Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giao Điểm Giữa Hai Nền Văn Hóa Việt Nam Và Nhật Bản PDF

Nhân dịp kỷ niệm 150 năm Minh Trị duy tân (1868-2018) và 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản (1973-2018), chúng tôi chọn Vĩnh Sính và các tiểu luận của ông để giới thiệu đến đông đảo độc giả có dành sự quan tâm đến tiến trình giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản.Phần nội dung đầu tiên là các tiểu luận về văn hóa, nghệ thuật, xã hội Nhật Bản.Những điểm đặc thù căn bản của xã hội và văn hóa Nhật Bản được đề cập trong tiểu luận “‘Những mô hình ẩn giấu’, hay là ‘Những nguyên hình’ của văn hóa Nhật Bản”, những đặc điểm tạo nên tầng sâu của xã hội và văn hóa Nhật Bản: chủ nghĩa tập đoàn có tính cách cạnh tranh, chủ nghĩa hiện thế, chủ nghĩa hiện tại và chủ nghĩa hình thức.Tác giả đưa độc giả lướt qua những điểm chính của ngày Tết ở Nhật, qua tiểu luận “Ngày Tết ở Nhật và Shichifukujin (‘Bảy vị thần phước đức’)”, chúng ta thấy ít nhiều về những tương đồng giữa Nhật Bản và các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam.So với các nghệ thuật nổi tiếng của người Nhật như trà đạo (sadô), thư đạo (shodô), kiếm đạo (kendô), võ sĩ đạo (bushidô) hoặc nhu đạo (judô), thì kôdô (hương đạo - nghệ thuật thưởng thức trầm hương) ít được chúng ta biết đến. Và lịch sử kôdô còn ghi dấu mối giao lưu giữa Đàng Trong với Nhật Bản thuở xa xưa. Tiểu luận “Từ thú thưởng thức trầm hương đến sự hình thành hương đạo (kôdô) ở Nhật Bản” là một chỉ dẫn thú vị.Tiểu luận “Saigyô Hôshi (1118-1190): Thi sĩ tài hoa yêu phiêu du của Nhật Bản” cho chúng ta cái nhìn cô đọng về cuộc đời của thi sĩ tài hoa Saigyô. Hay qua “Hải đường lả ngọn đông lân”, Vĩnh Sính chứng minh sự nhầm lẫn tên gọi giữa hoa hải đường và hoa trà mi. Câu chuyện truy nguyên bắt đầu từ câu trả lời “Kaidô desu yo” (Hải đường đấy mà!) mà du học sinh Vĩnh Sính nhận được trên đất Đông Kinh hơn 50 năm trước.Phần nội dung thứ hai của cuốn sách là những tiểu luận giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản qua các giai đoạn: thế kỷ VII-VIII, thế kỷ XVI-XVIII, sau Minh Trị duy tân (1868 gần tương ứng với ba thời kỳ trong lịch sử bang giao của Nhật Bản với thế giới.Tiểu luận “Đã tìm ra tư liệu về ‘Người Lâm Ấp sang Nhật Bản’ vào thế kỷ VIII - Phật Triết” là những trang sách khảo công phu về tiểu sử của Phật Triết người Lâm Ấp. Phật Triết đã góp phần vào việc khai thông những bước đầu của nhã nhạc Nhật Bản, đóng vai trò cốt cán trong việc truyền bá nhã nhạc Lâm Ấp ở Nhật Bản.Tiểu luận “Mậu dịch giữa Nhật Bản với Đàng Trong: Chaya Shirojiro” giới thiệu hào thương Chaya (cùng với Suminokura (đã được giới thiệu trong cuốn sách Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa) và Goto là ba nhà hào thương Nhật Bản đóng vai trò chủ yếu trong quan hệ mậu dịch với Đàng Trong nói riêng và Đông Nam Á nói chung vào cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII) và tiểu luận “Tokugawa Yoshimune và voi Việt Nam ở Nhật Bản vào thế kỷ XVIII” kể chuyện hai con voi được đưa đến Nhật.Trung Quốc là trung tâm trong trật tự thế giới Đông Á truyền thống và nền văn minh Trung Hoa được xem là “khuôn vàng thước ngọc”. Cả Việt Nam và Nhật Bản đều tiếp thu từ nền văn minh này nhiều yếu tố văn hóa quan trọng: chữ Hán, Nho giáo, Phật giáo. Từ rất sớm, Nhật Bản đã ý thức rõ và thể hiện thái độ của một nước đứng ngoài vòng cương tỏa của trật tự thế giới Trung Hoa. Trong khi đó Việt Nam thì chấp nhận những khuôn mẫu và tiền lệ văn hóa của Trung Quốc. Trước hiểm họa Tây xâm giữa thế kỷ XIX, độc lập quốc gia là vấn đề tiên quyết và Nhật Bản đã thức thời chọn con đường thoát Á cùng với những nỗ lực canh tân đất nước. Kể từ lúc đó, Việt Nam và Nhật Bản đã đi trên hai con đường khác nhau.Những nhân vật kiệt xuất của Việt Nam trước làn sóng Tây xâm thời cận đại: Cao Bá Quát, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, được Vĩnh Sính cũng được đề cập đến.Nếu Fukuzawa Yukichi là đại diện tiêu biểu cho tinh thần Nhật Bản thời cận đại thì Phan Châu Trinh được xem là một trong hai sĩ phu (cùng với Phan Bội Châu) đi hàng đầu vận động giành độc lập trong 25 năm đầu thế kỷ XX.Minh lục tạp chí (Meiroku zasshi, viết tắt là MRZ) ra đời tháng 3 năm 1874 ở Nhật Bản. Mục tiêu là khai sáng, với sự cộng tác của những nhân viên chính phủ: Kato, Mori, Nishi, Tsuda... và tại dã học giả (ngoài chính phủ) Fukuzawa. Những tranh luận trên Meiroku zasshi và Minkan zasshi, giữa Fukuzawa và nhóm học giả chính phủ, với hai đại diện tiêu biểu là Fukuzawa và Kato. Hai quan điểm nhưng chỉ có một nước Nhật. Những tranh luận gay gắt, thẳng thắn giữa các học giả không xa rời thực tế của đất nước, khai sáng quần chúng là điểm chung của họ. Tất cả đều được đề cập trong tiểu luận “Hội trí thức Meirokusha và tư tưởng khai sáng ở Nhật Bản”.Cuốn sách kết thúc ở tùy bút sâu sắc “Việt và Nhật” của tác giả Shiba Ryôtarô (1923) - bút hiệu của Fukuda Teiichi do Vĩnh Sính dịch.Tập tiểu luận này nguyên là những bài viết rời rạc, được Nhà nghiên cứu Vĩnh Sính viết trong nhiều năm và chưa in thành sách, chúng tôi làm công việc tổ chức bản thảo: sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Ngoài ra, chúng tôi tiến hành cấu trúc hệ thống cước chú xuyên suốt trên toàn sách thay vì lặp lại ở một số bài, dựa trên nội dung và cước chú soạn ra thư mục Tài liệu tham khảo, Sách dẫn (Index) để cuốn sách được khoa học hơn.CÔNG TY SÁCH DÂN TRÍ

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Truyện Thúy Kiều - Ngô Tử Cống PDF
Quốc văn như truyện Thúy Kiều , văn chương rất tài tình, trước kia chưa từng có, sau này cũng chưa từng thấy. Tiếc vì nay sao chép ngày càng sai nhầm làm cho nhiều người đọc truyện Thúy Kiều không lấy đâu làm chuẩn đích. Nay tôi tìm được một bản Kiều rất cổ xin dịch ra quốc ngữ và gia công nghiên cứu, chú thích rõ ràng, và nhờ một nhà danh họa theo sự tích trong truyện vẽ ra từng cảnh, độc giả trong khi ngâm vịnh lại xem ảnh vẽ tỏ ra cái hiện tượng thật của nàng Kiều vây, (Ngô Tử Cống dịch 1925).Truyện Thúy KiềuNXB Hà Nội 1935Ngô Tử Cống186 TrangFile PDF-SCAN
Văn Minh Luận - Phạm Quỳnh PDF
Phạm Quỳnh là người viết nhiều nhất trong Nam Phong tạp chí. Các bài viết của ông vững vàng, chắc chắn, không sử dụng ngôn ngữ bay bướm, tài hoa, Phạm Quỳnh sử dụng ngòi bút chín chắn, giọng văn đúng mực, có phần “già trước tuổi” nhằm thâu thái tư tưởng và tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền Quốc văn Việt Nam còn khiếm khuyết. Nếu đem so sánh với một cây bút, “một ông trùm văn hóa” cùng thời là Nguyễn Văn Vĩnh thì người chủ trương và sáng lập Đông Dương tạp chí lại sử dụng lối diễn đạt phóng túng ra quốc văn từ những áng văn chương Pháp hoa mỹ.Văn Minh LuậnNXB Đông Kinh 1927Phạm Quỳnh128 TrangFile PDF-SCAN
Tuyết Giang Phu Tử Lược Khảo Và Phê Bình PDF
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491 – 1585), tên huý là Văn Đạt (文達),[1] tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ (白雲庵居士),[2] được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử (雪江夫子), là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều (Lê – Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535)[3] và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước “Trình Tuyền hầu” rồi thăng tới “Trình Quốc công” (程國公)[4][5] mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.[6] Dưới thời quân chủ của Việt Nam, ông là một trong số rất hiếm văn nhân thuần túy (tức là những người không phải quan tướng nắm binh quyền và chưa từng cầm quân ra trận) được phong tới tước Công ('Quận công' hay 'Quốc công') ngay từ lúc còn sống. Trình Quốc công là tước phong chính thức cao nhất của vua nhà Mạc ban cho Nguyễn Bỉnh Khiêm gần 20 năm trước khi ông mất.Tuyết Giang Phu Tử Lược Khảo Và Phê BìnhNXB Đại La 1945Chu Thiên160 TrangFile PDF-SCAN
Văn Chương An Nam - Hồ Ngọc Cần PDF (NXB Hồng Kông 1933)
Đời nay văn minh tiến bộ, học thức huých trương đâu-đó những khai sáng học đường, đễ ơn nhuần văn chương kinh sử. Vi vậy thiên hạ những đua bơi ngọn bút, luyện văn bài cho tao nhã mỉ miều, hầu làm sách hoặc viết báo, kiểu nói cho hoa lệ hùng hồn, để khiến người thích xem ưa đọc. Một bài văn viết cho trúng điệu xuôi tai, ai đọc mà không rung đùi rung vế; chí như một bài viết thảo mao thất kiểu, mới đọc qua đủ chán mắt nhàm tai. Bỡi đó muốn viết vàn bãi, muốn làm sách vở, thì tiên vàn phải luyện văn chương. Vậy học cho biết vàn chương củng là đéu cần thiết: có biết văn chương, thỉ văn bài mới tao nhả; văn bài tao nhà, văn học mdri quang minh, cho nẻn ván chương lầ như trang sức cho Vãn học vậy.Văn Chương AnnamNXB Hồng Kông 1933Hồ Ngọc Cẩn190 TrangFile PDF_SCAN