Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PR Lý Luận Và Ứng Dụng

Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, không ít công ty đã phát triển trở thành các tập đoàn khổng lồ xuyên quốc gia có khả năng tác động không chỉ về kinh tế mà còn cả về mặt chính trị của một đất nước, thậm chí một khu vực. Ví dụ, quyền lực của các tập đoàn dầu mỏ, sản xuất vũ khí ở Mỹ đã vươn ra tác động đến khu vực Trung Đông, mà cuộc chiến tranh Iraq là một minh chứng điển hình. Các tổ chức phi lợi nhuận như Oxfam (tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực phát triển, chống nghèo đói, bất công) hay Hiệp hội Bác sĩ không biên giới (một tổ chức nhân đạo quốc tế về y tế)… có phạm vi hoạt động tại nhiều nước trên thế giới. Khi mà các tổ chức ngày càng phát triển mạnh và đóng vai trò quan trọng hơn trong xã hội, thì những mối liên hệ giữa các cá nhân, các quốc gia, các tổ chức ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Quan niệm “Học ăn, học nói, học gói, học mở” không còn bó hẹp trong phạm vi cá nhân mỗi con người nữa; giao tiếp trở thành nhu cầu của tổ chức và hoạt động giao tiếp của tổ chức đòi hỏi ngày càng chuyên nghiệp hơn. Sự kết nối giữa các cá nhân và các tổ chức còn được hỗ trợ bởi sự phát triển chóng mặt của công nghệ thông tin. Những thành tựu công nghệ mới như máy tính, vệ tinh liên lạc viễn thông, điện thoại di động đã và đang tạo nên những bước đột phá mạnh mẽ. Xã hội của thế kỷ XXI là xã hội trong đó thông tin đóng vai trò chiến lược, tác động đến hầu hết các lĩnh vực chủ yếu của xã hội, từ kinh tế, cho đến chính trị, văn hóa… Thắng lợi của các cuộc đấu tranh chính trị không chỉ dựa vào khả năng vận động, thuyết phục cử tri của chính trị gia thông qua các cuộc tiếp xúc trực tiếp mà còn nhờ sự quảng bá, cổ vũ của các phương tiện truyền thông: đài phát thanh, truyền hình, báo in và báo mạng. Tuy nhiên, các luồng thông tin tràn ngập cũng khiến con người dễ rơi vào tình trạng nhiễu loạn và gây ra không ít thiệt hại. Thông tin chính trị bất lợi đưa ra không đúng lúc có thể gây xáo trộn xã hội; các công ty có thể bị mất uy tín và lòng tin của nhà đầu tư và khách hàng, v.v… Chính vì thế, các tổ chức, cơ quan và doanh nghiệp rất cần sự can thiệp của hoạt động quản lý thông tin chuyên nghiệp. Đó cũng chính là cơ sở dẫn đến sự ra đời và phát triển ngành Quan hệ công chúng, hay còn gọi là PR (Public Relations). Trên thế giới, PR chuyên nghiệp xuất hiện từ đầu thế kỷ XX cùng với sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế thị trường. Các chuyên gia PR là người chịu trách nhiệm quản lý mối quan hệ giữa tổ chức, doanh nghiệp và công chúng rộng rãi của tổ chức đó; tạo dựng, duy trì sự tín nhiệm và hiểu biết lẫn nhau; bảo vệ uy tín, phát triển thương hiệu cho cơ quan, tổ chức. Trải qua gần một thế kỷ phát triển, ngành PR ngày càng khẳng định vai trò thiết yếu trong xã hội và nền kinh tế hiện đại. PR hiện nay được coi là công cụ quan trọng để bảo vệ, duy trì và phát triển các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của các cơ quan, tổ chức.  Nền kinh tế thị trường nước ta ngày càng năng động và nỗ lực không ngừng để phát triển cùng kinh tế thế giới. Hàng loạt công ty ra đời, thị trường chứng khóan hoạt động mạnh, giao dịch ngoại thương mở rộng. Đó là động lực thúc đẩy nhu cầu giao tiếp, thông tin của các cá nhân cũng như của doanh nghiệp, tổ chức. Nhu cầu về nghề PR chuyên nghiệp ở nước ta xuất hiện và song hành với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội.  Trên thực tế, nghề PR đã du nhập vào Việt Nam từ khoảng những năm 90 của thế kỷ XX và hiện nay được xem là một trong những ngành nghề được ưa chuộng nhất bởi sự mới mẻ, năng động và thu nhập cao cho người theo nghề này. Tuy nhiên, cho đến nay, PR Việt Nam vẫn còn đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, mới chỉ tập trung ở một số mảng riêng lẻ như tổ chức sự kiện, quan hệ báo chí… Đặc biệt, nguồn nhân lực được đào tạo chuyên nghiệp về PR còn thiếu, phần lớn người làm PR đều xuất thân từ các ngành nghề khác như báo chí, kinh tế, ngoại ngữ… Kiến thức về PR được tích luỹ chủ yếu qua kinh nghiệm thu thập từ thực tế nên chưa đầy đủ và thống nhất. Sự thiếu hụt một hệ thống cơ sở lý luận khoa học, một khung pháp lý và nền tảng đạo đức đã khiến PR Việt Nam chưa có một nền tảng vững chắc, cũng như chưa có định hướng phát triển và hoạt động đúng đắn để được coi là một chuyên ngành thật sự… Trong khi một nền PR chuyên nghiệp chưa được hình thành thì đã xuất hiện những hiện tượng tiêu cực như PR “đen” tự tạo tai tiếng để được nổi tiếng, xây dựng quan hệ báo chí bằng cách mua chuộc các nhà báo…  Nước ta đang trong quá trình xây dựng hệ thống cung cấp thông tin minh bạch. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để kiểm soát và cung cấp thông tin cho dư luận một cách có hiệu quả và mang lại lợi ích cho tổ chức. Đã có nhiều trường hợp cán bộ lúng túng trong công tác quản lý truyền thông do chưa nghiên cứu, tìm hiểu, thích nghi với cách quản lý thông tin mới. Cuốn sách PR  Lý luận & Ứng dụng với hệ thống lý luận cùng các bài học ứng dụng thực tiễn giúp những người hoạt động trong lĩnh vực quản lý thông tin tác nghiệp hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của công tác truyền thông trong thời đại mới. Trong cuốn sách này, nhóm tác giả đã tổng hợp, phân tích và trình bày một hệ thống kiến thức học thuật cơ bản của lĩnh vực PR. Hệ thống kiến thức này được giới thiệu trong sáu chương: Chương 1: Đại cương về PR, tóm lược và giới thiệu những lý thuyết cơ bản về truyền thông giao tiếp – cốt lõi của PR; đưa ra các định nghĩa về PR, phân biệt PR với một số hình thức truyền thông liên quan như quảng cáo, dân vận, tuyên truyền và marketing; giới thiệu nguồn gốc và phác thảo lịch sử hình thành, phát triển của PR trên thế giới và ở Việt Nam; trình bày các học thuyết đạo đức và những vấn đề đạo đức cơ bản – cơ sở của đạo đức PR. Chương 2: Quản lý PR, phân tích chức năng quản lý của PR; làm thế nào quản lý truyền thông một cách chiến lược; kỹ năng truyền thông chiến lược; phương pháp lập kế hoạch truyền thông mang tính chiến lược; quản lý các vấn đề và rủi ro.  Chương 3: PR ứng dụng, giới thiệu các lĩnh vực PR ứng dụng tiêu biểu: trong chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Bên cạnh việc nêu bật tầm quan trọng của các hoạt động PR trong kinh doanh và các tổ chức phi chính phủ trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế, chương này còn phân tích vai trò và nhiệm vụ của các hoạt động PR chính phủ – phương tiện chính trị và quản lý để đạt được những mục đích khác nhau của chính phủ, là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý của chính phủ.  Chương 4: Hoạt động PR, cung cấp cái nhìn tổng quát và các đánh giá về vai trò, nhiệm vụ và nguyên tắc của PR trong quan hệ với báo chí, PR nội bộ, PR cộng đồng và PR vận động hành lang, đặc biệt mối quan hệ với báo chí là một phần quan trọng của hoạt động PR. Chương 5: Kỹ năng PR giới thiệu các kỹ năng tác nghiệp PR cơ bản: viết cho PR, giao tiếp, đàm phán, thuyết trình và trả lời phỏng vấn. Chương này cung cấp cho người làm PR chìa khóa để thực hiện truyền thông một cách rõ ràng, súc tích và cách thức để truyền tải thông điệp hiệu quả trên các phương tiện truyền thông. Chương 6: PR và những vấn đề pháp luật, giới thiệu khái quát một số vấn đề pháp luật liên quan đến hoạt động PR và đề cập tới sự cần thiết phải hiểu biết pháp luật của những người làm PR. Nhìn chung, kiến thức về PR trong các tài liệu nghiên cứu của Việt Nam còn rời rạc, ít ỏi, thiếu tính toàn diện và chưa đi sâu vào phần lý luận cơ bản. Trong khi đó, PR lại là một lĩnh vực liên ngành, rất cần sự tổng kết, hệ thống hóa kiến thức. Ngược lại, nguồn tài liệu PR của các học giả nước ngoài lại rất dồi dào, phong phú. Trải qua gần 100 năm phát triển, PR đã được đào sâu nghiên cứu cả trên lĩnh vực lý luận và thực hành, với sự tham gia của nhiều học giả tên tuổi. Tuy nhiên, việc sử dụng những kiến thức khoa học lý luận PR phong phú của nước ngoài cần phải có sự chọn lọc bởi giữa các quốc gia luôn có sự khác biệt về văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội… Chính vì vậy, rất cần có các nghiên cứu bổ sung về thực trạng hoạt động PR tại Việt Nam để tăng cường khả năng ứng dụng của PR trong thực tế nước ta.  Xuất phát từ nhận định về nhu cầu kiến thức PR đang tăng trong khi lượng kiến thức hiện có còn thiếu hụt, đặc biệt là về mặt cơ sở lý luận, cuốn sách cung cấp một hệ thống kiến thức tương đối khoa học và hoàn chỉnh, đặc biệt là những kiến thức mang tính cơ sở lý luận khoa học về lĩnh vực này. Đây là yếu tố không thể thiếu để xây dựng một chương trình đào tạo PR hoàn chỉnh nhằm cung cấp nguồn nhân lực PR chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu của xã hội; nâng PR lên vị trí là một ngành chuyên môn, một ngành khoa học, nhận được sự tôn trọng và đầu tư phát triển thích đáng của xã hội. Bên cạnh đó, kiến thức về PR cũng là nguồn bổ sung quan trọng cho các lĩnh vực liên quan như báo chí, marketing…  Nằm trong bộ sách về PR, hợp tác xuất bản giữa Khoa Quan hệ công chúng và Quảng cáo (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) với Công ty Cổ phần Sách Alpha, tiếp nối thành công của cuốn PR – Kiến thức cơ bản và đạo đức nghề nghiệp (2007), PR  Lý luận & Ứng dụng là một trong số ít những tài liệu PR bằng tiếng Việt, do người Việt Nam biên soạn, là nghiên cứu đầu tiên với lượng kiến thức lý luận và thực tiễn cơ bản, tổng hợp về chuyên ngành này. Cuốn sách là nguồn tài liệu giảng dạy, tham khảo bổ ích cho các học viên, các nhà nghiên cứu chuyên sâu về PR và lĩnh vực liên quan, các nhà quản lý truyền thông, những người làm PR chuyên nghiệp, nhà hoạch định chính sách, nhà làm luật và tất cả những ai quan tâm đến chuyên ngành mới mẻ và cũng hết sức lý thú này ở Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này đến bạn đọc!  Nhóm tác giả  ***  Giao tiếp chính là cơ sở của các mối quan hệ giữa người với người. Từ lúc sinh ra cho đến khi kết thúc cuộc đời, con người không thể tồn tại như những cá thể riêng biệt mà luôn là một thành phần của gia đình, tổ chức, xã hội... Chúng ta cần sự hiểu biết, chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ, cộng tác của những người xung quanh về cả vật chất lẫn tinh thần để có thể tồn tại, phát triển và thành đạt. Để xây dựng, duy trì và phát triển những mối quan hệ này, chúng ta phải dựa vào các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp bao gồm các hoạt động trao đổi thông tin giúp con người chia sẻ với nhau những suy nghĩ, tình cảm, hiểu biết, kinh nghiệm, vốn sống, tri thức… để tạo nên sự hiểu biết, thúc đẩy sự hợp tác với nhau, từ đó đạt thành công trong công việc và cuộc sống. Hoạt động giao tiếp diễn ra khắp nơi và liên tục, chiếm phần lớn thời gian và hoạt động của chúng ta. Người ta ước tính rằng các hoạt động giao tiếp chiếm đến 90% thời gian làm việc một ngày của một nhà quản lý cao cấp. Nói tóm lại, giao tiếp là một hoạt động cơ bản và cần thiết, một trong những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống con người, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Tymson và Lazar, hai nhà nghiên cứu truyền thông người Australia, đã định nghĩa hoạt động giao tiếp của con người như sau: Hoạt động giao tiếp của con người bao gồm hoạt động nói, nghe, nhìn, cảm nhận và phản ứng với nhau, những kinh nghiệm và môi trường của họ . Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, với sự ra đời của các tổ chức có quy mô và sức ảnh hưởng ngày càng lớn và có mối quan hệ chặt chẽ với xã hội, như các công ty sản xuất hàng hóa phục vụ người tiêu dùng, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, các cơ quan chính phủ, các đảng phái, các cơ sở y tế cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng… thì nhu cầu giao tiếp giờ đây không chỉ dừng lại giữa các cá nhân. Các tổ chức cũng có nhu cầu giao tiếp với công chúng – những người, nhóm người mà tổ chức có ảnh hưởng và bản thân họ cũng tác động đến lợi ích, sự tồn vong của tổ chức. Để tồn tại và phát triển, tổ chức cần được công chúng biết đến, hiểu và ủng hộ. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, duy trì lâu dài. Do đó, tổ chức cần đến những người đại diện cho mình, chuyên làm công việc giao tiếp với công chúng – đó chính là người làm PR. Như vậy, người làm PR là người làm công việc giao tiếp chuyên nghiệp. Để đạt được những mục tiêu quan trọng nhất của PR là tạo sự hiểu biết lẫn nhau, tạo mối quan hệ giữa tổ chức và công chúng, người làm PR phải dựa vào các hoạt động giao tiếp chuyên nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau.  Tymson và Lazar còn định nghĩa: Giao tiếp là việc quản lý các thông điệp nhằm mục đích tạo ra sự hiểu biết. Các lý thuyết trước đây coi giao tiếp là một quy trình thẳng, nơi một thông điệp được chuyển thẳng từ người gửi đến người nhận mà không có sự thay đổi nào.  Ngày nay, lý thuyết giao tiếp hiện đại đã thừa nhận tầm quan trọng của thính giả: Thính giả đưa những mong muốn và định kiến của họ vào các hoạt động nghe, đọc, xem và không bao giờ chấp nhận hoàn toàn những gì mà người khác nói với họ . Công việc của truyền thông và PR là tạo ra sự chia sẻ kiến thức và hiểu biết, từ đó tạo điều kiện để những mối quan hệ giữa người làm PR và thính giả phát triển thuận lợi. Mỗi lĩnh vực đều có một hệ thống kiến thức làm nền tảng cho hoạt động. PR là một lĩnh vực mới và hiện nay vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển hệ thống kiến thức nền tảng. Hệ thống này phần lớn được rút ra từ các lĩnh vực liên quan như truyền thông đại chúng, ngôn ngữ học, tâm lý học, xã hội học, marketing, quản lý, lý thuyết tổ chức và nghiên cứu văn hóa. Lý thuyết giao tiếp là một cơ sở logic bởi vì phần lớn công việc của người làm PR liên quan đến giao tiếp, dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp.  Những cơ sở lý thuyết này giúp người làm PR thiết kế và hoạch định các chiến dịch truyền thông hiệu quả, phân tích đánh giá hoạt động truyền thông, dự đoán khả năng thành công của các chương trình hoặc chiến dịch PR, tạo mối liên hệ giữa việc nghiên cứu chuyên ngành PR và các lĩnh vực truyền thông, quản lý khác, mở ra những cách tiếp cận khác nhau để chúng ta tiếp tục khám phá ý nghĩa và vai trò của PR trong xã hội. Việc sử dụng lý thuyết giao tiếp gắn liền với các nghiên cứu về truyền thông. Các nghiên cứu có nhiều lợi ích: giúp chúng ta hiểu được quá trình truyền thông, hiểu được tại sao một chương trình truyền thông thành công hay thất bại, khám phá nhiều yếu tố có liên quan với nhau tạo nên quá trình truyền thông và giúp những người làm PR xây dựng các chiến lược sử dụng truyền thông hiệu quả.  Để hoạt động PR hiệu quả, cần tìm hiểu ba khía cạnh cơ bản: quá trình thông tin cơ bản và những gì xảy ra ở mỗi bước của quá trình; hiểu được người nhận và quy trình người nhận phải trải qua khi trả lời một thông điệp; áp dụng kiến thức để xây dựng một chiến dịch PR.  Trong cuốn Lý thuyết toán học của giao tiếp xuất bản năm 1949, hai tác giả Shannon và Weaver đã chỉ ra những bước cơ bản của quá trình giao tiếp, bao gồm: nguồn phát, mã hóa, thông điệp, kênh, nhiễu, giải mã, đối tượng tiếp nhận và phản hồi. Sau đó, ba nhà nghiên cứu Cutlip, Center và Broom tiếp tục bổ sung để làm sáng tỏ cơ chế của quá trình giao tiếp. Mô hình truyền thông hay quá trình giao tiếp có thể được mô tả như sau: Nguồn phát (chủ thể hoặc người gửi) sẽ gửi đi các thông điệp đã được mã hóa đến đối tượng tiếp nhận (người nhận) thông qua các phương tiện truyền thông. Người nhận giải mã các thông điệp này và có phản hồi đối với người gửi. Quá trình gửi và nhận thông điệp có thể bị cản trở hoặc ảnh hưởng bởi các yếu tố gây nhiễu. Ngoài ra, còn phải kể đến yếu tố khung nhận thức chung cũng ảnh hưởng tới chất lượng của quá trình giao tiếp. Nguồn phát (Người gửi)  Những người làm PR thường là người tạo ra các thông điệp và mục tiêu đầu tiên bạn muốn hoạt động giao tiếp phải rõ ràng. Có phải bạn đang định giải thích cho công chúng về một vấn đề, hay cố gắng thuyết phục đối tượng về một quan điểm nào đó và vận động sự ủng hộ, hoặc chỉ đơn giản là thiết lập một mối liên hệ như là bước đầu tiên cho các hoạt động giao tiếp khác nhau? Mục tiêu của người làm PR sẽ định hướng toàn bộ quá trình thông tin. Ví dụ, các chiến dịch PR có thể dựa vào Lý thuyết về Các tầng hiệu quả. Thuyết này xác định những loại hiệu quả khác nhau có thể đạt được, bao gồm việc hình thành, tạo lập thông điệp; phổ biến thông điệp; tiếp nhận thông điệp; hiểu thông điệp; thay đổi hoặc củng cố thái độ; thay đổi hoặc củng cố hành vi. Trong một chương trình PR cụ thể, người làm PR xác định mình muốn đạt đến mức độ hiệu quả nào để thiết kế hoạt động truyền thông phù hợp.    Mời các bạn đón đọc PR Lý Luận Và Ứng Dụng của tác giảe Đinh Thị Thúy Hằng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cú Hích Khởi Nghiệp
Chúng ta dễ dàng thấy được sức mạnh toát ra từ những con người dám đứng lên và khởi xướng “phong trào” của riêng họ, đó có thể là khởi xướng một ý tưởng, khởi động một chiến dịch và phổ biến nhất là khởi phát một công ty. Bằng vốn sống và kinh nghiệm thương trường dày dạn của mình, tác giả Jennifer Dulski đã chắt lọc những ý kiến của bản thân trong một cuốn sách đáng giá viết về chủ đề khởi xướng phong trào mang tên “Cú hích khởi nghiệp”. Cuốn sách là lời kêu gọi đầy cảm hứng, truyền sức mạnh cho bất cứ ai muốn thay đổi thế giới này. Đặc biệt hơn nữa cuốn sách không xoay quanh những con người nắm trong tay vô vàn quyền hạn và trách nhiệm, mà nó tập trung nói về cách những con người bình thường tạo nên điều phi thường. Và dưới con mắt chuyên gia của tác giả, bất cứ ai cũng có thể tạo ra sự đổi thay nếu họ tin tưởng vào quyền năng sức mạnh mà hành động của họ tạo nên, bất kể địa điểm hay phạm vi. Và đã đến lúc bạn phải tự hỏi mình, rằng bạn muốn trở thành người bình thường hay người bình thường tạo ra những điều phi thường? *** Bạn chẳng thể biết được mình sẽ truyền cảm hứng cho ai Một phần yêu thích của tôi khi phỏng vấn các gương mặt xuất hiện trong cuốn sách này là được nghe câu chuyện về những người truyền cảm hứng cho họ để khởi xướng phong trào. Đa phần những người khởi động kiến nghị từng nói chuyện cùng tôi đều bộc bạch rằng họ chịu tác động lớn từ những người có chiến dịch tương tự hoặc thực hiện hoạt động xã hội khác. Suy nghĩ rằng ai đó khác cũng đang nỗ lực tạo ra thay đổi giúp họ thấy được tính khả thi cho chính trường hợp của mình. Ngạc nhiên thay, hầu hết lại chưa từng nói với những người kia rằng họ đã là nguồn cảm hứng quan trọng ra sao. Chúng ta chẳng bao giờ biết được điều gì ta nói hoặc làm rồi sẽ truyền cảm hứng cho người khác. Tuy nhiên, ta nên nhận thức được rằng hành động của mình sẽ có tác động khi thì nhỏ bé, khi thì sâu sắc, tới người khác. Và đây là một chuyện đáng kể. • • • Taryn Brumfitt, bà mẹ ba con người Úc, đã có khoảnh khắc giác ngộ sau nhiều năm vật lộn với hình thể không hoàn hảo của mình. Cô đã cân nhắc thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ, rồi lại từ chối vì nghĩ đây sẽ là ví dụ xấu cho con gái mình. Cô chuyển sang chế độ ăn kiêng và các bài tập nghiêm ngặt, và thành công trở thành huấn luyện viên thể hình xuất sắc. Nhưng cô kể với tôi rằng, “Lối sống mà tôi phải duy trì để có được cơ thể hoàn mỹ này thực sự rất gò bó, và nó chẳng mấy vui vẻ.” Taryn nhận ra cô hạnh phúc hơn với cơ thể ban đầu của mình. Giờ đây, cô đã biết tôn trọng, yêu thương và đối xử với cơ thể mình tốt hơn. img571 Hình ảnh trước và sau của Taryn Brumfitt. Thế là cô đã làm việc không ai ngờ tới. Cô đăng ảnh “trước và sau” của mình, với cơ thể khỏe mạnh nuột nà làm ảnh “trước” và cơ thể tròn trịa hơn, đều đặn và hạnh phúc hơn làm ảnh “sau”. Taryn không đăng ảnh nhằm mục đích truyền cảm hứng cho người khác. Cô làm vậy như một phần của lộ trình tìm cách yêu lấy cơ thể mình. Và cô không hay biết bức ảnh đó sẽ truyền cảm hứng cho bao nhiêu người. Bức ảnh giờ đây đã có hơn 100 triệu lượt xem, và hơn 7.000 người liên hệ trực tiếp với Taryn qua email và mạng xã hội để cho cô biết cô đã mang lại nguồn cảm hứng lớn lao với họ ra sao. Lòng can đảm của cô khi đăng bức ảnh đó đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người, thôi thúc cô viết một cuốn sách và sản xuất một bộ phim tài liệu, cả hai đều có tựa đề Embrace (tạm dịch: Ôm trọn). Rồi cô lại khởi xướng Phong trào Hình ảnh Cơ thể (The Body Image Movement) trên khắp thế giới. • • • Amanda Nguyen, người phụ nữ trẻ tuyệt vời đấu tranh cho nạn nhân xâm hại tình dục cũng chia sẻ với tôi câu chuyện về nguồn cảm hứng không ngờ tới. Sau một ngày mệt nhoài làm công tác hành lang tại Nghị viện Tiểu bang Massachusetts, cô về nhà và bật khóc. Cô cảm thấy thất bại và không chắc liệu mình có thể thuyết phục giới chính trị gia dành sự quan tâm tới một động lực vốn không quen thuộc với đời sống cá nhân của họ. Nhưng ngày hôm sau, khi bắt Uber quay lại Thượng viện Hoa Kỳ để tiếp tục làm công tác hành lang, anh tài xế hỏi cô đến đó để làm gì. Amanda kể lại, “Tôi trả lời, và thế là con người hoàn toàn xa lạ này bắt đầu bật khóc. Nước mắt trào ra khỏi khóe mắt và anh nói, ‘Con gái tôi từng bị cưỡng bức, và khi con bé cố tìm kiếm sự giúp đỡ, thì hệ thống lại quá lỏng lẻo.’ Khi dừng xe, anh xin phép bắt tay tôi và cảm ơn vì đã đấu tranh cho cả con gái anh nữa. Rồi anh tiếp lời, ‘Hôm nay đã có ai nói với bạn rằng họ yêu bạn chưa? Tôi yêu bạn.’ Và tôi sẽ không bao giờ quên được người cha này. Từ trải nghiệm này, tôi rút ra được một bài học. Đôi khi ta sẽ cảm thấy đơn độc khi làm việc, nhưng nó luôn có hiệu ứng gợn sóng mạnh mẽ và giàu ý nghĩa. Và nó giàu ý nghĩa với những người bạn thậm chí chẳng biết hay chẳng nghĩ rằng sẽ tác động tới.” Amanda đã truyền cảm hứng cho tài xế Uber này, để ông biết rằng ngoài kia đang có người đấu tranh cho cả con gái của ông nữa. Và ngược lại, ông cũng truyền cảm hứng cho cô. Những lời lẽ trân trọng đơn giản đó có ý nghĩa lớn với cô, đặc biệt vào những ngày khó khăn. • • • Sara Wolff là nhà hoạt động cho quyền của người khuyết tật và là diễn giả truyền cảm hứng với Hội chứng Down. Cô tìm thấy cảm hứng từ những người cô từng gặp trong suốt quá trình làm nhiệm vụ hỗ trợ Đạo luật ABLE. Trò chuyện và lắng nghe câu chuyện của họ là phần cô thấy giàu ý nghĩa nhất, và chính vai trò này đã duy trì động lực để cô không ngừng đấu tranh cho quyền của người khuyết tật. “Con người truyền cảm hứng cho nhau vì tất cả chúng ta đều có thể học hỏi từ người khác”, cô nói với tôi. “Tôi đã không biết mình là một người ủng hộ, cho đến những năm trung học, khi tôi học được rằng nếu tôi có thể đứng lên vì bản thân, thì tôi cũng có thể làm thế vì người khác. Tôi yêu việc này. Học hỏi bao điều từ mọi người, lắng nghe câu chuyện về bản thân, về gia đình, về bạn bè và về cảm xúc của họ là một cảm giác tuyệt diệu.” Nhưng có chăng điều đáng nói hơn cả là hoạt động của Sara Wolff đã truyền cảm hứng cho vô số người trong cộng đồng khuyết tật và xa hơn nữa. Chủ tịch Cộng đồng mắc Hội chứng Down (NDSS) Sara Weir nói với tôi rằng: “Sara Wolff phải nói là quá phi thường. Trong khi cô phát triển và trở thành bộ mặt của đạo luật này trong suốt thập kỷ qua, khả năng vận động và kể câu chuyện bản thân của cô cũng rất đáng để theo dõi. Cô trưởng thành hơn dưới cương vị một nhà ủng hộ và một con người, bằng cách vượt qua hành trình này. Tuy nhiên, phần lớn mọi người có lẽ đã không nhìn thấy một điều; đó là khả năng đặt ra tiêu chuẩn cho những Bố và những Mẹ có con bị mắc Hội chứng Down ngày hôm qua hoặc ngày mai. Họ chỉ nhìn thấy Sara, và nhận ra điều cô có thể làm. Làm chứng trước Ủy ban Tài chính của Thượng viện Hoa Kỳ, một bệnh nhân của Hội chứng Down – chuyện này đâu xảy ra hằng ngày. Cô thực sự đã đẩy tiêu chuẩn lên cao. Và cô làm được việc này chỉ bởi sống như chính con người mình. Cô khiến cộng đồng người khuyết tật hiểu ra tương lai xán lạn cho bệnh nhân mắc hội chứng Down. Và họ có thể chạm tới hi vọng, mơ ước và đam mê của mình.” • • • Khi tôi hỏi những người tôi từng phỏng vấn về người truyền cảm hứng cho họ, tôi nhận được các đáp án đa dạng từ “mẹ tôi”, tới người đồng nghiệp hoặc giáo viên cụ thể, cho tới “thành viên ban nhạc cũ của tôi”. Mỗi người khởi xướng phong trào đều có thể ngay tắp lự nêu tên những người có hành động nhỏ hoặc lớn đã truyền cảm hứng cho họ; ấy vậy mà chỉ một phần nhỏ từng thổ lộ với nguồn cảm hứng của mình về ảnh hưởng họ mang lại. Bất kể đã gửi lời cảm ơn tới người cho mình cảm hứng hay chưa, mỗi người đều có sự hình dung rõ rệt về thứ tạo nên khác biệt; đó là hành động hoặc lời nói cho họ thấy rằng họ có thể giải quyết vấn đề lớn và tạo ra phong trào của bản thân. Mặc dù chúng ta hẳn không thể tường tận về cách hành động của mình ảnh hưởng tới người khác, chúng ta cũng đã thấy rằng cử chỉ nhỏ nhất, như để lại bình luận ngắn – một “lí do ký tên”– trên đơn kiến nghị của người khác, cũng có thể trở thành nguồn cảm hứng lớn lao. Điều nhỏ nhoi ta nói hoặc viết cho người khác cũng có sức mạnh tương tự. Tôi vẫn nhớ như in những lần được tác động để tự tin và tích cực hơn. Một giáo sư từng gợi ý tôi xuất bản nghiên cứu của mình trên tạp chí học thuật. Một lãnh đạo tập đoàn cho tôi cơ hội và một vị trí làm việc lâu dài. Tôi còn cảm nhận được niềm vui và nỗi bất ngờ khi học sinh cũ nói rằng niềm tin của tôi dành cho họ đã trở thành chất xúc tác cho thành công của họ như thế nào, hoặc lời khuyên và kiến nghị tôi từng đưa ra cho đối tác trong một cuộc nói chuyện nào đó đã tái định hình sự nghiệp của họ ra sao. Chúng ta thực sự không hề hay biết về ảnh hưởng của mình lên người khác. Khi điều này được sáng tỏ, tôi mong nó có thể đẩy chúng ta đi xa hơn để làm được hai việc sau: 1. Nghĩ kỹ hơn về ảnh hưởng của bản thân tới người khác. Hãy trở nên tốt bụng và biết khuyến khích, biết thúc đẩy người khác tới tầm cao mới, cả trong tương tác sâu và nông. Chúng ta nào hay biết lời nói và hành động của mình rồi sẽ truyền cảm hứng cho ai. 2. Hãy liên lạc những người từng cho ta cảm hứng và nói cho họ biết về điều đó. Không chỉ mối quan hệ được vững chãi hơn, mà bạn hãy nghĩ xem thế giới sẽ tích cực hơn bao nhiêu nếu chúng ta củng cố hành vi giàu cảm hứng bằng cách cho người khác biết hành động của họ có hiệu quả - và có lẽ họ sẽ tiếp tục làm nó trong tương lai. Việc bạn có tạo ảnh hưởng đến người khác hay không chẳng hề quan trọng. Sống cuộc đời biết theo đuổi tác động tích cực mới quan trọng: cuộc đời có chủ đích, cuộc đời vì cộng đồng, và cuộc đời thúc đẩy bởi hi vọng. Chúng ta đã thấy được sức mạnh từ những người biết đứng lên để khởi xướng phong trào và từ lượng lớn cộng đồng ủng hộ họ - các công ty mới mở được thúc đẩy bằng mục đích, những ý tưởng và cách tiếp cận mới trong các tổ chức trì trệ, cũng như các chính sách cùng các điều luật mới để tạo ra thế giới tốt hơn cho tất cả. Giờ đã đến lượt bạn. *** Với tinh thần “nào hay biết ta rồi sẽ truyền cảm hứng cho ai”, có biết bao con người đã cho tôi cảm hứng trên hành trình viết cuốn sách này. Đầu tiên, lòng biết ơn sâu sắc nhất xin gửi tới những con người giàu cảm hứng mà tôi may mắn được phỏng vấn, bao gồm cả những câu chuyện hết sức tuyệt vời nhưng không may lại không xuất hiện trong bản thảo cuối, nhưng hành động can trường của họ đã khiến thế giới trở thành nơi tốt đẹp hơn và tôi vẫn tìm kiếm cơ hội để được kể câu chuyện của họ. Juliana Britto Schwartz và Hội Thanh niên Standing Rock tại Bắc Dakota dẫn đầu phong trào phản đối đường ống dẫn dầu vào Dakota; Leah Busque sáng lập Task Rabbit và có đóng góp lớn cho phong trào ủng hộ tạo nên công việc linh hoạt hơn; Caroline De Haas trong phong trào bảo vệ luật lao động Pháp; Consuelo Machado đứng lên vì quyền giáo dục của con trai mình và của những đứa trẻ khuyết tật khác tại Brazil; Richard Ratcliffe đến từ UK đấu tranh không mỏi mệt để người vợ Nazanin đang bị tống giam tại Iran được phóng thích, và Shay Rubin trong khi chạy chiến dịch kêu gọi công ty bảo hiểm hỗ trợ phẫu thuật cấy ốc tai cho con trai mình đã thành công thuyết phục công ty này viết lại chính sách hỗ trợ toàn bộ quá trình phẫu thuật cho mọi khách hàng. Tôi muốn cảm ơn những đồng nghiệp phi thường của mình, những người cho tôi bao bài học trong nhiều cột mốc trên con đường sự nghiệp cá nhân; rất nhiều ví dụ cuộc đời tôi chia sẻ trong cuốn sách này có thể đã chẳng xảy ra nếu không có những con người tuyệt vời mà tôi được đồng hành cùng. Lời cảm ơn đặc biệt gửi tới Ben Rattray và các đồng nghiệp tại Change.org, những người giúp tôi mở mang tầm mắt, để tôi thấy được con người quanh thế giới đang mạnh dạn lên tiếng vì bất công trong mắt họ như thế nào, và dạy tôi nhiều kỹ thuật con người sử dụng để làm được những việc trên. Có quá nhiều đồng nghiệp tuyệt vời để kể tên trong nhiều năm trời; tôi mong các bạn đều biết được tôi trân trọng các bạn nhường nào. Dành cho những người từng cho tôi cảm hứng và những người tôi chưa từng thổ lộ, tôi luôn biết ơn những cá nhân từng xuất hiện trong cuộc đời mình, làm người hướng dẫn, huấn luyện viên và cho tôi cơ hội, dù bằng cách thách thức tôi, cho tôi công việc, đầu tư vào tôi (cả về cảm xúc và tiền bạc), đóng vai trò hình mẫu để tôi theo đuổi, đề xuất tôi cho một vị trí, hoặc đơn giản chỉ là tin tưởng vào tiềm năng của tôi: Jeanie và Jim Mohan, Barbara và Rob York, Beth Anderson, Chuck Lucasey, Doc Lamott, Joe DiPrisco, Peter Kuniholm, Tom Gilovich, John Brenner, gia đình Potiguar, Loofbourrow, Mare (Kalin) Managan, Ham Clark, Marnie McKnight, SusanDalton, Robert Frank, George Babbes, Karen Edwards, Grant Winfrey, Ken Grouf, Rob Solomon, Cammie Dunaway, Jeff Weiner, James Slavet, Hilary Schneider, Jerry Yang, Dave Goldberg, Bill Harris, Chandu Thota, Sergio Monsalve, Joe Hanauer, Susan Wojcicki, Sridhar Ramaswamy, Sameer Samat, Reid Hoffman, AriannaHuffington, Andrew Bosworth, Chris Cox, Kang Xing Jin, Mark Zuckerberg, Sheryl Sandberg, Naomi Gleit, và nhiều người khác nữa. Có được những người luôn tin tưởng và sẵn lòng thúc đẩy tôi mạnh mẽ hơn so với khi tôi tự thúc đẩy bản thân chính là tài sản vô giá trong cuộc đời tôi. Tôi mong rằng có thể truyền tải cảm hứng của họ với nhiều người khác thông qua cuốn sách này. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ed Faulkner từ Ebury, người từng nghe bài phát biểu của tôi tại London vào năm 2015 và đến gặp tôi sau đó để hỏi liệu tôi có bao giờ cân nhắc viết sách chưa. Tôi không rõ anh ấy đã thấy gì và nghe được gì vào hôm đó để đưa ra đề xuất này, nhưng tôi cảm ơn anh vô cùng, bởi cuốn sách này hẳn đã không tồn tại nếu không có anh. Cuốn sách này cũng sẽ không thành hiện thực nếu không có Laura Zigman, đồng tác giả chí cốt của tôi, người giúp đỡ tôi qua mọi giai đoạn của cả quá trình và mọi khoảnh khắc tự nghi ngờ bản thân, tận dụng trải nghiệm, tài năng và khiếu hài hước tinh tế của cô để giúp tôi bước tiếp. Tôi biết ơn vô cùng vì sự giúp đỡ của cô và vì toàn bộ thời gian cũng như sự tận tụy cô bỏ vào cuốn sách này. Tôi muốn cảm ơn Eva Arevuo và Callie Thompson vì sự giúp đỡ của họ trong nhiều phần của cả quá trình này, từ lên lịch phỏng vấn nhằm mục đích nghiên cứu, hay đọc và góp ý cho những bản thảo đầu tiên, cũng như Shirl Harrison vì sự ủng hộ của cô. Sự giúp đỡ của họ giá trị biết bao. Tôi gửi lời cảm ơn tới những con người tại Portfolio/Penguin, họ đóng vai trò quan trọng cho sản phẩm cuối cùng. Đầu tiên, xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới biên tập viên Merry Sun. Cô luôn cực kỳ thấu đáo và hữu ích với những gợi ý, và hiển nhiên đã khiến cuốn sách chặt chẽ hơn sau mỗi lần chỉnh sửa. Tôi biết ơn nhà xuất bản Adrian Zackheim của Portfolio, người nắm bắt tầm nhìn rõ ràng ngay từ ban đầu cho cuốn sách, khuyến khích tôi tư duy rộng hơn về định nghĩa của phong trào, và giúp kết nối các quan điểm khác nhau để đi đến sự thống nhất sau cùng. Và tôi cũng muốn cảm ơn Stephanie Frerich; sự hào hứng ban đầu của cô về cuốn sách đã tạo ra động lực và giúp chúng tôi khởi đầu đúng hướng. Tôi cũng biết ơn tác phẩm xinh đẹp và sáng tạo của giám đốc nghệ thuật Chris Sergio và thiết kế minh hoạ của Daniel Lagin và Tiffany Estreicher; nhóm tiếp thị gồm Will Weisser, Katherine Valentino, Taylor Edwards và Madeline Montgomery; hỗ trợ xuất bản từ Alie Coolidge, Kelsey Odorczyk và Tara Gilbride; biên tập sản xuất Sharon Gonzalez, quản lý biên tập Lisa D’Agostino, và công tác biên soạn tỉ mỉ của Angelina Krahn. (Là người yêu thích ngữ pháp, tôi từng bí mật tưởng tượng cuộc sống khác dưới cương vị một nhà biên soạn, mặc dù rõ ràng công việc của họ còn hơn cả thế). Xin gửi lời cảm ơn tới Lucy Oates từ Ebury vì đã mang cuốn sách tới Anh và phản hồi hướng tới độc giả Anh của cô. Đoạn cuối quan trọng này xin dành cho những con người quan trọng nhất trong cuộc đời tôi. Tôi muốn gửi lời biết ơn sâu sắc nhất tới bố mẹ tôi, Bob và Judy Huret, các chị gái, Deborah Op den Kamp và Bonnie Morrison, những người bạn thân thiết nhất bao gồm “bộ sậu bảy người”, gia đình nhà chồng, gia đình Dulski, và gia đình Frans Op den Kamp. Tất cả mọi người đã cho tôi tình yêu và sự ủng hộ vô điều kiện, và cả những món quà chẳng thể đong đếm, bao gồm vô số bài học xuất hiện trong cuốn sách này. Và gửi tới các con gái của mẹ, Emma và Rachel, và ông xã, Len, mẹ sẽ không thể làm được nếu không có nhà mình. Mẹ mới may mắn làm sao khi có cả nhà trong đời và mẹ biết ơn vì được ở bên mọi người. Cả nhà đã cho mẹ động lực, và là lý do đằng sau những phong trào mà mẹ tham gia. Mời các bạn đón đọc Cú Hích Khởi Nghiệp của tác giả Jennifer Dulski.
Thuật Đấu Trí Châu Á
Đây là quyển sách mà bất cứ người phương Tây nào thuộc giới doanh nhân, chính trị gia hoặc học giả đang hoặc sẽ đàm phán ở phương Đông đều phải đọc. Là quyển sách đầu tiên tiết lộ với người phương Tây những bí mật sâu kín nhất trong tâm linh châu Á, vốn ảnh hưởng đến hành vi của họ trong kinh doanh, chính trị, xử thế, và chiến đấu. Tác giả đã chỉ ra rằng qua hàng thế kỷ, thuật đấu trí của người châu Á đã trở nên sắc bén đến nỗi người Mỹ hiếm khi nhận ra rằng người châu Á xem thương trường (và rộng hơn, cả thế giới) là chiến trường, và hành động đúng như vậy. Tác giả đã rút ra các nguyên lý thương lượng thành công từ sách Trung Hoa cổ vốn ảnh hưởng cả châu Á, và cung cấp cho độc giả các thí dụ ứng dụng chúng vào thế giới hiện đại. *** Chin-Ning Chu là một nhà tư vấn kinh doanh người Mỹ gốc Hoa và là tác giả quản lý kinh doanh bán chạy nhất ở châu Á và Vành đai Thái Bình Dương. Tác phẩm: Mặt Dày Tâm Đen Làm Ít Được Nhiều Thuật Đấu Trí Châu Á Binh Pháp Tôn Tử Dành Cho Phái Nữ ,,,, Mời các bạn đón đọc Thuật Đấu Trí Châu Á của tác giả Chin Ning Chu.
7 Ngày Khởi Nghiệp
L ần đầu tiên tôi biết đến tên Dan Norris là khi nhận được email của anh đề nghị tôi viết bài cộng tác cho blog với chủ đề 13 Pre-launch Traffic Strategies for Startups (Tạm dịch: 13 chiến lược tăng lưu lượng truy cập tiền khởi nghiệp cho các doanh nghiệp mới khởi nghiệp). Khoan đã... Hình như không phải vậy. Lần đầu tiên tôi thực sự biết tới Dan Norris là thông qua podcast1 của Tropical MBA – khi những người dẫn chương trình thường đề cập đến trang khởi nghiệp của anh. 1 Podcast là hệ thống phân phối nội dung cho phép người dùng tự động tải nội dung thông qua RSS, như dữ liệu âm thanh và dữ liệu video trên Internet – BT. À... hình như cũng không phải thế. Đó là khi Dan cho ra mắt podcast của anh... Blog của anh... Bản tin qua email của anh... Hay khi anh trở thành khách mời trong chương trình Khởi nghiệp trong tuần của Jason Calcanis. Tôi nghĩ rằng bạn bắt đầu nắm bắt được vấn đề rồi đấy. Sự thật “đáng sợ” là Dan Norris rất giỏi lăn lộn. Ít ai có thể lăn lộn như Dan, từ việc tung ra ồ ạt các podcast mới, bài viết mới trên blog, hay sẵn sàng xuất hiện trong podcast của những người khác (bao gồm cả của tôi). Tôi luôn ngưỡng mộ anh vì điều này. Chính tinh thần “không ngại khổ ngại khó” đã giúp anh liên tục điều chỉnh, thay đổi mô hình và giải mã con đường kinh doanh thông qua vô vàn nỗ lực khởi nghiệp thất bại và cuối cùng cán đích bằng một thành công ngoài mong đợi – chính là WP Curve. Và từ việc mất đến sáu tháng trời mới tìm được khách hàng đầu tiên, Dan đã rút ngắn thời gian này xuống còn bảy ngày. Trong những năm qua, tôi đã làm việc với hàng ngàn doanh nhân thông qua các podcast, blog, hội thảo khởi nghiệp, và công ty khởi nghiệp mới đây nhất của mình. Rõ ràng sai lầm lớn nhất mà người ta mắc phải là quá ám ảnh về ý tưởng của mình nên không tập trung đúng mức vào việc tìm kiếm những người sẵn sàng mở hầu bao cho sản phẩm của họ. 7 ngày khởi nghiệp dựa trên những nút thắt khó gỡ mà Dan đã đối mặt khi tìm cách hiện thực hóa hết ý tưởng này đến ý tưởng khác. Anh đã viết cuốn sách này nhằm giúp bạn tìm được khách hàng thực sự đầu tiên chỉ trong bảy ngày. Những bài học của anh được cô đọng thành những câu chuyện và những đúc kết dễ dàng áp dụng, giúp bạn bắt đầu một cách nhanh nhất. Tôi biết bạn đang nghi ngờ: “Bảy ngày ư?! Liệu có phải chính tinh thần lăn lộn đã làm tê liệt bộ não của anh ta không thế? Không ai có thể hiện thực hóa một ý tưởng chỉ trong bảy ngày cả.” Liên quan đến vấn đề này, tôi muốn kể bạn nghe một câu chuyện: Khi phỏng vấn Dan, bản thân tôi cũng thấy nghi ngờ về suy nghĩ hiện thực hóa một ý tưởng chỉ trong bảy ngày của anh ấy. Có thể nói ý tưởng về một startup bán Email Marketing của tôi, Drip, cực kỳ ít khả thi, và có thể sẽ phải mất tới hàng tháng trời để có thể ra mắt thị trường. Phản ứng của Dan trước sự lưỡng lự của tôi là gì? “Tôi cho rằng cần cân nhắc liệu Drip có phải là ý tưởng tuyệt vời cho một tân binh mới lập nghiệp bằng vốn tự có hay không. Trong cuốn sách của tôi có một danh sách các tiêu chí thế nào là một một ý tưởng tốt, và một trong số đó là khả năng xây dựng và thử nghiệm nhanh chóng. Drip có lẽ là ý tưởng tuyệt vời cho một doanh nhân có kinh nghiệm khởi nghiệp nhưng không phù hợp với người khởi nghiệp lần đầu, vì việc xây dựng một ý tưởng như vậy là quá khó bởi tính cạnh tranh quá cao.” Ồ, nói hay lắm, thưa quý ngài. Nếu bạn là một doanh nhân khởi nghiệp từng lập nghiệp ba hay bốn lần, tôi hy vọng bạn sẽ dấn thân ngay lập tức và không chần chừ. Với những người còn lại: Tôi khuyên các bạn nên lắng nghe lời khuyên từ quý ngài này. Xin chúc các bạn những điều tốt đẹp nhất trên hành trình sắp tới. Rob Walling Fresno, CA Tháng 8/2014. *** T ôi hy vọng rằng bạn đã coi cuốn sách này là một cẩm nang hữu hiệu khi suy ngẫm về việc khởi nghiệp của mình. Nếu bạn nảy ra một ý tưởng trong khi đọc nó, hay bạn có thể hiện thực hóa ý tưởng nhanh hơn có thể, thì tôi nghĩ đó đã có thể coi là một sự thành công rồi. Tôi cũng hy vọng bạn sẽ không lặp lại những sai lầm mà tôi đã mắc phải và ngay từ lần đầu tiên đã có thể gây dựng thành công một doanh nghiệp startup thú vị và sinh lợi nhuận. Tôi không nói về một doanh nghiệp mà bạn “một thành viên tự trả lương cho chính mình” (kiểu như mở cửa hàng bán lẻ, cửa hàng đồ lưu niệm...). Mà tôi muốn nói tới một doanh nghiệp sẽ đóng vai trò như một phương tiện giúp bạn tạo lập giá trị và thực tế. Hãy biết nghi ngờ trước những lời khuyên về kinh doanh và kiểm nghiệm mọi giả thiết kể cả là của bạn. Học hỏi từ khách hàng còn quan trọng hơn thế. Cần hiểu rõ về sự tăng trưởng của doanh nghiệp cũng như biết rõ doanh nghiệp sẽ ra sao nếu thiếu vắng bạn, nhưng đừng vì biết không có bạn cũng không sao mà ngại ngần xắn tay vào làm việc. Sớm quyết định thực hiện những việc khó khăn ngay từ đầu để có được sự tăng trưởng và giá trị cao hơn nữa trong tương lai. Hãy tìm kiếm những nguồn tạo đà phát triển và tiếp tục thực hiện những việc mang lại hiệu quả. Lắng nghe khách hàng và quan sát hành động của họ. Hãy hoạt động trong một thị trường lớn với một điểm khác biệt độc đáo có thể phản ứng kịp thời trước các điểm nhức nhối hoặc hài lòng của khách hàng. Đây là một thế giới rộng lớn, và nếu bạn đủ khôn khéo trong cách cơ cấu hoạt động cung cấp sản phẩm/dịch vụ của mình, thì bạn sẽ có không gian tăng trưởng không giới hạn. Hãy tạo ra một sản phẩm tuyệt hảo, làm tốt mọi việc và học cách nói “không”. Đó là doanh nghiệp của bạn. Vì thế trên tất cả, hãy liên tục cải thiện sản phẩm. Hãy tiến nhanh hơn và học hỏi nhanh hơn đối thủ cạnh tranh. Và tạo ra những thứ mới mẻ, giá trị và tận hưởng niềm vui. Mời các bạn đón đọc 7 Ngày Khởi Nghiệp của tác giả Dan Norris.
Phong Cách Quản Trị Park Hang Seo
Phong cách quản trị Park Hang Seo   Tác giả: Lê Huy Khoa Thể loại: Quản trị Số trang: 238 Kích thước: 14x18 cm Phát hành: NXB Tổng hợp TP.HCM Năm xuất bản: 08/2018 PHÍA SAU KỲ TÍCH THƯỜNG CHÂU ĐẾN ASIAD 2018 Quyển sách không những chia sẻ câu chuyện vận hành đội bóng của HLV Park Hang Seo tạo nên các kỳ tích U23 Việt Nam mà còn nói về đặc tính quản trị của người Hàn Quốc. Thành công của đội bóng đá U23 Việt Nam tranh cúp AFC 2018 hồi đầu năm và ASIAD 2018 gần đây để lại những giá trị và bài học kinh nghiệm sâu sắc từ nhiều góc nhìn khác nhau. Để đi đến thành công, có rất nhiều yếu tố, một trong số đó là cách tổ chức và vận hành, phong cách quản trị của tập thể. Lê Huy Khoa - trợ lý của HLV Park Hang-seo - đã viết cuốn Phong cách quản trị Park Hang-seo: Bí quyết thành công của doanh nghiệp Hàn Quốc. Sách kể lại câu chuyện, cách làm việc, vận hành tạo ra kỳ tích U23 Việt Nam. Sách nói về sự tương quan giữa bóng đá với quản trị doanh nghiệp, từ đó giúp các doanh nghiệp Việt Nam có những bài học kinh nghiệm quý giá trong việc tổ chức, quản trị đi đến thành công. Cách dùng người của HLV Park Hang Seo người ta thường thấy ở cách thay người hợp lí khi trận đấu đang cần những tình huống quyết định, đằng sau đó là một tài nghệ quản trị nhân sự và sử dụng tối ưu nguồn nhân lực hiện có của doanh nghiệp ở những tình huống kinh doanh trong thực tế. Tác giả cho rằng bóng đá thực ra không khác kinh doanh hay vận hành một tổ chức thông thường. • Bóng đá cần có cầu thủ có các điểm mạnh khác nhau từng vị trí từ phòng ngự đến hàng tấn công, hay những cầu thủ đa năng và đặc biệt cầu thủ đó phải phù hợp với triết lí hay sơ đồ chiến thuật vận hành, như doanh nghiệp có những nguồn nhân lực khác nhau sau cho tương thích văn hóa và chiến lược phát triển doanh nghiệp. • Bóng đá cần có sự lựa chọn sơ đồ chiến thuật và cách tiếp cận trận đấu ngay từ đầu đá áp đặt pressing hay phòng ngự phản công,.... Hay trong kinh doanh đẩy mạnh hoạt động tăng trưởng phát triển hay những chiến lược bảo vệ thị phần, chờ thời điểm đối thủ cạnh tranh mất tập trung để đẩy mạnh chiếm lĩnh thị trường. • Bóng đá không thể thoát khỏi phạm vi quy định của cuộc chơi cũng không khác gì những quy định pháp luật đặt ra cho kinh doanh. Bóng đá không thể sống nếu thiếu người hâm mộ cũng như người tiêu dùng không thể thiếu với doanh nghiệp... • Và điều quan trọng là ban huấn luyện và HLV trưởng, đó chính là người lãnh đạo doanh nghiệp. Những chủ tịch tập đoàn, ban lãnh đạo có vai trò quan trọng, có thể dẫn dắt, nuôi sống vạn người, một cá nhân có thể tỏa sáng thay đổi cục diện trận đấu mang vinh quang về cho cả tập thể, nhưng đằng sau vinh quang đó là công sức của cả tập thể. Theo tác giả Huy Khoa, ngày nay, nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc rầm rộ đầu tư và làm ăn thành công tại Việt Nam. Anh rất tò mò xem người Hàn Quốc đang làm cách nào để doanh nghiệp Việt của họ làm việc hiệu quả. Trong thể thao, thành công của vận động viên bắn súng Hoàng Xuân Vinh có sự giúp sức rất lớn của huấn luyện viên người Hàn Quốc. Kỳ tích của U23 Việt Nam cũng có phần không nhỏ của một người Hàn Quốc. Đó là những lý do thôi thúc tác giả Huy Khoa thực hiện cuốn sách. Trong phần mở đầu sách, anh viết: "Nhân dịp U23 tạo ra kỳ kích bởi một người Hàn Quốc, xin chia sẻ những triết lý, bí quyết của ban huấn luyện và của HLV trưởng Park Hang-seo để giúp doanh nghiệp, tổ chức mà người Việt đang vận hành tạo ra được những điều kỳ tích như U23 Việt Nam đã làm dưới bầu trời Trung Quốc". Cuốn sách không tôn sùng cá nhân HLV Park Hang-seo hay bất cứ ai. "Ông ấy cũng là một con người, và có nhiều nhược điểm. Hãy hiểu, quyết định của HLV Park cũng là quyết định của cả ban huấn luyện U23, và sự đồng lòng của một tập thể... Tôi hy vọng những điều họ đã ứng dụng trong bóng đá, dù mới hay cũ, đều có thể là cảm hứng cho chúng ta trong công việc, kinh doanh", Huy Khoa viết. Hãy đặt sách để cùng khám phá những nghệ thuật quản trị của HLV Park Hang Seo và người Hàn Quốc! E-book này được thực hiện trên tinh thần thiện nguyện, phi lợi nhuận và phục vụ cộng đồng người đọc chưa có điều kiện mua sách giấy. TVE-4U CÙNG ĐỌC - CÙNG CHIA SẺ! PDF, OCR và soát lỗi: sucsongmoi Soát tổng - đóng gói Ebook: machine *** Về tác giả Họ và tên: Lê Huy Khoa; bút danh Lê Cát An Châu Quê quán: Nghệ An, hiện cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh Là Tác giả của Bộ Từ điển Hàn - Việt đầu tiên, cùng khoảng 50 bộ giáo trình học tiếng Hàn, Kỹ năng nghề phiên dịch, U23 - Những chuyện chưa kể. Dịch giả của các hồi ký: Không bao giờ là thất bại! Tất cả là thử thách của Chủ tịch tập đoàn Hyundai Chung Ju Yung, Hồ Nham tự truyện của Chủ tịch tập đoàn Samsung Lee Byung Chul, Không có gì là huyền thoại của cựu Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Park, và rất nhiều sách khác. Là Phiên dịch viên cao cấp Tiếng Hàn hiện nay, Chuyên gia nghiên cứu về văn hóa Hàn Quốc, Trợ lý ngôn ngữ của Đội tuyển bóng đá Quốc gia Việt Nam. Hiệu trưởng trường Hàn ngữ Việt Hàn Kanata. Địa chỉ liên hệ: Lê Huy Khoa - Trường Hàn ngữ Việt Hàn Kanata 72 Trương Công Định, Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh https://www.facebook.com/lehuykhoa.kanata *** “HLV Park là một người rất quyết đoán. Tuy nhiên, để thành công ở một đất nước có nền bóng đá khác biệt và mới lạ, chưa thực sự chuyên nghiệp thì ông đã tỏ ra mình là người thích nghi tốt và khá khôn khéo khi hòa hợp được những gì vốn có của cầu thủ Việt và triết lý bóng đá của Hàn Quốc mà không gây bất kỳ sự gò ép nào cho các cầu thủ. Ông cũng là một chuyên gia tâm lý khi giúp cho các cầu thủ tự tin hơn vào chính bản thân mình, tiến bộ rất nhanh trong thời gian ngắn, thay đổi tư duy. Bây giờ thì chúng tôi đã thoát khỏi sự tự ti rằng thể lực yếu kém là một trong những ví dụ đó. — Lương Xuân Trường Đội trưởng đội tuyển U23 Việt Nam   “Quyển sách này nói rất rõ về cách vận hành tổ chức của HLV Park Hang Seo, và có thể đó là cách quản trị của cả những người Hàn Quốc: thân thiện thương yêu nhưng nghiêm khắc, lúc nhu lúc cương, cần cù và nhiệt huyết, chiến đấu và nỗ lực không khoan nhượng, đặt hiệu quả lên đầu, luôn thay đổi để đạt hiệu quả tốt nhất và rất rất nhiều điều mới mẻ khác”. — Nguyễn Công Phượng Tiền đạo đội tuyển U23 Việt Nam Mời các bạn đón đọc Phong Cách Quản Trị Park Hang Seo của tác giả Lê Huy Khoa Kanata.