Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đợi Mặt Trời

Đợi mặt trời là cuốn truyện kể về ước mơ vươn lên trong cuộc sống của trẻ thơ. Nhân vật trong truyện là những đứa trẻ bất hạnh vì lí do này hay lí do khác đã phải bươn chải tự kiếm sống. Viết về những đứa bé không may mắn nhưng tác giả cũng như muốn nói với chính mình, với những bậc cha mẹ về trách nhiệm của người lớn đối với trẻ nhỏ. Đó chính là một mái ấm, một gia đình. Một gia đình thực sự chính là mái ấm của những đứa trẻ. Nếu không có điều ấy, những em bé sẽ phải chịu nhiều thua thiệt... Và ước mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn, giống như ước vọng thấy Mặt Trời sau những ngày đen tối... Tác phẩm đoạt giải A - cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi năm 1993 - 1995 của NXB Kim Đồng. *** Đợi mặt trời là một cuốn sách tuyệt đẹp cho thiếu nhi, là một cuốn sách tràn đầy hy vọng, bao dung, chờ đợi và tin cậy. Phạm Ngọc Tiến không chỉ là nhà văn, ông còn là một nhà biên kịch phim truyện với nhiều những bộ phim gây được tiếng vang như Ma làng, Chuyện phố phường, Gió làng Kình... bởi thế văn chương của ông trong Đợi mặt trờicó một kết cấu khá chặt chẽ với cốt truyện hấp dẫn, được tạo nên bởi một hệ thống ngôn ngữ mộc mạc, rõ ràng và đầy hình ảnh. Đợi mặt trời, cái ví von của Phạm Ngọc Tiến quả thực khiến độc giả cảm động. Mỗi người đều cần có một mặt trời của riêng mình. Không chỉ những đứa trẻ lang bạt sống bằng nghề bán báo như Nghĩa choắt, Ngọc phệ, Hiền sầu... mà cả những người như chị Lan, cô giáo Kim Anh... đều cần có mặt trời. Hình ảnh mặt trời là hình ảnh tỏa sáng, soi chiếu xuyên suốt tác phẩm của Phạm Ngọc Tiến khiến cho câu chuyện dù được viết rất gay cấn, dưới vỏ bọc của một cuộc nằm vùng và vây bắt tội phạm ma túy, vẫn vô vàn những êm ấm và cảm động. Được sự tin tưởng của thầy Tường, cô Kim Anh, vốn là các đồng chí công an đang tìm cách phá một đường dây ma túy lớn, Nghĩa choắt, Lan và Ngọc phệ đã trở thành những nhân vật “nằm vùng”, theo dõi mọi hoạt động của nhóm buôn bán ma túy Nguyễn Hoát. Có nhiều lý do thôi thúc khiến những đứa trẻ hăng hái với nhiệm vụ được giao, nhưng Phạm Ngọc Tiến bảo rằng, điều quan trọng nhất là được sống hạnh phúc, và đem lại cho chúng niềm tin tưởng ở tương lai. Ngẫm lại, từ xưa đến nay những tác phẩm văn chương hay điện ảnh Việt Nam về đề tài “vụ án” trong thiếu nhi, như Đội đặc nhiệm nhà C21, Kính vạn hoa… cũng chẳng tác giả nào “dám” để những đứa trẻ của mình tiếp xúc với tội phạm nguy hiểm đến mức ấy. Vậy mà Phạm Ngọc Tiến “liều” thật. Ông gan góc để những đứa trẻ vào vùng nguy hiểm, để từ ấy mà làm bật lên tình thế làm người, cũng như gợi mở về khát vọng hạnh phúc. Hình ảnh mặt trời mà Phạm Ngọc Tiến xây dựng chính là một hình ảnh biểu tượng đẹp đẽ về gia đình và lòng yêu thương của gia đình mà bất kì đứa trẻ nào cũng khao khát có được. Cuốn sách vì thế mà càng khiến độc giả cảm động và trăn trở. Câu chuyện được trần thuật bằng một ngôn ngữ sắc sảo, và có phần già dặn hơn rất nhiều so với lứa tuổi thiếu nhi. Nhưng không phải vì vậy mà tác phẩm của Phạm Ngọc Tiến lại thiếu đi chất hóm hỉnh vui tươi và cuốn hút dành cho thiếu nhi, tác phẩm còn đem lại cho những độc giả trẻ một trải nghiệm đặc biệt về những thân phận trẻ em luôn bị cho là bụi đời, lang thang. Những đứa trẻ như Nghĩa choắt, Ngọc phệ, Hiền sầu dưới ngòi bút của Phạm Ngọc Tiến đã được cất lên tiếng nói tâm sự từ đáy lòng mình, để giãi bày cho căn cớ phải trở thành trẻ lang thang. Nếu Nghĩa choắt không cha, không mẹ, là đứa trẻ bị bỏ rơi từ nhỏ, phải tự mình bươn chải để kiếm sống, thì Ngọc phệ vốn là đứa trẻ thành phố hẳn hoi, nhưng chỉ vì mẹ mất, bố chán đời dính vào ma túy, không chịu đựng nổi đòn roi và những đợt lên cơn của bố mà phải bỏ nhà đi tự kiếm sống. Trong khi đó, Hiền sầu lại là đứa con gái có hiếu lắm, vì mẹ ốm, muốn đỡ đần gia đình kiếm thêm tiền mua thuốc cho mẹ mà nó phải lang thang ngoài đường bán báo. Không biết những đứa trẻ lang thang, những nhân vật chính của cuốn sách này có cơ hội được đọc câu chuyện viết về chúng để mà tìm được sự đồng cảm chia sẻ hay không, nhưng chắc chắn rằng những đứa trẻ đọc cuốn sách này sẽ có được những trải nghiệm thật khác lạ với đời sống của mình. Cũng vì vậy, các em sẽ biết trân trọng hơn những gì mình đang có, và biết bao dung hơn với những bạn đồng trang lứa mà đôi khi các em vẫn bắt gặp tiếng rao báo đây, đánh giày đây,... trên đường phố. Một cuốn sách nhiều gai góc, nhiều nỗi buồn, nhiều mất mát và cũng tái hiện lại rất nhiều những mặt trái xấu xí của xã hội, nhưng nhất định Đợi mặt trời là một cuốn sách tuyệt đẹp cho thiếu nhi, là một cuốn sách tràn đầy hy vọng, bao dung, chờ đợi và tin cậy. Thật như lời Nghĩa choắt đã nói, hay cũng chính là lời tác giả khẳng định “người tử tế thật sự bây giờ thiếu gì”. Và những chuyện tử tế, đẹp đẽ như Đợi mặt trời của Phạm Ngọc Tiến có lẽ cũng nhiều vô cùng giữa đời sống này. Nhà văn Việt Hà khi nhận xét về giọng văn của Phạm Ngọc Tiến đã nói “Đúng như Phạm Ngọc Tiến từng tâm sự rằng, anh chọn cách viết mộc, thô, đơn giản đến tối thiểu. Chính sự thô nhám, không cầu kì ấy đã tạo ra sự khác biệt, một thứ ngôn ngữ, giọng điệu rất riêng, sống động và chân thực với đời sống”. Và cũng chính vì sự chân thực gần gũi ấy mà dễ lay động trái tim, tâm tư của người đọc.  *** D uy nhất chỉ có các thành viên của nhóm bán báo “Xa Quê” được phép vào hành nghề trong quán Mặt Trời. Ngoại lệ này bọn trẻ trong cuộc cũng không tài nào hiểu nổi. Thì kệ xác, hơi đâu mà thắc mắc cho mệt, miễn kiếm được tiền là xong. Cũng không phải đứa nào trong nhóm đều được vào. Tiếng là bán báo rong nhưng chúng nó đã được khoanh vùng cả rồi. “Chiến đấu” ở Mặt Trời gồm có Nghĩa choắt, Ngọc phệ, Hùng sứt. Thỉnh thoảng có thêm cái Hiền sầu. Toàn những đứa có “thành tích” nổi bật. Chuyện ấy nói sau. Quán Mặt Trời là cái đinh gì mà ghê gớm đến vậy? Chưa chắc nó đã được sang trọng, bề thế bằng mấy nhà đặc sản khác. Ừ, thì nó có địa thế thuận lợi thật. Mặt tiền rộng rãi ở phố chính, trung tâm thành phố. Thêm nữa là phòng ốc lịch sự trang hoàng đẹp đẽ, ở tầng thượng gác tư có hẳn phòng khiêu vũ nhạc xập xình, xập xoẹ suốt tối. Ai chứ bọn thằng Nghĩa còn lâu mới mắt tròn, mắt dẹt trước Mặt Trời. Cái thành phố này, hang cùng ngõ hẻm, đường ngang lối tắt chúng nó không lạ. Mấy chục cái nhà hàng, khách sạn, nơi nào nó lại chả đã đặt chân đến rồi. Tóm lại Mặt Trời cũng chỉ là một quán ăn bình thường. Vậy đấy nhưng đố bọn “Xa Mẹ”, bọn “Cố Hương” dám bước chân qua cửa. Thử xem, lại chả bị anh Toàn sẹo bẻ giò làm “tăm xỉa răng” ngay tắp lự. Không nói sai, chính thằng Hùng sứt, ngày còn chưa về “Xa Quê” đã bị anh Toàn “làm thịt”. Cái răng cửa to như hạt ngô Trung Quốc bị sứt hẳn một nửa là dấu tích của trận “làm thịt” ngày xưa. Anh Toàn sẹo người nhỏ nhưng võ nghệ cao cường lắm. Bọn ăn chằng, uống quỵt, quậy phá ở đâu không biết, đến Mặt Trời là im thít không dám ho he. Gọi Toàn sẹo vì trên gò má phải của anh đeo một cái sẹo dài thượt, lua nhua nom như con rết cụ đang bò, hãi lắm. Vào được Mặt Trời, việc kiếm ăn cũng không phải dễ. Bán được tờ báo cũng trầy vẩy. Nhưng thỉnh thoảng chúng nó vớ được khoản khác bù vào. Bẫm bằng mấy việc bán báo. Chuyện ấy cũng nói sau. Bởi vậy dù không hiểu tại sao nhưng bọn thằng Nghĩa vẫn vô cùng biết ơn bác Hoát. Chính ông chủ từ thiện của nhóm bán báo “Xa Quê” cắt cử chúng nó được vào Mặt Trời. Gọi Nghĩa choắt vì nó nhỏ người. Đã mười ba nhưng nó còi cọc chỉ nhỉnh hơn đứa bé lên mười chút ít. Duy có khuôn mặt là đúng tuổi. Thậm chí già hơn. Dân choai trong làng bụi gọi “Choắt mặt già”, hoặc “Già đau già đớn”. Từ ngày về “Xa Quê” Nghĩa choắt mới thoát tên “Mặt già”. Từ “Xa Quê” đến Mặt Trời rất gần. Chỉ vài lượt khua chân là đến. Mới tám giờ sáng, khách nhậu vẫn vắng nên Nghĩa choắt còn cà rà ngoài cửa. Giờ này đi nhậu, đích thị là mấy cha đánh bạc đêm vừa giải tán. Kẻ thắng đến ăn mừng. Kẻ thua thì giải đen để mong vận đỏ vào canh tới. Đám khách này, một tờ báo ngày cũng chẳng hòng họ mua. Một tốp bọn “Cố Hương” đang quây tròn sát phạt nhau bằng bài “tá lả” bên kia đường. Bọn ấy là nhốn nháo nhất trong làng “báo”. Chúng nó mỗi đứa đều có dấu riêng, chuyên đóng giá rởm vào sách, tạp chí để lừa thiên hạ. Định vù sang tán gẫu một lát song Nghĩa choắt sực nhớ đến lời dặn của bác Hoát ban sáng. Phải rồi, bác Hoắt dặn nó đưa bộ “từ điển” dày cộp được bó cẩn thận cho một ông khách nào đấy. Anh Toàn sẹo sẽ chỉ chỗ. Chắc bộ sách quý lắm nên bác Hoát mới tin tưởng giao cho nó. Thằng Nghĩa là đứa lanh lợi nhất bọn và cũng được tín nhiệm nhất trong hai chục đứa “Xa Quê”. Bác Hoát cũng dặn nó phải cẩn thận không được rời tay kẻo bọn trộm thuổng mất thì nguy. Ban sáng nghe lời dặn này, Nghĩa ta đã cười ruồi. Thì chính nó từng có “thâm niên” trong “nghề” nẫng túi mà lỵ. Tuy bây giờ giải nghệ song đố đứa nào dám vờn mặt Nghĩa choắt. Còn lâu mới học được đại ca món nghề thâm hậu. Nghĩa choắt ôm khư khư chồng báo và bộ “từ điển” đã để trong túi vải khoác chéo qua người, ngồi ngay sát cửa ra vào. Nó ngáp liền mấy cái. Giá bây giờ được ngủ một cái thì tuyệt cú mèo. Đêm hôm qua nó trằn trọc không ngủ được. Cũng tại đầu giấc, nó mơ được gặp mẹ. Mẹ nó diện lắm, đánh hẳn ô tô đến đón nó. Nó giương to mắt nhìn thật kỹ. Ngày trước lúc mẹ nó bỏ nhà ra đi kiếm ăn, nó mới chỉ bảy tuổi. Tuổi ấy đầu óc vẫn lào phào. Bởi vậy nó chỉ chập chờn nhớ không được kỹ lắm mặt mẹ. Đâu như một khuôn mặt gầy guộc rặt rãnh ngang nhăn nhúm thì phải. Vậy mà bây giờ người đàn bà sang trọng nhường kia lại gọi nó là con. Đúng rồi. – Cún con của mẹ, lại đây nào! Một bàn tay trắng hồng múp míp đưa lên vẫy vẫy. Còn tay kia luồn vào xách tay lôi ra một nắm tiền. Ôi, nảy đom đóm vì tiền, nhiều lắm toàn giấy bạc lớn. Nó nghẹt thở. Nước bọt ở đâu tứa ra nhiều thế, sùi cả bọt bóng, phùi ra mép. Nó nuốt đánh ực một cái. – Nào cún con của mẹ lại đây! Nó ngần ngừ giây lát rồi lầm lì tiến từng bước một. Cảnh giác vẫn hơn, đi đâu mà vội. Nhỡ người kia lừa nó thì sao. Bỗng nó thấy người đàn bà sang trọng thoắt cái biến đổi khuôn mặt. Đúng rồi, đúng là mẹ nó rồi. Khuôn mặt gầy guộc kẻ rãnh nhăn nhúm. Nó oà lên chạy vội. Nhưng sao thế này, nó tiến sát giơ cả hai tay mà không tài nào chạm được vào mẹ. Cái ô tô trắng trôi chầm chậm lôi theo cả mẹ nó. Chân nó cuồng lên khi cái ô tô xa dần. Trước mặt nó chỉ còn những tờ bạc vương vãi. Nó cúi xuống nhặt một tờ. Chợt có tiếng kêu rất to: “ Ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp!”. Hốt quá, nó vứt vội tờ bạc, bỏ chạy. Càng chạy chân càng ríu lại. Một đám người có cả công an rầm rập đuổi theo. Nó sợ quá, thế là xong phim rồi. Có người ngáng chân. Nó vấp ngã đánh oạch. Nó thét lên hãi hùng: “ Mẹ ơi”. – Kìa, Nghĩa choắt, có gì mà hú hét ghê thế? Thằng Nghĩa mở mắt thấy nửa cái răng gãy của Hùng sứt nhăn nhở ở giường bên. Thì ra nằm mơ. Kinh quá! Mồ hôi tuôn ra ướt đầm áo. Ngực chình chịch như bị chèn đá. Hoá ra cái chân bự của Ngọc phệ chẹn qua cổ nó từ bao giờ. Đúng là thằng mập Trư Bát Giới. Ngủ chung giường với nó quả là một tai hoạ. Nghĩa choắt không tài nào ngủ được nữa. Không phải vì sợ mà vì một lẽ khác. Nó thèm mẹ! Nghĩa choắt lại ngáp dài. Nó táp vào góc hè. Không thể cưỡng lại được nữa, gà gật một chút vậy. Không biết nó ngủ được bao lâu. Một chiếc giầy đen bóng lộn gại gại vào đầu gối nó: – Ê, nhóc! Dậy, dậy! Thằng Nghĩa choàng tỉnh. Nó sực nhớ đến bộ “từ điển”. Hú vía, vẫn còn. Mắt nó đỏ kè vì dở ngủ, nhìn xiên lên. Một gã thanh niên mặt tum húp: – Ê, đưa tờ Hà Nội đây để tao so xổ số! Mới sáng ngày ra chưa kịp mở hàng đã gặp cháo ám. Nghĩa choắt đứng lên định lủi. “Bích” cú đá trúng ngay hông nó. Thằng Nghĩa ngã sấp. Chồng báo toé ra. Tai nó ù như xay lúa vẫn thấy chan chát tràng chửi: – Mẹ thằng nhõi con. Láo thật! Đúng lúc ấy anh Toàn sẹo từ cửa phóng ra. Chỉ thấy “uỵch” một cái gã kia đã đổ kềnh như chuối cây bị chém gốc. – Nhìn kỹ mặt tao nhé! Cút! Gã kia ngậm tăm lủi ngay. Nghĩa choắt lồm cồm bò dậy. Ê ẩm một bên hông. Anh Toàn sẹo giúp nó nhặt báo rơi. – Oắt con, vào mà làm việc đi! Chưa sáng đã ngủ. Mắt anh xoáy vào cái túi vải dày cộm, nói rất khẽ: – Mang vào phòng số 8, nhớ chưa, nhanh lên. Phòng số 8 ở gác 2. Đó là phòng ăn đôi nhỏ xíu. Toen hoẻn có mấy mét vuông kê đủ mỗi bộ bàn ăn. Thằng Nghĩa đã nhẵn mặt. Nó biết đám khách vào các buồng ấy, ăn chỉ là một nhẽ, còn thì họ cợt nhả nhau là chính. Người lớn mà lỵ, có nhiều trò riêng lắm. Nó cẩn thận gõ cửa. – Vào! – Giọng đàn ông rất hách. Nghĩa choắt rụt rè bước vào: – Ông ơi, mua cho cháu tờ báo. – Được! Nghĩa choắt đảo mắt. Người đàn ông ngồi có một mình. Trên bàn ê hề thức ăn. Ngồi ở phòng đôi lại chỉ có một mình, lạ nhỉ? Người đàn ông giật giọng: – Đưa tất cả các loại báo đây. Có từ điển tiếng Bồ không? Đúng rồi. Đúng là người bác Hoát dặn đưa đây rồi. Nó móc bộ “từ điển” ra từ chiếc túi vải bạt, kính cẩn đưa cho người đàn ông lạ. Người kia đút rất nhanh vào chiếc cặp da căng phồng. Thế là xong, thoát được của nợ phải kè kè giữ suốt sáng. Người đàn ông rút mỗi loại báo một tờ thật. Đoạn ông ta móc ví lấy tờ bạc hai chục ngàn búng rất nghệ. Tờ bạc xoẹt thẳng vào tay Nghĩa choắt. Ô, sao tờ giấy mỏng mảnh vậy mà cũng đau ra phết. Nghĩa choắt đang lẩm nhẩm tính tiền để trả lại thì người đàn ông khoát tay: – Thôi, ra!   Mời các bạn đón đọc Đợi Mặt Trời của tác giả Phạm Ngọc Tiến.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tên Anh Chưa Có Trong Danh Sách - Boris Vasilyev
Sau khi ra đời, Tên anh chưa có trong danh sách đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt như tiểu thuyết ngắn trước đó của Vasilyev là Và nơi đây bình minh yên tĩnh. Năm 1975 tiểu thuyết đã được Nhà hát Lenkom Moskva chuyển thể thành vở kịch cùng tên của đạo diễn sân khấu Mark Zakharov, vai Pluzhnikov được giao cho diễn viên nổi tiếng Aleksandr Abdulov. Vở kịch này khi công diễn cũng đã đạt được thành công lớn. Nếu như Và nơi đây bình minh yên tĩnh được Điện ảnh Liên Xô chuyển thể từ ngay thập niên 1970 thì phải đợi tới năm 1995 Tên anh chưa có trong danh sách mới được chuyển thể thành phim điện ảnh với tựa đề Tôi, người lính Nga (Я — русский солдат). Đây là một bộ phim Nga của đạo diễn Andrew Malyukov với kịch bản chuyển thể do Yelena Paradiva chấp bút. Tác phẩm được Đức Thuần và Xuân Du dịch ra tiếng Việt, Nhà xuất bản Cầu Vồng in chung với Và nơi đây bình minh yên tĩnh năm 1985. Ngoài ra tại Việt Nam, tác phẩm cũng được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân in năm 1980 và tái bản năm 2001. Tên anh chưa có trong danh sách (tiếng Nga: В списках не значился) là một tiểu thuyết Liên Xô của nhà văn Boris Vasilyev được xuất bản lần đầu năm 1974. Lấy bối cảnh Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của Liên Xô, tác phẩm nói về số phận của một người lính Hồng quân phải chiến đấu cô độc giữa pháo đài Brest nằm sâu trong hậu phương của Đức Quốc xã. Cùng với Và nơi đây bình minh yên tĩnh, đây được coi là tiểu thuyết ngắn xuất sắc nhất của Boris Vasilyev nói về Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Đêm ngày 21, rạng sáng ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân đội Đức Quốc xã bất ngờ nổ súng mở đầu cho Chiến dịch Barbarossa tấn công Liên Xô. Cùng ngày 21 tháng 6 định mệnh, anh lính trẻ Nikolai Pluzhnikov được điều tới Pháo đài Brest, tiền đồn của Hồng quân nằm ở biên giới Đức-Xô. Pluzhnikov chưa kịp tìm tới đơn vị của mình để đăng ký thì toàn pháo đài đã bị dội pháo phủ đầu ác liệt và sau đó bộ binh Đức Quốc xã bắt đầu tràn ngập Brest. Tuy cố gắng chống đỡ nhưng trong cảnh bị tấn công chớp nhoáng, Hồng quân không thể đáp trả lại một lực lượng đông đảo với hỏa lực vượt trội của quân Đức, đồng đội của Pluzhnikov lần lượt ngã xuống, còn bản thân anh lính trẻ phải ẩn nấp trong hệ thống hầm hào của pháo đài để tiếp tục duy trì cuộc kháng cự. Ngày tháng dần qua, những người Nga cuối cùng trong pháo đài lần lượt ngã xuống hoặc bị bắt, Pluzhnikov rơi vào trạng thái hoàn toàn cô độc, vừa cố gắng cầm cự để sống sót, vừa phải căng mọi giác quan để đối phó với quân Đức. Sau chín tháng kháng cự, khi mà chiến tuyến đã tiến sâu vào trung tâm nước Nga, Pluzhnikov, người lính duy nhất còn lại của Hồng quân ở Brest, cuối cùng cũng bị bắt. Khi các sĩ quan Đức Quốc xã hỏi anh về tên tuổi, cấp bậc, chức vụ, Nikolai Pluzhnikov chỉ trả lời rằng: “Tôi, người lính Nga” và qua đời. Thành phố Brest sau này đã được chính phủ Liên Xô phong tặng danh hiệu Thành phố Anh hùng. *** Pháo đài Brét đứng sừng sững trên biên giới miền cực Tây của Liên Xô. Từ Mátxcơva đến đây không xa lắm, đi tàu hoả không đến một ngày đêm. Không riêng gì khách du lịch và tất cả những người khi ra nước ngoài hoặc trên đường về nước đều đến thăm pháo đài này. Ở đây người ta không nói to: những ngày tháng của năm một nghìn chín trăm bốn mốt vô cùng vang động và những tảng đá ở đây đã ghi nhớ rất nhiều. Những người hướng dẫn điềm tĩnh đưa những tốp người qua những nơi chiến địa, người ta có thể chui xuống dãy hầm ngầm của trung đoàn 333, sờ tay vào những viên gạch bị súng phun lửa làm cho cháy sém, đi qua cổng Têretxpôn và cổng Khôlmxki, hoặc đứng lặng lẽ trước ngôi nhà thờ cũ. Đừng vội vã. Hãy nhớ lại tất cả. Hãy cúi đầu mặc niệm. Trong nhà bảo tàng pháo đài người ta cho bạn thấy những khẩu súng có lần đã nhả đạn và những đôi giày nhà binh được buộc vội vã trong buổi sáng ngày 22 tháng 6. Bạn sẽ được cho xem những vật dụng cá nhân của những chiến sĩ bảo vệ pháo đài, và sẽ được kể cho nghe chuyện những chiến sĩ ấy đã phát điên như thế nào vì khát nước trong khi phải dành toàn bộ số nước cho trẻ em và súng máy. Bạn sẽ được đứng bên cạnh lá cờ, lá cờ duy nhất vừa mới được tìm thấy dưới căn hầm, bây giờ người ta vẫn tiếp tục tìm các lá cờ vì pháo đài không đầu hàng và bọn Đức không lấy được lá cờ chiến đấu nào. Pháo đài không gục ngã. Pháo đài chỉ đổ máu thôi. Những nhà viết sử không thích những truyền thuyết nhưng chắc bạn sẽ được nghe kể về một chiến sĩ vô danh bảo vệ pháo đài, người mà bọn Đức chỉ có thể bắt được vào tháng thứ mười của cuộc chiến tranh. Tháng thứ mười, vào tháng 4 năm 1942. Người chiến sĩ đó đã chiến đấu gần một năm. Một năm chiến đấu không biết tin tức, không có đồng đội bên cạnh, không được giao mệnh lệnh, không có hậu phương, không được cung cấp, không được tiếp ứng và không nhận được lá thư nào của gia đình. Thời gian đã không cho ta biết tên và chức vụ của anh, nhưng chúng ta biết rõ: anh là người lính Nga. ... Mời các bạn đón đọc Tên Anh Chưa Có Trong Danh Sách của tác giả Boris Vasilyev.
Sa Đọa - Albert Camus
Xin ngài cho tôi được hân hạnh hầu việc ngài, chẳng may có phiền ngài không? Chỉ lo ngài không sao tỏ cho tên người ngợm khả kính làm chủ tế vận mạng tửu điếm này hiểu được ý mình. Bởi chưng y chỉ thông độc có tiếng Hòa-lan thôi. Trừ phi tôi được phép biện hộ hầu ngài, y không tài nào đoán được ngài muốn gọi rượu đỗ tùng[1]. Nhưng kìa, dám mong y cũng đà gạn hiểu; y gật đầu, chứng tỏ rằng y đà chiều nể lòng tôi. Y đi lấy rượu kia rồi, vâng, ngài cứ trông mà xem, y vội vã trong một dáng điệu thung dung điều độ. Ngài quả có diễm phước, không bị y gầm gừ trong họng. Không ưng hầu rượu ai, chỉ mỗi một tiếng gầm gừ trong họng y là đủ: chẳng mạng nào còn dám hó hé. Được làm vương làm tướng khí sắc của mình, quả là thứ đặc thù của loài vật hùng mạnh. Nhưng, dám xin ngài cho tôi được cáo từ, rất mực hân hạnh được hầu giúp ngài. Muôn vàn đội ơn ngài, thật tình giá dụ cầm bằng không phiền rộn ngài thì hẳn là tôi xin nhận. Ngài tốt bụng quá. Vậy xin ngài cho phép tôi được đặt ly rượu này cạnh sát ly ngài. Ngài nói chí lý, cái lối lặng thinh im ỉm của y quả là inh ỏi chối tai. Chẳng khác nào bầu khí im lìm trong những khu rừng nguyên thủy, ứ đầy âm thanh cho tới độ tràn bờ. Tôi nhiều khi cũng lấy làm ngạc nhiên nhận thấy ông bạn tẩm ngẩm tầm ngầm của chúng ta kia cứ một mực không chịu làm thân với các thứ ngôn ngữ văn minh. Dẫu sao, cái nghề của y cũng bắt y phải chiêu đãi dân thủy thủ đủ hết mọi quốc tịch trong tửu điếm ở Amsterdam này[2], mà chẳng hiểu tại sao y lại gọi nó là Mexico-City[3] nữa. Với những công việc phải làm loại đó, e rằng dốt ngoại ngữ như y, ngài không nghĩ là cũng khí bất tiện sao? Ngài cứ hãy mường tượng tình cảnh con người Cro-Magnon[4] trú ngụ ở tháp Babel[5] mà xem! Ít nữa thì y cũng lạ nước lạ người mà lòng dạ không yên. Mà không, tên này chẳng hề cảm thấy lẻ loi cô lập, vẫn cứ phớt tỉnh như không và bản sắc chẳng bị lung lay rạn nứt chút nào. Trong số câu rất hiếm, nghe được từ cửa miệng y thốt ra, có một câu dõng dạc bảo rằng là lấy, hay không lấy thì thôi. Nhưng mà lấy, hay không lấy vật gì kia chớ? Ắt hẳn là chính ông bạn của chúng ta. Tôi phải thú nhận cùng ngài một điều, tôi vốn dễ bị mê hoặc bởi loại người lòng dạ thẳng tuột như vậy. Khi đã có suy luận ít nhiều về con người, vì nghề nghiệp hay vì chí hướng, có lúc người ta bỗng dưng nhớ đến loài linh trưởng[6]. Loài này, riêng nó, không hề có thâm ý sau lưng. *** Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một làng ở Constantinois, gần Bône, Algérie. Cha ông, Lucien Camus, một công nhân sản xuất rượu nho vùng Mondovi cho một thương gia thành phố Alger. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Lucien Camus bị động viên vào tháng 9 năm 1914, bị thương trong trận chiến Marne và chết tại bệnh viện quân y Saint-Brieuc ngày 17 tháng 10 năm 1914. Về cha mình, Abert chỉ biết qua một bức ảnh duy nhất còn để lại. Albert đến Paris làm biên tập cho tờ Paris-Soir. Năm 1942, ông phát hành cuốn tiểu thuyết L'Étranger (Người xa lạ) và tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe), trong đó ông đã trình bày những tư tưởng triết học của mình. Sisyphe là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt phải lăn một hòn đá lớn lên núi dốc, khi đến đỉnh hòn đá lại rơi trở xuống chân dốc, cứ thế Sisyphe tiếp tục lăn lên rồi rơi xuống theo một chu kỳ vĩnh cửu. Theo hệ sự phân loại của riêng Albert, các tác phẩm đó thuộc "thời kỳ phi lý" (cycle de l'absurde), cùng với các vở kịch Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) và Caligula (1945). Năm 1943, ông làm việc cho nhà xuất bản Gallimard rồi làm chủ biên tập báo Combat, cũng trong năm này ông gặp và làm quen với Jean-Paul Sartre. Những tác phẩm tiếp theo của Camus thuộc "thời kỳ nổi loạn" (cycle de la révolte), trong đó nổi tiếng hơn cả phải kể đến La Peste (Dịch hạch, 1947), kế đến L'État de siège (1948), Les Justes (1949) và L'Homme révolté (Người nổi loạn, 1951). Trong quyển tiểu luận triết học Người nổi loạn, ông đã trình bày tất cả các hình thức nổi loạn (siêu hình, chính trị và nghệ thuật...) qua mọi thời đại. Ông miêu tả con người cảm nhận sâu sắc sự phi lý của cuộc sống, luôn muốn nổi dậy, chống lại nỗi khốn khổ của kiếp người, nhưng cuối cùng vẫn không có lối thoát, mọi cố gắng đều hoàn toàn vô ích. Tình bạn giữa Albert Camus và Jean-Paul Sartre rạn nứt vào năm 1952, sau khi trên tạp chí Les Temps modernes của Sartre, Henri Jeanson đã chê trách sự nổi loạn của Camus là "có suy tính". Năm 1956, tại Alger, Albert công bố "Appel pour la trêve civile". Cũng trong năm đó, cuốn La Chute, tác phẩm quan trọng cuối cùng của Albert Camus được xuất bản. Ngày 4 tháng 1 năm 1960, tại Petit-Villeblevin vùng Yonne, Albert Camus mất trong một tai nạn giao thông. Trên chiếc xe Facel Véga khi đó còn có một người bạn của ông Michel Gallimard và người cháu Gaston. Albert Camus được chôn cất ở Lourmarin, vùng Vaucluse, nơi ông đã mua một căn nhà trước đó. Mời các bạn đón đọc Sa Đọa của tác giả Albert Camus.
Những Ngọn Cờ Trên Tháp - Anton Makarenko
Những ngọn cờ trên tháp là một cuốn tiểu thuyết tâm lý giáo dục của nhà văn Anton Makarenko, ra đời năm 1938. Trong tác phẩm "Bài ca sư phạm" vấn đề hấp dẫn tôi là miêu tả con người trong tập thể thế nào, miêu tả sự đấu tranh với bản thân của con người thế nào, cuộc đấu tranh đó gay gắt nhiều hay ít. Trong tác phẩm "Những ngọn cờ trên tháp", tôi đặt cho mình mục đích hoàn toàn khác. Tôi muốn miêu tả chính tập thể tuyệt vời mà tôi được vinh dự làm việc ở đó, miêu tả các phong trào nội bộ của nó, số phận của nó, môi trường xung quanh nó. *** Anton Semyonovich Makarenko (tiếng Nga: Анто́н Семёнович Мака́ренко , Tiếng Ukraina: Анто́н Семе́нович Макаре́нко , 13 tháng 1 năm 1888 - 1 tháng 4 năm 1939) là một nhà giáo dục, nhân viên xã hội và nhà văn Liên Xô, nhà lý luận giáo dục có ảnh hưởng nhất ở Liên Xô, người đã thúc đẩy các ý tưởng và nguyên tắc dân chủ trong lý thuyết và thực hành giáo dục. Là một trong những người sáng lập sư phạm Liên Xô, ông đã xây dựng lý thuyết và phương pháp giáo dục trong các tập thể trẻ tự quản và đưa khái niệm lao động sản xuất vào hệ thống giáo dục. Makarenko thường được coi là một trong những nhà giáo dục vĩ đại của thế giới, và sách của ông đã được xuất bản ở nhiều nước. Sau cuộc Cách mạng Nga, ông đã thành lập các trại trẻ mồ côi tự hỗ trợ cho trẻ em lang thang - bao gồm cả tội phạm vị thành niên - bị bỏ rơi mồ côi do Nội chiến Nga. Trong số các cơ sở này có Thuộc địa Gorky và sau đó là xã lao động Dzerzhinsky ở Kharkov, nơi sản xuất máy ảnh của Fed. Makarenko đã viết một vài cuốn sách, trong đó Bài thơ sư phạm (еееееее ее), một câu chuyện hư cấu về Thuộc địa Gorky, đặc biệt phổ biến ở Liên Xô. Năm 1955, một bộ phim có tựa đề tiếng Anh Road to Life đã được sản xuất. *** Chuyện này bắt đầu vào thời kỳ cuối kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Mùa đông chỉ còn để lại những lớp băng mỏng đang lần tránh ánh mặt trời dưới mọi thứ rác rưởi: những cọng rơm, những váng bùn và những lớp phân khô. Lớp đá cuội đã mòn trải ngoài sân ga đang được sưởi ấm dưới ánh nắng, lớp đất bám quanh các viên đá cuội cũng đang khô dần và mỗi lần có bánh xe đi qua đã thấy tung lên những làn bụi mới. Giữa quảng trường là một mảnh vườn hoang. Mùa hè các bụi cây trong vườn này cũng đâm chồi nảy lá, nhưng giờ đây, cũng như toàn cảnh thiên nhiên, khu vườn trông thật bẩn thỉu, những cành cây trơ trụi run rẩy, tựa hồ như bây giờ không phải mùa xuân, mà đang là mùa thu vậy. Từ quảng trường vào thị trấn có một con đường lát đá. Thị trấn nhỏ bé, nó tình cờ được ghi tên trên bản đồ địa lý. Có lẽ nhiều người không biết tên thị trấn này, nếu họ không phải chuyển tàu ở cái ga phụ mang tên thị trấn. Trên quảng trường có vài hàng quán. Phía bên là bưu điện, ngoài cửa có tấm biển màu vàng chóe. Cạnh đó có hai con ngựa gầy nhom đang rầu rĩ, chúng bị thắng vào một cỗ xe song mã chở khách đã rệu rã. Người đi lại trên quảng trường thưa thớt, phần lớn chỉ là những nhân viên đường sắt, tay xách đèn chai, những cuộn dây thừng và những chiếc va-li bằng gỗ dán. Khách chờ tàu là mấy bác nông dân, đang ngồi dưới đất cạnh tường nhà ga để sưởi nắng. Cách mấy người này một quãng là chú bé Va-ni-a Gan-tsen-cô trạc mười hai tuổi đang ngồi thu lu một mình. Chú buồn bã ngồi bên cạnh cái kệ để chân đánh giày của mình, hấp háy mắt dưới ánh nắng. Cái kệ của chú rất đơn giản, làm bằng mấy mảnh gỗ ghép lại, nhìn qua cũng biết là Va-ni-a tự tay làm lấy. Còn đồ lề của chú cũng chẳng có bao nhiêu. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngọn Cờ Trên Tháp của tác giả Anton Makarenko.
Những Cậu Bé Hỏa Tiễn - Homer Hickam
Nỗ lực biến ước mơ thành hiện thực. Một câu chuyện cảm động và đầy cuốn hút về tuổi trẻ dám mơ ước và nỗ lực để biến giấc mơ thành hiện thực. Cậu bé Homer Hickam sinh ra tại Coalwood - một vùng mỏ nghèo hẻo lánh của miền Tây Virginia, Mỹ. Tương lai của đa số trẻ em Coalwood là trở thành thợ mỏ; Homer với sức học trung bình và không có một năng khiếu đặc biệt nào, cũng sẽ khó lòng thoát khỏi vùng đất ấy. Nhưng một ngày kia, khi được chứng kiến vệ tinh Sputnik của Nga bay ngang bầu trời, cậu bé 14 tuổi bỗng bùng lên niềm khao khát chế tạo tên lửa để khám phá vũ trụ. Homer tập hợp nhóm bạn thân lại để chế tạo tên lửa. Và trái hỏa tiễn đầu tiên không bay lên bầu trời đêm như các bạn trẻ mong muốn mà như một trái bom làm nổ tung hàng rào vườn hồng của mẹ, biến Homer thành một “hiện tượng” chẳng lấy gì làm hay ho trong thị trấn. Mặc dù vậy, người mẹ tuyệt vời và khác người của Homer lại ra sức ủng hộ cho ý tưởng “điên rồ” của con, bất chấp sự ngăn cản của người chồng. Bà muốn gieo vào lòng con trai một khát vọng, một niềm đam mê để cậu có thể tìm ra con đường thoát khỏi khu mỏ, vùng đất mà theo bà đang dần tàn lụi vì sự cạn kiệt tài nguyên. Nhờ sự hỗ trợ của mẹ và cô giáo dạy hóa Riley, Homer đã thành lập Tổ chức tên lửa Big Creek. Những bạn trẻ ấy phải đối mặt với biết bao rào cản - rào cản về tri thức, những khó khăn về vật chất và cả rào cản vô hình từ bạn bè, gia đình - những người không ủng hộ dự án của họ. Tự mày mò nghiên cứu khoa học, những trái hỏa tiễn đầu tiên mang lại cho nhóm không ít rắc rối cùng những bi hài kịch cười ra nước mắt. Các bạn trẻ này đã nỗ lực bằng mọi cách, kể cả việc vô tình vi phạm pháp luật, để tìm kiếm các nguyên vật liệu chế tạo tên lửa... Với quyết tâm và niềm mơ ước được gia nhập đội ngũ kỹ sư NASA để khám phá vũ trụ, Homer và các bạn từng bước chinh phục được bầu trời Coalwood và tình cảm của người dân vùng mỏ này. Nhóm bạn trẻ đã đạt được huy chương vàng tại Hội chợ Khoa học Toàn quốc năm 1960 với sáng chế của họ. *** Đôi dòng về Những cậu bé hỏa tiễn Dám mơ ước và biến ước mơ thành hiện thực - đó chính là một trong những thông điệp chính của cuốn sách này. “Tên lửa không bay lên nếu không được ai châm ngòi” - O’Dell, một thành viên của nhóm thường lặp đi lặp lại câu nói này. Những quả tên lửa cũng như những khát vọng của tuổi trẻ và những khát vọng ấy sẽ mãi chỉ là mơ ước nếu không có một ai “châm ngòi” cho chúng. Tuổi trẻ luôn tràn đầy hoài bão lớn, song làm sao để biến chúng thành hiện thực lại là cả một hành trình đầy gian nan mà cũng thật thú vị nếu ai dám vượt lên chính mình như những cậu bé vùng mỏ nghèo xứ Coalwood. Một lần khi ngắm nhìn mặt trăng, những cậu bé hỏa tiễn nhận ra rằng từ khi quan tâm đến vấn đề khám phá vũ trụ thì mọi khái niệm về mặt trăng đã thay đổi. “Chúng tôi phóng đi một chiếc phi thuyền nhỏ, vượt qua khỏi giới hạn vật lý của nó; vượt qua những rặng núi cheo leo, qua khỏi những sự lừa dối và nước mắt của những phản đối gay gắt ban đầu; ngưỡng mộ những miệng núi lửa, những vùng tối và những ngọn núi của mặt trăng. Vậy thì một ngày nào đó, tôi tự nhủ rằng chúng tôi sẽ đến đó.” Chính cậu bé Homer Hickam, nhân vật chính và là tác giả của cuốn sách, sau này đã trở thành một kỹ sư NASA đúng như mơ ước thuở nhỏ. Đúng như nhận xét của tiến sĩ Mark A. Hill, Giám đốc Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ (IIE) tại Việt Nam, “...câu chuyện của Homer Hickam, một câu chuyện về hy vọng, kiên trì, thắng vượt nghịch cảnh không chỉ giới hạn ở nước Mỹ, mà là một câu chuyện phổ quát diễn ra ở mọi quốc gia trên địa cầu này. Những cậu bé hỏa tiễn kể về niềm tin, “một niềm tin vững chắc vào một điều gì đó không có chứng cứ,” niềm hy vọng về điều mình chưa từng thấy.” Và sự chân thực của cuốn sách đã tạo nên sức lay động lớn với trái tim độc giả. Những cậu bé hỏa tiễn là một tác phẩm đầy sức cuốn hút với giới trẻ. Bên cạnh câu chuyện chế tạo tên lửa, tác giả đã đưa người đọc đến với một vùng đất Mỹ hẻo lánh thuộc miền Tây Virginia, khám phá cuộc sống của những người thợ mỏ những năm 1950. Tác phẩm thật gần gũi với những câu chuyện tình yêu ngọt ngào và cũng không kém phần chua xót, những trăn trở của tuổi trẻ... Tác giả đã khắc họa những chân dung nhân vật thật sống động, chân thực. Homer Hickam được ngợi ca là một người kể chuyện tài tình và rất có duyên, người đã xóa nhòa ranh giới của tiểu thuyết và hồi ký. Điều đó khiến cho Những cậu bé hỏa tiễn có sức lan tỏa lớn đến hàng triệu người đọc trên thế giới. Cuốn sách được dịch ra 8 thứ tiếng và được sự đón nhận nồng nhiệt của rất nhiều trường phổ thông, đại học trên toàn nước Mỹ, trở thành động lực để các bạn trẻ học tập, nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học, nghệ thuật. Năm 1999, bộ phim October Sky ra đời dựa theo cốt truyện của Những cậu bé hỏa tiễn cũng thực sự tạo nên một cơn sốt trên màn bạc. Tại Việt Nam, trong tháng 8 vừa qua, Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ (IIE) cũng đã phát động một cuộc thi “Biến giấc mơ thành hiện thực” (Turning dreams into reality), dựa trên cảm hứng của tác phẩm Những cậu bé hỏa tiễn, dành cho học sinh, sinh viên trên cả nước. *** Đôi dòng về tác giả Homer H. Hickam (19/2/1943), sinh trưởng tại Coalwood, miền Tây Virginia, Mỹ. Ông tốt nghiệp trường trung học Big Creek vào năm 1960, sau đó là Cao Đẳng Kỹ Thuật Virginia và nhận bằng cử nhân Kỹ sư Công nghiệp vào năm 1964. Ông cũng là một cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết sách, hầu hết là về những chuyến phiêu lưu dưới biển và về sau là về những cuộc chiến của Mỹ trong Thế Chiến Thứ 2. Sau đó ông làm việc cho NASA, huấn luyện các phi hành gia về những kiến thức và kinh nghiệm khoa học khi lên đến quỹ đạo. Homer Hickam được xếp vào danh sách một trong những tác giả có sách bán chạy nhất tại Mỹ. Homer Hickam là tác giả của hai cuốn sách được hoan nghênh thời “hậu” Những cậu bé hỏa tiễn: Con đường Coalwood (The Coalwood Way- 2000) và Bầu trời đá (Sky of Stone - 2001). Ông cũng viết Giao lộ Torpedo (Torpedo Junction - 1989), Trở lại mặt trăng (1999) và nhiều tiểu thuyết khác, tác phẩm mới nhất là Chiếc mũ bảo hộ màu đỏ (Red Helmet - 2008). Đầu tháng 9.2009, Homer H. Hickam có chuyến viếng thăm Việt Nam để trò chuyện với sinh viên ở Hà Nội và TP.HCM xung quanh chủ đề “Biến ước mơ thành hiện thực”. Đồng thời, tác giả cũng tham gia trao giải cho cuộc thi Turning dreams into reality, do IIE tổ chức. *** Nhận xét của báo chí quốc tế về Những cậu bé hỏa tiễn “[Hickam] là một người kể chuyện tài tình (...) Chắc chắn rằng đây là câu chuyện mà tác giả kể cho chính bản thân mình. Một câu chuyện đầy thú vị và trong sự nghiệp của Homer H. Hickam, Jr., ông đã vượt qua rào cản cuộc sống để trở thành một kỹ sư NASA, huấn luyện các phi hành gia trước khi vào không gian - chính điều đó đã làm cho cuốn sách này thực sự khác biệt.” - The New York Times Book Review “Hickam có một câu chuyện tuyệt vời để kể cho chúng ta... Những cậu bé hỏa tiễn chắc chắn sẽ gợi nên một nỗi hoài nhớ trong lòng bất kỳ ai đã từng lớn lên ở thời kỳ đầu của cuộc đua vào vũ trụ, nhưng câu chuyện này còn hơn thế nữa...” - The Philadelphia Inquirer “Một câu chuyện sôi nổi đưa ra một vấn đề đặc sắc... thông điệp của niềm hy vọng trong một thời đại của sự hoài nghi.... Có lẽ tất cả chúng ta có một điều gì đó để học từ sáu cậu bé, những người đã dám vượt qua mọi giới hạn... và quyết tâm gửi những giấc mơ vút lên trời cao.” -The San Diego Union-Tribune “Thật khó quên... Không giống như nhiều hồi ký khác, cuốn sách này mang đến cho đời sống không chỉ kinh nghiệm của một cá nhân. Nó còn mang đến cho đời sống một thị trấn đã mất của Coalwood, miền Tây Virginia.” - USA Today Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Hỏa Tiễn của tác giả Homer Hickam.