Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Ngày Xanh - Archibald Joseph Cronin

 Archibald Joseph Cronin sinh tại Tô Cách Lan năm 1896.  Ông học Y khoa ở đại học Glasgow.  1916, thế chiến thứ nhất ông tình nguyện gia nhập hải quân với cấp bậc Trung úy Y sĩ.    Chiến tranh kết thúc, ông trở lại tiếp tục học Y khoa.  Rồi ông tập sự bốn năm trong những khu vực hầm mỏ phía nam vùng Wales.    Thời gian này ông thu thập được rất nhiều tài liệu về đời sống cơ cực của dân lao động nghèo, nhất là đời sống của thợ thuyền trong hầm mỏ.  Sau đó, ông chuyển hẳn về Luân Đôn và mở phòng mạch tại khu vực phía Tây khá nhiều năm.  Kế đến, vì sức khỏe kém ông buộc phải ngừng làm việc để dưỡng bệnh.    Là bác sĩ, A. J. Cronin có nhiều dịp tiếp xúc với đủ hạng người, đầu óc tinh nhạy không chỉ trong lĩnh vực nghề nghiệp nên ông hiểu rõ tâm tình, cá tính, mặt tốt cũng như mặt xấu của từng người. Nhờ vậy, ông đã tích lũy được số vốn lớn, rất quý cho việc trước tác về sau, khi phải bỏ nghề y, vào năm 1930.    Văn nghiệp của ông bắt đầu… và vừa đặt bút, ông thành công ngay ở tác phẩm thứ nhất: “Lâu đài người bán nón” (1931). Những tác phẩm khác kế tiếp ra đời cũng đều được đón tiếp nồng nhiệt, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài.    Tại Việt Nam, chúng ta được đọc khá nhiều sách ông qua các bản dịch, tiêu biểu nhất, ngoài “Lâu đài người bán nón” còn có “Thành trì”, “Gươm công lý”, “Số phận của Robert Shannon” v.v…  Ông có lối viết giản dị, chân thật, chính xác, đầy hấp lực. Từ kẻ hung bạo, vô lương, thâm độc đến người thuần phác, đôn hậu, vị tha, qua ngòi bút tinh sắc của ông họ đều như sống thật, đi lại, nói năng, hành động… Cá tính họ nổi bật rất tự nhiên, không chút gượng ép. Văn ông giàu tình tiết, hết sức lôi cuốn mà không sa đà. Ông tả hạng người thế nào thì phong cách biểu hiện đúng như thế. Điều đáng kể nhất là tác phẩm ông chan chứa lòng nhân mà không hề có giọng dạy đời, công thức.  Hiển nhiên, chúng tôi không xác quyết là văn ông hay nhất. Tuy vậy, có một điều quan trọng để người thưởng ngoạn đánh giá tác phẩm, ấy là sau khi đọc xong ta cảm thấy yêu đời hơn lên, muốn phấn đấu chớ không nản lòng, bỏ cuộc.    Với niềm tin ấy, chúng tôi gửi đến bạn đọc quyển sách nhỏ này.                                                    MINH QUÂN – MỸ LAN *** Nhiều năm kế tiếp trôi qua... Mấy cây anh đào trước nhà xum xuê hơn trước. Buổi chiều tháng 4 năm 1910, tôi rời trường, lòng vui vẻ, hãnh diện. Mặt trời hồng rực rỡ lặn sau ngọn Ben. Chiều nay tôi cảm thấy tôi chính là tôi, bởi đôi lúc tôi ngờ ngợ như mình là kẻ nào khác, vâng! Đôi lúc tôi xa lạ với chính tôi. Sáng hôm kia ở hiệu Baxter ra, tôi chợt nhìn trong tủ kính, giật mình vì hình ảnh phản chiếu cho tôi thấy một thiếu niên 15 xanh xao, gầy ốm, tay chân dài ngoằng, nét mặt u trầm, buồn bã... Tôi đã giật mình tự hỏi: mình đó sao, trời? Nhưng hôm nay thì tôi hết sức phấn khởi, sung sướng vì câu chuyện thầy Reid nói với tôi lúc tôi ra về. Số là chúng tôi sắp được nghỉ lễ Phục Sinh, trước khi tan học thầy đã giữ tôi lại (thầy còn trẻ, khoảng 30, dáng cao lớn, khỏe mạnh, một cái sẹo dài nằm vắt ngang ở môi trên và vì nó, chiếc mũi thầy hơi thấp xuống, khiến người ta thấy đôi mắt xanh thầy to hơn, lộ hơn dưới mái tóc óng ả vàng hoe. Da thầy trắng và hơi nhờn. Râu luôn luôn được cạo nhẵn, hình như ông không cần che giấu vết sẹo trên môi). Thầy ôn tồn bảo tôi: - Robert Shannon! Trò không giống như các bạn cho nên... – ông gõ gõ tay lên bàn trong khi tôi nhìn chăm chú vào ông – ta muốn đề nghị với trò một điều này... Trở về đến nhà, tôi vẫn còn bàng hoàng xúc động vì câu chuyện thầy nói với tôi. Tôi muốn được một mình nghiền ngẫm bí mật này. Song ông tôi đã chờ tôi trước cửa sổ mở rộng, bàn cờ "dame" trước mặt. Giọng nóng nảy, ông hỏi: - Sao con về trễ thế? Có gì hở? -Thưa ông, không có gì. Ít lâu nay tôi trở nên khép kín đối với ông, vả chăng ông khôngcòn là bậc anh hùng đối với tôi và bí mật quý báu này tôi không muốn chia sẻ với ông. Phải công bình mà nhận rằng ông ít thay đổi hơn tôi: vẫn còn khỏe mạnh, tuy râu ông ngả bạc và chiếc áo ghi lê càng ngày càng nhiều vết bẩn hơn. Gần đây, bạn ông, ông Peter-Dickie đã vào Viện dưỡng lão. Song về phần ông, ông rất ghét nghe ai nói đến chết chóc cũng như nhắc đến tuổi tác đè nặng người ông. Càng lúc ông càng tỏ ra yêu đời, vui vẻ nhất là trong lúc này, theo lệ thường, bà cố tôi đã đi Kilmarnoch. Ông không vui vì cảm thấy tôi không hăng say chơi cờ với mình, cái thú ông vẫn say mê: - Robert, con làm sao vậy? Y như ngồi trên lửa... Tôi nén lòng đến ngồi trước mặt ông, ông cúi đầu nhíu mày nhìn bàn cờ, chú chú chăm chăm tính nước và ông giăng bẫy tôi bằng cách đi một nước cờ với vẻ hết sức lơ đãng, tay còn gõ gõ ống điếu nữa chớ. Còn tôi, tôi đầu óc đâu mà nghĩ đến trò chơi: tôi đang bị ám ảnh về cái đề nghị tốt đẹp của thầy Reid. Trước mắt tôi tương lai rộng mở. Như tất cả các bạn đồng học, tôi hết sức lo lắng, bối rối khi sắp rời trường để chọn nghề. Tôi có tham vọng, muốn trở thành một nhân vật đặc biệt, nhưng hoàn cảnh tôi chỉ cho tôi rất ít hy vọng để trở thành mẫu người tôi ao ước. Ở trung học tôi luôn luôn nhất lớp và các giáo sư đều tiên đoán tôi sẽ tiến xa. Song chưa một vị giáo sư nào, trừ thầy Reid để ý đến tôi đặc biệt. Thầy là người chú ý đến năng khiếu tôi, đứa học trò say mê sinh vật có cái gì khác hơn là sự giải trí suông. Tóm lại, thầy có biệt nhãn đối với tôi. Tôi còn nhớ rõ... Một hôm vào mùa hè, một đôi bướm xanh loại thông thường nhất bay qua khung cửa sổ mở rộng, vào lớp. Cả lớp đều ngẩng lên, nhìn. Giọng mơ màng như là đặt câu hỏi cho chính mình chứ không phải cho bọn môn sinh, thầy Reid nói: - Tại sao chúng bay thành cặp, nhỉ? Im lặng giây lâu và rồi, tôi rụt rè đáp: - Thưa thầy, vì bây giờ là mùa chúng ghép đôi. Thầy nhìn tôi hỏi thêm: - Có phải trò nghĩ rằng bướm cũng biết yêu nhau không? - Thưa thầy, vâng! Chúng nhận ra nhau cách xa hàng dặm nhờ một mùi thơm do chúng tiết ra. - Chuyện khá lý thú đấy! – Thầy tiếp, vẻ nghi ngờ về sự hiểu biết của tôi – Này, Robert! Trả lời tôi câu nữa: làm sao chúng nhận ra mùi của nhau? - Thưa, nhờ những gai thịt ở đầu mấy sợi râu... Thấy thầy nhìn tôi, mỉm cười có vẻ tán thưởng và khuyến khích, tôi thêm: - Thưa thầy, điều này cũng chưa có gì là mới lạ, so với loại Amrial pourpre, giống này ngửi bằng cẳng kia... Bạn học tôi cười lên như phá, nhưng chúng bị thầy cắt ngang: - Im đi, lũ ngu! Ít nhất trò ấy còn khá hơn các trò. Này, Robert! – Ông tiếp tục hỏi tôi. – Trò có thể cho biết chúng có thể nhận ra nhau không, nếu không có cái mùi đặc biệt kể trên? - Thưa thầy, mắt của loài bướm lạ lắm: nó gồm khoảng ba ngàn phần tử, mỗi phần gồm có đủ giác mô, võng mô, thủy tinh thể, nhưng dù chúng có tài phân biệt màu sắc, chúng chỉ có thể thấy rất gần, không quá một thước hai. Khi tôi dứt lời, nét mặt thầy rạng rỡ hẳn lên song thầy không hỏi tiếp gì nữa. Cuối giờ học, trong khi sắp hàng, thầy mỉm cười với tôi. (Ôi chao! Làm sao quên được cái cười thân mật đó!). Kể từ ấy, không những khuyến khích tôi tiếp tục học thêm về Sinh vật học, thầy còn dạy tôi Vật lý, trình độ cao hơn các bạn tôi. Vài tháng kế đó, thầy dắt tôi vào phòng thí nghiệm, hướng dẫn tôi thêm. Nhờ vậy, tôi thường rất cô đơn, trở nên mến phục thầy rất mau và những lời thầy dạy trong lớp, tôi xem ngang như Kinh Thánh. Gavin đã theo lời cha vào trường nội trú Larchfield năm ngoái. Điều này làm tôi đau đớn không ít. Đó là một trường Trung học trưởng giả nổi tiếng, học phí rất đắt, khó có con nhà trung lưu nào học nổi. Tôi chỉ còn một điều an ủi là: tuy Gavin được cảm tình của nhiều bạn mới, nó vẫn quý mến nhất có mình tôi không thay đổi. Mỗi trưa hè, mượn xe đạp thầy Reid, tôi vượt 15 dặm đến để xem bạn tranh giải cho trường. Thoạt thấy tôi, tức thì Gavin bỏ hết đám bạn vây quanh, can đảm chạy lại với tôi. Tôi, kẻ phá đám, khép nép đứng chờ bạn ở một góc sân thể thao, cái sân sang trọng, Gavin, áo thun sọc, quần nỉ mềm trắng, buông mình xuống cỏ cạnh tôi, bứt cọng cỏ đưa lên miệng, hỏi: - Sao? Ở Lenvenford có gì lạ không? Và nhìn sâu vào mắt nhau, chúng tôi biết rằng không gì chia rẽ được chúng tôi, trừ cái chết, nhưng chúng tôi còn trẻ quá, lo gì? Song dù tình bạn chúng tôi khăng khít, mãnh liệt, dù suốt ngày nghỉ nào cũng có mặt bên nhau, chúng tôi vẫn cam chịu xa nhau hàng tháng dài vì bận học. Phần tôi, đáng lẽ thay vì bằng lòng với một thằng bạn kém hơn Gavin đôi chút, tôi thà cô độc thui thủi một mình. Một mình, tôi rong ruổi khắp các vùng quanh tỉnh, tôi quen thuộc từng tổ chim, từng phiến đá, từng lối mòn trên các ngọn đồi Winton. Cho đến nỗi mấy bác gác rừng quen mặt và cho phép tôi tự do đi lại, đó là một đặc ân hiếm có. Bộ sưu tập của tôi tăng dần. Tôi có cả những loại sâu bọ hiếm nhất, như con chuồn chuồn đặc biệt thuộc loại Pantala flavescens, theo tôi biết thì chưa bao giờ được thấy ở Tô Cách Lan này, trước đây. Nhờ tìm tòi thám hiểm, tôi không hề ao ước "nghỉ hè trên bãi bể" như các bạn. Trí tưởng tượng mang tôi ra xa hơn mấy bờ bể nhỏ. Đồng hoang đối với tôi trở thành rừng hoang vu, nơi tôi mạo hiểm xông pha với nhiều thận trọng. Nhưng thưa các bạn, đừng ngỡ là ngoài giờ học tôi được tự do theo đuổi đàn bướm suốt ngày đâu. Ba tôi luôn luôn trông coi cho giờ rảnh rỗi của tôi trở thành hữu ích. Từ lúc ông cho là tôi đã đến tuổi có thể làm việc được, ông kiếm việc cho tôi ngay. Hiện nay, sáng sáng tôi phải đến lò bánh mì Baxter, lấy xe ba bánh đạp đi giao bánh nóng cho thành phố đang còn ngái ngủ. Số tiền kiếm được, ba tôi cất hết, viện lý do chính đáng: để trang trải một phần phí tổn nuôi tôi. Ông không ngừng thúc bách mẹ tôi giảm chi, dù bà đã giảm chi đến mức tối đa. Thời gian gần đây, ba tôi đích thân thanh toán mọi chi phí trong tháng, ông luôn luôn đòi bớt, bớt, bớt cho đến nỗi người bán phát khùng lên; mua bất cứ vật gì ông cũng cò kè lâu lắc. Mỗi khi nghe bán đấu giá, bán xôn một vật gì xem ra có ích (theo ý ông) ông liền quyết định đi mua. Nhưng tính hà tiện của ông thường thắng: trở về với hai tay không, ông vui vẻ reo lên rằng tiền vẫn còn nguyên! Một tiếng kêu thích thú làm tôi chợt tỉnh, tiếng kêu của ông tôi. Đầu óc bay bổng đâu đâu nên tôi đã thua nốt hai con cờ chót. Ông tôi cười hả hê: - Ta thắng được con rồi, thấy chưa? Thắng cậu học trò thông minh nhất tỉnh đâu phải chuyện chơi? Tôi vội vàng rời ông ngay, chỉ nơm nớp sợ ông giữ lại bày ván nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Xanh của tác giả Archibald Joseph Cronin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thời Khắc - Michael Cunningham
Thời khắc (The hours) là cuốn tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer của nhà văn Michael Cunningham từng được chuyển thể thành phim và là bộ phim xuất sắc nhất của năm 2002 với các giải thưởng: Oscar - 2002 dành cho nữ diễn viên chính; Quả Cầu Vàng - 2002 dành cho Phim tâm lý xuất sắc nhất, Nữ diễn viên chính trong phim bi xuất sắc nhất... lần đầu tiên được xuất bản tại Việt Nam. Tác phẩm liên kết số phận của ba người phụ nữ ở ba thời đại khác nhau. Mảng chuyện thứ nhất diễn ra năm 1929, ở thị trấn Richmond nước Anh, Virginia Woolf - một nữ nhà văn người Anh đang cố gắng bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết Mrs Dalloway. Mảng thứ 2 là năm 1951, ở California, Laura Brown - một người vợ hiền đang chuẩn bị chiếc bánh cho sinh nhật chồng. Trong khi chuẩn bị, tâm trí cô không khỏi bị phân tán bởi những điều cô đọc trong cuốn truyện Mrs Dalloway. Mảng cuối cùng là thời hiện đại ngày nay ở New York. Clarissa Vaughan - một phụ nữ tuổi ngũ tuần chuẩn bị bữa tiệc mừng cho giải thưởng người bạn - nhà thơ Richard - nhận được. Bà phân vân tình cảm mình dành cho Richard và người bạn gái đang chung sống cùng là Sally Lester. Mỗi người phụ nữ đã phải trải qua những khổ đau, suy sụp và có cả những giây phút hạnh phúc để nhận rõ giá trị từng khoảnh khắc trong cuộc đời họ. *** Tác giả: Michael Cunningham, một tiểu thuyết gia đương đại khá nổi tiếng tại nước Mỹ cũng như trên toàn thế giới, ở đâu ông cũng được tôn vinh như là một trong những nhà văn có tài năng kiệt xuất nhất trong số những người cùng thế hệ. Tác phẩm “The hours” của ông đã vẽ nên một bức tranh rất sáng tạo về cuộc đời cũng như về công việc của Virginia Woolf, một nữ nhà văn người Anh và để kể ra một câu chuyện về một nhóm các nhân vật đương thời đã phải vật lộn với sự khẳng định đầy xung đột về tình yêu, sự kế thừa, sự hy vọng và cả nỗi thất vọng. Những lời kể về những ngày cuối cùng của nữ nhà văn V.Woolf trước ngày bà tự tìm đến cái chết trong giai đoạn đầu tiên của cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai là khúc đối âm với những câu chuyện giả tưởng về Samuel, một nhà thơ Mỹ nổi tiếng, người đã có một cuộc đời bất hạnh bị phủ bóng dưới tài năng của chính ông với ký ức về một người mẹ đầy tai tiếng, và người bạn đời chung thủy của ông ấy, Clarissa, người đã cố gắng đến phi thường để giành lại một cuộc đời thỏa mãn và cân bằng giữa tiếng gọi của tình bạn, tình yêu và gia đình. Trong tác phẩm này, với lối hành văn sâu lắng, khúc triết và sự sáng tạo tuyệt vời, M. Cunningham đưa người đọc vượt qua tất cả sự chia cách của thời gian và không gian để đi đến những tình tiết chung nhất, đi đến cách lý giải logic nhất về chuỗi suy nghĩ của từng nhân vật. Không quá xa đà vào lối mô tả tình cảm ủy mị đơn thuần, không quá lạm dụng sự phê phán để làm nổi bật lên tính cách của từng nhân vật, M.Cunningham đã để cho những nhân vật của mình tự trò truyện và tranh luận với độc giả. Cách chơi chữ rất điều luyện và cách sử dụng ngôn từ gần như hoàn hảo đã dẫn dắt người đọc đi từ đầu đến cuối câu chuyện mà không hề phát hiện ra rằng ta đã bỏ quên khái niệm về không gian và thời gian. Điều kỳ diệu nhất trong cuốn sách này chính là thể hiện cá tính của từng nhân vật được kết hợp nhuần nhuyễn với những tình tiết liên quan đến những ngữ cảnh rất bình dị nhưng sâu sắc. Mỗi cuộc đời, mỗi con người trong tác phẩm này đều gắn chặt với cách suy luận, cách thể hiện những suy luận đó trên thực tại và hơn tất cả là chúng cùng hòa nhịp với nhau để tạo nên những tình huống đầy kịch tính nhưng cũng rất bình dị. Mời các bạn đón đọc Thời Khắc của tác giả Michael Cunningham.
Ký Sự Đòi Nợ - Song Hà
Mấy năm gần đây, cái tên Song Hà, chủ nhân blog Boy Gia’s đã thực sự trở thành một hiện tượng của văn học online. Là tác giả của nhiều truyện dài, truyện ngắn và tạp văn từng nhận được hàng chục nghìn lượt like trên facebook, fanpage và blog, điều gì khiến Song Hà được yêu mến đến vậy? Đó chính là lối viết điêu luyện, với giọng điệu vừa tưng tửng vừa phóng khoáng nhưng cũng hết sức mộc mạc và chân thật của cây viết cá tính này. Văn phong Song Hà hấp dẫn và cuốn hút người đọc ngay từ những dòng đầu tiên bởi sự hài hước, dí dỏm, ngang tàng, nhưng ẩn sâu sau tiếng cười là vị mặn chát của nỗi buồn, nước mắt và sự ngậm ngùi. Từ “Ra mắt gia đình ex”, “Tôi đi tán gái”, “Ranh con tên Ly”, đến “Ký sự đòi nợ” và “Những chuyện XiZ thời sinh viên”, cây bút này đã có những bước đột phá rất táo bạo về bút pháp. Trong một cốt truyện gần như “không có chuyện“ và ít kịch tính, tác giả vẫn dẫn dắt người ta đi hết trang này đến trang khác bằng lối kể duyên dáng; thô mộc nhưng sinh động và cực kỳ tự nhiên. Anh có biệt tài “lạ hóa” những sự vật, tình huống rất đỗi bình thường nhờ cảm quan nhạy bén và khả năng diễn đạt độc đáo. Các con chữ qua tay Song Hà dường như được “sống” lại và trở nên sinh động một cách đáng kinh ngạc. Người trẻ đọc Song Hà để được vui, được cười và thấy mình đáng yêu hơn khi bắt gặp hình bóng của chính mình trong đó. Người có tuổi đọc Song Hà là tìm về kỷ niệm của một thời đã xa; để rưng rưng thương nhớ, bâng khuâng, tiếc nuối và nhẹ lòng hơn khi gập lại trang sách cuối cùng. Mời các bạn đón đọc ​Ký Sự Đòi Nợ của tác giả Song Hà.
Chúng Ta Là Những Kẻ Dối Trá - Emily Lockhart
Một gia đình xinh đẹp và khác biệt.   Một hòn đảo tư.   Một cô gái thông minh, bị thương tổn; một chàng trai sôi nổi, quan tâm đến chính trị.   Một nhóm bốn người bạn — những Kẻ dối trá — với tình bạn trở nên tàn phá.   Một cuộc cách mạng. Một tai nạn. Một bí mật.   Sự dối trá chồng chất.   Tình yêu đích thực.   Sự thật.   Có lẽ đó là những gì bạn cần biết. *** Emily Lockhart là tác giả của bốn tập sách về Ruby Oliver: The Boyfriend List, The Boy Book, The Treasure Map of Boys, và Real Live Boyfriends. Cô cũng viết Fly on the Wall, Dramarama, và How to Be Bad (cuốn cuối cùng là tác phẩm đồng sáng tác với Sarah Mlynowski và Lauren Myracle). Cuốn tiểu thuyết The Disreputable History of Frankie Landau-Banks của cô đã dành được giải Michael L. Printz Danh dự, lọt vào vòng chung kết giải Sách quốc gia, và thắng giải Cybils với hạng mục Sách dành cho Thanh thiếu niên xuất sắc nhất.    Những tác phẩm khác của E. Lockhart:   The Boyfriend List   The Boy Book   The Treasure Map of Boys   Real Live Boyfriends   · · ·   Fly on the Wall   Dramarama   The Disreputable History of Frankie Landau-Banks   How to Be Bad (đồng sáng tác với Sarah Mlynowski và Lauren Myracle) Cuốn Chúng Ta Là Những Kẻ Dối Trá được xuất bản dưới tiêu đề Gia Tộc Dối Trá. Mời các bạn đón đọc Chúng Ta Là Những Kẻ Dối Trá của tác giả Emily Lockhart.