Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma - Tadeusz Dolega-Mostowicz

Tađêus Đôuenga Môxtôvich (Tadeusz Dolega Mostowicz, 1898 - 1939) là nhà văn xuất sắc của nền văn học Ba Lan thời cận đại. Ông là tác giả của những tiểu thuyết tâm lý xã hội theo khuynh hướng tình cảm rất được ưa chuộng (Thầy lang, Giáo sư Vintrurơ), nhưng nổi tiếng nhất với các tác phẩm hiện thực phê phán đặc sắc: Đường công danh của Nikôđem Đyzma. Hoạt động văn học trong cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy hấp dẫn của T.Đôuenga Môxtôvich diễn ra trùng với thời kỳ hai mươi năm tồn tại và phát triển của nước Ba Lan tư sản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 - 1939), trong bối cảnh đất nước vừa giành lại được độc lập sau hàng thế kỷ bị các thế lực đế quốc chia cắt, xâu xé, hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ thế giới, để rồi chẳng mấy chốc lại rơi vào nanh vuốt của bè lũ phát xít Đức. Chính thời kỳ giai cấp tư sản dân tộc non yếu được nắm tay lái con thuyền quốc gia vừa bị lọt vào cái “mắt bão” - vùng tạm thời yên tĩnh giữa những cơn bão táp hung bạo trên toàn thế giới, song không thiếu những rối ren phức tạp trong nước - là thời kỳ thuận lợi cho chủ nghĩa cơ hội phát triển, thời kỳ những nghịch cảnh, những đảo lộn xã hội diễn ra liên tiếp, tập trung và sôi động hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là thời kỳ được T.Đôuenga Môxtôvich lấy làm bối cảnh cho quyển tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông. Đường công danh của Nikôđem Đyzma quả là hiển hách, đáng ngạc nhiên, bởi đó gần như là cuộc hội tụ của biết bao “ngẫu nhiên may mắn, bao “số đỏ”, đến mức khiến người đời phải chóng mặt, ngỡ ngàng. Ở chương đầu sách, y chỉ là một anh công chức cấp thấp ở tỉnh lẻ bị mất việc, đang lang thang tìm việc làm, túi rỗng không và chiếc dạ dày lép kẹp. Ấy thế mà tới những trang cuối sách y đã là một triệu phú cỡ lớn, chủ một cơ ngơi nông - công - nghiệp khổng lồ, chính khách số một của đất nước, người được chính tổng thống mời ra đảm nhiệm sứ mạng thành lập nội các mới, nhằm chèo lái con thuyền quốc gia qua cơn bão chao đảo! Cái gì đã khiến Nikôđem Đyzma leo nhanh và cao đến thế trên những bậc thang danh vọng của cuộc đời? Cái gì là nguyên nhân thật sự mở ra con đường công danh đầy huyền thoại của kẻ vô học “bất tài chi tướng” kia? Tại sao giữa lòng cái xã hội quý tộc - tư sản, với những thể chế ngỡ như chặt chẽ, với quy luật cạnh tranh khốc liệt kia lại nảy nòi một cái nỗi oái oăm nhường ấy? Nhà văn đã không đứng ra thuyết minh, trả lời và kết luận thay người đọc, nhưng qua bức tranh liên hoàn hiện thực mà ông đã dựng lên, người đọc nhận thức được rằng: nguyên nhân chính tạo nên bước đường công danh lừng lẫy của nhân vật kia chính là bởi cái xã hội đang sống chỉ có tôn ti, trật tự, luật lệ, kỷ cương về phương diện hình thức mà thôi. Còn bên trong, guồng máy của nó lại hoạt động bằng một loại “nhiên liệu” vạn năng duy nhất là đồng tiền. Trong cái xã hội ấy, ngài luật sư có uy tín nhất, đồng thời cũng là người bảo trợ cho Hội Bảo vệ gia đình (mặc dù là chuyên viên sừng sỏ nhất trong lĩnh vực ly hôn!) đã trắng trợn vòi tiền “công” vì lấy được lời chứng của những người đã chết. Trong xã hội ấy, người ta có thể thuê giết một mạng người với một trăm đồng bạc, có thể đổi trắng thay đen dễ như trở bàn tay, có thể dựng ra cả một tiểu sử huy hoàng để tô son trát phấn cho một anh dốt nát nhà quê đóng tuồng làm “người hùng”, làm “chính khách”, làm nhà “kinh tế thiên tài”... Cái xã hội mà ngay ở những cấp cao nhất của chính quyền, cũng chỉ là một lũ người dốt nát, bất lực, mâu thuẫn nhau, chỉ giỏi ăn chơi cãi vã. Cái xã hội mà “phương sách” hữu hiệu nhất là tiền cộng với lừa đảo, dối trá. Những nghịch cảnh của xã hội được lột trần đến lõa lồ trước mắt người đọc, bởi mấy ai ngờ rằng một “hội đồng” dâm của các vị phu nhân lá ngọc cành vàng, vợ con các “ông lớn”, lại có khả năng điều hành thật sự bộ máy quốc gia, đến mức tống cổ ngài thứ trưởng kiêm đổng lý văn phòng hội đồng bộ trưởng đi... Tàu, chỉ vì ngài sắp lật mặt nạ “người tình chung” của các bà! Xuyên suốt tác phẩm là hai quá trình có hướng ngược nhau, diễn ra đồng thời, ở một con người - đó là nhân vật chính: Nikôđem Đyzma. Y leo nhanh đến mức đáng kinh ngạc trên những bậc thang danh vọng, nhưng lại tụt dài về phương diện nhân cách, từ cái trong sạch của một con người bình thường xuống vũng bùn nhơ nhớp của những tội lỗi ghê gớm nhất. Ban đầu, dù thất nghiệp, đói rách, Đyzma vẫn còn lương tâm trong sạch, thấy cái phong bì của cậu bé bưu điện đánh rơi y còn thương tình gọi với theo để trả, nhặt được giấy mời đi dự tiệc (gửi một người khác), y mang đến tận nhà (bụng thầm mong được trả công vài đồng bạc), y biết đỏ mặt ngượng khi bịa ra một câu chuyện phạm tội vô hại kể cho một cô gái làm tiền. Thế rồi, chỉ qua một bữa tiệc mà y lấy hết gân cốt đến dự nhằm thỏa mãn cái đói, y đã nhảy một bước lọt vào xã hội thượng lưu, để ngấm dần vào người “độc dược” hiệu nghiệm lấy làm kim chỉ nam cho mọi hành vi đối nhân xử thế: lừa đảo. Không những y không hề ngần ngại khi lừa cơ cướp cả cơ nghiệp lẫn cô vợ xinh đẹp của ông chủ đã hết lòng đối xử tử tế với y, mà y còn không run tay khi thuê bọn lưu manh, giết một người ân nhân cũ để bịt đầu mối, không hề áy náy khi ra lệnh cho bọn cảnh sát đánh đập dã man một cô gái vô tội đã nặng lòng yêu y. Sở dĩ y tha hóa nhanh như thế về phương diện đạo đức chỉ bởi y đã tiếp xúc với những “tinh hoa” của giới cầm quyền. Xét về phương diện ấy, Đyzma cũng là một nạn nhân của xã hội tư bản - một nạn nhân “tự nguyện”. Sự trèo nhanh leo cao của y không phải là thành quả đạt được bởi những thủ thuật không mấy tinh khôn mà y đã học được ở các “tinh hoa” thượng lưu xã hội kia (như kiệm lời để giấu dốt, nhắc lại ý của người khác nhận rằng là của mình…). Mà có nguyên nhân sâu xa hơn: đó là sự mâu thuẫn giữa các giới cầm quyền, các cá nhân có thế lực trong guồng máy xã hội, đó là sự dốt nát trong đánh giá của các giới đó đối với Đyzma. Các vị đại diện cao cấp nhất của xã hội đã không có khả năng phân biệt thật giả, đã ngộ nhận về khả năng - thậm chí tài năng - của Đyzma, đã đưa y lên những địa vị cao sang, đã để y đánh lừa một cách “hào hiệp” nhất. Đúng như lời chàng công tử bá tước Pônimirxki gào lên kết thúc quyển sách: “Không phải hắn dắt mũi các người đâu! Chính các người đã bê cái đồ súc vật ấy đặt lên thành tượng đài! Chính các người! Hỡi lũ người đánh mất hết những tiêu chuẩn lý trí!”. Mỉa mai hơn, Đyzma được leo lên cao đến thế còn chính vì y đã làm thỏa mãn được dục vọng thấp hèn của các vị “phái đẹp” quý tộc trong những cuộc “hành lễ bí mật” mà thực chất là những cuộc hành lạc tập thể, những cuộc loạn hôn không tiền khoáng hậu. Trong các “tài năng” đã đưa Đyzma lên những địa vị cao sang, có “tài” đĩ đực! Trong số những nạn nhân khác của cái xã hội nhầy nhụa đó, người đọc còn nhận thấy một điều: Người càng có địa vị xã hội thấp hèn, thậm chí càng ở “dưới đáy” thì phẩm chất đạo đức lại càng trong sạch. Cô gái Manka dù phải bán thân nuôi miệng, nhưng vẫn ý thức được sự ghê tởm của cái “nghề” mà mình bắt buộc phải làm, vẫn giữ một tình yêu chân thật đối với Đyzma, và vẫn biết căm phẫn tột độ khi tình yêu ấy bị bội bạc. Dù bị đánh đập dã man, nhưng dẫu sao Manka cuối cùng cũng nhận ra bộ mặt thật của Đyzma. Đáng thương cho một phụ nữ xinh đẹp, yếu đuối mà lại muốn hưởng lạc như bá tước tiểu thư Nina, cho đến cuối cùng vẫn không hiểu rằng mình bị đánh lừa, vẫn không hiểu được bản chất người chồng “lý tưởng” và “lỗi lạc” của mình! Ý nghĩa tố cáo và phê phán của tác phẩm còn tập trung cao ở hình tượng chàng bá tước “điên” Pônimirxki. Chàng là nạn nhân của một trò lừa đảo đã khiến cha chàng khuynh gia bại sản, rồi lại trở thành nạn nhân của một vụ lừa đảo mới, còn trắng trợn hơn, đê mạt hơn. Không phải ngẫu nhiên tiếng nói gần với sự thật nhất, tiếng cười châm biếm sâu cay nhất đối với những nghịch cảnh xã hội lại được tác giả đặt vào miệng một người “điên”, một người “tâm thần”, vốn có một địa vị cao sang, một gia sản giàu có, một học thức uyên bác, nhưng rốt cuộc vẫn bị vứt ra một xó vườn, hay cùng lắm - làm đầy tớ dạy tiếng Anh cho chủ. Các yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ được sử dụng để xây dựng con đường công danh cho Đyzma đều hợp lôgích, không gây ấn tượng giả tạo, khiên cưỡng. Chất bi và hài được kết hợp hài hòa, trong đó cái hài được tập trung cao, tạo nên một tiếng cười mỉa mai, sâu cay đối với cả bộ máy nhà nước tư sản, từ cấp thấp lên cấp cao nhất. Nhà văn đã thể hiện một bộ mặt xã hội với những biểu hiện sinh động lạ thường qua một bút pháp tưởng như dửng dưng, khách quan mà sắc sảo, tinh tế. Người đọc Ba Lan còn hâm mộ tác phẩm của T.Đôuenga Môxtôvich vì nhà văn đã dựng lại hết sức sống động, hết sức thực từ ngôn ngữ, thói quen, phong tục, tập quán đến cảnh sinh hoạt và bầu không khí của xã hội thượng lưu quý tộc những năm 20 - 30. Do vô tình hay hữu ý, nhiều tác phẩm hiện thực phê phán thường sa vào chủ nghĩa tự nhiên trong phản ánh hiện thực xã hội. Trong Đường công danh của Nikôđem Đyzma T.Đôuenga Môxtôvich đã tránh được hạn chế này. Tác giả đã không khai thác những yếu tố thấp hèn hoặc kích thích ở những cảnh “gay cấn”, để một mặt duy trì mức độ chân xác của tính cách nhân vật, mặt khác tạo được hứng thú thẩm mỹ lành mạnh. Tác phẩm sử dụng nhiều yếu tố hư cấu nhưng rất thực, và tả được cái thực của xã hội, bởi lẽ nhà văn đã chọn những không gian thích hợp để những yếu tố hư cấu kia hiện ra trong những dáng vẻ thực của đời. Cũng như nhiều tác phẩm hiện thực phê phán khác, Đường công danh của Nikôđem Đyzma không tránh khỏi những nhược điểm khách quan do thời đại cũng như những nhược điểm chủ quan do nhận thức của tác giả. Mâu thuẫn xã hội mới được miêu tả ở tầng lớp trên, mâu thuẫn giai cấp mới chỉ lướt qua. Tác giả tập trung mô tả và phê phán cái xấu xa, cái phản động, nhưng chưa nêu được những phẩm chất tốt đẹp cũng tồn tại song song trong xã hội ấy. Xã hội trong tiểu thuyết đang chao đảo, nhưng rồi sẽ đi đến đâu, theo con đường nào… Thực ra, công bằng mà nói, đó cũng là những nhược điểm khó tránh nếu đặt tác phẩm và người viết trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình. Bằng những giá trị nghệ thuật lớn lao, tiểu thuyết hoạt kê của T.Đôuenga Môxtôvich đã phản ứng khá mạnh mẽ chống lại một xã hội lố lăng, qua đó gián tiếp bênh vực quyền tồn tại và phát triển của những con người lương thiện, trung thực. Chính vì vậy, ngay sau khi ra đời, Đường công danh của Nikôđem Đyzma liền được xem là một hiện tượng văn học đặc sắc ở Ba Lan. Tác phẩm được in lại nhiều lần và cũng được đưa lên màn ảnh ở Ba Lan, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Đọc Đường công danh của Nikôđem Đyzma và tìm hiểu thân thế sự nghiệp của T.Đôuenga Môxtôvich, người đọc Việt Nam không khỏi bất giác nghĩ tới Số đỏ của Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) và chợt thú vị về những nét tương đồng giữa hai tác giả cũng như hai tác phẩm. Hai tác giả sống gần như đồng thời với nhau, ở hai phương trời xa cách nhau hàng chục nghìn cây số, song đều tài hoa sắc sảo, đều từ giã cuộc đời giữa tuổi sáng tạo rực rỡ, để lại cho đời những tác phẩm sống mãi. Chúng tôi hy vọng rằng, với bản dịch ra tiếng Việt trực tiếp từ tiếng Ba Lan này Đường công danh của Nikôđem Đyzma sẽ giúp bạn đọc nước ta làm quen với một nhà văn tài hoa của dân tộc Ba Lan, đồng thời xuyên qua cái nhìn đầy phê phán với những hiện tượng bệnh hoạn của xã hội tư sản, thêm trân trọng gìn giữ và phát triển những giá trị thật sự tốt đẹp đang quyết liệt đấu tranh chống các hiện tượng xã hội tiêu cực xuất hiện trong hoàn cảnh xã hội phức tạp của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, góp thêm một tiếng nói nghệ thuật chống lại các biến tướng của chủ nghĩa cơ hội. Hà Nội, 01 - 1987 Hồng Diệu *** Tác phẩm:  Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma Thầy Lang Giáo Sư Wilczur Mời các bạn đón đọc Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma của tác giả Tadeusz Dolega-Mostowicz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bệnh Nhân Người Anh - Michael Ondaatje
Bệnh nhân người anh là tác phẩm đầy chất thơ về số phận của bốn con người gặp nhau nơi một tòa biệt thự bỏ hoang ở vùng đồi nước Ý trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới thứ hai. Câu chuyện như những trang sách được lật giở ngẫu nhiên dần hé mở tâm trạng và cuộc đời của từng nhân vật: Hana, cô y tá với những chấn thương tinh thần, một mực ở lại chăm sóc ông bệnh nhân người Anh khi những người khác trong bệnh viện dã chiến này đã chuyển đi; Caravaggio, một tên trộm, một cựu điệp viên, bị chặt đứt hai ngón tay cái trong một lần bị địch bắt; Kip, anh lính công binh gỡ bom người Ấn dè dặt với người phương tây; và bệnh nhân người Anh, nhân vật trung tâm, bị bỏng đến mức không còn nhận diện được, một ẩn số giữa họ... Bệnh nhân người Anh bí ẩn - ông thực sự là ai? Câu trả lời sẽ được hé lộ qua từng mảnh ký ức giống như tia chớp thi thoảng lé lên trong ông. Ký ức về cuộc đời phiêu lưu và mối tình mãnh liệt nhưng đau đớn của ông sẽ dẫn người đọc bước vào một mê cung cảm xúc rối rắm nhưng đầy thú vị. Hãy cùng đọc, khám phá và suy ngẫm... *** "Bệnh nhân người Anh (The English Patient) là một tác phẩm hấp dẫn của tiểu thuyết - cả với thơ ca và triết học”, Helena Kennedy - chủ tịch Quỹ Giải thưởng Booker cho biết. Bệnh nhân người Anh lấy bối cảnh những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới II khốc liệt, một chiếc máy bay bị bắn hạ và rơi xuống khu vực sa mạc Sahara. Trong chiếc máy bay là một người phụ nữ đã chết và một người đàn ông bị bỏng nghiêm trọng. Anh ta được gọi là "bệnh nhân người Anh" và được chuyển cho y tá Hana chăm sóc tại một biệt thự ở Ý bị hủy hoại. Nhưng ở nơi hoang vu đó, những cuộc tình nên thơ vẫn đâm chồi nảy nở. Đó là mối tình đẹp nhưng buồn của nữ y tá Hana với chàng trung sĩ phá mìn Kip, là mối tình buồn được ghi chép trong những trang nhật ký của bệnh nhân người Anh - Laszlo de Almasy với cô gái Katharine Clifton. Bệnh nhân người Anh đã đoạt nhiều giải thưởng và được dịch ra hơn 300 ngôn ngữ khác nhau, nhưng có lẽ bản chuyển thể tốt nhất là khi nó trở thành một bộ phim kinh điển của đạo diễn Anthony Minghella năm 1996. Bộ phim giành được 9 giải Oscar, 2 giải Quả cầu vàng và 6 giải BAFTA cho phim hay nhất năm 1997. *** Philip Michael Ondaatje, CC FRSL, là một nhà thơ, nhà văn tiểu thuyết, nhà tiểu thuyết, tiểu thuyết gia, nhà biên tập và nhà làm phim người Canada gốc Sri Lanka. Ông là người nhận được nhiều giải thưởng văn học như Giải thưởng của Toàn quyền, Giải thưởng Giller, Giải thưởng Booker và Giải thưởng Médicis étranger. Mời các bạn đón đọc Bệnh Nhân Người Anh của tác giả Michael Ondaatje.
Thành Phố Sau Ánh Hào Quang - Denley Lupin
Cuộc đời này những gì đến và đi không phải lúc nào chúng ta cũng có thể quyết định. Điều gì đang có nên trân trọng, thứ gì ra đi nên cảm ơn vì ý nghĩa nó từng đem đến. Nữ tác giả viết: “Thế giới này, chính vì có những con người dám ước mơ, dám thực hiện, dám chấp nhận thất bại nên mới có những phát minh vĩ đại. Bạn không cần trở thành vĩ nhân, hay trở thành người kiến tạo thế giới. Bạn chỉ cần sống đúng với mong ước cuộc đời của riêng bạn, sống một cuộc sống không phải hối hận, là đã đủ hạnh phúc rồi. Hãy theo đuổi hành trình ước mơ của bạn, lên kế hoạch và bắt tay thực hiện nó”. Những trang viết tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, sống hết mình với tuổi trẻ và không bao giờ hối tiếc hay phải nói hai từ “giá như”. *** Ba năm sau. M.Y.S đã trở thành nghệ sĩ hàng đẩu ở thời điểm hiện tại. Là con át chủ bài của JND, danh tiếng chẳng hề thua kém gì đàn anh Nam Phong hay Winter ở thời kỳ đỉnh cao. Có thể xem cô là nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất trong lịch sử JND. M.Y.S được săn đón ở khắp mọi nơi nhưng cô luôn chọn cho mình lối sống khá kín đáo sau ánh hào quang. Nam Phong đã lặng lẽ rời khỏi làng giải trí. Đã hai năm qua anh tham gia một tổ chức phi chính phủ, giúp đỡ người khó khăn ở nhiêu nước nghèo đói. Có lẽ danh vọng, sự nổi tiếng trong showbiz đã chẳng còn sức hút với anh. Khi mọi thứ đã đạt được, đã ở đỉnh cao, anh chỉ mong muốn quay về làm những điêu giản dị như cách để trả ơn xã hội, để tìm ra giá trị của cuộc sống. ... Mời các bạn đón đọc Thành Phố Sau Ánh Hào Quang của tác giả Denley Lupin.
Âm Điệu Bóng Đêm
Trong suốt sự nghiệp viết lách nổi tiếng của mình, Julie Garwood đã làm say mê độc giả với những nhân vật hấp dẫn, táo bạo và bùng nổ với cuộc sống. Giờ đây, tiểu thuyết gia nổi tiếng Julie Garwood đã trở về với câu chuyện tình lãng mạn lịch sử, một câu chuyện ly kỳ về tình yêu, giết người, phiêu lưu và bí ẩn chống lại khung cảnh ám ảnh của Scotland thời trung cổ. Đối với Công chúa Gabrielle của St. Biel, Scotland là vùng đất của những khung cảnh tuyệt đẹp, những thủ lĩnh hoang dã, những ánh mắt xảo quyệt, và những bóng tối dốc đứng, skullduggery, phản bội, và giờ là giết người. Được tôn vinh bởi vẻ đẹp tinh tế của mình, con gái của một trong những nam tước có ảnh hưởng nhất nước Anh, Gabrielle cũng là một con bài mặc cả hoàn hảo cho một vị vua cần hòa bình ở vùng núi cao: Vua John đã sắp xếp cuộc hôn nhân của Gabrielle đến một người phụ nữ tốt bụng và hiền lành. Nhưng cuộc hôn nhân này sẽ không bao giờ diễn ra. Mọi thứ thay đổi trong một đợt tự do cuối cùng khi cô và những người bảo vệ của mình bắt gặp một cảnh tàn ác không thể tưởng tượng được. Với một phát bắn từ cây cung và mũi tên của mình, Gabrielle lấy mạng, cứu mạng và bắt đầu một cuộc chiến.Trong vài ngày, vùng núi cao rực lửa một trận chiến hoàng gia bùng lên giữa kẻ thù cũ và mới. Đến Scotland để kết hôn, thay vào đó, Gabrielle bị vướng vào mưu đồ ở vùng cao. Đối với hai nhà quý tộc tàn bạo, việc đánh giá thấp sự dũng cảm và năng lực của Gabrielle có thể sẽ dẫn đến cái chết, nhưng nhờ có một bí mật mà Gabrielle sở hữu , Colm MacHugh - người đàn ông đáng sợ nhất ở Scotland, đã tìm ra một nguyên nhân mới cho sự can đảm. Một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đi sâu vào trái tim của những cảm xúc, niềm đam mê bất khuất của tình yêu, thù hận và sự trả thù. “Âm điệu bóng đêm” là món quà tuyệt vời từ Julie Garwood và một thành tựu đáng nể trong sự nghiệp tuyệt vời của cô. *** Mưa lắm rồi vào cái năm mà những cơn giông bão dữ dội tràn vào từ biển khơi, đám chiến binh đầu tiên từ vùng đất xa xôi băng đồi vượt núi và đặt chân lên bờ biển của chúng ta. Với vũ khí bằng thép đeo trước ngực và bộ giáp được đánh bóng sáng lấp lánh tựa như mảnh kính vỡ dưới ánh mặt trời ban trưa, chúng tuần hành khắp những nơi mà mắt có thể nhìn thấy được. Chúng không cần hỏi han cũng chẳng hề quan tâm rằng mình đang xâm lược. Nói cách khác, chúng đang thi hành nhiệm vụ và chẳng gì có thể ngáng đường chúng. Băng qua đồng bằng của chúng ta, chúng chiếm đoạt ngựa và thức ăn, dẫm đạp lên hoa màu, cướp phụ nữ và giết rất nhiều những trai tráng khỏe mạnh. Chúng hủy diệt tất cả những nơi chúng đi qua… tất cả đều nhân danh Đức Chúa Trời. Chúng tự gọi mình là đội quân Thập Tự Chinh. Chúng cực kỳ tin tưởng rằng sứ mệnh của mình vô cùng thiêng liêng và tốt đẹp vì Đức Giáo Hoàng, người đã ban phước lành và ra lệnh cho chúng thực hiện cuộc hành trình đến phía bên kia của thế giới, đã nói với chúng như thế. Chúng phải trừng phạt những kẻ ngoại đạo và buộc họ phải tôn thờ Đức Chúa Trời và tín ngưỡng của chúng. Nếu những người ngoại đạo từ chối, những binh lính kia sẽ giết họ bằng thanh kiếm thiêng liêng được ban phước của mình. Vượt qua những ngọn núi của chúng ta là con đường duy nhất để đội quân Thập Tự Chinh tiến hành sứ mệnh của chúng, thế là chúng đi thành từng đoàn và khi chúng đặt chân đến bến cảng ở bên kia dãy núi, chúng đánh cắp tàu của chúng ta để giương buồm vượt đại dương đến nơi mà chúng cần đến. Đất nước nhỏ bé của chúng ta được gọi là Monchanceux, được cai trị bởi đức vua Grenier nhân từ. Ngài là người yêu quê hương và muốn bảo vệ nó. Chúng ta chẳng phải đất nước giàu có gì, nhưng chúng ta hài lòng với nó. Thế là đủ. Khi lũ xâm lược cướp bóc của chúng ta, đức vua rất phẫn nộ, nhưng ngài không để cho cơn giận dữ sai khiến. Vì ngài là một đấng minh quân, đức vua Grenier đã đưa ra một giải pháp. Ngài buộc tốp lính xâm lược tiếp theo phải trả phí khi vượt núi. Đường núi chật hẹp, nên có thể dễ dàng phòng thủ. Binh lính của chúng ta được trang bị để chống lại cái lạnh, tuyết và những cơn gió cắt thịt về đêm. Họ có thể bảo vệ rặng núi suốt hàng tháng trời và mùa đông sẽ đến rất nhanh. Kẻ dẫn đầu đoàn xâm lược vì chính nghĩa kia cảm thấy bị xúc phạm khi phải trả phí cho thứ gì đó. Hắn và binh lính của mình đang thực hiện một nhiệm vụ cao cả. Hắn dọa sẽ giết hết tất cả những người dân của Monchanceux, kể cả phụ nữ và trẻ em, nếu bọn chúng bị cản đường. Liệu đức vua Grenier và thần dân của mình có nhận ơn huệ của Giáo hội, hay họ chọn làm những kẻ ngoại đạo ngáng đường của Chúa? Câu trả lời sẽ quyết định số phận của họ. Ngay thời điểm mấu chốt ấy đức vua nhân từ và thông minh của chúng ta đã tiếp nhận tín ngưỡng. Ngài nói với kẻ dẫn đầu đội quân rằng ngài và tất cả thần dân của mình đều thuộc về Chúa và ngài sẽ chứng minh điều đó bằng bất cứ giá nào. Sau đó, Ngài cho gọi tất cả người dân của Monchanceux tập hợp trước ban công của cung điện. Kẻ cầm đầu đoàn quân Thập Tự Chinh đứng ngay sau ngài. “Kể từ giờ trở đi đất nước của chúng ta sẽ mang tên St. Biel, nhân danh vị thánh đỡ đầu của gia tộc ta. Người sẽ phù hộ cho những người vô tội,” đức vua Grenier tuyên bố. “Chúng ta sẽ dựng tượng thánh St. Biel và vẽ tranh của Người trước cửa thánh đường để bất cứ ai đặt chân đến với bờ biển của chúng ta đều sẽ thấy được sự tốt đẹp của Người, chúng ta sẽ cống nạp cho Đức Giáo Hoàng để tỏ lòng thành kính và sự phục tùng của chúng ta. Số lệ phí mà ta thu được sẽ dùng để cống nạp.” Kẻ cầm đầu đám ngoại xâm nhận ra rằng mình đang trong tình thế khó xử. Nếu hắn từ chối trả phí – bằng vàng, đương nhiên, đức vua sẽ không chấp nhận thứ gì khác – vậy khác nào hắn từ chối việc cho phép nhà vua cống nạp cho Đức Giáo Hoàng? Và nếu Đức Giáo Hoàng biết được hắn đã từ chối, Giáo Hoàng sẽ làm gì? Khai trừ hắn? Xử tử hắn? Sau một đêm dài suy ngẫm và quát tháo không ngừng, kẻ cầm đầu đoàn quân đã quyết định trả phí. Đó là một sự kiện trọng đại, một tiền lệ đã được đặt ra kể từ thời khắc đó, bất cứ quân Thập Tự Chinh nào muốn đi qua lãnh thổ của chúng ta đều phải trả phí mà không có bất cứ thắc mắc nào. Đức vua của chúng ta đã giữ đúng lời hứa. Ngài đã nung chảy vàng và làm chúng thành những đồng tiền nhỏ, trên mỗi đồng tiền đều có hình thánh St. Biel, với vầng hào quang trên đầu. Kho bạc hoàng gia phải mở rộng để làm phòng chứa những đồng tiền vàng, một con tàu được chuẩn bị cho chuyến hành trình dâng chúng đến tay Đức Giáo Hoàng. Một ngày trọng đại, những chiếc rương thật nặng được chất xuống hầm tàu, đám đông dân chúng tụ tập tại bến cảng để nhìn chuyến tàu khởi hành đến Rome. Ngay sau cái ngày lịch sử ấy, những tin đồn bắt đầu lan truyền. Chẳng ai có thể chắc chắn mình đã thật sự nhìn thấy số vàng hay ước lượng được bao nhiêu vàng đã được chuyển đi. Vài sứ thần tuyên bố rằng chỉ một khoản rất nhỏ đến được tay Giáo hoàng. Những lời bàn tán về tài sản khổng lồ của đức vua chúng ta dâng lên rồi hạ xuống như những đợt thủy triều vỗ vào bờ của chúng ta. Cuối cùng, một con đường ngắn hơn để đến vùng đất Thánh được tìm ra, đội quân Thập Tự Chinh không còn đi qua đất nước của chúng ta nữa. Chúng ta vô cùng biết ơn sự vắng mặt này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không được yên bình. Cứ cách vài năm lại có người đến để tìm kiếm số vàng trong truyền thuyết. Một vị bá tước từ Anh quốc tìm đến vì đức vua của ông ta đã nghe được tin đồn, nhưng sau khi người trị vì của chúng ta cho phép ông ta thực hiện một cuộc tìm kiếm toàn diện trong cung điện và các căn cứ, vị bá tước nói với ngài rằng ông ta sẽ trở về Anh quốc với tin tức: không có kho báu nào được tìm thấy. Bởi đức vua Grenier quá hiếu khách, vị bá tước đã lên tiếng cảnh báo ngài rằng hoàng tử John của Anh quốc đang có ý định xâm lược St. Biel. Hoàng tử John, vị bá tước giải thích, muốn thống trị thế giới và đang nóng lòng được kế thừa chiếc vương miện của Anh quốc. Vị bá tước kia tin chắc rằng St. Biel sẽ sớm trở thành một thuộc địa khác của Anh quốc mà thôi. Cuộc xâm lược đến vào một năm sau đó. Khi St. Biel chính thức thuộc về Anh quốc, cuộc tìm kiếm số vàng bị giấu lại được tiếp tục. Những người tham gia cuộc truy lùng thề rằng không có một viên đá nào chưa bị lật lên. Nếu thật sự từng có kho báu nào đó, thì nó đã biến mất. Mời bạn đón đọc Âm Điệu Bóng Đêm của tác giả Julie Garwood.
Bức Tranh Dorian Gray
Không chỉ là một kiệt tác văn chương gây nhiều tranh cãi khi mới xuất bản, “Bức tranh Dorian Gray” còn là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Oscar Wilde. Lấy bối cảnh diễn ra vào thời Victoria ở nước Anh, Dorian Gray có vẻ ngoài cuốn hút, đã truyền cảm hứng cho Basil vẽ chân dung của anh. Đó là một bức chân dung kì lạ, nó thay Dorian Gray già đi, thậm chí khi Dorian Gray trở nên tệ bạc, xấu xa, bức tranh cũng trở nên tệ hại theo. Cứ thế Dorian Gray giữ được vẻ ngoài suốt gần hai mươi năm, nhưng liệu giữ được vẻ ngoài hào hoa bất biến theo thời gian có thật sự là may mắn? Trút hết sự suy đồi của mình vào một bức tranh liệu có làm cho Dorian Gray hạnh phúc, hay đó lại chính là khởi đầu cho những bất hạnh ngấm ngầm bao phủ cuộc đời anh ta? *** Trong lịch sử văn chương nhân loại có những cuốn sách được viết ra quá sớm so với thời đại của chúng, nên dường như vì thế mà chúng phải chịu trắc trở ngay từ những ngày mới chào đời. Ví dụ điển hình là Lolita của Vladimir Nabokov: Bị cấm ở nhiều nơi, không thể in ở Mỹ, nơi nó được sáng tác xong vào năm 1953, và phải xuất bản lần đầu ở Pháp vào năm 1955. Tuy nhiên, như đã biết, sau đó Lolita nhanh chóng trở thành một tác phẩm bán chạy hàng đầu của văn chương tiếng Anh, luôn được xếp hạng đầu trong các cuộc bình chọn, và đưa tác giả của nó trở thành một trong các nhà văn vĩ đại nhất nhân loại. Trước đó hơn nửa thế kỷ, vào năm 1891, cũng từng có một kiệt tác văn chương chịu số phận gập ghềnh không kém, là Bức tranh Dorian Gray (The picture of Dorian Gray) của Oscar Wilde, nhà văn vĩ đại người Ai Len. Sau khi xuất hiện lần đầu vào tháng Bảy năm 1890 trên tạp chí Lippincott's Monthly Magazine, mặc dù đã bị kiểm duyệt và bỏ đi khoảng năm trăm từ, nhưng cuốn sách này vẫn chịu phản ứng dữ dội từ giới phê bình văn chương Anh quốc, do đụng đến các vấn đề chưa được xã hội chấp nhận vào thời điểm ấy. Phiên bản sách giấy của Bức tranh Dorian Gray được Oscar Wilde chỉnh sửa, bổ sung, viết thêm phần Lời tựa rất nổi tiếng, và cho nhà xuất bản Ward, Lock and Company in vào năm 1891. Như vậy, tác phẩm này có hai phiên bản: một là bản 1890 với 13 chương và khoảng năm trăm từ bị kiểm duyệt, hai là bản 1891 với 20 chương và được in thành sách. Ngoài ra, năm 2011, Harvard University Press đã in lại bản 1890 với 13 chương nguyên vẹn không bị bỏ từ nào như Oscar Wilde viết từ đầu. Bản dịch tiếng Việt này được làm theo bản 1891 của Ward, Lock and Company. Mặc dù cuốn sách hiện nay đã nổi tiếng, được dựng thành phim và kịch, thậm chí Dorian Gray đã thành một thuật ngữ chỉ một hội chứng thời đại, nhưng tác giả của nó lại không được chứng kiến sự thành công của đứa con tinh thần của mình. Tác giả Bức tranh Dorian Gray phải chịu số phận bi thảm hơn nhiều so với tác giả Lolita, ông sống những ngày tháng cuối đời trong cô độc và nghèo khổ. Ngày 30 tháng Mười một năm 1900, ông qua đời vì bệnh viêm não tại Paris, khi mới 46 tuổi. Cuốn sách đã đem lại cho Oscar Wilde nhiều bi kịch, biến ông trở thành nhân vật bị xã hội căm ghét, và không khó nhận ra sự phản kháng của ông trong phần Lời tựa khi tái bản nó, với những tuyên ngôn đầy ẩn ý như: “Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi.” Hoặc: “Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động.” Tuy nhiên, thời gian là hòn đá thử vàng với nghệ thuật, không phải cái gì lấp lánh leng keng cũng chịu đựng được sự phán xét tàn nhẫn của thời gian. Năm nào cũng có vô số cuốn tiểu thuyết được viết ra, được ca ngợi bởi các nhà phê bình cũng như báo chí, thậm chí được các giải thưởng lớn nhưng không mấy cuốn còn lại được sau vài chục năm. Và trong các cuốn sách trụ vững với thời gian ấy thì, cũng như Lolita, Bức tranh Dorian Gray đã được đánh giá như một trong các kiệt tác văn chương quan trọng nhất của nhân loại. Tình yêu đồng giới mà nó đề cập đến đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới, mặc dù cũng chưa thể nói là đã được coi là bình thường tại một số nước nhất định. Tuy nhiên, chủ đề này chỉ là một điểm nhấn trong Bức tranh Dorian Gray, và ngay cả mô-típ bán linh hồn cho quỷ dữ cũng không phải là mới, mà chính kỹ thuật viết tuyệt đẹp đã đem lại sự thành công cho tác phẩm này. Vốn nổi tiếng như một tác giả của những câu văn hài hước, sâu sắc và đôi khi rất cay độc, Oscar Wilde đã đưa câu chuyện tưởng chừng rất khó viết cho tao nhã ấy thành một tiểu thuyết cực kỳ hấp dẫn không chỉ về số phận một nhân vật riêng lẻ, mà về bi kịch chung của thân phận con người. Ba nhân vật quan trọng nhất trong cuốn sách: Henry Wotton, Dorian Gray, Basil Hallward, theo Oscar Wilde, là ba phản thân của tác giả, là những hình ảnh mà thế gian nhìn nhận về ông; chính ông muốn mình sẽ trở thành, có thể, ở một thời đại khác; và ông nghĩ là của chính ông. Thực ra cũng không ai biết ai trong ba nhân vật trên đây có nhiều tính Oscar Wilde hơn cả, vì không phải lúc nào con người cũng nhìn nhận được chính xác về mình, dẫu người đó có là một thiên tài chăng nữa. Người viết những dòng này vốn hâm mộ Oscar Wilde từ khi còn là một cậu bé, và không thể phủ nhận rằng đã bị nhiều câu văn của ông ảnh hưởng phần nào đến cách tư duy, nên việc dịch Bức tranh Dorian Gray, tiểu thuyết duy nhất của ông, vừa là một chuyến trở về thế giới của bậc thầy, vừa là một nghĩa vụ cá nhân: Đưa kiệt tác này đến với tiếng Việt một cách hoàn hảo nhất, bằng tất cả những gì mà khả năng và thời gian cho phép. Ba tháng dịch Bức tranh Dorian Gray đã đem lại cho người dịch nó những kỷ niệm khó quên, không chỉ trong mà còn ngoài cuốn sách. Có những chương dài và vô cùng phức tạp vì liên quan đến những kiến thức văn hóa và lịch sử cổ xưa của châu Âu, có nhiều câu văn đẹp đến mức không thể bỏ đi tiếp khi chưa thấy bản dịch thỏa mãn được chính người dịch, có những lúc mệt mỏi với sự đen tối không đáy của tâm hồn con người, có những lúc bật cười với sự hài hước đặc biệt của Oscar Wilde, có những lúc xao lòng với nỗi đau đằng sau một nụ cười nào đó, nhưng, trên tất cả, là niềm hạnh phúc vì đã, cùng với thần tượng của mình, tạo ra được một thứ tuyệt đối vô ích, chỉ vì mê nó đến cùng cực. Thiên Lương *** Nghệ sỹ là người tạo ra cái đẹp. Biểu lộ nghệ thuật và che giấu nghệ sỹ là mục đích của nghệ thuật. Nhà phê bình là người có thể tái hiện qua phong cách khác hoặc chất liệu khác các ấn tượng của mình về cái đẹp. Hình thái phê bình cao nhất cũng như thấp nhất là một dạng tự truyện. Những ai thấy nghĩa xấu trong cái đẹp là đã đồi bại song không nhờ thế mà khả ái hơn. Đó là tội trọng. Nhưng ai thấy nghĩa đẹp trong cái đẹp thì đã biết tu dưỡng. Với những kẻ này thì vẫn còn hy vọng. Họ là những kẻ được chọn lựa, những kẻ thấy cái đẹp chỉ đơn giản là đẹp mà thôi. Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa hiện thực là cơn thịnh nộ của Caliban khi thấy mặt mình trong gương. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa lãng mạn là cơn thịnh nộ của Caliban khi không thấy mặt mình trong gương. Cuộc đời đạo đức của con người tạo thành một phần chủ đề của nghệ sỹ, nhưng đạo đức nghệ thuật cốt ở sự sử dụng thành thạo một công cụ không hoàn hảo. Không nghệ sỹ nào muốn làm sáng tỏ điều gì. Ngay cả những điều đúng đắn cũng có thể bị làm sáng tỏ. Không nghệ sỹ nào có sự đồng cảm với luân thường đạo lý. Sự đồng cảm với luân thường đạo lý ở nghệ sỹ là một phong cách riêng tư không thể dung thứ. Không nghệ sỹ nào từng bệnh hoạn. Nghệ sỹ có thể diễn tả mọi điều. Tư tưởng và ngôn ngữ là các công cụ nghệ thuật của nghệ sỹ. Sự đồi bại và đức hạnh là các chất liệu của nghệ sỹ cho nghệ thuật. Từ quan điểm hình thái học, mẫu mực mọi nghệ thuật là nghệ thuật của nhạc sỹ. Từ quan điểm cảm xúc, ngón nghề của nghệ sỹ là mẫu mực. Mọi nghệ thuật đồng thời là bề mặt và biểu tượng. Những ai đi xuống dưới bề mặt đều làm liều. Những ai đọc biểu tượng đều làm liều. Chính khán giả, chứ không phải cuộc sống, mới là cái mà nghệ thuật thật sự phản chiếu. Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động. Khi các nhà phê bình bất đồng, nghệ sỹ thống nhất với chính mình. Ta có thể tha thứ cho kẻ tạo ra một thứ hữu ích chừng nào y còn chưa mê nó. Lý do duy nhất để bào chữa cho việc tạo ra một thứ vô ích là người ta mê nó đến cùng cực. Mọi nghệ thuật đều tuyệt đối vô ích. Oscar Wilde *** Oscar Wilde, tên đầy đủ: Oscar Fingal O'Flahertie Wills Wilde, sinh ngày 16.10.1854. Oscar Wilde là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch và phê bình nổi tiếng của Ireland. Năm 1871, ông học tại Trinity College (Dublin), sau đó học tại Magdalen College (Oxford, 1874-1878). Ở đây ông đã gặp và chịu ảnh hưởng của nhà văn, nhà phê bình Walter Pater (1839-1894) và ủng hộ phong trào ”nghệ thuật vị nghệ thuật". Ông cũng chính là người khởi xướng việc giảng dạy phong trào nghệ thuật này. Năm 1878, Oscar Wilde nhận giải Newdigate của Oxford cho bài thơ Ravenna. Năm 1884, Wilde kết hôn và cùng gia đình định cư tại Chelsea (London), tiếp tục viết và làm việc cho các tạp chí như Pall Mall Gazette và biên tập viên của Women's world (1887 – 1889). Ông xuất bản sách truyện cổ tích đầu tiên năm 1888 với tác phẩm The Happy Prince and Other Stories (Hoàng tử hạnh phúc và những câu chuyện khác). Ông sáng tác nhiều và thành công với lối viết tự nhiên, trong sáng. Ông cũng thành công với quyển tiểu thuyết duy nhất The Picture of Dorian Gray (1891). Sở trường của ông là biên kịch và với giọng văn trào phúng, châm biếm cùng với cách chơi chữ hóm hỉnh, ông đã sản xuất các phim hài như Lady Windermere's Fan (1892), An Ideal Husband (1895) và The importance of being earnest(1895), Salomé (1896). Năm 1895, Wilde bị buộc tội "có lối sống không đứng đắn” đối với hành vi “tình dục đồng giới” với 02 năm lao động khổ sai. Sau khi ra tù vào tháng 5/1897, ông đã dành phần đời còn lại của mình ở châu Âu, xuất bản "The Ballad of Reading Gaol" trong năm 1898. Ông qua đời tại Paris vào ngày 30 Tháng 11 năm 1900 vì bệnh viêm màng não. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác - Oscar Wilde Chân Dung Của Dorian Gray - Oscar Wilde Gã Khổng Lồ Ích Kỷ - Oscar Wilde Tội Ác Của Huân Tước Arthur Savile Và Các Truyện Ngắn Khác ... Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Dorian Gray của tác giả Oscar Wilde & Thiên Lương (dịch).