Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Về Nhà

“Về nhà” là cuốn sách quan trọng nhất, “là lý do để viết bộ sách này”. Không còn loay hoay với những câu hỏi như trong đời, đâu là việc chính, đâu là việc phụ, hay sống để làm gì, cuốn sách kể lại những nhân duyên đầu tiên – kỳ quặc, lạ lùng, đáng sợ hay vui vẻ - đã đưa chị trở lại căn nhà đích thực của mình – ngôi nhà bên trong thân và tâm, “nơi tất cả các ham muốn ghi nhận, ghi nhớ, ghi chép, suy luận, tư duy, kết nối, so sánh đều dừng bặt”. Cũng giống như hai cuốn trước, "Về nhà" được viết từ những ghi chép tỉ mỉ của tác giả về mọi việc xảy đến trong cuộc sống, và được chị tự biên tập cắt đi chỉ còn một nửa. *** Bộ sách gồm có Bất Hạnh Là Một Tài Sản: Một mình ở châu Âu Xuyên Mỹ Về Nhà *** Ngày quan trọng nhất Bắt đầu lại từ đâu? Đây là câu hỏi thường trực của mùa hè 2010 sau khi tôi từ Chicago chuyển tới California. Ly hôn là một cánh cửa mà ngay sau ly hôn, như người loanh quanh trên ngưỡng cửa, bạn không chắc bạn vừa bước ra hay vừa bước vào. Bạn thậm chí không chắc bạn bước ra khỏi cái gì và bước vào cái gì. Nhưng ngã ở đâu, bạn phải đứng lên ở đó. Một tuần sau khi tới San Jose, trong tình trạng tỉnh táo mà mê muội đặc thù của thời hậu ly hôn, tôi thuê nhà, nhận phòng làm việc, gặp đồng nghiệp mới, đăng ký ô tô, đổi bằng lái, mở tài khoản ngân hàng, làm tất cả giấy tờ để ổn định cuộc sống, rồi tất bật về Hà Nội giảng một khóa học ngắn về công tác xã hội với trẻ em và gia đình. Lớp học có gần trăm học viên, phần lớn là giảng viên các trường đại học hoặc cán bộ các bộ, sở, tổ chức phi chính phủ - đa phần hiểu biết hơn tôi về chính sách đối với trẻ em tại Việt Nam. Buổi đầu tiên lên lớp, tôi nhận thấy trong 98 học viên của lớp có một thành viên đặc biệt: một nhà sư mà các học viên gọi là “thầy Đạo.” Học viên trong lớp nói rằng thầy trụ trì một ngôi chùa ở ngoại thành Hà Nội. “Chùa ở trong làng cổ, đẹp lắm cô ạ. Hôm nào cô vào chơi.” Một buổi chiều, sau khi tan lớp, học viên rủ tôi đến thăm chùa. Từ trường, chúng tôi đi xe máy ra ngoại thành rồi men theo bờ sông qua một cây cầu xuống con đường đất nhỏ. Xe chạy trên đường đất hẹp dọc sông rất lâu, băng qua các làng cổ để tới một cổng sắt nhỏ dẫn vào ngôi chùa sát bờ sông. Bước qua cổng là khoảng sân rộng lát gạch đỏ có rất nhiều cây nhãn rợp bóng. Đập vào mắt tôi là hàng chục bức tượng Phật lớn bằng xi măng, mỗi tượng cao hơn hai mét, sắp hai hàng song song, chạy từ cổng về phía sau chùa. Khuôn mặt, trang phục, cách ngồi, và dáng tay của các tượng Phật này không hề giống các tượng tôi từng nhìn thấy. Phật ngồi trên tòa sen, đội mũ năm cánh, tóc dài dưới vành mũ, mắt dài nhìn hướng xuống dưới, bàn tay phải thì nắm lấy ngón trỏ của bàn tay trái ở phía trước ngực. Hàng tượng chạy ra sau chùa, ở đó là cánh đồng lớn xanh mướt và những bụi tre. Mặt trời lúc này bắt đầu xuống, hắt ánh nắng rạng rỡ lên hàng tượng Phật. Từ bé, tôi đã luôn cảm mến cảnh chùa nhưng gia đình tôi không theo tôn giáo nào nên một năm tôi chủ yếu đi chùa vào dịp Tết chứ chưa từng tham gia lễ bái, không biết các phong tục, nghi lễ, cũng chưa từng đọc kinh. Với tôi, đạo Phật chỉ lờ mờ trong các khái niệm phổ thông như Phật Bà Quán Âm, A Di Đà Phật, Tây phương cực lạc, Phật tổ Như Lai, nhân quả, hòa thượng, Niết Bàn mà tôi chủ yếu học từ... Tây du ký. Tôi đinh ninh rằng Phật (mà ở Việt Nam còn gọi là Bụt) cũng giống Chúa hay Allah - tức một đấng quyền năng mà người ta kêu cứu khi cùng đường. Tôi thậm chí đinh ninh “A Di Đà Phật” không phải tên một vị Phật mà là câu chào thông thường của người tu hành vì trong phim Tây du ký, rõ ràng Đường Tăng gặp ai cũng chắp tay cúi đầu “A mi thò phò!.” Lần đến chùa này là lần đầu tôi đến một ngôi chùa làng và cũng là lần đầu tôi nói chuyện trực tiếp với một nhà sư. Học viên lớp tôi đều gọi thầy Đạo là “thầy”, “sư phụ”, “cụ” hoặc “cụ chùa”, xưng con; thầy Đạo thì gọi mọi người là cô, chú, và xưng “thầy” hoặc “tôi”. Tôi không biết phải xưng thế nào nên cứ theo phép lịch sự và... dân chủ. “Thầy Đạo cho tôi hỏi, các tượng Phật kia là thế nào ạ?” “À, là Phật Tỳ Lô Giá Na cô giáo ạ.” Lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Phật này. Tôi thấy nó vừa thú vị vừa quê quê với lối phiên âm tiếng Việt. “Thế sao tay của Phật lại thế kia ạ?” “À, đó là ấn trí quyền.” - thầy cười. Lại một từ nữa tôi không hiểu. Học viên trong lớp đã lấy ghế tập trung quanh tầng trệt của một nhà sàn gỗ hai tầng nằm giữa sân chùa. Nhiều học viên từng làm cán bộ đoàn lâu năm, thường xuyên phải hoạt động phong trào nên truyện cười, thơ văn, hát hò rất giỏi. Họ kể truyện cười, đọc thơ, vè, ứng khẩu tiếu lâm khiến tôi cười nghiêng ngả. Rồi chúng tôi nói chuyện gia đình, cuộc sống. Từ đầu khóa học đến giờ, tôi chỉ nói chuyện công việc với các học viên nhưng hôm nay, tôi cảm thấy có thể nói chuyện cuộc sống riêng của tôi với họ theo kiểu “người lớn với nhau.” “Chắc các bạn ở đây không biết chứ tôi...” - tôi mở đầu, định nói với họ rằng tôi đã từng kết hôn và bây giờ đã ly hôn. “Ôi cô ơi, mọi người biết hết rồi” - các học viên cười, cắt lời tôi - “Lý lịch của cô thế nào, chúng nó lên mạng điều tra hết rồi cô ạ.” “Thật à? Thế mà tôi cứ tưởng...” - tôi cố vớt vát chữa ngượng. “Cô cứ thoải mái đi, chúng em biết hết rồi.” Chúng tôi bắt đầu nói về tình yêu và hôn nhân. Các học viên hỏi tôi cảm thấy thế nào sau ly hôn. Tôi nói cũng tùy hôm; có hôm thì tôi thấy mình tự do, cuộc đời rộng mở trước mặt; có hôm thì tôi thấy cuộc đời tôi chỉ còn là một chuỗi ngày cầm cự với sự tuyệt vọng không đáy để chờ chết trong cô đơn. “Nhưng mà thực sự tôi không hề trách móc hay oán hận chồng cũ” - tôi nói. “Nếu thế thì có thể là cô chưa bao giờ yêu chồng cô” - một học viên nói - “Yêu thì nhất định phải đi kèm một ít ghen tuông, oán hận chứ ạ.” Tôi nói tôi không thấy thế. Thực sự không cảm thấy thế. Ly hôn chẳng liên quan gì đến tình yêu hay hận thù cả. Câu nói này của tôi lập tức làm nổ ra một cuộc tranh luận giữa các học viên về yêu - ghen - và hận. Nếu yêu mà không ghen thì có phải là yêu không? Yêu mà khi chia tay không hận đối phương một tí nào thì có phải là yêu không? Vô lý. Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng. Thế rồi, được, cứ cho là yêu có thể không ghen, thế chồng hay vợ nó đi ngoại tình thì sao? Có ghen không? Nếu nó say nắng, có tình cảm thật với đứa nào thì sao? Rồi nó ngu, nó không biết giữ gìn, nó có con với đứa khác, thì lúc đấy chia tay có hận không? Không bên nào chịu bên nào. Bên nào cũng có lý và có bằng chứng từ bản thân, từ “con bạn em”, từ “chị cùng cơ quan em”, từ “dì tớ”... Một học viên quay sang thầy Đạo: “Nhức đầu cụ nhỉ, như cụ sướng nhất, khỏi lắm chuyện phức tạp.” Thầy Đạo cười. “Có gì phức tạp đâu. Ở đời, người ta gặp nhau không ngoài chuyện ân oán; có ân thì báo ân, có oán thì báo oán. Vợ chồng cha mẹ anh em là duyên nợ, có duyên thì tụ, hết duyên thì tán. Cô giáo đã trả hết nợ hết duyên thì chia tay không thấy vướng mắc là bình thường mà.” Ha! Tôi chưa bao giờ nghĩ tôi với Sơn lấy nhau vì duyên số. Ừ thì người ta vẫn nói “Vợ chồng là duyên số” nhưng tôi luôn nghĩ đó là một câu dĩ hòa vi quý khi người ta không dùng điều gì khoa học hơn để giải thích được. Và thường chỉ áp dụng cho những người lười nghĩ, mê tín dị đoan, chứ không phải cho người như tôi. Duyên số thì, xin lỗi chứ, bố ai mà chứng minh được. Tôi như thế, Sơn như thế, gặp nhau như thế, tính cách như thế, vậy là chúng tôi lấy nhau. Đơn giản vậy thôi. Vậy mà sống với nhau thì không đơn giản chút nào. À nhưng không đơn giản cũng là vì tôi như thế... Sơn như thế... và chúng tôi là như thế, như thế... về mặt tính cách, xuất thân, hoàn cảnh, hành vi. Nghĩa là dĩ nhiên có thể giải thích được bằng các mô hình tâm-sinh-lý xã hội chứ không phải một thứ duyên số định sẵn nào tồn tại trước cả khi chúng tôi biết nhau. Nhưng mà biết đâu có duyên số thật nhỉ? Lẽ nào những đau khổ tôi phải trải qua là do tôi đã nợ gì Sơn và bây giờ phải trả? Tôi đã làm gì sai? Trong đời này, tôi có thể không hổ thẹn mà nói rằng tuy tôi không hoàn hảo gì nhưng quả thực là tôi ít làm điều ác, cũng ít nghĩ điều ác hay nói điều ác - điều ấy thì tôi tự biết. Với Sơn cũng như với những người quanh mình, tôi có thể đếm chưa hết một bàn tay những lần mà tôi nổi giận. Thế thì có kiếp trước chăng? Tôi đã nợ gì Sơn từ kiếp trước chăng? Từ bé đến giờ, không ít lần những người gặp tôi lần đầu (như ở sân bay) cứ tự động “phán” rằng tôi có “quý nhân phù trợ”, có “năng lực tâm linh đặc biệt”, có “nhiều phước báu”, có “tiên cốt” với “đạo cốt”, còn tôi thì luôn nghĩ các “thánh phán” này muốn phỉnh tôi lấy tiền hoặc bị tẩu hỏa nhập ma do đọc quá nhiều sách huyền thuật. Nếu quả có kiếp trước tức là sống và chết và tất cả những gì chúng ta làm giữa hai mốc đó đều phải được xem xét lại. Cũng tức là có cái lớn hơn thế giới vật chất mà ta thấy bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, này chăng? Cũng tức là chùa chiền, Phật, Chúa thánh thần không phải chuyện mê tín dị đoan, thậm chí không phải một liệu pháp an tâm, một thứ tín ngưỡng hay tập tục văn hóa mà ẩn chứa một sự thật tôi chưa từng biết đến? Có thể nào những hủ tục, tín điều, lễ nhạc ma mị mà người ta phủ lên đạo Phật đã làm người ta hiểu nhầm một hệ thống giải thích thế giới rốt ráo và triệt để? Ít nhất thì, ngay cả khi không hiểu gì về đạo Phật, tôi vẫn thấy khái niệm nhân quả có lý hơn việc cho rằng có một đấng Chúa Trời nặn ta ra từ đất sét và định đoạt cuộc đời ta. Rút cục là thế nào đây? “Trông cô giáo cứ ngơ ngơ ngác ngác buồn cười quá” - thầy Đạo cười - “Thôi ăn cơm đi các cô các chú.” Chúng tôi ăn cơm chay. Đây cũng là lần đầu tiên tôi ăn cơm chay chùa. Tôi không ăn hết được cả đĩa lớn mà học viên lấy nên bỏ lại gần nửa. “Cô chưa ăn cơm chay bao giờ phải không cô?” - một học viên thì thầm với tôi sau khi bữa cơm được dọn đi. “Chưa.” “Ăn cơm chay ở chùa không được bỏ thừa đâu cô ạ” - học viên cười - “một hạt cơm chùa là 72 công đức đấy.” “Thế à? Chết, tôi không biết.” Quá nhiều thứ ở Việt Nam, thuộc về văn hóa bình dân của người Việt Nam mà tôi không hề biết. Lần đầu tiên tôi cảm nhận rõ mình là người Việt, sinh ra và lớn lên ở Việt Nam mà chẳng hiểu gì về lịch sử, văn hóa, tâm lý đích thực của dân tộc mình, về hành vi của những người gọi là “đồng bào mình”. Tức là hiểu họ như họ đang-là chứ không phải như tôi nghĩ hoặc muốn họ là. Tôi thực sự đã lớn lên, đã tuần tự đi học đến hết đại học, rồi ở Mỹ suốt mười năm qua; chủ yếu chỉ có hiểu biết giáo khoa, bó hẹp trong thế giới gồm toàn trí thức đô thị, trong khi đến hơn bảy mươi phần trăm người Việt Nam vẫn ở nông thôn và vận hành một cách có ý thức hoặc vô thức trên các nền tảng văn hóa nông thôn này. Sau bữa ăn, chúng tôi uống trà rồi đi dạo tản mát quanh chùa. Mặt trời đã xuống, gió thổi nhẹ, không gian vẳng tiếng chim và tiếng gà lên chuồng. Rồi trời bắt đầu tối. Thầy Đạo bảo một chú tiểu mở cửa “Tổ Đường” cho chúng tôi vào ngắm “xá lợi”. Lại một từ nữa lần đầu tiên tôi được nghe. “Xá lợi là gì ạ?” “À, khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì kim thân của Ngài được các đệ tử hỏa thiêu; sau khi thiêu thì còn lại các hạt xá lợi này. Mỗi bộ phận trên nhục thân của Phật sẽ để lại các loại xá lợi khác nhau; có xá lợi răng, xá lợi tóc, xá lợi xương... mỗi thứ một màu. Rồi còn có xá lợi của các Bồ Tát, thánh tăng, các tổ. Nếu mình tu tập tinh tiến, giữ gìn giới luật nghiêm cẩn, thì xá lợi sẽ tự sinh sôi...” “Cái gì ạ?” “Cô giáo không tin phải không?” - thầy Đạo cười - “người nào thờ xá lợi, kể cả tu sĩ hay cư sĩ tại gia, mà nghiêm trì giới luật, tinh tiến tu hành thì xá lợi từ một viên sẽ nhân hai, nhân bốn, nở đầy ra. Còn nếu không tu hành thì xá lợi sẽ tiêu dần, tiêu dần, rồi biến mất... vi diệu không?” Vâng, “vi diệu” ạ - tôi nghĩ. Nhưng nhất định phải có một cách giải thích khoa học nào đó. Có thể các nhà sư quen ăn một số thực phẩm nhiều canxi hay chất gì đó nên hóa chất đọng lại trong cơ thể thành “xá lợi” giống như sỏi thận. Hoặc Đức Phật là người ở Ấn Độ, xứ đó nóng, thực phẩm dễ hỏng, mà ngày xưa không có tủ lạnh nên người ta quen bảo quản thực phẩm bằng cách tẩm ướp trong các loại gia vị nóng, cay thì có thể lâu dần các vi chất đọng lại và nóng chảy trong quá trình hỏa thiêu. Khi các viên “xá lợi” này gặp xúc tác trong môi trường bình thường thì giãn nở hoặc co lại. Chứ một thứ vô tri vô giác làm sao có thể tự sinh sôi nảy nở? “Chà, không có khoa học thì người ta dễ mê tín thật” - tôi thầm nghĩ - “Thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn tin rằng sấm chớp mây mưa là do thần sấm thần sét tạo ra; giàu nghèo, sướng khổ do ai đó ban ơn cho mình. Vậy nên Việt Nam cứ nghèo mãi.” Chúng tôi ở lại uống trà, nói chuyện với thầy Đạo đến khuya mới về. Buổi tối, chùa lộng gió, ếch nhái, côn trùng râm ran. Khung cảnh làng quê thanh bình này đã hàng chục năm rồi tôi không thấy. Từ chùa về, tôi ghi trong nhật ký của mình: “Đây có thể là một trong những ngày quan trọng nhất của đời tôi”. Một cách lờ mờ, tôi nghĩ rằng tôi hoàn toàn mất gốc, tôi không hiểu gì về văn hóa Việt Nam, nhất là cái gốc văn hóa nông thôn, văn hóa tâm linh ăn sâu vào người Việt. Tôi lại cũng nghĩ giờ tôi đã hoàn thành việc học hành của đời mình, nếu tôi muốn trở lại Việt Nam làm công tác xã hội, thì không có cách nào khác là tôi phải hiểu rõ cái làm nên tâm lý, hành vi các cá thể cũng như tâm lý tập thể của người Việt Nam. Nhưng hóa ra tâm thức của chúng ta thường biết những điều mà lý trí có thể phải mất một thời gian dài mới theo kịp. Không lâu sau buổi đến chùa này, tôi trở lại San Jose và mọi việc trôi dần trong những lo toan hằng ngày, cho đến khi một việc xảy ra với tôi: tôi gặp ma. Mời các bạn đón đọc Về Nhà của tác giả Phan Việt.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lính Bay Tập 2
Cả hai tập hồi ký “Lính Bay”, tác giả đã tái hiện lại những trận đánh của Không quân Việt Nam, trung thực, hoàn toàn không tô hồng, không “lên gân”. Trong các trang viết là ngồn ngộn những sự kiện chân thật mà bi tráng của lực lượng không quân Việt Nam non trẻ. Trong những chiến công ấy, hoàn toàn không có cảnh “đã xuất kích là chiến thắng”; đã đánh nhau là “ta thắng, địch thua” Những trang bi tráng rất chân thật ấy khiến bạn đọc càng tin yêu hơn những người lính không quân. Người đọc cảm nhận và quý trọng những chi tiết được coi như “góc khuất” ít được đề cập đến. Lính bay, trong mắt bao người là những “người hùng”, có những “đặc quyền” riêng. Song, trong hồi ký của của Tướng Thái, phi công lái Mic cũng là những người lính như bao người lính trong các quân, binh chủng khác. Họ không phải là “lính cậu” được cưng chiều, vi phạm khuyết điểm là bị “cắt bay”. Trong thời gian bị “cắt bay”, ngoài việc phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, họ vẫn phải lao động, với những công việc nói chẳng ai tin như: đi hốt phân bò, lấy phân bắc để tăng gia sản xuất… Bản thân ông cũng đã từng trải qua những công việc như thế. Tướng Thái đã khắc họa chân thật điều kiện sống, chiến đấu của những người lính không quân nói riêng, của quân đội Việt Nam nói chung, trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. *** Chuyện thật như cuộc đời 16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”. *** Phạm Phú Thái sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh là cụ Phạm Thuần, tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1927, Đảng viên năm 1930. Cụ từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Phú Thọ. Cụ đã từng bị Thực dân Pháp bắt giam và bị tù đày ở nhiều nhà lao lớn như Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo từ những năm đầu của cuộc cách mạng. Về nước năm 1968, anh được làm phi công tiêm kích số 2 cho Đại đội trưởng Phạm Thanh Ngân, bay số1, (là AHLLVT, sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị  QĐNDVN); còn vị trí số 3 trong phi đội chính là Đặng Ngọc Ngự (sau này cũng là AHLLVT). Cuộc đời sự nghiệp của ông, nhiều người cứ ngỡ rằng chàng phi công đẹp trai, tài cao như Phạm Phú Thái sẽ tiến như diều do có "bệ phóng" của một gia đình truyền thống cách mạng từ những năm 1930. Nào ngờ về nước gần một năm, dù được bay ở vị trí phi công tiêm kích nhưng anh vẫn chỉ đeo lon binh nhất, rất khác mọi người bởi chí ít, lúc đó anh cũng đã có 3 tuổi quân kể từ ngày vào quân đội. Và có lẽ vì anh ra trường quá sớm so với bạn đồng khoá nên thủ tục thăng hàm lại cũng chưa làm luôn cho anh? Sau vài trận không kích, anh đã bị tên lửa  địch bắn trúng và buộc anh phải nhảy dù.  Vị Huyện đội trưởng Thanh Chương ở Nghệ An khi làm biên bản đã hỏi tên, tuổi, cấp bậc, đơn vị... của anh sau khi anh nhảy dù xuống địa phận này, họ đã sững người vì thấy anh mở mắt ngồi dậy rồi báo cáo: "Tôi, Phạm Phú Thái, binh nhất, phi công tiêm kích!". Họ lại cứ tưởng anh giấu, không muốn  lộ bí mật nên cứ "năn nỉ" thuyết phục anh trình báo thật về cấp bậc của mình để còn báo cáo về Hà Nội khiến anh bực mình và cũng không biết nói sao. Thế rồi anh Huyện đội trưởng nọ vẫn không tin, phải ghé tại hỏi thầm "Vậy là anh nói thật đấy à ?". Và, sau khi một lần nữa khẳng định phi công Phạm Phú Thái đã nói đúng sự thực thì anh ta thốt lên: "Lạ thật, cầm cả cái tàu bay đắt tiền là thế, sao lại chỉ binh nhất được cơ chứ? Không thể tin được!". Cuối cùng thì viên Huyện đội trưởng cũng gật gù đỡ anh nằm xuống giường rồi nói: "Nếu đúng là như vậy thì Không quân Nhân dân Việt Nam anh hùng quá !"... Sau trận đánh khiến anh bị thương và buộc phải nhảy dù. Khi nằm Viện Quân y 108, anh đã khẩn thiết "van vỉ "đề nghị bác sĩ đừng làm thủ tục thương binh cho anh để anh còn có cơ hội được trở về đơn vị tham gia chiến đấu ... Thật là thú vị với những trang viết chân thật nhưng lại đầy chất văn học từ một vị tướng đánh trận, rất đáng đọc! Mời các bạn mượn đọc sách Lính Bay Tập 2 của tác giả Phạm Phú Thái.
Lính Bay Tập 1
Cả hai tập hồi ký “Lính Bay”, tác giả đã tái hiện lại những trận đánh của Không quân Việt Nam, trung thực, hoàn toàn không tô hồng, không “lên gân”. Trong các trang viết là ngồn ngộn những sự kiện chân thật mà bi tráng của lực lượng không quân Việt Nam non trẻ. Trong những chiến công ấy, hoàn toàn không có cảnh “đã xuất kích là chiến thắng”; đã đánh nhau là “ta thắng, địch thua” Những trang bi tráng rất chân thật ấy khiến bạn đọc càng tin yêu hơn những người lính không quân. Người đọc cảm nhận và quý trọng những chi tiết được coi như “góc khuất” ít được đề cập đến. Lính bay, trong mắt bao người là những “người hùng”, có những “đặc quyền” riêng. Song, trong hồi ký của của Tướng Thái, phi công lái Mic cũng là những người lính như bao người lính trong các quân, binh chủng khác. Họ không phải là “lính cậu” được cưng chiều, vi phạm khuyết điểm là bị “cắt bay”. Trong thời gian bị “cắt bay”, ngoài việc phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, họ vẫn phải lao động, với những công việc nói chẳng ai tin như: đi hốt phân bò, lấy phân bắc để tăng gia sản xuất… Bản thân ông cũng đã từng trải qua những công việc như thế. Tướng Thái đã khắc họa chân thật điều kiện sống, chiến đấu của những người lính không quân nói riêng, của quân đội Việt Nam nói chung, trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. *** Chuyện thật như cuộc đời 16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”. *** Phạm Phú Thái sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh là cụ Phạm Thuần, tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1927, Đảng viên năm 1930. Cụ từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Phú Thọ. Cụ đã từng bị Thực dân Pháp bắt giam và bị tù đày ở nhiều nhà lao lớn như Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo từ những năm đầu của cuộc cách mạng. Về nước năm 1968, anh được làm phi công tiêm kích số 2 cho Đại đội trưởng Phạm Thanh Ngân, bay số1, (là AHLLVT, sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị  QĐNDVN); còn vị trí số 3 trong phi đội chính là Đặng Ngọc Ngự (sau này cũng là AHLLVT). Cuộc đời sự nghiệp của ông, nhiều người cứ ngỡ rằng chàng phi công đẹp trai, tài cao như Phạm Phú Thái sẽ tiến như diều do có "bệ phóng" của một gia đình truyền thống cách mạng từ những năm 1930. Nào ngờ về nước gần một năm, dù được bay ở vị trí phi công tiêm kích nhưng anh vẫn chỉ đeo lon binh nhất, rất khác mọi người bởi chí ít, lúc đó anh cũng đã có 3 tuổi quân kể từ ngày vào quân đội. Và có lẽ vì anh ra trường quá sớm so với bạn đồng khoá nên thủ tục thăng hàm lại cũng chưa làm luôn cho anh? Sau vài trận không kích, anh đã bị tên lửa  địch bắn trúng và buộc anh phải nhảy dù.  Vị Huyện đội trưởng Thanh Chương ở Nghệ An khi làm biên bản đã hỏi tên, tuổi, cấp bậc, đơn vị... của anh sau khi anh nhảy dù xuống địa phận này, họ đã sững người vì thấy anh mở mắt ngồi dậy rồi báo cáo: "Tôi, Phạm Phú Thái, binh nhất, phi công tiêm kích!". Họ lại cứ tưởng anh giấu, không muốn  lộ bí mật nên cứ "năn nỉ" thuyết phục anh trình báo thật về cấp bậc của mình để còn báo cáo về Hà Nội khiến anh bực mình và cũng không biết nói sao. Thế rồi anh Huyện đội trưởng nọ vẫn không tin, phải ghé tại hỏi thầm "Vậy là anh nói thật đấy à ?". Và, sau khi một lần nữa khẳng định phi công Phạm Phú Thái đã nói đúng sự thực thì anh ta thốt lên: "Lạ thật, cầm cả cái tàu bay đắt tiền là thế, sao lại chỉ binh nhất được cơ chứ? Không thể tin được!". Cuối cùng thì viên Huyện đội trưởng cũng gật gù đỡ anh nằm xuống giường rồi nói: "Nếu đúng là như vậy thì Không quân Nhân dân Việt Nam anh hùng quá !"... Sau trận đánh khiến anh bị thương và buộc phải nhảy dù. Khi nằm Viện Quân y 108, anh đã khẩn thiết "van vỉ "đề nghị bác sĩ đừng làm thủ tục thương binh cho anh để anh còn có cơ hội được trở về đơn vị tham gia chiến đấu ... Thật là thú vị với những trang viết chân thật nhưng lại đầy chất văn học từ một vị tướng đánh trận, rất đáng đọc! Mời các bạn mượn đọc sách Lính Bay Tập 1 của tác giả Phạm Phú Thái.
Đời Yakuza
Vén bức màn bí ẩn thế giới ngầm Nhật Bản Cờ bạc, buôn lậu, đâm chém… nếu bị đánh bại, hoặc chết hoặc nằm viện, nếu thắng, phải đi tù. Một thế giới khắc nghiệt, không ngừng chống đối luật pháp, đó chính là yakuza. Nhưng, tương trợ lẫn nhau, chỉ một lần được giúp đỡ vẫn sẵn sàng đem cả sinh mạng ra đền đáp… đó cũng là yakuza. Cuốn sách là tập hợp các mảnh hồi ức của một trùm yakuza về thế giới ngầm Nhật Bản. Hiển nhiên đó không phải một cuộc đời “ngay thẳng” theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, mà là một cuộc đời chìm nổi, một cuộc đời đã chứng kiến tất cả: trong quân ngũ, chốn tù tội và những tháng năm u tối của một đất nước bại trận. Những câu chuyện có thực này là một phần của lịch sử Nhật Bản, dù không bao giờ được chính thức ghi nhận, chi tiết và thẳng thắn, không né tránh, không khoe mẽ, không nói quá... Nhận định: “Sống động và chuẩn xác.” -  Los Angeles Times “Cuốn sách kể mọi điều về thế giới ngầm, từ hệ thống thứ bậc trong các băng đảng, mối quan hệ phức tạp giữa giới giang hồ và nhà cầm quyền, cách thức tổ chức bài bạc, đời quân nhân và cuộc sống trong tù.” - Far Eastern Economic Review “Cuốn sách phác họa về một Nhật Bản trái ngược với hình ảnh giàu có thường thấy, mà là Nhật Bản những năm đầu thế kỷ 20, một đất nước đã phải vùng vẫy trong tăm tối với động đất, chiến tranh, cướp bóc và mất mát.” - www.goodreads.com *** Đời Yakuza viết về cuộc đời đầy thăng trầm của ông trùm yakuza Eiji Ijichi. Khi về già, nằm trên giường bệnh, ông đã đem tất cả kể lại với bác sĩ Saga Junichi - tác giả cuốn sách. Thế giới của Yakuza không xấu xa, đen tối như những định kiến mà xã hội áp đặt. Họ cũng là những con người rất bình thường bị thời thế tước đoạt. Bản ngã tốt đẹp cuốn trôi để dành lấy miếng cơm manh áo. Nhưng ấn sau những khuôn mặt lạnh lùng đầy sát khí là một tinh thần trượng nghĩa, hào hiệp, trọng chữ tín, thậm chí là rất đức độ, lương thiện đến lạ lùng. Số phận ban phát cho mỗi con người một hành trình với những khoảnh khắc của sự cay đắng, ngọt bùi đan xen. Eiji cũng không ngoại lệ. Anh chàng được trao rất nhiều cơ hội để chứng tỏ bản thân. Những lần vào tù ra khảm như đi chợ không hề khiến chàng trai nản lòng, từ đó Eiji nhận được sự tín nhiệm và kính trọng rất lớn của ông trùm và các bậc đàn anh.Bỏ nhà ra đi khi mới 15 tuổi, Eiji Ijichi đã rất vất vả để thay đổi số phận.Từ một thằng nhóc chỉ quanh quẩn bên mỏ thổ phỉ, Eiji đã chứng minh được vì sao mình sinh ra để trở thành Yakuza. Trong mắt chúng ta, yakuza tức là xã hội đen, cờ bạc, buôn lậu, ma túy, gái điếm, tàn bạo, cá lớn nuốt cá bé… Nhưng, Họ có một đời sống rất khác, trọng nghĩa khí như cổ trang kiếm hiệp. Các băng đảng sẵn sàng tương trợ lẫn nhau, chỉ một lần được giúp đỡ là nguyện đem cả sinh mạng ra đền đáp… đó cũng là yakuza. Đó là hệ thống thứ bậc trong các băng đảng, mối quan hệ phức tạp giữa giới giang hồ và nhà cầm quyền và cả “lý tưởng” của giang hồ Nhật Bản. Yakuza thời điểm đó khác rất xa đám du thủ du thực bây giờ. Những ông trùm sống bằng tiền kiếm được từ các sòng bạc. Họ có một tư duy kinh doanh linh hoạt và cực kì nhạy bén. Các nhà cái sẽ không ai dồn đến mức chân tường đói khát, nếu ai đó quá túng quẫn, họ sẵn sàng biếu không con bạc khát nước một chút tiền để đổi lấy tiếng thơm, đem về tín nhiệm cho cơ sở mình quản lý. Yakuza cũng hạn chế bạo lực, những vụ thanh toán hay trả thù chỉ nổ ra trong trường hợp bất khả kháng, đương nhiên khi đó cớm sẽ vào cuộc. Những kẻ như Eiji Ijichi sẽ đứng ra làm anh hùng “thí tốt”, chấp nhận “công tác” vài năm khổ cực để anh em tiện đường làm ăn yên ổn. Chìa khóa thành đạt của Eiji không phải là bạo lực hay mưu mẹo mà chính là nghĩa khí. Khi chưa là yakuza anh từng không đồng tình với hành động lấy tiền của xác chết sau thảm họa động đất, mặc dù khi đó cậu cũng rất đói và trắng tay. Để tồn tại ở thế giới nhiễu nhương và vô cùng tàn khốc này, Eiji không phản bội niềm tin của bản thân, sống và cư xử thân thiện, chân thành, lịch thiệp, hòa nhã. Bối cảnh Nhật Bản khi ấy vừa thua đau đớn sau thế chiến thứ hai. Bạo loạn diễn ra liên miên, chính trị đảo điên loạn lạc ảnh hưởng không nhỏ đến sòng bạc của Eiji quản lý nhưng anh chàng vẫn sống tốt, trở thành một ông vua bên lề xã hội. Những cảm xúc vô cùng chân thật tái hiện lại đằng sau một đất nước phải vùng vẫy thoát khỏi bóng ma chiến tranh, bị ràng buộc bởi đủ thứ trách nhiệm và danh dự. Yakuza đại diện phần nào cho những ẩn ức đen tối sâu thẳm đó. Tuy vậy vẫn đẹp một cách lạ lùng, độc đáo, quyến rũ đến ngây ngất bởi cách sống, cách đối nhân xử thế đáng để ngưỡng mộ. Lòng tự trọng bắt nguồn từ những bài học cay đắng, có chết đói cũng không hạ mình van xin lạy lục. Đời yakuza kể toàn những chuyện cánh mày râu, đậm đặc nam tính, đôi khi thoáng qua hình bóng của vài người phụ nữ. Dù vậy những cá nhân này đều tác động không nhỏ đến cuộc sống của Eiji sau này. Nếu không vì một lần say tình bất chấp hiểm nguy mà bỏ trốn anh cũng chẳng thể trưởng thành nổi, hoặc nếu thiếu đi người vợ đứng ra cai quản băng đảng khi Eiji về già hẳn mọi thứ sẽ càng to chuyện và phức tạp hơn. Bác sĩ Saga Junichi viết Đời yakuza theo dạng ghi chép rồi tập hợp lại. Dù thủ pháp nghệ thuật sử dụng không có nhiều nổi bật nhưng những gì mà ông kể lại là một đời sống độc đáo thú vị xoay quanh thế giới ngầm của các băng đảng Yakuza, để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi cảm giác trăn trở về số phận con người, thời cuộc và một chút luyến tiếc, xót xa cho mối tình không bao giờ hoàn chỉnh. Gia Hạ - Zing.vn *** Vào mùa đông vài năm về trước, một người đàn ông lớn tuổi, dáng cao, vai rộng xuất hiện tại phòng khám của tôi ở Tsuchiura, thành phố nhỏ cách Tokyo một tiếng tàu điện. Mặt ông to bè so với người thường, trán hằn sâu những nếp nhăn sậm màu, môi dày thâm sì còn đôi mắt đục ngầu vàng vọt, một gương mặt dù chỉ thoáng gặp trong đám đông cũng khiến người ta thấy nổi bật. Tôi bảo ông cởi áo, để trần nửa thân trên. Lưng ông phủ kín hình xăm “rồng chầu mẫu đơn”, màu xăm trên da đã bợt đi theo năm tháng, móng rồng nhạt nhòa như những đám mây, còn râu rồng bạc phếch như sắp biến mất. Dù vậy, hình xăm trông vẫn rất ấn tượng và tuyệt đẹp theo cách riêng. Chính giữa đài hoa, đứng đó một phụ nữ. Con rồng như định nuốt chửng cả nàng và bông mẫu đơn. Mắt nàng khép hờ, hai tay chắp lại cầu nguyện, trên môi thoáng một nụ cười bí hiểm. Tôi chỉ ước mình được chụp lại hình xăm, nhưng đó là lần đầu tiên tôi gặp ông, chưa kể ở ông toát ra một thứ khí chất đanh thép khiến tôi phải e ngại, rốt cuộc không bao giờ tôi mở lời xin phép chụp hình. Kiểm tra phần bụng dưới của ông, tôi phát hiện gan dã phình khá to. Chắc chắn có dịch thể ứ đọng trong khoang bụng. Tôi chờ ông ngồi dậy khỏi bàn khám bệnh rồi nói: “Tôi sẽ viết đơn giới thiệu bác tới bệnh viện lớn. Ở đó bác sẽ được chữa trị tốt hơn.” Nhưng người đàn ông lại mỉm cười, đáp: “Bác sĩ ạ, tôi đã bảy mươi ba rồi. Cả đời này tôi đã làm được gần hết những việc mình muốn, tới tình trạng này tôi chẳng cầu mong khỏi bệnh nữa đâu.” Khoang miệng người đàn ông thấm đen, có lẽ vì thuốc lá, trông chẳng khác gì một cửa hang nhỏ. Giọng ông trầm và khàn. “Hồi trẻ tôi sống khá điên cuồng, chắc vì thế mà bây giờ cơ thể này chẳng còn nghe theo ý tôi nữa. Tôi quyết định chuyển giao sòng bạc cho một đàn em trẻ hơn để về chốn ngoại ô dưỡng già. Bác sĩ biết cô gái hành nghề mát-xa sống chỗ bờ đê không? Tôi đến chỗ cô ấy hai hay ba lần gì đó, mát-xa tốt lắm. Chính cô ấy đã giới thiệu tôi đến đây.” “Ra vậy.” “Bệnh của tôi có đi chữa khắp nơi cũng vậy, chẳng khá hơn được, đúng không bác sĩ?” “Đi khám ở các nơi khác, người ta đã nói với bác như thế à?” “Tôi tự biết mà. Thực tình, tôi không hy vọng nhiều lắm khi tới đây. Chỉ mong bác sĩ tiêm cho tôi vài mũi khi nào tôi lên cơn đau. Bác sĩ đừng lo, tôi không hỏi xin morphine hay những loại thuốc giảm đau tương tự đâu. Chắc là do bệnh tiểu đường, chân tôi đau khủng khiếp, gần như mọi lúc. Hy vọng bác sĩ giúp tôi, để tôi bớt đau đớn.” Vì người đàn ông từ chối các biện pháp chữa trị chuyên sâu, tôi đành nhận lời để có thể giúp ông. Thực ra, tôi cũng có lý do khác khi đồng ý với đề nghị này. Mỗi ngày, tôi gặp hàng chục bệnh nhân đến khám nhưng người đàn ông này không giống bất kỳ ai trong số họ. Ông có gì đó khiến người ta tò mò. Hơn nữa, tôi dự định rồi một ngày sẽ thuyết phục ông chia sẻ chuyện đời mình. Từ đó, ông bắt đầu đến phòng khám của tôi hai lần một tuần. May mắn là lượng dịch thể trong khoang bụng ông không tăng nhanh như tôi lo ngại, còn hai chân ông chỉ tiếp tục bị đau thêm một thời gian ngắn. Rồi, khoảng một tháng sau, ông mở lời, hỏi liệu tôi có muốn đến thăm nhà ông khi có thời gian. Ông nói: “Nhà tôi tuềnh toàng lắm, nhưng đủ để mời bác sĩ uống trà và sưởi chân. Tôi đoán bác sĩ có một cuộc sống bình lặng và chuẩn mực, nên với những chuyện hơi xa khuôn khổ thông thường một chút, có lẽ bác sĩ sẽ muốn để tâm.” Chạng vạng tối ngày hôm sau, trong màn mưa rào lạnh buốt, tôi đến nhà ông như đã hẹn. Ông bày sẵn trên bàn sưởi một đĩa hoa quả lớn đầy quýt để chờ tôi. Chốc chốc, xen giữa tiếng mưa ồn ã, còn nghe được tiếng đàn shamisen* khe khẽ vẳng tới. Buổi tối ấy, tôi ngồi lắng nghe chuyện của ông khoảng ba tiếng đồng hồ. Cứ nói được ba mươi phút, ông lại lộ vẻ mệt, chúng tôi bèn ngừng cuộc trò chuyện vài phút để uống trà. Ông lịch sự mời tôi ăn quýt, cẩn thận bóc vỏ, ăn sạch sẽ rồi mới cất giọng khàn khàn kể phần tiếp câu chuyện. Cứ như vậy, ba ngày một lần tôi đều đặn đến nhà ông, với máy ghi âm. Tới khi câu chuyện ông muốn chia sẻ kết thúc thì mùa đông cũng đã trôi qua, khắp nơi tràn ngập những làn gió xuân. Những điều xảy ra tiếp đó cũng trở thành một phần trong câu chuyện ông kể cho tôi. Giờ đây khi đặt bút viết lại, tôi chỉ ước giá như khi ấy mình hỏi ông thêm nhiều điều và chi tiết hơn nữa, nhưng ông đã đi rồi, lúc này đã là quá muộn. Mời các bạn mượn đọc sách Đời Yakuza của tác giả Saga Junichi & Thanh Hà (dịch) & Hằng Hậu Lam (dịch).
Chuyện Những Người An Nam Ở Paris Hay Sự Thật Về Đông Dương
Trong cuốn hồi ký "Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương", tác giả Phan Văn Trường với vai trò tự nhận mình là một người quan sát, đã nhanh chóng thấy được những bất công mà người Pháp đem lại cho người An Nam. Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương (tên gốc: Une Histoire de Conspirateurs Annamites à Paris ou la Vérité sur L’Indo-chine) mới ra mắt tại Việt Nam là một trong hai tác phẩm nổi bật nhất của luật sư – Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường. Cuốn hồi ký này từng được xuất bản nhiều kỳ trên tạp chí La Cloche Fêlée (Chuông rè hay Chuông nứt) từ số ra ngày 30/11/1925 đến số ra ngày 15/3/1926. Năm 1928, tác phẩm được tổng hợp và xuất bản thành sách bởi nhà in Đông Pháp – Ng. kim-Dinh, Gia Định, sau đó được Nhà xuất bản L'insomniaque của Pháp in lại năm 2003. Bản tiếng Việt được dịch dựa trên bản in năm 1928 của nhà in Đông Pháp và cũng là cuốn sách tiếp theo trong Tủ sách Pháp ngữ – Góc nhìn sử Việt của Omega+. Phan Văn Trường là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong số những trí thức An Nam từng có cơ hội sang Pháp, khi nhắc đến Phan Văn Trường, tầm ảnh hưởng của ông không kém những chí sĩ yêu nước như Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành. Tuy ít được nhắc đến, nhưng ông là người sớm nhìn ra tình cảnh khốn khổ của nhân dân An Nam khi là thuộc địa của Pháp, và chính ông cũng trải qua tình cảnh khổ đau, khốn khó và bị áp bức ngay trên đất Pháp. Khi ta đọc về tiểu sử của Phan Văn Trường sẽ thấy ông là một người con của đất Việt, một người được thừa hưởng truyền thống nho học của gia đình nhưng đã sớm tiếp thu tinh thần cách mạng dân chủ. Hay câu chuyện rằng Phan Châu Trinh, người bạn đồng chí đã cùng ông sát cánh vượt qua những khổ ải tù đày khi đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân An Nam. {keywords}   Vào cuối thế kỷ thứ 19, khi sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc và chế độ thuộc địa đã kéo dài một thời gian, các nước thực dân liên tiếp dùng chiêu bài "civiliser" (khai hoá văn minh) để thực hiện các cuộc xâm lược và bóc lột thuộc địa. Lúc này những người tự cho mình là khai hoá văn minh sử dụng các chính sách thuộc địa để dựng lên những vở bi hài kịch về chính trị. Trong cuốn hồi ký của mình, Phan Văn Trường với vai trò tự nhận mình là người quan sát, đã nhanh chóng thấy được những bất công mà người Pháp đem lại cho người An Nam, họ tự nói và viết về những khuyết điểm của người An Nam, còn mang đến những thứ văn minh phương Tây theo cung cách của những kẻ ban ơn.  Thế nhưng bản thân Phan Văn Trường là một người chính trực, và ông đã thẳng tay vạch mặt âm mưu nhồi sọ của thực dân Pháp qua chương VI và chương VII của cuốn sách Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương. Cuốn sách được ra đời nhằm mục tiêu chống lại thực dân Pháp và đòi quyền lợi cho dân An Nam ngay trên đất Pháp, mà cụ thể là Paris. Trong cuốn sách, tác giả Phan Văn Trường có nhắc tới nhiều vấn đề khiến bản thân ông và những người đồng chí hết lần này tới lần khác bị cản trở trong sự nghiệp, hoặc bị rơi vào vòng lao lý. Thế nhưng tính cách Phan Văn Trường là người hướng nội và thật khó cho ông để thực hiện những ý tưởng cách mạng của mình. Không tham gia vào các đảng phái, các cuộc bạo động, Phan Văn Trường dành hầu hết thời gian trong sự nghiệp của mình để làm trợ giảng cho môn tiếng An Nam tại ĐH Đông Phương của Pháp và theo học bằng Tiến sĩ Luật. Ông sống tại Paris để tiếp xúc nhiều hơn và thấu hiểu chính quyền thuộc địa và cũng là cơ hội để ông gặp gỡ những chí sĩ khác như nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp cùng Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành. Ông là một trong bốn người ký tên bản "Revendications du peuple annamite" ("Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" hay còn gọi là "Yêu sách của nhân dân Việt Nam") năm 1919  và được coi là "kiến trúc sư" của văn bản này.. Dù khi ấy ông đã tìm thấy được những người cùng chí hướng, thực hiện một vài phong trào ngay trong chính lòng của thực dân Pháp. Thế nhưng Phan Văn Trường không thực sự thành công với điều ấy, thời gian ở Paris ông thường xuyên bị bắt bớ, tra hỏi vô cớ và bị mật thám theo dõi. Đỉnh điểm là năm 1914 cho tới 1915, ông bị bắt giam vì tội "phá hoại an ninh nước Pháp", nhưng do không đủ bằng chứng để kết tội, thực dân Pháp phải thả và buộc ông phải về làm thông ngôn tại Toulouse. Cả một đời Phan Văn Trường sống trong sự liêm khiết và tinh thần bất khuất, dù mang quốc tịch Pháp nhưng lòng ông vẫn hướng về quê hương mình. Ông tin tưởng và theo đuổi cách mạng dân chủ mà bị chế độ thực dân vô cùng căm ghét. Ông dám mạnh dạn tuyên bố rằng ngay ở nước Pháp, xứ sở của tự do dân chủ mà ông còn bị bắt oan, vậy thì ở những vùng đất thuộc địa như An Nam, nằm dưới vòng sinh sát của nước Pháp thì tiếng kêu khóc lầm than của người dân oan nơi đó còn tới mức nào. Trong phần cuối cùng của cuốn sách, Phan Văn Trường thẳng tay tuyên bố, chính quyền thực dân sợ những bài báo tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân chứ không phải chống lại người Pháp, bởi vì xuyên suốt cả cuốn sách, chính ông cũng nhận ra rằng, ngay cả ở An Nam cũng có những người Pháp tốt, và ngay ở Paris, thủ đô của nước Pháp không phải ai cũng là thực dân. Vũ Vương *** Cuốn hồi ký từng được xuất hiện nhiều kỳ trên tạp chí La Cloche Fêlée (Chuông rè) từ số ra ngày 30.11.1925 đến số ra ngày 15.3.1926. Năm 1928, tác phẩm được tổng hợp và xuất bản thành sách bởi nhà in Đông Pháp - Ng.kim-Dinh, Gia Định; sau đó được một NXB của Pháp in lại năm 2003. Bản tiếng Việt này được dịch dựa trên bản in năm 1928 của nhà in Đông Pháp và cũng là cuốn sách tiếp theo trong Tủ sách Pháp ngữ - Góc nhìn sử Việt của OMEGA+. Tác giả Phan Văn Trường (1876 - 1933) được xem là một trong những luật sư đầu tiên của Việt Nam. Ông là một trong những người tiên phong kết hợp nghề luật và nghề báo. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Pháp luật lược luận (nhà in Xưa - Nay, Sài Gòn, 1926). Trong tác phẩm Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, tiến sĩ luật Phan Văn Trường thuật lại tỉ mỉ câu chuyện về những trí thức Việt Nam từng bôn ba ở “mẫu quốc” Pháp để tìm đường hướng mới cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc những năm đầu thế kỷ 20. Đi theo mạch nhiều câu chuyện của luật sư Phan Văn Trường - người chí sĩ đã sát cánh cùng nhiều nhân vật cách mạng hoạt động đấu tranh qua báo chí, độc giả thời hiện đại sẽ hiểu rõ hơn hành trạng của một số nhân vật lịch sử đầu thế kỷ 20, cũng như phần nào thấu suốt được lý do vì sao công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc phải chuyển sang một giai đoạn mới, qua các tư liệu chân thật và sinh động nhất. *** LỜI NGỎ Lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX đứng trước một bước ngoặt then chốt: Lựa chọn con đường giải phóng dân tộc nào cho phù hợp với xứ sở và bối cảnh lịch sử thế giới lúc bấy giờ. Để phần nào hiểu được những gì đã xảy ra trong quá khứ, để có thể lý giải những lựa chọn mà tiền nhân của đất nước đã phải thực hiện, chúng ta cần truy lại dấu chân của người đương thời, mà cụ thể là những trí thức Việt Nam từng bôn ba ở ngay chính mẫu quốc Pháp để tìm tòi những đường hướng đấu tranh giải phóng dân tộc. Bởi lẽ, bối cảnh của buổi đầu thế kỷ XX đó chính là sự lụi tàn của phong trào Cần Vương, cùng với đó là sự lỗi thời không thể chối cãi của đường hướng đấu tranh chống ngoại xâm như cha ông từng thực hiện chống lại các thế lực phương Bắc. Thực dân phương Tây không phải là các triều đình Trung Hoa quân chủ khi xưa, và do vậy phương hướng đấu tranh của người Việt cũng phải có sự điều chỉnh cho bắt kịp với thời đại, để thích nghi với đối thủ mới có trong tay sự vượt trội về khoa học-kỹ thuật-vũ khí. Phương hướng mới đó khởi từ lớp thanh niên trẻ sẵn sàng dấn thân chu du, học hỏi ở ngay chính quốc Pháp. Và một trong những tài liệu hữu ích để tìm hiểu hành trình này của thế hệ trẻ Việt Nam thời bấy giờ chính là Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, hồi ký của Luật sư-Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường, người được xem như luật sư đầu tiên của Việt Nam. Phan Văn Trường (1878-1933) sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học ở Đông Ngạc, Hà Nội. Kể từ khi sang Pháp học Luật năm 1908 cho đến năm 1923 khi trở về Tổ quốc, ông đã không ngừng trau dồi học hỏi nhằm tự trang bị cho mình hai “vũ khí” quan trọng là kiến thức về luật pháp và quốc tịch Pháp; có thể nói, đó chính là những công cụ hữu ích để ông tiến hành cuộc đấu tranh dài lâu bên những người đồng chí như Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền... hòng vận động, đòi hỏi quyền lợi cho người dân An Nam và các xứ thuộc địa, đấu tranh đòi quyền lợi giáo dục cho người dân bản xứ, cũng như chống lại những sách nhiễu của mật thám Pháp và trò vu khống của chính quyền thuộc địa... Hiểu được tầm quan trọng về mặt tư liệu của Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, OMEGA+ trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn hồi ký của Luật sư Phan Văn Trường, cũng là cuốn sách tiếp theo trong “Tủ sách Pháp ngữ - Góc nhìn sử Việt”. Tuy nhiên, hiểu rõ được khoảng cách thời đại lên đến gần một thế kỷ có thể ít nhiều gây khó khăn cho chúng ta trong việc thấu hiểu một số quan điểm và cách nhìn nhận của cha ông khi xưa, OMEGA+ đã có những chú thích kỹ lưỡng ở những chi tiết này. Mong rằng tác phẩm sẽ góp phần giúp quý độc giả khám phá những chi tiết và sự kiện quan trọng của một thời, cũng như quan điểm của người trong cuộc, để ta có thể thấu suốt hơn những gì đã xảy ra, và cũng để hiểu cho người xưa. Trân trọng, CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH OMEGA VIỆT NAM Mời các bạn mượn đọc sách Chuyện Những Người An Nam Ở Paris Hay Sự Thật Về Đông Dương của tác giả Phan Văn Trường & Sity Maria Cotika (dịch) & Huỳnh Mai (dịch).