Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Truyện Báo Thù Ghê Gớm - Nguyễn Thế Lữ (1929) - NXB Tân Dân PDF

Thế Lữ (10 tháng 6 năm 1907 – 3 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh Nguyễn Đình Lễ (sau đó đổi thành Nguyễn Thứ Lễ) là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch người Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò là một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Từ năm 1937, hoạt động của Thế Lữ chủ yếu chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói, trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, trưởng các ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ, hoạt động cho đến sau Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm kịch kháng chiến trong những năm Chiến tranh Đông Dương. Sau Hiệp định Genève, ông tiếp tục hoạt động sân khấu, trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957 – 1977). Ông được coi là một người tiên phong, không chỉ trong phong trào Thơ mới, trong lĩnh vực văn chương trinh thám, kinh dị, đường rừng, mà còn là người có đóng góp rất lớn trong việc chuyên nghiệp hóa nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở Việt Nam. Thế Lữ đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1984 và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000.Một Truyện Báo Thù Ghê GớmNXB Tân Dân 1929Nguyễn Thế Lữ40 TrangFile PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Hai Mươi Tuổi - Kiều Thanh Quế PDF (NXB Đức Lưu Phương 1940)
Tôi viết Hai Mươi Tuổi với tất cả hăn- hái, u-buồn, hoài- nghi của tuổi hai mươi, tôi mạnh dạn cầm bút viết "Hai mươi tuổi". Ở đây, tôi trình bày tất cả các hạng hai mươi tuổi không lý - tưởng, toàn là bạn thân hay không thân của tôi, ở đâu, tôi nói xấu cũng như nói tốt họ. Ở đâu, quản bút tôi đang cầm nó bắt tôi khai hết sự thiệt. Tôi không viết sách bao giờ. Tôi chỉ biết là khi nào thấy thần-trí bị ám-ảnh bởi một sự vật, tâm tư thắc mắc bởi một đau khổ ...Hai Mươi TuổiNXB Đức Lưu Phương 1940Kiều Thanh Quế156 TrangFile PDF-SCAN
Hận Ngày Xanh PDF (NXB Tân Dân 1942) - Hoàng Cầm
Có phải chăng tiếng sóng bể, tiếng gió khơi đã giội vào hàng thông trên bãi, có phải chăng tiếng rung động của đôi lòng trong trắng đang hòa nhạc nêu đương dưới nắng thu vàng ? Có phải chăng tiếng thổn-thức từ trái tim rũ héo của người xưa ? Hay chính là bản nhạc đầu thương nhớ trong thời xuân xanh của bạn bay về ? Thế là bạn đã có một bài thơ, một bản đàn. Ẩm-điệu lẩn vào tâm-tư, tùy ở bạn nghĩ đến lòng đau của thi-nhân ngày trước. Giọt lệ thi-nhân! bạn hứng lấy mà xem! Bạn sẽ thấy ngạc nhiên khi thấy bóng mình ở trong ấy, đang nghe tiếng hận ngày xanh...Hận Ngày XanhNXB Tân Dân 1942Hoàng Cầm196 TrangFile PDF-SCAN
Hồn Bướm Mơ Tiên PDF (NXB An Nam 1933) - Khái Hưng
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng, cũng là cuốn tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên báo Phong Hóa của nhóm Tự Lực văn đoàn được độc giả nhiệt liệt hoan nghênh. Cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên tạo ra một uy tín lớn cho tờ báo Phong Hóa và nhóm Tự Lực văn đoàn, khích lệ các nhà văn của nhóm sáng tác, và tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã giành được vị trí hàng đầu trong phong trào văn học trong một thời gian dài; cho đến nay, âm vang của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn vẫn còn đọng trong ký ức độc giả, trong đó, được cảm tình sâu sắc nhất là tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên.Hồn Bướm Mơ TiênNXB An Nam 1933Khái HưngNguyễn Bảo Sơn (giới thiệu)132 TrangFile PDF-SCAN
Hồng Đức bản đồ (1962) PDF
Bản đồ Hồng Đức, tức Hồng Đức bản đồ sách là một bộ bản đồ địa lý của Đại Việt được ban hành vào đời vua Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 21 (tức năm 1490). Đây được coi là bộ bản đồ địa lý đầu tiên do nhà nước phong kiến của Việt Nam thực hiện. Bộ bản đồ đã thể hiện phạm vi cương giới và hệ thống hành chính của nước Đại Việt vào nửa cuối thế kỷ 15. Bộ sách được Viện khảo cổ Sài Gòn dịch và xuất bản năm 1962.