĐÃ ỔN CẢ RỒI? Tôi chẳng biết được, và có thể là tôi cũng chẳng bao giờ được biết. Nhưng với tôi, Scliar đã thành công, về mọi mặt. Tôi chắc chắn rằng người đọc của ông sẽ nhớ mãi tên ông, cũng giống như Yann Martel - chúng tôi là những người đã mắc nợ ông vì “cái tia lửa sự sống” mà ông đã thổi vào từ mọi góc độ của quyển tiểu thuyết. Khi đọc Moacyr Scliar, tôi sẽ không bao giờ quên cái sức hấp dẫn của thứ tình yêu cuộc sống mãnh liệt và dồi dào. Cái gì cũng phải làm hết mình, cái gì cũng phải cố gắng hết sức, không được từ bỏ hy vọng chỉ vì không có quyền hy vọng, và sử dụng sự khác biệt như một điểm nhấn mà chỉ riêng bản thân mình mới có. Tạo hóa làm nên con người, nhưng không thể áp đặt con người. Bản thân Guedali, với sự lạc quan và kiêu hãnh, đã là thông điệp đáng giá. Chính vì vậy, những câu chuyện của Scliar đi vào lòng tôi rất nhẹ nhàng mà không cần gõ cửa. Đặt quyển Con Nhân mã ở trong vườn xuống bàn, tôi ngồi đây, nhìn ra phía chân trời xa kia một màu xanh ngắt, và thực sự tin rằng mình đã nhìn thấy, hẳn hoi, một con ngựa có cánh, hệt như trong huyền thoại của ông./. Chuông gió *** SAO PAOLO   QUÁN LẠC VIÊN, MỘT QUÁN ĂN TUNISIA NGÀY 21 THÁNG 9, 1973     Bây giờ không còn phi nước đại nữa. Bây giờ, mọi thứ đã ổn cả rồi. Bây giờ chúng tôi cũng hệt như mọi người; không còn làm ai phải để ý đến mình nữa. Cái thời chúng tôi bị coi là kỳ quặc đã qua rồi, tại sao chúng tôi không bao giờ ra bãi biển, và tại sao vợ tôi, Tita, lúc nào cũng mặc quần dài? Chúng tôi mà lạ ư? Làm gì có chuyện ấy. Tuần trước, Peri, thầy phù thủy người Indian, đến thăm Tita, và anh ấy mới là người kỳ quặc, một thân hình bé tí gầy gò với một bộ râu cằm lưa thưa, đầy những hoa tai và vòng cổ, tay cầm gậy và nói một thứ tiếng nghe rất tức cười. Việc một anh chàng bộ dạng lạ lùng như vậy đến thăm chúng tôi có vẻ không bình thường; nhưng biết làm thế nào, ai chả có quyền rung chuông gọi cửa. Hơn nữa, anh chàng mới là kẻ ăn mặc lạ đời chứ đâu phải chúng tôi. Chúng tôi ấy à, không đâu, bộ dạng chúng tôi tuyệt đối bình thường. Chúng tôi đang ở đây cùng con cái, bạn bè, và con cái của bạn bè, cùng nhau ăn tối trong cái nhà hàng Tunisia này. Dạo trước chúng tôi đến đây thường xuyên hơn. Từ ngày Tita và tôi dọn về Porto Alegre thì những bữa ăn tối như thế này hiếm hoi hơn, nhưng vẫn là dịp tốt để nhóm bạn cũ gặp gỡ nhau. Thực ra hôm nay chúng tôi có một lý do đặc biệt để ăn mừng, đó là sinh nhật tôi. Ba mươi tám tuổi. Ba mươi tám, cỡ nòng của khẩu súng lục vẫn được các nhân viên an ninh trong khu biệt thự của chúng tôi sử dụng, nếu tôi nhớ không lầm. Một cái tuổi tuyệt vời. Tuổi trưởng thành, mà cũng là tuổi cường tráng, hiểu đời, cái tuổi biết đánh giá đúng những gì tốt đẹp, ví du như các món ăn tuyệt hảo ở đây trong quán Lạc Viên này, một nơi mà chúng tôi thú vị cảm thấy như ở nhà vậy. Đúng là chỉ một phút trước tôi đã có một cảm giác khó chịu khi liếc nhìn anh bồi bàn người Arab. Anh ta làm tôi nhớ lại chuyến đi đầu tiên của chúng tôi sang Morocco, cái mùi lộn mửa trên tàu thủy. Tôi đã rất khó chịu, thực sự đã rùng hết cả mình. Paulo, ngồi cạnh tôi bên chiếc bàn dài, đã thấy điều đó. Sao thế Guedali, mặt cậu tái mét đi thế ! Có gì đâu, tôi nói, tớ chỉ hơi đau bụng một tí, nhưng hết rồi, tớ không sao mà. Paulo liền nhân dịp hỏi xem dạo này tôi có còn tập thể dục nữa không, có còn chạy như thời chúng tôi còn hay chạy với nhau nữa không. Tớ thường đi xem đá bóng với các con, chúng nó đều là cổ động viên cho đội Quốc tế của Porto Alegre, nhưng chỉ vậy thôi, chứ không có tập tành gì khác. Á à..., Paulo đắc thắng, thảo nào mà cậu bắt đầu béo bụng rồi kìa, hèn gì mà không đau. Nhìn tớ đây này, Guedali, tớ vẫn đâu vào đấy nhá. Tớ vẫn chạy, tối nào cũng vậy, rất đều. Cậu không nên bỏ tập, Guedali à. Chạy đi, anh bạn ạ. Cố gắng một chút. Không phải vì tuân thủ phương pháp đâu, mà để cho nó có thách thức, cậu hiểu không. Đời mà không có thách thức thì chẳng đáng sống nữa. Hãy nghe lời thằng bạn già Paulo này một cái xem nào. Paulo nói đúng. Tôi nên chạy thường xuyên. Tôi đã định tiếp tục chạy trong trang trại mà tôi có ở gần Quatro Irmão, trong nội địa Rio Grande do Sul. Nhưng bây giờ đất ở đó trồng trọt hết rồi, chẳng còn chỗ mà chạy nữa. Anh ruột tôi, Bernardo, cai quản cái trại ấy cho tôi. Ai cũng nói có điên mới đâm đầu vào việc trang trại, chưa nói đến việc lại còn làm việc đó với một cộng sự như Bernardo. Anh ấy thất thường, bắt đầu việc gì là bỏ dở việc ấy và đã lang bạt khắp xứ Brazil. Nhưng khi anh đến gõ cửa nhà tôi một ngày nọ và để nghị được giúp đỡ, tôi đã quyết định chấp nhận rủi ro. Thế mà mọi việc lại thành tốt. Bernardo đã cho thấy anh là một quản lý trang trại hạng nhất. Anh cơ giới hóa công việc và học hỏi một nhà nông học về việc sử dụng phân bón và thuốc diệt cỏ. Anh quản người làm rất chặt, tóm lại, anh khiến cho mọi thứ vận hành thật tốt. Anh bạn cũ tốt bụnb Paulo. Một người bạn tốt, một cộng sự tốt. Nhờ có đầu óc tỉnh táo và nhìn xa trông rộng của anh, chúng tôi đã vào được đường dây xuất khẩu. Thật là một ý tưởng lớn. Đó là cái đã cứu chúng tôikhi việc làm ăn cứ bê bối dần trong thời gian tôi còn sống ở Sao paulo. Chúng tôi đã xuất khẩu hết tấn hàng này đến tấn hàng khác, đặc biệt là sang Morocco, nơi tôi có nhiều quan hệ tốt. Đúng là một người bạn hay, Paulo. Paulo với Fernanda, Julio với Bela, Armando với Beatrice, Joel với Tânia... toàn là bạn hay. Hay biết bao khi được ở giữa bạn bè, uống rượu vang, nặng nhưng ngon làm sao - trong bầu không khí đẹp đẽ và đầm ấm. Đúng thế, thật sung sướng được ngồi ở đây, trong cái tiệm ăn Tunisia này. Cái duy nhất hơi làm tôi khó chịu ngay lúc này là tiếng nhạc Arab - chói tai, mở âm lượng rất to. Nhưng chính cái đó cũng lại có cái lợi điểm của nó : nếu những đôi cánnh có rung lên xao xác ở ngoài kia, phía trên ngọn cái cây cọ nhìn thấy được qua cái cửa sổ kia, tôi sẽ không biết, không nghe thấy chúng. Tôi nghĩ cái tiếng xao xác mà tôi nghe thấy đó là tiếng gió, một thứ gió nóng đã nổi lên suốt buổi chiều. Có lẽ sắp mưa. Tita mỉm cười. Nàng đang ngồi đối diện với tôi, xinh đẹp hơn bao giờ hết. Quãng đồi gian khó mà nàng đã trải qua có để lại dấu ấn trong những đường nét trên gương mặt nàng, thì cũng chỉ khiến cho vẻ đẹp của nàng thêm chín, thêm sâu, thêm mềm mại. Tita yêu dấu, người vợ thương mến của tôi. Bên trái tôi là cặp con trai sinh đôi của chúng tôi. Suốt nửa tiếng đồng hồ chúng đã không ngừng thì thầm vào tai nhau, hai thằng quái con. Con lạ gì những chuyện khỉ của chúng. Hai thằng con trai tốt lành, thông minh và chịu khó. Mà chúng mới lớn nhanh làm sao! Chẳng mấy chốc chúng sẽ cao hơn cả tôi, mà tôi đã rất cao rồi. Chúng đã bắt đầu hỏi xin ôtô; một ngày gần đây chúng sẽ đem bạn gái về nhà. Rồi chúng sẽ lấy vợ, sẽ đến một ngày tôi thành ông nội. Mọi việc đều tốt đẹp. Nghĩa là, mọi việc đều hầu như tốt đẹp cả. Vẫn còn những cái khiến tôi khó chịu. Chứng mất ngủ của tôi, những giấc ngủ vật vã của tôi. Tôi rất hay sực tỉnh giữa đêm, tưởng như vừa nghe thấy một tiếng động gì quái lạ (có phải tiếng xao xác của những chiếc lông trên cặp cánh con ngựa bay?) nhưng đó chỉ là tưởng tượng mà thôi. Tita cực kỳ thính tai, chẳng bao giờ nghe thấy gì hết; nàng ngủ thật say. Và lại còn nằm mơ nữa. Chẳng cần phải kéo mi mắt nàng lên và nhìn trộm vào đồng tử như nhìn qua cửa sổ để xem nàng mơ thấy gì. Ngủ cạnh nhau boa nhiêu lâu như thế đã làm cho những giấc mơ của chúng tôi hòa trộn vào nhau. Con ngựa mà vừa một lúc trước tôi đã thấy đang im lặngbay giữa những đám mây giờ đây đã phi nước đại trên những cánh đồng cỏ trong giấc mơ của nàng. Và nó không làm phiền gì nàng. Những giấc mơ của tôi mới là cái tôi phải chỉnh sửa. Tôi phải bắt được con ngựa của mình và lột bỏ tất cả những thứ dư thừa lạ lùng của nó. Hoặc giả loại bỏ nó hòan toàn ra khỏi các giấc mơ của tôi. Có những viên thuốc ngủ đặc hiệu để làm việc này. Một vài điều lạ lùng cũng xẩy ra với tôi, làm cho những thông điệp khắc khoải kia cứ nhiều thêm mãi. Ví dụ : một vài phút trước, tôi đang nguệch ngoạc vài chữ lên tờ giấy ăn với cây bút bi bằng vàng mà các bạn tôi vừa tặng, một cây bút nhập khẩu tuyệt đẹp, thì tôi giật mình khi thấy mình viết ra câu: Bây giờ mọi việc đều ổn cả. Một câu tuyệt đối tầm thường, nhưng viết bằng những con chữ gãy góc trông rất kỳ quặc. Cái gì, sức mạnh nào, trường lực nào, đã đưa đẩy tay tôi viết ra những chữ ấy ? Tôi không biết. Tôi phải thú nhận là mình không biết, mặc dù cái tuổi 38 của tôi, mặc dù những trải nghiệm dị thường mà tôi đã có. Còn có nhiều thứ không biết, nhiều cái bí ẩn trong con người tôi. Chẳng phải đã đến lúc mở hết các cửa đập, để cho các dòng thác được tuôn chảy hay sao ? Hôm qua tôi thấy những cảnh nước lụt trên TV. Các con vật bơi giữa dòng nước đục ngầu, tìm kiếm nơi trú ngụ trên những ngọn cây vẫn còn cao hơn mặt nước. Khuôn mặt ướt đẫm của một con khỉ được quay cận cảnh đặc biệt làm tôi xúc động; đó là hình ảnh của sự thơ ngây bất lực. Chẳng phải đã đến lúc bộc bạch mọi chuyện với các bạn hay sao? Bây giờ, khi mọi thứ đã ổn cả rồi, tôi có nên nói cho họ biết không? Không có gì phải sợ. Chẳng có cái đuôi nào sẽ vẫy lên nhặng xị để đuổi lũ ruồi đang vo ve quanh tôi nữa đâu mà. Nói đến ruồi, quả thực ở đây lắm ruồi quá. Quán ăn nấu ngon, nhưng không phải là một nơi sạch sẽ nhất. Họ phải biết đem rách đổ ra thật xa đằng sau nhà mới phải. Dù sao, phải nhắm mắt làm ngơ và đừng phàn nàn gì cả. Những người này rất dễ nổi giận, và sẽ trả thù. Vừa mới hôm qua họ còn cưỡi lạc đà băng qua các đụn cát sa mạc, những dải khăn quấn trên đầu còn phấp phới bay trong gió. Nếu bị phản thùng, họ sẽ thề phải trả thù, và sẽ dùng dao găm đâm chết ngay cả bạn bè khi có cơ hội đầu tiên. Họ là những người Berber[i]. Tất nhiên họ không còn cưỡi lạc đà nữa. Khi đóng cửa quán ăn họ sẽ về nhà bằng ôtô. Nhưng tôi vẫn thấy một tia hiểm độc trong mắt họ. Có thể đó chỉ là chứng tự kỉ ám thị kiểu Do Thái của tôi.   ***   Vâng, tôi có thể kể tất cả mọi chuyện. Khiêm nhường nhưng cao giọng. Đàng hoàng, không rơi vào hài hước rẻ tiền, cũng không chơi chữ. Không ám chỉ gì đến Cavalleria Rusticana, hoặc đến con lừa của Buridan[ii]. Những người Indian có xuất hiện trong câu chuyện của tôi, mà đúng là vẫn có người Indian sống trong vùng Quatro Irmãos trong năm 1935, họ sẽ không cưỡi ngựa như những người khai hoang dũng cảm, mà chỉ đi bộ, khiêm tốn cho dù vẫn mang một dáng vẻ bí ẩn, và tìm kiếm việc làm. Tôi sẽ không nói gì đến những con ngựa riêng tư đang phi nước đại trong mỗi chúng ta, tôi không biết chúng có tồn tại hay không. Toi cũng sẽ không nói gì đến các đoàn người cưỡi ngựa, nghĩa là đến quá trình tiến hóa không ngừng của lịch sử tới một định mệnh không ai biết. Chẳng hiểu tại sao con người ta lại phải gọi cuộc hành quân không ngừng ấy của lịch sử bằng một cái tên gì khác. Thì cứ gọi nó là cuột hành quân không ngừng của lịch sử thì đã sao, còn nếu có ai vẫn chưa hài lòng thì ta thêm vào rằng cuộc hành quân ấy không bao giờ chậm lại hoặc đảo ngược chiều. Thế thì tại sao tôi không đứng dậy đi? Tại sao tôi không lấy cây bút gõ gõ vào ly rượu vang để kêu gọi mọi người chú ý, và tuyên bố rằng một bí mật sắp được tiết lộ? Tại sao? Tôi không biết. Tôi cảm thấy không an toàn. Tôi sợ phải đứng lên. Tôi sợ hai chân tôi sẽ không mang nổi tôi; sự thật là tôi vẫn chưa tin tưởng hẳn ở chúng. Loài hai chân không vững chắc như loài bốn chân. Hơn nữa, tôi say rồi. Hết lần nâng cốc này đến lần nâng cốc khác, vì người ta đang ăn mừng sinh nhật của mình, vì vợ anh ta, vì con trai anh ta, vì các bạn anh ta, vì cha mẹ và anh chị em anh ta, vì công ty xuất khẩu của anh ta, vì trang trại của anh ta, vì đội bóng đá mà anh ta ủng hộ, và rượu vang đã ngấm vào đầu tôi. Ngồi đối diện tôi, Tita đã ra hiệu cho tôi ngừng uống. Nàng đang nói chuyện với một cô gái ngồi cạnh, thực sự là một cô gái rất xinh đẹp. vẻ đẹp của cô ta thuộc loại dị thường : tóc dài màu đồng đỏ, cặp kính râm đen (tại sao đeo kính râm buổi tối?) che gần kín khuôn mặt bí hiểm. Một chiếc áo sơmi kẻ sọc kiểu đàn ông, khuy mở một nửa, phô bày những vòng đeo cổ và nét lượn của cặp vú đầy đặn thật đẹp. Tôi không biết cô ta. Tôi chỉ biết cô ta là bạn của gia đình Tânia và vừa mới ly hôn. Tôi nâng li về phía cô : chúc sức khỏe! Tita liếc nhanh cảnh cáo tôi. Nàng không ghen đâu. Nàng biết tôi say, và sợ tôi sẽ nói lung tung, kể những chuyện vô lý. Nàng thường nói trước khi giải phẫu tôi có lý hơn nhiều. Tita nghĩ cũng phải. Tốt hơn cả là im lặng. Thà viết nguệch ngoạc còn hơn. Bây giờ mọi thứ đều ổn cả. Mặc dù nét bút kỳ quặc này, mặc dù tiếng xao xác của những đôi cánh, mặc dù những cảnh trí mà tôi đang nhớ lại.     Mời các bạn đón đọc Con Nhân Mã Ở Trong Vườn của tác giả Moacyr Scliar & Trịnh Lữ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vịnh Tokyo - Anthony Grey
Tiểu thuyết lịch sử về các biến động tháng Bảy năm 1853, tàu chiến Mỹ làm chấn động nước Nhât, và gần đưa hai nứơc mỹ nhật tới chiến tranh *** Anthony Gray OBE là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, bao gồm một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. *** Nửa đêm, 7 tháng Bảy năm 1853 MỒ HÔI TRẮNG XOÁ TÚA RA TỪ LƯNG CON ngựa trạm gần như đang hấp hối khi chàng kị sĩ đội chiếc mũ trụ samurai thúc mạnh cựa giày vào nó và phóng như tên bắn vọt qua chiếc cầu vồng vắt qua vòng thành thứ ba phía trước toà thành trì đồ sộ của Shogun ở Yedo. Tới trước hàng lính gác mặc áo giáp chống giáo chắn ngang cánh cổng sắt nặng nề chàng kị sĩ hô vang: - Chokurei - da! Kinkyu Chokurei - da! Chàng rút ra từ dưới vạt áo chiến bào một cuộn giấy nhỏ được buộc bằng những sợi dây mạ vàng và giơ cao lên quá đầu. Những người lính gác đội mũ sắt mặc áo giáp bằng da và tre đã dợm chĩa mũi dáo về phía chàng, nhưng tiếng hô của chàng trai trẻ có vẻ là một samurai đã khiến họ dừng tay. Những lời chàng vừa hô là mật hiệu báo rằng chàng mang theo một "tin khẩn" do Hoàng đế gửi tới từ cung điện ẩn dật của Người ở Kyoto, cách Yedo ba trăm dặm về phía Tây nam. Và nữa, khi chàng đến gần hơn thì họ nhìn rõ ngôi sao sáu cánh, phù hiệu của thị tộc chàng được thêu bằng chỉ vàng trên vạt áo chiến bào jimbaory chỉ rõ rằng chàng là một nhà quý tộc ở đẳng cấp cao nhất. - Hayaku! Hayaku! Mau lên! Chàng khẩn thiết quát những tên lính gác đang lóng ngóng mở cổng và cố kìm con ngựa đang lảo đảo. Khe hở giữa hai cánh cổng vừa đủ rộng chàng đã thúc cho con ngựa chồm vọt qua hàng lính gác bên trong. Chàng dễ dàng vượt qua vài trạm gác nữa, mỗi lần lại hô vang và vung cao cuộn giấy, tận tới khi lên tới bậc thềm đá dẫn lên cửa chính của toà lâu đài. Đúng lúc chàng quăng người xuống khỏi yên thì con ngựa gục xuống, mép sùi bọt máu. Nhưng chàng samurai không hề liếc mắt nhìn lại, chàng nhảy vội lên bậc thềm đá, đôi song kiếm nhô ra khỏi tấm thắt lưng màu tro nhạt bó chặt lấy tấm kimono. Chàng giơ cuộn giấy có đóng triện của Hoàng đế cho viên chỉ huy đội vệ binh và ngay lập tức được đưa vào. Vừa đi vừa chạy, chàng vượt qua dãy hành lang lợp mái vòm cao, hai bên tường được dát toàn vàng lá. Nhảy ba bậc một, chàng đi sát vào bức tường trên có những hoạ tiết miêu tả cảnh những con chim huyền thoại đậu trên cành trúc và những rặng anh đào núi. Phía trên đầu, hàng xà gồ bằng gỗ được phủ lớp sơn mài hai màu đen và óng ánh vàng đỡ lấy mái vòm được trang trí tuyệt đẹp, nhưng chàng samurai trẻ tuổi chẳng hề liếc mắt đến tất cả những cái đó và chỉ dừng lại để hỏi những tên lính gác mặc đồng phục đứng dọc hành lang xem phải đi lối nào rồi lại hối hả bước đi. Khi đến trước cánh cửa của phòng Hội đồng Tướng quân, chàng tháo mũ trụ và rút cuộn giấy ra khỏi vạt áo chiến bào. Vẻ mặt khẩn cấp chàng trình bày với viên thị vệ trưởng của Hội đồng. Ngay sau đó chàng tháo zori và quỳ tiến vào trên đôi chân trần. Hàng trăm cặp mắt đổ dồn đầy dò hỏi khi chàng bước vào gian sảnh với vẻ mặt xanh tái. Tất cả bọn họ đều mặc những tấm áo daimyo rực rỡ, đó là những quận công đứng đầu các lãnh địa trên khắp đất nước Nhật Bản, tất cả bọn họ quỳ quanh một chiếc bệ cao đặt chính giữa. Shogun ngồi trên chiếc bệ đó. Các daimyo chỉnh tề trong bộ triều phục gồm áo choàng vai, quần lụa buông lá toạ, đầu đội mũ sơn mài sáng lấp lánh, họ kinh ngạc nhìn chàng quý tộc áo quần xộc xệch. Khi chàng phủ phục, đầu cúi xuống tận nền nhà họ mới nhìn thấy búi tóc trên đầu chàng cũng dính đầy bụi bặm và bê bết mồ hôi. Trước khi phủ phục chàng đã tháo hai thanh kiếm ra khỏi thắt lưng áo choàng và đặt chúng cùng chiếc mũ trụ xuống tâm tatami bên mình. Cũng giống như quần áo chàng, hai thanh kiếm cùng chiếc mũ trụ đều bê bết bùn đất. Shogun ngồi trên bục cao, im lặng nhìn và chờ đợi. Ông ngồi xếp bằng, tấm áo choàng bằng lụa xám khiến cho ông có dáng vẻ của Đức Phật. Mặc dù ông vẫn ngồi rất thẳng, nhưng gương mặt gầy của ông vẫn có một vẻ xanh xao khác thường và những giọt mồ hôi ướt đẫm trên trán cho thấy ông tựa như đang bị bệnh nặng. Sự xuất hiện đột ngột của chàng trai đang thở hổn hển kia đã gây nên một chớp nhoáng cảnh giác trong đôi mắt của Shogun, nhưng ông đã nhanh chóng lấy lại được vẻ bình thản và khẽ quay đầu lại. Tiếp nhận hiệu lệnh đó, một vị trong hàng các daimyo đang quỳ trước bệ bèn nhổm lên và cúi đầu xuống thật thấp hướng về phía Shogun. Rồi vẫn tiếp tục cúi đầu thật thấp ông ta lùi tiếp ra xa để người đưa tin trẻ tuổi có thể lách vào quỳ xuống và tự giới thiệu. - Tâu Đại Tướng quân, tôi là Tanaka Yoshio, hoàng tử thuộc thị tộc Kago, tỉnh Kumatore - Chàng samurai nói giọng sang sảng - Tôi được uỷ nhiệm mang tới trình Đại Tướng quân một tin thượng khẩn từ Đức Đại Hoàng đế ở Kyoto. Mời các bạn đón đọc Vịnh Tokyo của tác giả Anthony Grey.
Chậm Rãi - Milan Kundera
Chúng tôi nảy ra ý muốn nghỉ chiều và qua đêm tại lâu đài. Nhiều lâu đài ở Pháp đã biến thành khách sạn: một vùng cây cối lọt thỏm trong một vùng không gian trơ trụi, khô cằn; một khoảng nhỏ để đi dạo với chim muông, cây cỏ giữa một hệ thống đường cao tốc rộng lớn. Tôi đang lái xe, qua tấm kính hậu tôi nhận thấy một chiếc xe con chạy phía sau. Ngọn đèn nhỏ bên trái nhấp nháy, cả chiếc xe phả ra những làn sóng nôn nóng. Người tài xế đang tìm cơ hội để vượt qua tôi; anh ta quan sát lựa thời cơ giống như một con diều hâu lựa lúc lao xuống chụp con chim sẻ. Véra, vợ tôi, nói với tôi: “Cứ năm mươi phút lại có một người chết vì tai nạn giao thông ở Pháp. Nhìn mà xem, tất cả cái đám đông điên cuồng đang quay lượn quanh chúng ta. Đó cũng chính là những người đã tỏ ra thận trọng kinh khủng khi có một bà già bị móc túi ngay trước mặt họ ở trên phố. Làm sao họ lại không cảm thấy sợ hãi khi ngồi sau tay lái?” Tôi biết nói gì đây? Có thể là thế này: con người đang cúi gập mình trên chiếc xe máy chỉ có thể tập trung chú ý vào khoảnh khắc hiện tại anh ta đang lao xe đi; anh ta bị buộc chặt vào mảng thời gian bị cắt rời khỏi cả quá khứ và tương lai; anh ta bị dứt tung khỏi dòng chảy liên tục của thời gian; anh ta ở ngoài thời gian; nói cách khác, lúc đó anh ta đang trong trạng thái xuất thần, ở trạng thái đó anh ta không còn biết gì đến tuổi tác, vợ con, những nỗi âu lo của mình nữa cả, thế nên anh ta không thấy sợ, bởi vì nguồn gốc nỗi sợ là ở phía trước, phía tương lai, mà một người đã thoát khỏi tương lai thì không có gì phải sợ. Tốc độ là một hình thức xuất thần mà cuộc cách mạng kỹ thuật đã tặng cho con người. Ngược lại với người đi xe máy, người chạy bộ luôn luôn hiện diện trong cơ thể anh ta, buộc phải không ngừng nghĩ xem mình đã phồng chân, kiệt sức chưa; trong khi chạy anh ta cảm thấy trọng lượng, tuổi tác của mình, ý thức hơn bao giờ hết về bản thân và thời gian sống của mình. Mọi chuyện sẽ thay đổi khi con người giao phó khả năng tốc độ cho máy móc: kể từ khi đó, cơ thể riêng của anh ta bị đặt ra ngoài quá trình vận động, anh ta hiến mình cho cái tốc độ phi cơ thể, phi vật chất, tốc độ thuần túy, tốc độ tự nó, tốc độ xuất thần. *** Milan Kundera (sinh 1/4/1929 tại Brno, Cộng hòa Czech, định cư tại Pháp từ 1975) là một nhà văn lớn thế kỷ XX, một nhà tiểu thuyết có lối viết độc đáo, khác lạ. Tác phẩm của ông đã vào Việt Nam từ cuối thập niên 1990.  Tiểu thuyết “Sự bất tử” do tôi dịch đã đăng ở số 1 (1996) tạp chí “Văn học nước ngoài” của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1999 tiểu thuyết này cùng hai tiểu thuyết khác của Milan Kundera (“Chậm rãi”, “Bản nguyên”) cũng do tôi dịch đã được in thành sách dày 766 trang (Nxb Văn Học & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây).  Nhà văn Nguyên Ngọc đã dịch của Milan Kundera ba tập tiểu luận - “Nghệ thuật tiểu thuyết” (1998), “Những di chúc bị phản bội” (2001), “Một cuộc gặp gỡ” (2013) và một tiểu thuyết - “Lễ hội của vô nghĩa” (2015).  Dịch giả Cao Việt Dũng đã dịch của Milan Kundera ba tiểu thuyết – “Cuộc sống không ở đây” (2003), “Điệu valse giã từ” (2004), “Vô tri” (2010), một tập truyện ngắn – “Những mối tình nực cười” (2009) và một tập tiểu luận – “Màn” (2014).  Dịch giả Trịnh Y Thư ở Mỹ đã dịch của Milan Kundera tiểu thuyết “Đời nhẹ khôn kham” (2002), cuốn này vừa được in trong nước đầu 2018. Hôm nay, sau đúng hai mươi năm ra sách lần đầu, tôi đón nhận bản dịch “Sự bất tử” (496 trang) tái bản. Hai cuốn còn lại (“Chậm rãi” và “Bản nguyên”) sắp tới cũng sẽ ra lại. Cả ba cuốn này đều do Nhã Nam làm.  Nhà văn Nguyên Ngọc cho biết ba cuốn tiểu luận của Milan Kundera ông dịch cũng đang được công ty sách Bảo An Books xúc tiến tái bản. Các tác phẩm của tác giả Milan Kundera: Đời Nhẹ Khôn Kham Vô Tri Cuộc Hội Thảo Điệu Valse Giã Từ Những Di Chúc Bị Phản Bội Sẽ Không Ai Cười Chậm Rãi Sự Bất Tử Lễ Hội Của Vô Nghĩa Màn Một Cuộc Gặp Gỡ ... Mời các bạn đón đọc Chậm Rãi của tác giả Milan Kundera.
Bỏ Vợ - Hồ Biểu Chánh
Ông Ba Chánh năm nay vừa quá 50 tuổi, tóc đã bạc hoa râm, nhưng răng còn chắc chắn, sức còn mạnh mẽ. Ông goá vợ đã hơn 6 năm rồi. Trong nhà chỉ có một đứa con gái, là cô Huyền, được 21 tuổi. Ông quen với thầy Thanh, nhà ở một xóm, mà làm việc dưới Sài Gòn, thường hay tới lui đàm luận với nhau chơi. Cách vài năm trước, vì thầy Thanh làm mai nói dẻo dai quá, nên ông mới gã cô Huyền cho thầy Võ Như Bình, người mồ côi, gốc ở đâu dưới Hậu Giang, thi đậu bằng thành chung rồi làm việc trong một hãng buôn dưới Sài Gòn. Ông nghĩ thầy Bình thân phận côi cút lại là người có học thức, nên gả con ông cũng không đòi hỏi vật chi hết, đám cưới làm sơ sài, mời năm ba người quen đến ăn uống một bữa mà thôi, mà cũng không cần rước Chánh lục bộ đến lập hôn thú. Từ ngày cưới rồi thì thầy Bình về ở theo bên vợ. Thầy có sắm một cái xe máy, để mỗi buổi sớm mai thầy đạp đi xuống Sài Gòn làm việc, trưa thầy ăn cơm quán và ở nghỉ tạm tại nhà của người làm chung một hãng, đến chiều tối thầy mới về Chí Hòa. Thầy Bình ở với cô Huyền đã sanh được một chút con trai, đặt tên là Nghiệp, mới 10 tháng mà sổ sữa, ngộ nghĩnh, chẳm hẳm lắm... *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Bỏ Chồng - Hồ Biểu Chánh
Qua tháng mười một, mùa mưa đã dứt rồi, lại có ngọn gió bấc thổi lao rao. Buổi chiều, ở Sài Gòn, khí trời mát mẻ, làm cho con người từ trẻ chí già đều khỏe khoắn trong mình, nên đi ngoài đường ai cũng lộ cái vẻ hớn hở tươi cười. Thế mà, Chí Thiện, năm nay đã được 28 tuổi, làm thơ ký toán cho một hãng buôn lớn tại đường Kinh Lấp, đúng 7 giờ tối, thầy ở trong hãng bước ra, bộ đi chậm rãi, mặt mày buồn hiu, dường như thầy tiếc rẻ hãng đóng cửa sớm không cho thầy làm việc thêm nữa. Tay ôm một cuốn sách với một tờ nhựt báo, thầy thủng thẳng đi lại đường Pelerin đón xe autobus mà về Đa Kao. Bước lên xe thầy ngồi dưới ngọn đèn điện sáng trưng, mở tờ nhựt báo ra mà xem, không ngó kẻ qua người lại hai bên đường, mà cũng không để ý đến những kẻ đi trên xe. Tới Đa Kao xe ngừng, thầy xếp tờ nhựt trình rồi bước xuống tránh xe kéo, xe máy mà quẹo lên đường Paul Bert. Gần tới căn phố chỗ thầy ở, thầy thấy con Sáu, là đứa con gái, đương đứng dựa cột điện mà chơi với con thầy, tên con Yến, năm nay đã được 6 tuổi. Bấy giờ thầy mới xăn bước, đi riết lại. Con Yến kêu “ba” rồi chạy đón, ôm bắp vế thầy. Thầy cuối xuống, ôm mặt con mà hun, đưa cuốn sách với tờ nhựt báo cho con cầm, rồi nắm tay dắt con đi vô nhà. Trong nhà đèn sáng trưng, nhưng từ trước ra sau đều vắng hoe, không nghe tiếng, không thấy dạng một người nào hết. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Chồng của tác giả Hồ Biểu Chánh.