Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Trống Thiếc

Cuốn tiếu thuyết này ra đời năm 1959 là một cú sốc về thi pháp, với bút pháp vừa hoạt bát phóng túng vừa đầy ắp liên tưởng, cuồn cuộn những sóng chữ trái tai, chói màu. Tác giả đã hoà trộn các cấp độ ngôn ngữ (từ phong cách kinh thánh đến cách nói bình dân) với dung lượng kịch tính và tượng trưng cực đại. Nhưng đằng sau cái giỡn cợt, bao giờ cũng là một chân lý cay đắng. Điểm mạnh của Cái trống thiếc theo tôi là ở tính hòa sắc kỳ ảo trong văn chương với nhiều yếu tố bất ngờ. Với giới cầm bút nước ta, đây là một gợi ý rất lớn cho việc tiếp cận, mổ xẻ và chuyển hóa hiện thực. Tuy nhiên, với bạn đọc Việt Nam, tôi e sách sẽ bị coi là hơi khó đọc, nhưng nếu đọc được, chắc chắn các bạn sẽ thích. Có hai cuốn sách tôi đọc khi trưởng thành khiến tôi sút hai cân là Tội ác và trừng phạt (1982) và mới đây nhất là Cái trống thiếc. Thật lý thú là sau khi người ta đã chán nản nhiều sự, chán đến cả văn của mình mà rồi còn bị hấp dẫn đến mức đọc mấy đêm liền tù tì một cuốn sách gây sốc bởi có cảm giác bản thân bị bới móc và sỉ nhục. Xin trước hết nói rõ hơn khái niệm nhúc nhích. Văn chương từ Homerre tới giờ nói chung không tiến được mấy độ đường, nó khác hẳn với văn minh. Thậm chí tuyến tính không có mấy vai trò ở chỗ này. Và giữa những đỉnh khác nhau, ví như anh hùng ca Odisse với sử thi M’Nông Tây Nguyên mới phát hiện chẳng hạn, là thung lũng của những nhà văn thời vụ với rất nhiều tài năng và ảo tưởng làm nền. Nếu ta xếp các đỉnh đó theo lịch trình văn chương, ta sẽ vừa có cảm giác không hề có sự dịch chuyển lại vừa thấy rất khác. Tôi tạm gọi tính chất nhùng nhằng ấy là sự nhúc nhích trong khi chờ một hình dung từ đúng hơn. *** Günter Wilhelm Grass (16 tháng 10 năm 1927 - 13 tháng 4 năm 2015) là một nhà văn người Đức đoạt Giải Nobel Văn học năm 1999. Ông sinh ngày 16 tháng 10 năm 1927 ở Danzig-Langfuhr, nay là Gdansk (Danzig) thuộc Ba Lan. Sinh ra trong một gia đình có cha mẹ làm nghề buôn bán nhỏ, thành phố quê hương ông cũng như những ngày thơ ấu sống ở đây đã là cảm hứng cho nhiều tác phẩm của ông. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai ông đã tình nguyện đăng ký tòng quân cho quân đội Đức Quốc xã khi 15 tuổi. Vào ngày 10 tháng 11 năm 1944, khi 17 tuổi, ông được gọi vào sư đoàn tăng SS số 10 "Frundsberg" của Waffen-SS Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945 ông bị bắt làm tù binh tại Marienbad và đã ở trong trại giam tù binh cho đến ngày 24 tháng 4 năm 1946. Khi bị bắt giam Grass đã tự nhận với người Mỹ rằng ông là thành viên của Waffen-SS. Thế nhưng mãi đến tháng 8 năm 2006 ông mới công khai thừa nhận việc này. Trước đó, trong các tiểu sử đã được công bố của nhà văn, ông chỉ là thiếu niên phụ giúp cho lực lượng phòng không trong năm 1944 và sau đó được gọi đi lính. *** Chỉ đến khi trở thành kẻ đi thuê lại phòng Oskar mới học được nghệ thuật trở ngược lại quá khứ bằng cách đánh trống. Giúp tôi trong việc này, không phải chỉ là căn phòng, mà còn có Con Nhím, cái kho chứa quan tài trong sân và xừ Münzer - đó là chưa kể Xơ Dorothea. Quý vị có biết tích Parsifal không? Tôi cũng không thuộc lắm. Tôi chỉ nhớ nhất câu chuyện về ba giọt máu trên tuyết. Chuyện này chắc có thật vì nó giống chuyện tôi như đúc. Mà có lẽ đó là chuyện của bất kỳ ai có một ý tuồng. Tôi vẫn còn là một tên đầy tớ của nghệ thuật. Tôi để cho người ta vẽ tôi xahh lơ, xanh ve và theo các sắc độ của đất; tôi để người ta ký họa tôi bằng chì than và đặt trước nhiều bối cảnh; cùng với Ulla, tôi đem lại cảm hứng cho Trường Mỹ thuật trong suốt học kỳ đông cũng như học kỳ hè tiếp theo, nhưng tuyết đã rơi để nhận ba giọt máu và vừa nhìn thấy ba giọt máu ấy, Oskar liền biến thành đá như anh chàng điên Parsifal mà Oskar biết rất lơ mơ nên chẳng cần phải cố gắng lắm cũng có thể đồng nhất được với anh ta. Hình ảnh tôi phác ra tuy vụng về nhưng, theo tôi nghĩ, khá rõ ràng. Này nhé: tuyết là bộ đồng phục nữ y tá; chữ thập đỏ mà phần lớn các nữ y tá đều mang ở giữa cái kẹp hoa cài cổ áo, đối với tôi, là ba giọt máu. Tôi ngồi đó, hút hồn, mắt nhìn trân trân. Nhưng trước khi tôi có thể ngồi trong căn phòng trước kia là buồng tắm của căn hộ Zeidler, tôi phải săn tìm phòng để thuê đã. Học kỳ đông sắp hết; một số sinh viên không định quay trở lại sau đợt nghỉ lễ Phục sinh, sẽ giả phòng trọ. Người cộng sự của tôi, Nàng Thơ Ulla, đã giúp tôi đắc lực. Nàng đưa tôi đến văn phòng quản lý nhà ở cho sinh viên, tại đó, người ta cho tôi một số địa chỉ kèm theoo một giấy giới thiệu của Trường Đại học Mỹ thuật. Trước khi đi xem các phòng cho thuê, tôi đến thăm ông thợ đẽo đá Korneff tại xưởng của ông ở Bittweg. Đã lâu tôi không gặp ông. Tôi đến vì quý mến ông, nhưng cũng để kiếm chút việc làm trong đợt nghỉ nữa. Tôi có một số giờ ngồi mẫu tư - một mình hoặc cùng với Ulla - nhưng chừng nấy khó mà đủ để nuôi tôi trong thời gian sáu tuần, với lại, tôi còn phải kiếm thêm để trả tiền thuê phòng nữa. Tôi thấy Korneff vẫn như xưa, chả thay đổi gì - một cái nhọt chưa chín và hai cái sắp khỏi, ông đang cúi trên một khối đá gra-nít Bỉ mà ông đã đẽo thô và giờ đang bắt vào mài nhẵn. Chúng tôi nói chuyện một lúc; tôi bắt đầu mân mê mấy cái đục khắc chữ ra cách gợi ý và nhìn quanh xem có tấm đá nào đã được cắt gọt và mài nhẵn chờ được khắc chữ. Có hai tấm, một bằng đá vôi điệp, một bằng cẩm thạch Silesia, có vẻ như đã được bán và đang chờ một chuyên gia khắc chữ. Tôi chúc mừng Korneff đã vượt qua được thời kỳ khó khăn sau cải cách tiền tệ. Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ đó, chúng tôi cũng đã tìm được an ủi trong ý nghĩ Tà: một cuộc cải cách tiền tệ, dù có mạnh mẽ, thiết yếu và lạc quan đến đâu chăng nữa, cũng không thể ngăn người ta chết và đặt bia mộ. Tiên đoán của chúng tôi đã ứng nghiệm. Thiên hạ tiếp tục chết và tiếp tục đặt bia. Ngoài ra, cuộc cải cách tiền tệ còn mang đến những "com-măng" trước đây chưa từng có: nhiều chủ hàng thịt đặt lát mặt trước và đôi khi cả bên trong cửa hàng bằng cẩm thạch trang trí; một số ngân hàng và cửa hàng bảch hóa tổng hợp, để lấy lại uy tín, buộc phải sửa sang và trang tri lại những mặt tiền bằng đá cát kết và tufa bị hư hại trong chiến tranh. Tôi khen Korneff cần mẫn xoay sở và hỏi ông có thể một mình đảm đương tất cả công việc không. Mới đầu, ông trả lời qua quít, sau rồi ông thừa nhận rằng đôi lúc ông cũng ước có bốn tay thợ và cuối cùng, ông đề nghị tôi đến làm việc với ông nửa thời gian, giá cả như sau: khắc chỉm trên đá vôi, bốn lăm pfennig/chữ cái, trên gra-nít và đi-o-rít, năm lăm pfennig/chữ cái, còn khắc nổi thì có thể từ sáu mươi đến bảy lăm. Tôi mần luôn một tấm đá vôi điệp. Nhanh chóng lấy lại được ngón nghề, tôi khắc: Aloys KLifer, 3 tháng 9 năm 1887 -16 tháng 6 năm 1946. Tôi đã khắc xong ba mươi chín chữ cái và con số trong đúng ba giờ và được trả mười bảy mark năm lăm pfennig. Chừng nấy là hơn một phần ba số tiền thuê phòng hằng tháng mà tôi ước tính mình có thể kham nổi. Tôi quyết định chi vào khoản này không quá bốn mươi mark vì Oskar vẫn cảm thấy có bổn phận phải đóng góp vào ngân sách gia đình ở Bilk. Văn phòng quản lý nhà ở đã có nhã ý cho tôi bốn địa chỉ. Lựa chọn đầu tiên của tôi là Zeidler, số 7 phố Jiilicher-strasse vì chỗ đó gần Trường. Đầu tháng năm, vào một ngày ấm áp lãng đãng sương mù, điển hình của vùng hạ Rhine, tôi xuất hành với kha khá tiền mặt trong túi. Maria đã là bộ com-lê nên nom tôi cũng bảnh. Mặt tiền trát vữa xtuých-cô long lở, trước cửa là một cây hạt dẻ bụi bám đầy. Vì phố Julicher-strasse đã đổ nát đến một nửa, nên khỏi phải nói đến nhà bên cạnh hoặc đối diện, ở bên trái là một đống gạch vụn um tùm cỏ và bồ công anh, đây đó lòi ra những dầm sắt hình chữ T, khiến ta có thể đoán ở đây đã từng có một ngôi nhà bốn tầng. Bên phải, một ngôi nhà bị phá huỷ một phần nay đã được sửa đến tầng ba, nhưng vẻ như vốn xây dựng đã cạn; mặt tiền bằng gra-nít đen Thuỵ Điển mài bóng bị nứt rạn nhiều chỗ, cần chữa khẩn cấp. Dòng tên "Schornemann, Hãng Mai Táng" thiếu nhiều chữ cái, tôi không nhớ là những chữ gì. Cũng may, hai cành cọ khắc trên mặt đá gra-nít nhẵn như gương vẫn còn nguyên vẹn, góp phần giữ cho cửa hàng một vẻ tôn nghiêm khả kính nào đó. ... Mời các bạn đón đọc Cái Trống Thiếc của tác giả Gunter Grass.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đứa Con Muộn
Anatoly Georgyevich Alexin (tên thật là Goberman) sinh năm 1924 tại Moskva. Ông làm thơ đăng báo từ thuở bé, trải qua những năm Chiến tranh Vệ quốc chống phát xít trên công trường xây dựng ở ngoại ô thành phố Moskva và làm biên tập báo địa phương ở Ural, tốt nghiệp ngành Ấn Độ học tại Viện Đông phương học Moskva vào năm 1950. Năm 1950 cũng là năm Alexin cho ra mắt tập truyện đầu tay Ba mươi mốt ngày. Tập truyện được đón nhận tích cực và những tác phẩm tiếp sau đó, như Sasha và Shura(1956), Những cuộc phiêu lưu lạ thường của Seva Kotlov (1958), Tầng bảy đang phát thanh (1959), Kolia viết cho Olia, Olia viết cho Kolia (1965), Anh trai tôi chơi kèn clarinet (1968), Đứa con muộn (1976), Người thứ ba ở hàng thứ năm (1977), Evdokina dở hơi (1978), Những người phát tín hiệu và thổi kèn hiệu (1985)… đã đem lại cho ông danh hiệu “nhà văn của tuổi trẻ”. Alexin chủ yếu viết về lứa tuổi thiếu niên, về những cuộc đụng độ của họ với thế giới người lớn. Đó là những bức tranh cuộc sống thường nhật trong gia đình, trường học – những chốn thân quen gần gũi nơi các cô bé, cậu bé trải qua những thử thách đầu tiên của cuộc đời để lớn lên thành người. Đó cũng là những bức chân dung của thế hệ trẻ, cũng như của người Xô Viết nói chung các thập niên 1950 – 1980. Không ít sắc thái tươi sáng lãng mạn, lý tưởng, đồng thời có cả những gam màu tối dự báo về sự tha hóa đạo đức. Những câu chuyện giản dị, nhẹ nhàng, hài hước nhưng cũng đầy kịch tính, những miêu tả tinh tế về đời sống sinh hoạt cũng như tâm lý con người thời đại đã khiến tác phẩm của Alexin trở thành các bài học đạo lý sâu sắc không chỉ dành riêng cho trẻ em, mà cả cho người lớn. Alexin còn viết tiểu thuyết và kịch. Nhiều kịch bản phim được chính ông chuyển thể từ các truyện vừa và truyện ngắn của mình. Alexin nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có bốn lần được trao Giải thưởng Nhà nước của Liên Xô và của Liên bang Nga. Ông được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Giáo dục Liên Xô năm 1982. Năm 1993, ông rời Nga đến Israel định cư vì lý do sức khỏe, và từ năm 2011 sống ở Luxembourg cùng gia đình con gái. Tuy nhiên, nhà văn từng nói với báo chí: “Trái tim tôi nằm ở Moskva, tôi là nhà văn Nga…” Ngày 1 tháng 5 năm 2017, Alexin ra đi ở tuổi 93 và được đưa về quê hương chôn cất. Trái tim nhà văn Nga sẽ mãi mãi nằm lại ở Moskva đúng như di nguyện của ông.   Người dịch *** Anh trai tôi chơi kèn Clarinet Ngày 21 tháng Mười Hai Hầu như tất cả bọn con gái trong lớp tôi đều viết nhật ký. Bọn nó viết trong đó đủ thứ vớ vẩn. Chẳng hạn: “Vasia hôm nay hỏi mượn mình quyển vở Hình học. Hỏi một cách kín đáo và rất khẽ, để không ai nghe thấy. Để làm gì? Tại sao cậu ấy lại bí mật và hồi hộp như thế? Đã nửa đêm rồi, nhưng mình cứ nghĩ mãi về chuyện này và đến tận sáng vẫn không ngủ được”. Vasia chỉ đơn giản muốn chép bài tập về nhà môn Hình học mà thôi. Đúng là như thế, bởi cậu ta cũng đã chép của tôi. “Khẽ khàng, kín đáo!...” – Thử hỏi ai lại làm chuyện đó một cách ồn ào? “Hồi hộp!” – Làm sao mà thằng Vasia không hồi hộp được! Bọn con gái luôn thích gán cho những hành vi bình thường nhất của bọn con trai ý nghĩa đặc biệt nào đó. Tôi cũng là một cô bé, nhưng tôi hiểu là nhật ký phải được viết bởi những người xuất chúng. Không, tôi không nghĩ đó là tôi. Nhưng tôi có một người anh, anh ấy đang học năm thứ hai ở nhạc viện. Anh ấy sẽ trở thành một nhạc sĩ vĩ đại. Điều này là chắc chắn. Tôi không hoài nghi về việc đó! Và qua nhật ký của tôi, người ta sẽ biết anh ấy hồi thơ ấu như thế nào. Anh trai tôi chơi kèn clarinet. Tại sao lại không chơi vĩ cầm, hay dương cầm, như ông nội mong muốn. Ông nội mất khi tôi mới hai tuổi. Còn anh Leva lớn hơn tôi những năm tuổi, và ông nội đã bắt đầu dạy nhạc cho anh ấy. Từ nhiều năm tôi đã nghe nói, rằng ông nội tôi “chơi nhạc ở phoi-ơ[1]”. Tôi không biết “phoi-ơ” là gì, nhưng tôi thấy từ đó rất đẹp. “Phoi-ơ” – tôi phát âm rất rõ ràng. Nhưng khi lần đầu tiên vào rạp chiếu phim và nhìn thấy các nhạc công chơi đàn trong phoi-ơ, tôi thấy thương ông nội tội nghiệp của tôi lắm: Khán giả thì nói chuyện với nhau, nhai bánh kẹp, sột soạt giở báo, còn những nhạc công già trên sân khấu chơi một bản valse. Họ áp cằm vào đàn và nhắm mắt: Có thể là vì say mê, nhưng cũng có thể để không nhìn thấy các khán giả nhai bánh kẹp. Anh trai tôi sẽ không chơi nhạc ở phoi-ơ! Anh ấy sẽ biểu diễn trong những hội trường nhạc thính phòng sang trọng. Bây giờ anh ấy đang chuẩn bị cho cuộc thi của các nhạc công trình diễn kèn hơi. Tôi thấy tiếc là clarinet lại bị gọi là kèn hơi. Khi tôi nghĩ đến kèn hơi, không biết sao lại lập tức nhớ đến các đám tang và đội kèn đồng đi theo sau quan tài. Lẽ ra kèn clarinet phải được gọi bằng một cái tên khác... Nhưng biết làm sao được! Tôi học trung bình, nhưng điều này không có ý nghĩa gì cả. Tôi quyết định hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình không phải cho bản thân, mà là cho anh trai. Các em gái của vĩ nhân đều như thế. Họ thậm chí còn không lấy chồng. Và tôi cũng không lấy chồng. Không đời nào! Không bao giờ!... Đúng thế đấy. Leva cũng biết về điều này. Ban đầu anh ấy phản đối, nhưng sau đó đã đồng tình. Chúng tôi đã thỏa thuận, rằng khác với tôi, bản thân Leva thì phải có quyền cho cuộc sống riêng của mình, nhưng chỉ khi đã đạt được những thành tựu âm nhạc lớn. Bởi Leva sẽ phải thuộc về nghệ thuật một cách trọn vẹn. Anh ấy sẽ không có thời gian cho những công việc và mối quan tâm bình thường của con người. Mọi thứ đó sẽ do tôi đảm nhiệm. Thực ra tôi từ chối cuộc sống riêng của mình là vì anh trai! Và vì thế những điểm Ba[2] của tôi chẳng có nghĩa lý gì cả. Tiếc là bố và mẹ lại chẳng hiểu điều đó. – Con sắp đặt cũng không tồi. – Mẹ nói – Nghĩa là, Leva sẽ học, từ sáng đến tối chơi clarinet, tu dưỡng, chuẩn bị cho các kỳ thi, còn con sẽ dâng hiến cả cuộc đời mình cho anh con. Con thật toàn có ý nghĩ điên rồ! – Thế có nghĩa em gái của Chekhov cũng là điên rồ sao? – Tôi vặc lại. – Thôi… đủ rồi đấy! Mẹ ngán ngẩm khoát tay. Khi không nói gì được nữa, thì dễ hơn cả là khoát tay. Nói chung, bản thân tôi cũng có lỗi: Không nên quá cởi mở với cha mẹ mình – họ nhất định sẽ lợi dụng sự cởi mở đó để chống lại mình. Nhưng rồi khi nào người ta viết sách về Leva, những đoạn nhật ký của tôi sẽ được đưa vào trong đó. Cách đây không lâu tôi có đọc một cuốn sách viết về một nhà thơ vĩ đại. “Em gái nhà thơ” – dưới một bức ảnh có ghi như thế. Còn dưới ảnh của tôi người ta sẽ viết: “Em gái của nghệ sĩ kèn clarinet”. Hay thế này thì hơn: “Em gái của nhạc sĩ”. Đó sẽ là phần thưởng khiêm tốn dành cho tôi. Đấy, vì sao mà tôi viết nhật ký. – Bố chưa bao giờ nghe nói đến cái nghề như vậy: Nghề em gái của nghệ sĩ clarinet! – Có lần bố tôi nói với tôi. Chao, cả ông cũng không phải lúc nào cũng hiểu tôi. Thật không may là chẳng phải ai cũng biết clarinet là nhạc cụ quan trọng như thế nào. Chính nó khởi đầu cho bản giao hưởng số năm của Tchaikovsky. Chẳng lẽ nhiều người biết chuyện đó sao? “Nhân vật không nổi bật của dàn nhạc” – Leva nói như thế về clarinet. Anh ấy thậm chí còn mừng vui vì clarinet là nhạc cụ “không nổi bật”. Cả anh ấy nữa, có lẽ cũng muốn không nổi bật. Tính anh ấy thế. Nhưng tôi không để chuyện đó xảy ra! Mùa hè, cả nhà tôi vang lừng tiếng kèn clarinet. Nhưng nhiều người không biết những âm thanh đó phát ra từ cửa sổ nhà ai. Tôi giải thích rằng đó là anh trai tôi chơi kèn. Thậm chí khi trời lạnh tôi cũng mở toang cửa sổ để mọi người không quên tiếng kèn clarinet của anh Leva. Tôi kể cho tất cả hàng xóm rằng Leva đang chuẩn bị cho cuộc thi âm nhạc. Cứ mặc mọi người bảo tôi không khiêm tốn: Tôi sẵn sàng chịu mọi đau khổ vì anh trai mình! Nói chung, từ lâu tôi đã quyết định viết nhật ký. Nhưng tôi không muốn bắt đầu nó một cách đơn giản, mà phải bắt đầu từ một ngày trọng đại nào đó. Và ngày hôm đó đã đến! Hôm nay, trước khi hồi chuông đầu tiên đổ, anh học sinh lớp Mười Robert, có biệt danh là “Robert – nhà tổ chức” túm lấy tôi ở chỗ gửi áo khoác. Tác phong của anh ấy là thế, không chặn lại, không nắm lấy tay ai anh ấy đang cần gặp, mà là túm lấy. Túm lấy bất cứ chỗ nào lọt vào tay anh ấy: tay, vai, thậm chí là cổ. Bạn tưởng tượng được không? Anh ấy túm lấy tay áo tôi. – Em thu xếp mời anh em nhé? Cho buổi dạ hội của học sinh năm cuối! Robert chỉ nói được câu đầu là bình thường, theo cách của con người, còn sau đó anh ta chẳng còn thời gian để giãi bày. Anh bắt đầu nói liến thoắng, bỏ qua cả các động từ, cứ như đang đọc điện tín vậy. – Dạ hội mừng năm mới! Phần một – thơ và nhạc cổ điển. Phần hai – Jazz và khiêu vũ. Ta không có nhạc cổ điển. Mọi hy vọng trông vào anh trai của em. Tôi lập tức hình dung, rằng trong đời sẽ không có thêm một cơ hội tuyệt vời như thế để có thể vinh danh khắp trường. Tôi không thể đi báo cho mọi người rằng anh trai tôi học ở nhạc viện, nhưng bây giờ thì mọi người đều lập tức biết ngay! Tuy nhiên, tôi quyết định làm khó Robert một tí, để anh ta không nghĩ rằng có thể có được anh tôi một cách dễ dàng như thế. – Anh biết không? – Tôi bắt đầu – Anh em đang chuẩn bị cho cuộc thi dành cho các nhạc sĩ trình diễn… Tôi bỏ qua các từ “nhạc cụ bộ hơi”. – Dạ hội dành cho học sinh lớp cuối, chỉ cho lớp Mười thôi! – Robert nói – Em mới học lớp Bảy. Nhưng có hai vé cho em đây! Cho em và cho anh trai em. Em thu xếp được không? Bọn bạn gái của tôi sẽ thế nào khi chúng nó biết tôi được mời đến dự dạ hội của học sinh lớp cuối? Điều mà chúng nó chỉ có nằm mơ! Một giấc mơ hạnh phúc nhất!... Mời các bạn đón đọc Đứa Con Muộn của tác giả Anatoly Alexin.
Canh Bạc Hôn Nhân
Một thập kỷ trước, Hầu tước Bourne bị chính kẻ từng nâng đỡ mình chiếm đoạt hết gia sản, chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Thời gian sau, anh gây dựng lại cơ ngơi và trở thành đối tác của một sòngbạc nổi tiếng nhất London. Nhưng con người lạnh lùng đó vẫn nuôi ý định trả thù và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để lấy lại tài sản từng mất, kể cả việc kết hôn với quý cô Penelope Marbury - người có phần thừa kế gồm cả gia sản của anh. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đầy toan tính đó cuối cùng lại biến thành một cuộc hôn nhân của tình yêu thật sự, giúp Bourne tìm được người con gái luôn sẵn lòng đặt cược tất cả - kể cả trái tim cô - để bảo vệ tình yêu dành cho anh. *** Sarah MacLean sinh ngày 17 tháng 12 năm 1978 tại Rhode Island, nước Mỹ. Bà là một cây bút đầy tài hoa chuyên về tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, đồng thời cũng là một trong các tác giả của những cuốn sách ăn khách nhất do New York Times và Romantic Times bình chọn. Bà tốt Smith năm nghiệp 1978 và có chuyên tại bằng tiểu ngành thạc bang sĩ Lịch chuyên Rhode sử ngành Nhân loại học tại Đại học Harvard. Hiện tại bà đang sống tại New York cùng chồng, con gái và sở hữu một bộ sưu tập những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hết sức đồ sộ. Sarah có niềm đam mê với lịch sử và văn học lãng mạn từ khi còn rất nhỏ. Bà từng dành hầu hết thời gian trong suốt thời niên thiếu vùi mình trong các thư viện sách. Đó cũng chính là nơi đã khơi dậy trong bà nhiệt huyết với sự nghiệp viết lách, để sau đó trở thành một trong những tiểu thuyết gia lãng mạn nổi tiếng thế giới. Khi rảnh rỗi, bà thích du ngoạn khắp mọi miền đất nước, tìm hiểu về các nền văn hóa, giáo dục, và khám phá thế giới xung quanh dưới con mắt của một lữ khách đầy lạc quan, yêu đời. Các bài viết của bà thường xuyên xuất hiện trên chuyên mục của New York Times Book Review, Washington Post và Parents Magazine. MacLean tự nhận mình là người theo chủ nghĩa bình quyền, và đó cũng chính là phương châm xuyên suốt các tác phẩm của bà, đan xen với dòng chảy của những điều lãng mạn, ngọt ngào. Bà là một trong các tác giả ăn khách nhất do New York Times, USA Today và Romantic Times bình chọn. Cuốn tiểu thuyết đầu tay - 9 tuyệt chiêu tóm kẻ phóng đãng - ra đời ngay sau khi Sarah tốt nghiệp đại học đã giúp tên tuổi của bà trở nên quen thuộc với nhiều độc giả khi được dịch ra mười thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm này thuộc series Love By Numbers, cùng hai tác phẩm 10 bí quyết chinh phục trái tim và 11 tai tiếng hạ gục công tước đã được Bách Việt xuất bản vào năm 2013. Hãy thử cầm trên tay những tác phẩm của Sarah MacLean để cảm nhận được ma lực từ một cây viết đầy trí tuệ và tài hoa. Hãy bước vào thế giới muôn hình vạn trạng trong tiểu thuyết của bà để thấu hiểu những giá trị nhân văn sâu sắc qua từng trang sách...   Các tác phẩm đã và sẽ được BachvietBooks giới thiệu tới độc giả: - 9 Tuyệt Chiêu tóm kẻ Phóng Đãng - Sarah Maclean (2013) - 10 Bí quyết chinh phục trái tim - Sarah Maclean (2013) - 11 Tai Tiếng hạ gục Công tước - Sarah Maclean (2013) - Canh bạc hôn nhân (2014) - Chàng Có Thể Hủy Hoại Em Không? (2014) - Đam Mê và Thù Hận - Sarah MacLean (Quý II/2015) - Sự Trả Thù Của Quý Cô *** London Mùa đông, 1821 Lá tám rô đã hủy hoại cuộc đời anh. Nếu nó là con sáu, anh còn có thể cứu lấy mình. Hoặc giả như nó là con bảy, anh sẽ ra khỏi nơi đó với tài sản nhân ba. Nhưng nó lại là con tám. Hầu tước Bourne trẻ tuổi nhìn lá bài bay qua tấm vải len xanh lá và lướt đến chỗ kế bên lá bảy chuồn nằm lật ngửa trên bàn, như đang trêu tức anh. Mắt anh đã nhắm lại từ lúc nào, luồng không khí hết sức khó chịu ồ ạt thoát khỏi căn phòng. Hai mươi hai. Hơn một điểm so với hai mươi mốt mà anh đặt cược. Nhưng anh đã đặt cược mọi thứ. Những tiếng thở gấp trong phòng vang lên khi anh vẫn giữ nguyên chuyển động của lá bài bằng một đầu ngón tay - trong lúc những người ngoài cuộc đứng xem nỗi kinh hoàng với vẻ thích thú mãnh liệt hiện rõ trên mặt những kẻ vừa thoát chết trong gang tấc. Tiếng xì xào bắt đầu vang lên. “Ngài ấy cược hết à?” “Tất cả những thứ không nằm trong quyền thừa kế.” “Trẻ quá nên mới hành động thiếu khôn ngoan như vậy.” “Đủ chín chắn rồi chứ, không gì khiến một người đàn ông trưởng thành nhanh hơn việc này.” “Cậu ta thật sự mất toàn bộ mọi thứ sao?” “Mất hết.” Anh mở mắt ra, tập trung vào người đàn ông ngồi phía bên kia bàn, bắt gặp cái nhìn u tối, lạnh lẽo anh đã biết từ lâu. Tử tước Langford từng là một người bạn và hàng xóm của cha anh - Hầu tước Bourne đời trước. Ông ta được cha anh cẩn thận lựa chọn làm người giám hộ cho đứa con trai và người thừa tự duy nhất của mình. Sau cái chết của cha mẹ anh, Langford chính là người đã bảo vệ danh vị của Hầu tước Bourne, làm cho tài sản của anh tăng lên gấp mười lần, và bảo đảm cho nó phát triển thịnh vượng. Rồi chiếm lấy nó. Hàng xóm thì có thể. Bạn thì đừng hòng. Cảm giác bị phản bội chạy vụt qua chàng hầu tước trẻ. “Ông cố tình làm thế.” Lần đầu tiên trong hai mươi mốt năm, anh nghe thấy giọng mình có phần trẻ người non dạ. Và anh ghét điều đó. Đối thủ của anh cầm tờ giấy có chữ ký ở chính giữa bàn lên, mặt không chút cảm xúc. Bourne kìm nén thôi thúc muốn cau mày trước nét ký nguệch ngoạc một cách kiêu ngạo của mình ở bên kia trang giấy trắng - bằng chứng cho thấy anh đã mất tất cả. “Đó là lựa chọn của cậu. Cậu đã chọn đặt cược nhiều hơn khả năng thua cuộc của mình.” Anh đã bị lừa. Langford dồn ép anh hết lần này đến lần khác, thúc ép anh nhiều và nhiều hơn nữa, để anh thắng cho đến khi anh không thể hình dung được có lúc mình sẽ thua cuộc. Đó là một mánh khóe cũ rích, nhưng Bourne còn quá trẻ, nên không thể nhận ra. Quá hăm hở. Bourne ngước lên nhìn chằm chằm Langford, vẻ tức giận và bực bội làm anh nghẹn lời. “Và ông chọn cách đoạt lấy nó.” “Không có ta thì đừng mơ có gì để chiếm đoạt”, người đàn ông lớn tuổi nói. “Cha ơi”, Thomas Alles, con trai của tử tước và là bạn lâu năm nhất của Bourne bước tới, giọng run run, “Đừng làm thế”. Langford ung dung gấp tờ giấy có chữ ký lại và đứng lên khỏi bàn, phớt lờ con trai mình. Thay vào đó, ông ta phóng cái nhìn lạnh lùng về phía Bourne. “Cậu nên cảm ơn ta vì đã dạy cho cậu một bài học đáng giá khi ở độ tuổi còn trẻ như vậy. Thật không may là bây giờ cậu chẳng còn gì ngoài bộ quần áo trên người và một trang viên trống rỗng.” Tử tước liếc nhìn chồng tiền trên bàn - phần còn lại của số tiền thắng cuộc từ buổi chiều tối. “Thế này nhé, ta sẽ để lại cho cậu số tiền kia, được không? Một món quà từ biệt, nếu cậu muốn. Xét cho cùng, cha của cậu sẽ nói sao nếu ta bỏ đi mà không để lại gì cho cậu?” Bourne bật dậy khỏi ghế, đẩy nó lùi ra sau. “Ông không đủ tư cách để nói về cha tôi.” Langford nhướng một bên mày trước việc biểu lộ cảm xúc không kiềm chế ấy, và để sự im lặng bao trùm một lúc lâu. “Cậu biết đấy, ta tin rằng rốt cuộc thì mình sẽ lấy số tiền đó thôi. Và cả tư cách hội viên của cậu ở câu lạc bộ này. Đến lúc cậu phải rời đi rồi.” Má Bourne đỏ bừng khi thấm thía từng từ ngữ kia. Tư cách thành viên câu lạc bộ của anh. Đất đai, người hầu, ngựa, quần áo của anh, tất cả mọi thứ. Toàn bộ ngoại trừ một căn nhà, vài mẫu đất, và một tước hiệu. Một tước hiệu giờ đây trở thành nỗi nhục nhã. Tử tước nhếch mép cười nhạo báng và búng một đồng ghi-nê qua không trung về phía Bourne. Theo bản năng, anh vươn tay ra bắt lấy đồng tiền vàng khi nó lóe lên trong ánh đèn sáng rực của căn phòng đánh bài ở White. “Hãy chi tiêu một cách khôn ngoan nhé chàng trai. Nó là thứ cuối cùng cậu có được từ ta.” “Cha à”, Tommy thử lần nữa. Langford chĩa mũi dùi sang cậu. “Không nói thêm một lời nào nữa. Ta sẽ không để ngươi cầu xin cho nó.” Người bạn lâu năm nhất của Bourne nhìn anh buồn bã, giơ bàn tay ra dấu lực bất tòng tâm. Tommy cần cha của mình. Cần tiền của ông ta. Sự chu cấp của ông ta. Bourne đã không còn những thứ đó cho riêng mình. Lòng căm thù bùng lên mãnh liệt và dữ dội trong giây phút ngắn ngủi, trước khi nó biến mất và bị dập tắt bởi vẻ kiên quyết lạnh lùng. Bourne bỏ đồng tiền vào túi rồi quay lưng lại với giới quý tộc của anh, câu lạc bộ của anh, thế giới của anh, và cuộc sống mà anh đã luôn quen thuộc. Thề sẽ báo thù. Mời các bạn đón đọc Canh Bạc Hôn Nhân của tác giả Sarah MacLean.
Trân Châu Cảng
*“Trân Châu cảng” - ngày 07/12/1941 - một sự kiện kinh hoàng cho nước Mỹ và cả thế giới khi không quân Nhật bất ngờ tấn công vào Trân Châu cảng. Điều này đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ “ngây thơ vô tội”…và là sự khởi đầu đầy vinh quang của nước Mỹ. *Với bút pháp thần kỳ, mang đậm nét nhân văn, Randall Wallace sẽ mang đến cho độc giả sự đồng cảm sâu sắc về nỗi đau, nỗi mất mát lớn lao về tinh thần lẫn thể xác mà chiến tranh để lại cho nhân loại. *“Trân Châu cảng” - một câu chuyện bất ngờ gây chấn động, một thất bại thảm hại, một chiến thắng anh dũng và vượt trên tất cả là sự gắn kết một chuyện tình tuyệt đẹp! *** Trận Trân Châu cảng là một chiến thắng thể hiện rõ tinh thần và khả năng của quân nhân Nhật Bản, đặc biệt là hải quân và không quân. Ngoài ra nó cũng cho thấy kỹ nghệ phục vụ chiến tranh của Nhật Bản rất phát triển, thể hiện rõ qua số lượng tàu sân bay cao hơn cả của Mỹ và Anh cộng lại vào thời điểm đó. Tuy nhiên, tham vọng quá lớn của giới quân phiệt đã đẩy Nhật Bản đến thất bại cay đắng và như giới chuyên môn đã nhận định, việc lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến là sai lầm chiến lược dẫn đến thất bại của phe trục trong Thế chiến 2. Cuốn sách tổng hợp rất nhiều thông tin chi tiết, bố cục hợp lý, là một tài liệu tham khảo tốt. *** Mùi thơm ngọt ngào của mảnh gỗ thông bay đến mũi Danny Walker. Rafe McCawley đã khoan hai lỗ nhỏ bằng đầu đinh rồi luồn sợ dây thừng qua. Sau đó, hai thằng bé cột chặt sợ dây ngang thắt lưng trông cho giống dây an toàn thường thấy trên máy bay. Hai đứa đang ngồi trong một thùng bia cũ bằng gỗ. Miệng thùng chẳng to hơn cái thố đựng nước là mấy, tuy nhiên cũng đủ rộng cho hai thân hình mỏng dính gầy gò. Rafe và Danny mới 10 tuổi đầu. Chúng ở trên mảnh đất vốn là một thái ấp cũ. Lúc này, nước Mỹ đang trong cơn đại khủng hoảng của những năm 1930. Nhưng hai thằng bé này sang lắm! Có máy bay riêng! Một chiếc máy bay có hai tầng cánh, thuộc loại nhỏ dùng để rải phân bón ngoài ruộng - một phương tiện lao động thường thấy ở khắp miền Nam nước Mỹ. Cha của Rafe mang chiếc máy bay cũ kỹ ấy về nhà. Thân máy bay bị bể. Máy móc hư nát, không thể dùng được. Ông tháo tung cỗ máy cồng kềnh ấy ra để lấy những phần phụ tùng còn tận dụng được. Lúc này, cánh máy bay là những mảnh gỗ, giẻ rách và đống dây kẽm gai rỉ sét. Quạt gió là cái cánh quạt gẫy nát ai đó vất sau góc vườn nhà. Rafe lượm về lắp cho máy bay của mình. Còn kính chắn gió của máy bay được làm bằng tổ chim sẻ. Khi còn nguyên vẹn, máy bay này đã từng lướt nhẹ trên bầu trời Tennessee. Bây giờ trong tâm trí của hai thằng bé sống nơi thôn dã, chiếc máy bay này là thứ tàu lượn bay nhanh nhất và xa nhất thế giới. Rafe hét lên: - Quân địch đang tới từ phía cánh trái kìa! Nó giả vờ nghiêng ngửa, ngả vai vào người Danny. Tuy tay thằng Rafe gầy gò, chỉ có da bọc xương, nhưng thân hình khá cao ráo. Đặc biệt, nó có cặp mắt nhanh nhẹn của một phi công. Mặc dù mới bước sang tuổi 11 nhưng Danny cũng nhận ra Rafe có tố chất thiên bẩm qua ánh mắt của bạn mình. Không hề có sự sợ hãi, tức giận. Chỉ là ánh mắt rất tinh tường và quả quyết. - Tớ thấy chúng rồi! - Danny trả lời. Trong khi ấy, thằng Rafe đá lưỡi kêu rừ rừ tạo Rafe âm thanh gầm rú của những chiếc máy bay tưởng tượng. Vừa la lối, và vừa cầm chiếc chổi cũ lượn tới lượn lui như thể nó đang lướt đi trong không trung vậy. - Danny! Hạ chúng ngay! - Được rồi! Rafe.. pằng pằng.. Thằng Danny mím môi phát ra âm thanh giả tiếng súng máy đang nã đạn. Danny thích cái cách Rafe gọi tên nó. Nghe âu yếm như hai người anh em ruột gọi nhau vậy. Rafe là người duy nhất trên đời này gọi nó là Danny. Trước đây, mẹ nó cũng gọi nó là Danniel. Nhưng bà đã chết khi Danny mới lên 4 tuổi. Cái từ đẹp đẽ nhất mà cha nó thường gọi nó chỉ đơn giản là nhóc tỳ mà thôi.   Mời các bạn đón đọc Trân Châu Cảng của tác giả Randall Wallace.
Sự Trả Thù Của Quý Cô
Georgiana là người phụ nữ quyền lực nhất Anh Quốc - Nữ hoàng của thế giới ngầm London mà không ai có thể chống lại. Duncan West là người duy nhất đủ thông minh để khám phá sự thật, để phá huỷ tất cả những gì cô đã gây dựng, bao gồm cả trái tim thép mà cô tôi luyện. Cô mang trong mình thân phận bí ẩn, anh sống với thân thế tội lỗi của bản thân. Hai người – vô số bí mật, đều ra sức che đậy, giấu giếm sự thật và tình cảm của chính mình, liệu sẽ ra sao khi tất cả được phơi bày? *** Tác giả: Sarah MacLean sinh ngày 17 tháng 12 năm 1978 tại Rhode Island, nước Mỹ. Bà là một cây bút đầy tài hoa chuyên về tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, đồng thời cũng là một trong các tác giả của những cuốn sách ăn khách nhất do New York Times và Romantic Times bình chọn. Bà tốt Smith năm nghiệp 1978 và có chuyên tại bằng tiểu ngành thạc bang sĩ Lịch chuyên Rhode sử ngành Nhân loại học tại Đại học Harvard. Hiện tại bà đang sống tại New York cùng chồng, con gái và sở hữu một bộ sưu tập những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hết sức đồ sộ. Sarah có niềm đam mê với lịch sử và văn học lãng mạn từ khi còn rất nhỏ. Bà từng dành hầu hết thời gian trong suốt thời niên thiếu vùi mình trong các thư viện sách. Đó cũng chính là nơi đã khơi dậy trong bà nhiệt huyết với sự nghiệp viết lách, để sau đó trở thành một trong những tiểu thuyết gia lãng mạn nổi tiếng thế giới. Khi rảnh rỗi, bà thích du ngoạn khắp mọi miền đất nước, tìm hiểu về các nền văn hóa, giáo dục, và khám phá thế giới xung quanh dưới con mắt của một lữ khách đầy lạc quan, yêu đời. Các bài viết của bà thường xuyên xuất hiện trên chuyên mục của New York Times Book Review, Washington Post và Parents Magazine. MacLean tự nhận mình là người theo chủ nghĩa bình quyền, và đó cũng chính là phương châm xuyên suốt các tác phẩm của bà, đan xen với dòng chảy của những điều lãng mạn, ngọt ngào. Bà là một trong các tác giả ăn khách nhất do New York Times, USA Today và Romantic Times bình chọn. Cuốn tiểu thuyết đầu tay - 9 tuyệt chiêu tóm kẻ phóng đãng - ra đời ngay sau khi Sarah tốt nghiệp đại học đã giúp tên tuổi của bà trở nên quen thuộc với nhiều độc giả khi được dịch ra mười thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm này thuộc series Love By Numbers, cùng hai tác phẩm 10 bí quyết chinh phục trái tim và 11 tai tiếng hạ gục công tước đã được Bách Việt xuất bản vào năm 2013. Hãy thử cầm trên tay những tác phẩm của Sarah MacLean để cảm nhận được ma lực từ một cây viết đầy trí tuệ và tài hoa. Hãy bước vào thế giới muôn hình vạn trạng trong tiểu thuyết của bà để thấu hiểu những giá trị nhân văn sâu sắc qua từng trang sách...   Các tác phẩm đã và sẽ được BachvietBooks giới thiệu tới độc giả: - 9 Tuyệt Chiêu tóm kẻ Phóng Đãng - Sarah Maclean (2013) - 10 Bí quyết chinh phục trái tim - Sarah Maclean (2013) - 11 Tai Tiếng hạ gục Công tước - Sarah Maclean (2013) - Canh bạc hôn nhân (2014) - Chàng Có Thể Hủy Hoại Em Không? (2014) - Đam Mê và Thù Hận - Sarah MacLean (Quý II/2015) - Sự Trả Thù Của Quý Cô ***   Tháng ba, 1823 Lâu đài Leighton Basildon, Essex “Em yêu anh.” Ba từ nhỏ bé, lạ lẫm đó chứa đựng vô vàn quyền lực. Một tiểu thư như Georgiana Pearson – có cha và anh trai đều là công tước, là hiện thân của danh dự và tôn kính, của sự cao quý và tinh khôi, một con người hết sức danh giá của giới thượng lưu – lại chưa từng nghe về điều đó. Giới quý tộc không yêu đương. Và dù có đi chăng nữa thì chắc chắn họ cũng chẳng bao giờ có một hành động thấp hèn như thừa nhận điều đó. Nên thẳng thắn mà nói, cô cũng khá sốc khi thấy nó thoát ra khỏi môi mình một cách nhẹ nhàng, thoải mái và “thật” đến thế. Nhưng suốt mười sáu năm cuộc đời, Georgiana chưa bao giờ tin tưởng điều gì nhiều đến thế, cũng chưa bao giờ giải phóng mình khỏi những kỳ vọng luôn gắn liền với tên tuổi, lịch sử và dòng họ của mình nhanh đến thế. Thực tế thì, cô đang nắm chặt cảm giác phấn khích đã mong đợi từ lâu ấy, cùng với rủi ro và cơ hội đi kèm với nó. Được sống. Được là chính mình. Rủi ro là cái khỉ gì, đây là tình yêu. Và nó đã giải phóng cô. Chắc chắn rằng trên đời này sẽ chẳng có giây phút nào đẹp như lúc này – trong vòng tay của người đàn ông mà cô yêu, người mà cô sẽ gắn bó cả đời. Và hơn cả thế. Người sẽ cùng cô xây dựng tương lai, người sẽ gánh vác tên tuổi, gia đình và danh dự của cô. Jonathan sẽ bảo vệ cô. Anh đã nói vậy lúc ôm cô, che đi cơn gió lạnh tháng Ba và đưa cô vào đây, chuồng ngựa ở điền trang của gia đình cô. Jonathan cũng yêu cô. Anh đã thì thầm những lời đó khi tay anh cởi khóa, nhấc váy, kéo tất và hứa hẹn sẽ đem cả thế giới cho cô với những động tác vuốt ve âu yếm. Và cô cũng thì thầm đáp lại. Trao cho anh tất cả mọi thứ. Jonathan. Tiếng thì thầm sung sướng của cô vọng khắp các xà gỗ và cô nép mình vào gần anh hơn, được bao bọc trong cơ bắp săn chắc, rơm rạ và được đắp một chiếc khăn choàng cho ngựa ấm áp đáng nhẽ phải khiến cô thấy ngứa ngáy khó chịu, vậy nhưng không hiểu sao lại rất mềm mại, hẳn là do những cảm xúc dịu dàng mà nó vừa được chứng kiến. Tình yêu. Thứ chỉ có trong các áng thơ, điệu nhạc, truyện cổ tích và tiểu thuyết. Tình yêu. Cảm xúc khó hiểu khiến đàn ông vừa khóc, vừa hát, vừa đau đớn vì dục vọng và đam mê. Tình yêu. Cảm xúc thay đổi cả cuộc đời, khiến mọi thứ trở nên rực rỡ, ấm áp và tuyệt vời hơn. Thứ cảm xúc mà cả thế giới tuyệt vọng muốn khám phá. Và cô đã tìm ra nó. Ở nơi đây. Trong mùa đông lạnh căm căm này, trong vòng tay của chàng trai tuyệt vời này. Không. Một người đàn ông. Anh là một người đàn ông, cũng như cô là một người phụ nữ, được tạo ra để dành cho ngày hôm nay, nằm trong vòng tay anh, ép chặt vào cơ thể anh. Một chú ngựa trong chuồng ngựa phía dưới khẽ hí lên, đập móng vào sàn nhà, đòi đồ ăn, nước uống, hoặc đòi được quan tâm. Jonathan cử động cơ thể và cô rúc vào anh, kéo chặt cái chăn quanh người họ. “Chưa được.” “Anh phải đi đây. Người ta gọi anh rồi.” “Em đang gọi anh đây,” cô nói, phô bày vẻ tán tỉnh duyên dáng nhất của mình. Tay anh ấm áp và thô ráp đặt lên bờ vai trần mịn màng của cô, gợi nên cảm giác rùng mình sung sướng trong toàn bộ cơ thể cô. Chẳng mấy khi có người chạm vào cô – con gái của một công tước, em gái của một công tước. Trong trắng. Tinh khôi. Không được phép chạm vào. Cho tới lúc này. Cô cười toét miệng. Mẹ cô chắc sẽ lên cơn khi biết con gái bà chẳng cần mà cũng chẳng có ý định ra mắt giới thượng lưu. Và anh trai của cô – Công tước Disdain – một quý tộc quyền lực, khó tính nhất Luân Đôn này… anh cũng sẽ không tán thành đâu. Nhưng Georgiana chẳng quan tâm. Cô rồi sẽ trở thành bà Jonathan Tavish. Cô thậm chí cũng không định giữ cái danh hiệu “Tiểu thư” mà cô đang mang. Cô không muốn nó. Cô chỉ muốn mình anh thôi. Cho dù anh trai cô có cố gắng làm tất cả để ngăn cản chuyện tình này cũng chẳng sao. Giờ thì chẳng ai ngăn cản được nữa rồi. Con ngựa lúc nãy đã rời khỏi chuồng. Nhưng Georgiana vẫn nằm trên đống cỏ khô. Cô cười rúc rích trước ý nghĩ ấy, thấy phấn khởi trước tình yêu và mối đe dọa – hai mặt của một phần thưởng hết sức giá trị. Anh đang chuyển động người bên dưới người cô, thoát khỏi tổ kén ấm áp được tạo nên bởi cơ thể họ, khiến gió lạnh luồn vào, làm da cô sởn gai ốc. “Em nên mặc đồ vào đi,” anh nói, kéo quần lên. “Nếu có người tóm được chúng ta...” Anh không cần nói hết câu, anh vẫn nói ra câu này suốt mấy tuần vừa rồi, kể từ lần đầu tiên họ hôn nhau cho đến suốt những khoảnh khắc vụng trộm sau đó. Nếu có người tóm được họ thì anh sẽ bị quất bằng roi, hoặc còn tệ hơn. Và cô sẽ bị hủy hoại. Nhưng lúc này đây, sau ngày hôm nay, sau khi nằm trần truồng trong vựa cỏ mùa đông khô khốc này, để anh khám phá, ve vuốt và chiếm giữ bằng đôi bàn tay suốt ngày chỉ biết đẽo, đục... cô cũng đã bị hủy hoại rồi. Cô không quan tâm. Điều đó không quan trọng. Sau chuyện này, họ sẽ bỏ chạy – phải thế thôi nếu muốn kết hôn. Họ sẽ chạy tới Scotland. Họ sẽ khởi đầu một cuộc đời mới. Cô có tiền. Dù cho anh chẳng có gì hết. Họ có tình yêu, vậy là đủ. Đám quý tộc chẳng có gì đáng để ghen tị hết. Họ đáng bị thương hại mới đúng. Không có tình yêu thì sống làm gì? Cô thở dài, quan sát Jonathan hồi lâu, mê mẩn nhìn anh mặc áo, nhét áo vào trong quần, xỏ chân vào bốt như thể đã làm việc đó cả nghìn lần trong không gian lụp xụp này. Anh quấn cà vạt lên cổ và khoác áo mỏng, rồi áo dày, mọi chuyển động đều gọn gàng nhanh nhẹn. Khi xong việc, anh đi ra chỗ chiếc thang dẫn xuống chuồng ngựa, tay chân thon dài và cơ bắp. Cô quấn chặt chăn vào người, cảm thấy lạnh lẽo sau khi anh rời khỏi. “Jonathan,” cô nhỏ giọng gọi, không muốn bị người khác nghe thấy. Anh nhìn cô và cô thấy trong ánh mắt xanh dương của anh chứa đựng một điều gì đó – một điều mà cô không thể nhận diện ngay được. “Gì vậy?” Cô mỉm cười và đột nhiên thấy thật xấu hổ. Xem xét những gì họ vừa làm, những gì anh vừa nhìn thấy thì điều đó đúng là bất khả thi. “Em yêu anh,” cô lặp lại, bị mê hoặc bởi cái cách chúng thoát ra khỏi môi cô, nó bao bọc cô trong sự thật, cái đẹp và tất cả những gì tốt lành nhất. Anh do dự trên thang, ngả người ra sau một cách thoải mái như thể đang bay trên không trung. Anh không nói gì một lúc lâu – lâu đến mức cô cảm thấy cái giá lạnh của tháng Ba ngấm tận vào trong xương. Lâu đến mức cảm giác bất an lặng lẽ hình thành trong cô. Cuối cùng, anh nở nụ cười dạn dĩ quen thuộc, thứ đã thu hút cô từ đầu. Suốt một năm. Và thậm chí còn lâu hơn thế. Cho tới tận chiều nay, khi cuối cùng anh cũng dụ dỗ được cô nằm trên đống cỏ khô này, hôn cô đến khi cô không còn chút do dự, rồi anh thực hiện lời hứa đáng yêu của mình, chiếm lấy tất cả những gì cô có.   Mời các bạn đón đọc Sự Trả Thù Của Quý Cô của tác giả Sarah MacLean.