Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thám Tử Rời Sân Khấu - Agatha Christie

Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case hoặc Curtain) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được hãng Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh tháng 9 năm 1975. Đây là tiểu thuyết cuối cùng của Agatha Christie về nhân vật thám tử Hercule Poirot cũng như Arthur Hastings với bối cảnh là điền trang Styles, nơi từng diễn ra vụ án đầu tiên trong loạt truyện về Hercule Poirot. Tác phẩm này được Agatha Christie viết từ đầu thập niên 1940 trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai với ý định làm đoạn kết cho toàn bộ loạt truyện về Hercule Poirot, nữ nhà văn giữ nó trong nhà băng suốt hơn 30 năm rồi mới cho ấn hành chỉ một năm trước khi bà qua đời. *** Ghi chú của đại úy Arthur Hastings Bốn tháng sau cái chết của Hercule Poirot một văn phòng luật gia mời tôi đến gặp tại trụ sở. Tại đây, họ làm theo yêu cầu của khách hàng của họ, trao cho tôi một phong bì kín, bên trong có văn bản mà tôi chép lại sau đây: Văn bản của Hercule Poirot Bạn thân mến, khi anh đọc những dòng này, tôi đã mất được bốn tháng. Tôi chần chừ không muốn viết, nhưng sau lại thấy cần phải nói cho ai đó biết sự thật về những gì xảy ra ở Styles. Chắc rằng đến lúc đọc bài này, anh đã đặt ra đủ các loại giả thuyết một cách chật vật hòng đi đến kết quả. Song xin nói để anh biết rằng lẽ ra anh đã sớm tìm ra sự thật, vì tôi đã cố ý cung cấp những dấu hiệu để dẫn anh tới đó. Nếu anh chưa tìm ra được, ấy là tại vì bản chất anh quá tin người, trước sau anh vẫn vậy! Ít nhất anh cũng phải biết ai đã giết Norton chứ, dù là còn tù mù về cái chết của Barbara Franklin. Nhưng hãy nói từ đầu. Tôi mời anh đến Styles, nói là tôi cần anh. Đó là sự thực. Tôi bảo anh phải là tai, là mắt cho tôi. Đó cũng là sự thực, nhưng có lẽ không hẳn theo nghĩa mà anh hiểu. Anh phải nhìn thấy những gì tôi muốn anh nhìn, nghe thấy những gì tôi muốn anh nghe. Anh phàn nàn về chuyện tôi không nói thật hết với anh khi trình bày vụ việc. Đúng, tôi không chịu nói rõ lai lịch tên X. Nhưng tôi phải làm thế, mặc dù ở đây cũng vậy, lý do tôi viện ra với anh không phải là lý do thực. Lý do thực, rồi anh sẽ hiểu ngay bây giờ. Tôi đã chuyển cho anh bản tóm tắt năm vụ án khác nhau. Tôi đã nêu bật nhận xét rằng trong mỗi vụ án đó, người bị kết án hoặc bị nghi ngờ dường như không phải thủ phạm thực. Tôi lại nêu rõ một điều quan trọng nữa, trong mỗi vụ, X đã có mặt tại chỗ hoặc ở quanh quẩn đâu đó. Anh đã vội suy diễn ngay ra một điều, trớ trêu thay, vừa đúng vừa sai. Anh nghĩ X là người đã trực tiếp phạm các tội ác đó. Nhưng bạn ơi, hoàn cảnh xảy ra là trong mỗi vụ, duy nhất chỉ có người bị kết tội mới có cơ hội làm việc đó. Như vậy, sẽ giải thích sự có mặt của X như thế nào? Trừ phi là người có dính dáng đến cảnh sát hoặc là một nhóm người quyền chức sa đọa, rất khó cho một người nào lại dính liên tiếp đến năm vụ án khác nhau. Điều đó không thể xảy ra anh hiểu không? Không ai lại đến gặp anh mà nói: "Tôi trực tiếp quen biết năm kẻ giết người". Không, không thể có như vậy. Thực ra, chúng ta đứng trước một hiện tượng xúc tác kỳ cục. Phản ứng giữa hai chất chỉ xảy ra khi có mặt chất thứ ba, chất này có vẻ như không đóng vai trò gì và không hề bị biến đổi. Tình hình là như thế: khi X có mặt, là án mạng xảy ra, nhưng X không mó tay trực tiếp. Đây là một tình hình kỳ lạ, hoàn toàn bất bình thường. Và tôi hiểu ra là vào cuối đời, mình đã gặp một hung thủ tạm gọi là "hoàn hảo" hắn đã thực thi một kỹ thuật tinh vi làm cho hắn không bao giờ có thể bị vạch mặt. Kỹ thuật đó là đáng ngạc nhên, nhưng không mới. Đã có những trường hợp tương tự. Và đây là một chỉ dẫn đầu tiên tôi để lại cho anh. Vở kịch Othello. Trong kịch này, có một điển hình như hệt X. Đúng, Iago là tên giết người hoàn hảo. Cái chết của Desdémone, của Cassio rồi của cả Othello nữa, là những tội ác của Iago do hắn trù liệu. Vậy mà không ai chịu nghi ngờ hắn. Lẽ ra hắn còn được "tại ngoại" mãi, cho đến khi người đồng hương vĩ đại của anh - thi hào Shekaspeare - phải dùng đến một biện pháp thô thiển nhất, là đưa chiếc khăn tay ra mới lật mặt được hắn. Phải, án mạng được nâng lên thành nghệ thuật hoàn hảo. Không có một lời kích động trực tiếp nào. Iago còn khéo léo ngăn mọi người chớ dùng bạo lực và gieo mối nghi ngờ vào lòng người khác rồi lại làm bộ gân cổ bác bỏ! Cách làm ấy ta lại thấy trong màn ba tuyệt vời của vở John Fergueson, trong đó chàng ngố Clutie John kích động người khác giết người mà hắn không ưa. Kiểu gợi ý về tâm lý đó là một công trình tuyệt hảo. Anh Hastings, anh cần hiểu điều này: mỗi người chúng ta đều là một hung thủ tiềm ẩn. Trong mỗi chúng ta thỉnh thoảng lại nỗi lên sự muốn giết nhưng không nhất thiết kèm theo sự dám giết. Đã bao lần ta nghe thấy người này người kia nói: "Mụ ấy làm tôi tức lộn ruột, muốn giết mụ ngay lập tức!" - "Tôi sẽ giết nếu nó dám nói thế!" - "Tôi ấy à, tôi sẽ bẻ gẫy cổ hắn!" Nhưng lúc đó, ý của ta thật rõ ràng: muốn giết cho chết. Nhưng ta không làm việc ấy, vì lý trí ta không đồng tình với tình cảm. Ở trẻ nhỏ cái máy hãm lý trí ấy có khi không hiệu quả. Tôi biết một thằng bé bực mình với con mèo, thốt lên: "Nằm im, không tao đập cho một cái vào đầu chết tươi!". Nói rồi làm thật. Để sau đó mới hoảng hồn vì con mèo đẵ chết. Vì thật ra, thằng bé rất yêu con vật ấy. Tóm lại trong mỗi chúng ta đều có một tên hung thủ nằm ngủ. Và nghệ thuật của X không phải chỉ gợi lên ý muốn mà còn thủ tiêu sự kháng cự của lý trí. Nghệ thuật đó được rèn giũa trải qua thực tế lâu dài. Hắn biết dùng một từ chính xác, một câu nói thích hợp, giọng nói tính toán làm sao để gây áp lực liên tục lên một điểm yếu! Trong khi đó, nạn nhân không ngờ vực chút nào. Đây không phải là thôi miên; thôi miên chưa chắc đã ăn. Nó là một cái gì lắc léo hơn, đáng sợ hơn: sự tập hợp tất cả sức lực của một con người để mở rộng một khe hở chứ không bịt nó lại. Anh phải biết điều đó chứ, vì nó đã xảy ra với anh. Có thể anh đã bắt đầu hiểu ý nghĩ một số nhận xét của tôi mà anh cho là lạ. Khi tôi nói có một vụ án sắp xảy ra không phải lúc nào tôi cũng ám chỉ một vụ giống nhau. Tôi nói rằng tôi đến Styles nhằm một mục đích nhất định, vì ở đó sắp xảy ra án mạng. Và anh đã hết sức ngạc nhiên thấy tôi đoán chắc như thế. Nhưng sở dĩ tôi chắc như vậy, vì vụ án mạng đó sẽ do tôi tiến hành. Phải, kỳ lạ thật, anh nhỉ. Và kinh khủng nữa. Tôi là người phản đối tội ác, người luôn luôn tôn trọng cuộc sống con người, thế mà tôi lại kết thúc sự nghiệp của mình bằng gây ra án mạng! Hay bởi tôi quá đạo đức giả, quá ý thức về sự ngay thẳng của mình mà cuối cùng phải đứng trước sự lựa chọn sinh tử đó. Vì, anh Hastings ơi, bao giờ cũng có mặt phải, mặt trái. Nhiệm vụ của đời tôi là cứu người bị oan, ngăn ngừa tội phạm và tôi chỉ có thể làm được việc đó bằng một cách duy nhất. Vì - anh chớ quên điều này - X không thể bị pháp luật trừng trị. Hắn có chỗ trú an toàn. Tôi không nghĩ ra cách nào khác khác để đánh bại hắn, buộc hắn vĩnh viễn không thể tác oai tác quái. Song tôi vẫn do dự. Biết rõ cần làm gì, nhưng chưa dám quyết làm. Giống như Hamlet, tôi cứ trì hoãn mãi giờ phán xét cuối cùng. Thế là xảy ra một mưu toan khác, định làm hại bà Luttrell. Tôi nóng chờ xem anh, vốn thính nhạy với sự thật hiển nhiên, lần này có hiểu ra không. Và anh đã hiểu: phản ứng đầu tiên của anh là nghi cho Norton, dù rất mơ hồ. Anh đã đoán đúng: Norton chính là người chúng ta tìm. Không có bằng chứng gì để xác minh giả thuyết đó, trừ một nhận xét dụt dè của anh rằng hắn là con người vô vị. Song lúc đó chính là lúc anh đã tới gần sự thật. Tôi đã nghiên cứu kỹ lai lịch của hắn. Hắn là con của một bà mẹ độc đoán và áp chế, nên không lúc nào hắn có dịp tự khẳng định hoặc áp đặt tính cách của mình cho ai. Hắn bị tật nhẹ ở chân, nên ngay lúc đi học không tham gia tích cực được vào các trò chơi của bạn học. Một điều có ý nghĩ mà anh kể lại với tôi là hắn bị bạn bè chế nhạo vì buồn nôn khi nhìn con thỏ bị lột da. Tôi cho rằng chuyện ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng hắn. Hắn sợ máu và bạo lực, nên bị "kém thớ". Trong tiềm thức, hắn chờ dịp để tự khẳng định, báo thù lại bằng cách tỏ ra táo bạo, thậm chí tàn ác. Tôi hình dung hắn sớm nhận ra mình có khả năng gây ảnh hưởng tới người khác. Hắn biết bình tĩnh lắng nghe, gợi được cảm tình, mọi người không chú ý hắn lắm, song không ghét bỏ. Hắn nhận ra là nếu dùng những lời thích hợp và nhấn vào đúng chỗ, thì rất dễ gây ảnh hưởng tới người khác. Chỉ cần hiểu họ, nắm được ý nghĩ của họ,lường trước những phản ứng và những ý nghĩ âm ỉ của họ. Anh có thấy không, một sự khám phá như vậy làm cho hắn có cảm giác như thế nào về quyền lực của mình! Hắn là Stephen Norton, người vừa được yêu mến vừa bị coi thường, nay có khả năng thúc đẩy người khác làm những việc họ không muốn làm hoặc tưởng là không muốn làm. Tôi hình dung hắn bắt đầu đem cái sở trường đó ra thực hành, rồi lâu dần thành quen, thích thú với việc thông qua nguời khác để gây ra những hành vi bạo lực, những việc mà hắn không tự làm được vì thiếu sức mạnh thể chất. Và cái trò quỷ đó cứ lên mãi thành niềm đam mê, không làm không được. Như một thứ ma túy, nghiện rồi không thể bỏ. Norton con người vốn bản tính hiền lành, trở thành tên bạo sát dấu mặt. Giống như người nghiện, hắn phải có suất tiêm chích hằng ngày, luôn tìm hết nạn nhân này tới nạn nhân khác. Tôi tin là con nhiều vụ khác, ngoài năm vụ mà ta đã biết. Và trong mỗi vụ, hắn đều có vai trò giống nhau. Hắn quen biết Etherington; hắn đã ở suốt mùa hè ở cái làng Riggs ở,thỉnh thoảng uống rượu với anh này ở quán. Trong một chuyến du ngoạn, hắn làm quen với Freda Clay và làm như nói chuyện bâng quơ, đã gợi ý cho cô ta thấy nếu bà cô chết đi thì nhất cử lưỡng tiện: chẳng những bà già được giải thoát, mà cô sẽ được sống ung dung, thoải mái. Hắn cũng là bạn của Litchfield, và gợi cho Margaret thấy nếu giải thoát được cho các em gái, cô sẽ là người hùng. Tôi tin là, không ai trong số những người đó sẽ giết người, nếu không bị Norton tác động. Bây giờ ta trở lại những sự kiện ở Styles. Tôi đã theo dõi Norton một thời gian. Và khi hắn làm quen với Franklin, tôi thấy ngay mối nguy. Với Norton, vợ chồng Franklin mở ra những khả năng rất thú vị, có thể nói là đủ các loại khả năng. Bây giờ thì chắc anh đã hiểu điều mà bất cứ người nào đầu óc bình thường phải hiểu ngay, đó là Franklin và con gái anh yêu nhau. Cử chỉ bất thường của bác sĩ, cái cách ông ta không bao giờ nhìn thẳng vào Judith, bỏ qua mọi kiểu đối xử xã giao với Judith, tất cả những cái đó phải cho anh thấy là ông ta yêu con gái anh. Nhưng đó là một người có nghị lực và thẳng thắn. Có thể ăn nói hơi cục cằn, nhưng có những nguyên tắc nhất định. Theo ông, người chồng phải chung thủy với người vợ mình đã chọn. Về phía Judith nó mê tít ông bác sĩ. Tôi tưởng anh đã biết chuyện ấy rồi, và Judith cũng tưởng thế, cái hôm anh gặp nó trong vườn hồng. Do đó nó với cáu kỉnh. Tính cách như nó không chịu để ai thương hại, thậm chí thông cảm. Rồi Judith hiểu là anh tưởng nó yêu Allerton, và nó không cần đính chính, cứ để mặc cho khỏi gây lôi thôi. Nó chấp chới với Allerton như để tìm trong đó một niềm an ủi tuyệt vọng, mặc dù biết Allerton là loại người nào. Nó chỉ đùa cợt thế thôi, chứ không hàm ý tình cảm gì. Tất nhiên Norton hiểu tất cả, hắn dự kiến khai thác tình hình đó. Tôi cho là hắn đã tìm cách ảnh hưởng đến Franklin, nhưng thất bại. Bác sĩ là loại người duy nhất không chịu tác động gì từ phía Norton. Ông có trí óc cực kỳ tỉnh táo. Hơn nữa, niềm đam mê lớn nhất đời ông là công việc. Với Judith, Norton thành công hơn bằng cách khéo léo khích cái lý thuyết về những cuộc đời vô dụng. Judith thành thật tin vào thuyết này, và hắn tỏ ra cực kỳ gian manh, làm bộ chủ trương thuyết trái lại và nói khích Judith, cho là cô ta không đủ táo bạo để đưa lý thuyết vào thực hành. "Đó là loại lý thuyết ta hay có lúc trẻ, nhưng không bao giờ dám thực hiện". Cách nói ấy mang tính kích động thô thiển, ấy vậy mà có khi hiệu quả. Bọn trẻ ấy mà, chúng còn non nớt quá! Nếu bà Barbara vô dụng bị loại trừ, con đường với Franklin và Judith sẽ rộng mở. Điều ấy không được nói toạc ra, người ta còn bản rằng lý thuyết này không ám chỉ trường hợp cá nhân nào, vì nếu Judith biết là có ám chỉ, nó sẽ phản ứng quyết liệt. Nhưng với một môn đệ của tội ác như Norton thì một vụ là chưa đủ. Hắn đã tìm ra một chỗ nữa để thử tài, đó là vợ chồng Luttrell. Ta hãy quay trở lại trước nữa. Hastings, anh có nhớ ván bài anh tham gia tối hôm mới đến. Sau ván bài, Norton đã nói mấy câu rất to khiến anh lo là ông đại úy nghe thấy. Nhưng đó là hắn cố tình muốn vậy: Luttrell phải nghe thấy! Norton không bỏ lỡ cơ hội nào để bình phẩm tính cách bà Luttrell, cố tình nhấn mạnh một cách tự nhiên. Và cuối cùng ý đồ của hắn đã thành kết quả. Việc ấy xảy ra ngay trước mũi anh, mà anh không hay biết. Nền móng của sự việc đã được sắp đặt sẵn: sự áp bức quá đáng của bà vợ, sự xấu hổ, bực bõ của ông chồng... Anh hãy thử nhớ chính xác mà xem. Norton kêu khát. Hẳn là hắn biết bà Luttrell đang ở quanh đó và chắc chắn sẽ ra mặt. Ông đại tá đáp ứng ngay, tỏ rõ bản chất chủ nhà rộng rãi của mình. Ông xin đãi một chầu rượu và vào tìm chai. Các anh đều ngồi gần cửa sổ. Bà Luttrell bước vào phòng ăn, thế là xảy ra cuộc cãi vã, chì chiết. Luttrell biết là mọi người nghe thấy hết. Ông ta trở vào. Lẽ ra mọi người phải tìm cách xoa dịu sự việc. Hoặc Boyd Carrington, hoặc chính anh, Hastings có thể làm điều đó. Nhưng Norton đã cướp lời, và khéo léo đổ thêm dầu vào lửa. Hắn nói trở lại về ván bài - làm Luttrell cảm thấy mình bị lấn át - rồi nói chuyện tai nạn đi săn. Thế rồi, cái ông Boyd Carrington đần độn vô tình mắc bẫy, lao ngay vào kể chuyện tên cận vụ giết ông anh của mình. Câu chuyện đó, chính Norton đã để cho Boyd, hắn biết rằng Boyd sẽ kể lại như là của chính mình vào lúc nào có người khéo gợi. Thành ra gợi ý cuối cùng không phải do Norton nói ra! Vậy là mọi thứ đã được dọc sẵn. Và điểm bùng nổ đã tới. Bị sỉ nhục trước mặt mọi người, nghĩ rằng ai nấy đều cho mình là thiếu dũng khí chống lại, ông Luttrell nghĩ cách để thoát ra. Thì đấy - có ngay những chuyện tai nạn đi săn, chuyện anh lính giết anh ruột. Rồi bất thần đằng cuối vườn, sau lùm cây, thấp thoáng cái đầu của bà vợ... không sợ gì cả... coi như tai nạn... Ta phải tỏ cho họ biết ta là ai... cho bà ấy chết cho xong! Nhưng bà ấy không chết. Tôi cho là, lúc bóp cò, ông ta đã bắn trượt bởi trong thâm tâm, ông muốn bắn trượt. Lập tức ý tưởng phản ứng tan ra mây khói. Bởi vì dù thế nào, ông ta vẫn yêu vợ. Đó là một trong những vụ án mạng mà Norton đã dự liệu không thành. Nhưng còn âm mưu tiếp theo! Hastings biết không, lần này hắn nhằm vào anh đó! Hãy nhớ lại đi, ông bạn thật thà ạ. Norton đã thấy ra tất cả các điểm yếu của anh, và cả những tính tốt của anh là ngay thẳng và đạo đức. Allerton thuộc loại người mà anh căm ghét và e ngại một cách tự nhiên, như cólinh tính. Và những điều anh nghĩ về hắn, biết về hắn, đều đúng. Norton liền kể anh nghe một câu chuyện khác - chuyện này có thực, theo như tôi biết - về một con gái bị Allerton tình phụ. Chuyện đó ngay lập tức gây ấn tượng mạnh với anh. Allerton đúng là thằng tồi, thằng đểu chuyên quyến rũ, cưỡng bức con gái, dồn họ đến chỗ phải tự vẫn. Mặt khác, Allerton gợi ý Boyd Carrington nói chuyện với anh về Judith. Và anh cảm thấy cần nói chuyện nghiêm chỉnh với con gái. Và, như anh đã lường trước, nó cãi lại, nói rằng việc đời nó, nó lo. Anh càng cuống. Giờ anh hãy bình tĩnh xem xét Norton đã lợi dụng những gì ở anh: tình yêu con gái, ý thức trách nhiệm của người cha... anh tự nhủ: "Ta phải hành động ngay, kẻo hối không kịp". Anh lại nghĩ đến vợ, thấy không thể lẩn tránh trách nhiệm trông nom con cái mà người vợ yêu quý đã để lại. Còn có cả sự ghen tuông tự nhiên và vô lối của phần lớn các ông bố khi có kẻ địch cướp con gái mình. Thấy chưa, Norton đã nhấn vào những phím đàn nhạy cảm, đúng là một nhạc trưởng bậc thầy. Và anh cứ thế lao vào. Hastings, anh có tật cả tin vào bề ngoài của sự vật. Chẳng suy nghĩ gì, anh tin ngay là Allerton hẹn gặp Judith hôm sau ở London. Nhưng anh không nhìn thấy Judith, không nghe Judith nói. Vậy mà sáng sớm hôm sau, anh vẫn còn tin như thế, và tỏ ý mừng là Judith đã đổi ý. Song nếu anh chịu khó xem xét, anh sẽ thấy ngay là Judith không hề có ý định đi đâu hôm đó. Và anh cũng bỏ qua không thấy một sự việc nhỏ khác; có một người định đi hôm đó, nhưng không đi được, nên tỏ ra vô cùng bực dọc. Đó là cô Craven y tá. Đúng thế! Allerton không chỉ tán tình một phụ nữ. Quan hệ giữa hắn và cô Craven đã tiến triển khá xa, xa hơn nhiều so với việc hắn lơ mơ tí chút với Judith. Và người hắn hẹn gặp ở London chính là cô ta! Một mẹo nữa của Norton. Anh trông thấy Allerton hôn Judith, Norton liền thúc anh đi vòng quanh góc nhà, vì hắn biết Allerton hẹn hò cô Craven gần nhà kính. Sau khi làm bộ níu anh lại, Norton để anh đi. Nhưng hắn đi theo anh. Hắn hiểu câu nói mà anh vừa nghe được từ miệng Allerton góp thêm thuận lợi vào kế hoạch của hắn. Cho nên hắn vội kéo anh đi nhanh để anh không kịp nhận ra rằng người phụ nữ ở đó không phải là Judith. Đúng là mưu mẹo bậc thầy! Phản ứng của anh là tức thời: anh quyết giết Allerton. May thay, anh có một người bạn trí óc còn minh mẫn. Và không chỉ trí óc mà thôi, như anh sắp thấy đây. Ngay ở đầu bản viết này, tôi đã nói anh không tìm ra sự thật, vì tính anh dễ tin quá. Ai nói gì, anh tin ngay. Tôi, tôi nói gì, là anh tin. Song tìm ra sự thật, đâu có khó với anh. Tôi đã đuổi George đi. Tại sao? Thay bằng một anh hầu ít từng trải hơn, và rõ ràng kém thông minh hơn. Tại sao? Tôi vốn là người rất chăm lo súc khỏe, tôi không để bác sĩ nào theo dõi, và từ chối không chịu để bác sĩ nào khám như anh khẩn khoản yêu cầu. Tại sao? Bây giờ thì anh hiểu tại sao tôi cần anh đến Styles chứ? Tôi cần có một người tin như đinh đóng cột tất cả những gì tôi nói. Tôi nói đi dưỡng bệnh ở Ai Cập về, sức khỏe vẫn tồi như trước. Anh tin. Thựa ra là sai: tôi trở về Anh khá hơn rất nhiều. Chịu khó để ý một chút, anh sẽ thấy ngay. Nhưng không, anh đã tin. Sở dĩ tôi chia tay với George, là vì nếu nó ở lại, tôi không thể nói dối với nó rằng chân tôi bị liệt. Hastings, anh hiểu chưa? Tôi giả vờ bị tật, đánh lừa tất cả mọi người, kể cả Curtiss, thực ra tôi vẫn đi lại được. Hơi tập tễnh môt chút. Rồi đến cái tối đáng nhớ đó, tôi nghe tiếng chân anh lên gác, chần chừ một lát rồi lẻn vào phòng Allerton. Tôi cảnh giác ngay, vì đang rất lo cho tâm trạng của anh. Curtiss đang xuống ăn dưới nhà, tôi có một mình. Không bỏ phí một giây, tôi ra khỏi phòng, băng qua hành lang. Tôi nghe tiếng anh làm gì trong buồng tắm của Allerton, và phải dùng cái cách mà anh thường phản đối - quỳ xuống nhìn qua lỗ khóa. May quá, chìa không có trong ổ. Và tôi nhìn thấy anh. Anh mó máy mấy cái lọ, và tôi hiểu ngay anh đang mưu đồ gì. Phải hành động ngay. Tôi trở về phòng mình chuẩn bị các thứ. Lúc Curtiss lên, tôi sai hắn sang tìm anh. Anh vừa vào vừa ngáp, nói là đau đầu. Tôi liền gây chuyện rối tinh, yêu cầu anh phải uống thuốc. Để cho xong chuyện, anh đồng ý uống một tách sôcôla thật ngọt. Anh uống một ngụm hết, vì đang vội về. Có điều là, tôi cũng biết dùng những viên thuốc ngủ! Về phòng, anh đã ngủ ngồi trên ghế. Sáng hôm sau thức dậy, trí óc anh tỉnh táo trở lại, bây giờ anh mới phát hoảng vì chuyện tày đình định làm. Thế là anh thoát hiểm, vì không thể nào lặp lại việc ấy lần thứ hai khi người ta đã lấy lại lý trí. Nhưng điều ấy đã làm tôi, tôi phải quyết định. Vì tất cả những gì tôi biết về những người khác không áp dụng với anh. Anh không phải kẻ giết người, thế mà suýt nữa bị kết tội giết người, vụ giết này do người thứ ba chủ trương, nhưng hắn hoàn toàn vô tội trước pháp luật. Anh người trung thực, thật thà, tận tụy, đáng kính như thế, mà cũng suýt nhúng tay vào tội ác! Vậy tôi phải hành động ngay. Tôi biết mình không còn nhiều thời gian nữa, nhưng xét cho cùng, như thế lại tốt. Vì cái mệt nhất, ấn tượng nhất trong một vụ án mạng là tác động của nó đối với hung thủ. Mọi việc dẫn đến chỗ là tôi, Hercule Poirot tự thấy mình như một người được Thượng Đế chỉ định để trừng phạt những người khác. May thay, điều đó sẽ không xảy ra, vì đã đến lúc tôi cũng sắp phải ra đi. Nhưng tôi sợ Norton lại thàng công nữa cái trò ma quái của hắn khi nhằm vào một người thân của cả anh và tôi. Đó là con gái anh. Và bây giờ, ta nói đến cái chết của Barbara Franklin. Dù anh nghĩ thế nào mặc anh, tôi cho là anh chưa lúc nào ngờ tới sự thật. Vì Hastings ơi, chính anh đã giết Barbara. Phải, chính anh. Vì thực ra, còn một khía cạnh khác của hình tam giác một khía cạnh mà tới lúc đó, tôi chưa quan tâm đúng mức. Cả anh cả tôi đều không phát hiện hành tung của Norton theo hướng đó. Song tôi tin rằng hắn đều đã thực hiện cả. Anh có bao giờ tự hỏi, tại sao bà Franklin lại muốn đến ở Styles? Nơi này đâu phải là chỗ thích hợp với bà. Bà thích tiện nghi, thích ăn ngon, thích chơi bời giao thiệp... ở Styles làm gì có những thứ đó. Nhưng bà lại cố đòi đến nghỉ hè tại đây. Đó là, như tôi đã nói, còn một cạnh khác của hình tam giác: Boyd Carrington. Bà Franklin là một phụ nữ bị vỡ mộng, đó là nguyên nhân khiến bà bi tâm thần. Bà ôm nhiều tham vọng về bậc thang xã hội và về tài chính. Bà lấy bác sĩ Franklin hy vọng ông có tương lại, sự nghiệp xán lạn. Ông đúng là người xuất sắc theo kiểu ông, nhưng không như vợ mơ ước. Ông có tài, nhưng chẳng bao giờ được báo chí nói đến, chẳng bao giờ có nổi một phòng khám bệnh tư ở phố Harley. Ông chỉ được dăm bảy đồng nghiệp biết tiếng, và đăng các công trình khoa học của mình trên những tạp chí thông thái không mấy người đọc. Và ông sẽ không bao giờ giàu có. Nhưng rồi Boyd Carrington từ phương Đông về, lại mới được phong tước hiệu, thừa kế một dinh cơ đồ sộ và gia tài lớn. Ông ta vẫn giữ trong lòng tình cảm thắm thiết với cô gái mười bảy tuổi hồi xưa, mà ông suýt hỏi làm vợ. Ông ta định nghỉ tại Styles - trong khi chờ công việc trùng tu dinh thự Knatton hoàng thành - và gợi ý mới vợ chồng Franklin cùng tới nghỉ. Barbara đồng ý ngay. Hiển nhiên là dưới mắt người đàn ông giàu có và tráng kiện này, bà Franklin vẫn còn đầy xuân sắc và hấp dẫn. Song ông thuộc người của thế hệ trước, không thể xui bà ly dị chồng. John Franklin cũng không chấp nhận ly hôn. Nhưng nếu ông ta chết đi, Barbara Franklin có thể trở thành phu nhân Boyd Carrington hạnh phúc xiết bao. Và tôi hình dung Norton đã nhìn thấy ở bà một công cụ dễ sai khiến. Bây giờ ngẫm lại, sao mà mọi việc rõ ràng quá. Hãy nhớ lại bà Franklin luôn tỏ ra mình gắn bó như thế nào với chồng, còn tô đậm thêm, nói muốn chết để khỏi là gánh nặng cho chồng. Sau đó bà lại dùng chiến thuật khác: giả bộ lo lắng rằng chồng sẽ tự lấy thân mình làm thí nghiệm với các chất độc. Phải, lẽ ra ta phải thấy rõ! Bà ta chuẩn bị tư tưởng để mọi người thấy Franklin chết vì chất physostigmine. Ồ! Không có ai đầu độc ông ấy đâu! Chỉ là thí nghiệm khoa học. Ông ấy dại dột ống thử chất ancalôít đó, rồi tử nạn. Nhưng rồi, dồn dập có diễn biến. Chính anh cho tôi biết bà Franklin rất không bằng lòng thấy lúc họ đi Knatton về, Boyd Carrington để cho cô Craven xem tướng tay. Cô y tá này còn trẻ và khá hấp dẫn, rất khéo làm duyên với đàn ông. Cô đã thử bắt tình với bác sĩ Franklin, nhưng không xong. Vì thế cô ta ghen ghét với Judith. Cô ta lại bắt tình với Allerton, dù biết anh này là người không đúng đắn. Và cuối cùng cô ta xoay sang để ý đến Boyd Carrington, ông này còn đẹp mã lắm. Mà ông ta thì có lẽ sẵn sàng xiêu lòng, vì anh thấy rồi đấy, ông đã từng khen cô y tá là người tươi tắn, đáng yêu. Vì thế bà Barbara sinh lo và quyết định ra tay sớm. Hastings anh biết không, tôi cảm thấy cây đậu calabar thật là đáng nể. Lần này, nó đã thực sự phát huy quyền lực: tránh người vô tội, đánh kẻ ác tâm. Tối hôm đó, bà Franklin mời mọi người lên uống cà phê trong phòng mình, và bà ta đã chuẩn bị sẵn thuốc độc. Theo lời anh nói lại, tách của bà đặt ngay cạnh bà, còn tách ông chồng đặt phía bên kia tủ sách nhỏ. Rồi có chuyện ra xem sao đổi ngôi. Mọi người đổ xô ra ban công. Mình anh ở lại, lúi húi điền ô chữ và ngẫm nghĩ. Và anh xoay cái tủ sách để tìm một câu viết của Shakespeare. Mọi người trở vào. Bà Franklin uống tách cà phê lẽ ra dành cho chồng, còn chồng lại uống tách của bà Barbara. Tôi đã hiểu ngay chuyện gì đã xả ra, nhưng không thể chứng minh. Song nếu người ta cho bà Franklin chết không phải do tự tử, thì mọi nghi ngờ sẽ tập trung vào Franklin và Judith. Nghĩa là vào hai người hoàn toàn vô can. Vì thế tôi nghĩ mình có quyền bịa ra chuyện trông thấy bà Frankin cầm lọ trong tay và nhắc lại những lời bà thường than vãn - dù là vờ vĩnh - muốn chết cho xong. Có lẽ tôi là người duy nhất làm thế được, vì tôi được tiếng là có kinh nghiệm về hình sự, lời chứng của tôi nhất định có sức nặng. Tôi nói là tự tử, mọi người chấp nhận ngay và tỏ vẻ hài lòng. Nhưng, trời ơi, anh không hề nghi vấn gì vì mối hiểm nguy thực sự. Tôi chết đi rồi, anh còn suy nghĩ đến nó nữa không, như con rắn độc thỉnh thoảng ngóc đầu dậy và ton hót: "Hay Judith đã làm việc đó...". Có thể lắm. Vì vậy tôi quyết định phải viết ra. Cần phải để cho anh biết rõ sự thật. Có một ngưới khác không hài lòng về kết luận tự tử; đó là Norton. Vì hắn cảm thấy bị lấy mất "thành tích". Như tôi đã giải thích bên trên, hắn là một tên bạo sát, muốn hưởng tất cả lạc thú của sự kinh hoàng, ngờ vực, khiếp sợ mà vụ giết người gây ra. Đằng này không thế. Vụ giết người mà hắn dự tính đã xoay chuyển một cách thảm hại, không theo ý hắn. Tuy nhiên hắn tính được ngay cách để đền bù. Và hắn lại bắt đầu ton hót, lắt léo. Mấy hôm trước, hắn đã làm bộ nhìn thấy điều gì bất thường qua ống nhòm. Lúc đó hắn định để anh tưởng là Allerton và Judith trong tư thế thân mật nào đó. Nhưng do không nói rõ hắn có thể sử dụng sự việc đó theo cách khác. Ví dụ, hắn sẽ nói đã trông thấy Franklin cặp kè với Judith. Như vậy sẽ chiếu thêm ánh sáng mới - rất thú vị - lên cái chết của Barbara và gây nghi ngờ rằng bà này chết không phải vì tự tử. Vì thế, tôi quyết định ra tay ngay lập tức. Tôi nhờ anh bảo Norton đến gặp tôi tối hôm đó. Bây giờ tôi sẽ kể chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi. Hẳn Norton khấp khởi sẽ nói những gì hắn muốn để đánh lừa tôi. Tôi không để hắn kịp nói. Tôi nói toạc không vòng vo, những gì tôi biết về hắn và hành động của hắn. Hắn không chối điều nào. Hắn bình thản ngồi trên ghế, mỉm cười một cách mãn nguyện thách thức. Rồi hắn hỏi tôi định làm gì? Tôi đốp chát trả lởi luôn là tôi muốn chặn tay hắn lại, trừng trị hắn. - A! Hắn ngạo nghễ. Bằng lưỡi dao hay bằng thuốc độc? Lúc đó, chúng tôi đang chuẩn bị uống sôcôla. Hắn vốn nghiện món này mà. - Cách đơn giản nhất, là một chén thuốc độc. Và tôi đưa hắn tách sôcôla vừa rót. Hắn nói: - Nếu vậy, tôi muốn uống tách kia cơ, tách của ông, được không? - Không sao, tôi đáp. Quả là không sao thật. Như đã nói, tôi cũng hay dùng thuốc ngủ. Nhưng vì từ lâu tối nào cũng dùng, nên cơ thể tôi đã quen, liều đối với tôi không nghĩ lý gì, vẫn làm Norton ngủ mệt. Tôi đã cho thuốc ngủ vào liễn sôcôla, cả hai chúng tôi cùng uống. Tách của Norton sau đó sẽ có tác dụng, còn tác dụng rất ít đối với tôi, nhất là sau đó tôi lại uống một thuốc khác để trung hòa. Chúng ta sắp tới chương cuối. Khi Norton đã thiếp đi, tôi đặt hắn lên xe lăn của tôi, đẩy sát vào góc cửa sổ, phủ rèm che. Rồi Curtiss đến, giúp tôi lên giường. Chung quanh yên tĩnh rồi, tôi nhỏm dậy, đẩy Norton về phòng của hắn. Bây giờ chỉ còn trông vào tai mắt của ông bạn hastings nữa là xong. Chắc anh không để ý, tôi đã mang tóc giả từ nhiều năm nay. Và anh càng không biết nữa, là râu mép của tôi cũng giả. (Ngay George cũng không biết việc này). Thật vậy, ngay sau khi mượn Curtiss, tôi đã cố tình vô ý làm cháy râu, và cho thay bằng râu giả y hệt. Tôi liền khoác bộ áo ngủ của Norton, bộ áo này màu sắc đặc biệt không lẫn vào đâu được. Tôi làm cho tóc bù xù lên giống Norton, đi dọc hành lang, đến gõ cửa phòng anh. Đúng như tôi dự đoán, anh mở cửa nhìn ra ngoài, mắt còn ngái ngủ. Và anh nhìn thấy Norton từ phòng tắm đi ra, tập tễnh băng qua hành lang để về phòng. Cửa đóng rồi, anh còn nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ. Tôi liền cởi bỏ bộ áo, mặc lại cho Norton đang ngủ. Sau đó tôi bê hắn lên giường trừng phạt hắn bằng khẩu súng nhỏ tôi có từ khi ở nước ngoài. Từ khi đến Styles tôi đã cất giấu cẩn thận, trừ hai hai lần tôi biết Norton đang đi chơi xa, tôi mang súng cố tình đặt hớ hênh trên bàn của hắn, để cô hầu phòng nhìn thấy mà khai sau này. Tồi tôi bỏ chìa khóa vào túi Norton, lấy lại xe lăn, khóa cửa lại bằng chiếc khóa thứ hai mà tôi đã cho làm từ trước. Từ lúc ấy tôi lo thảo văn bản này dành cho anh. Tôi mệt lắm rồi: bao cố gắng nỗ lực đã làm tôi kiệt sức, và chắc chẳng còn bao lâu nữa tôi sẽ... Tuy nhiên, còn một số chi tiết nữa tôi cần nói rõ. Các vụ giết người do Norton chủ trương là những tội ác hoàn hảo, còn vụ giết người của tôi không được như thế. Cách dễ nhất, tốt nhất để thủ tiêu Norton là làm công khai, ví dụ gây ra một vụ tai nạn với khẩu súng của tôi. Lúc đó tôi sẽ giả bộ hốt hoảng, tiếc nuối, và mọi người sẽ bình phẩm: "Ông già thật lẩm cẩm, không nhớ là súng đã lên đạn." Tôi không muốn làm như vậy, và xin giải thích lý do. Bởi vì tôi muốn "chơi đẹp" như trong thể thao. Đúng, anh không đọc nhầm đâu. Lúc này tôi đang làm tất cả nhưng việc mà anh đã trách tôi không chịu làm. Tôi đang nói toẹt ra với anh. Thực ra anh đã có đủ các quân bài chủ trong tay để khám phá sự thật. Nếu còn chưa rõ, tôi xin kể sau đây những chỉ dẫn mà tôi đã để lại cho anh. Anh biết, vì tôi đã nói với anh là Norton đến đây sau tôi. Anh biết vì tôi đã nói với anh rằng sau khi tôi đến Styles chìa khóa phòng tôi bị mất và tôi phải làm một chìa khác. Vì vậy, khi anh tự hỏi: "Ai có thể giết Norton? Ai có thể đi ra khỏi một phòng đã khóa từ bên trong?" thì câu trả lời là như sau: - Là Hercule Poirot, vì hắn có chiếc chìa khóa thứ hai của một trong hai phòng. Bây giờ tôi nói về người anh trông thấy ngoài hành lang. Tôi đã hỏi anh có chắc là Norton không. Anh tỏ vẻ ngạc nhiên về câu hỏi ấy và hỏi tôi chẳng nhẽ tôi cho là người khác. Tôi đã trả lời đúng sự thật; đó không hề là ý định của tôi (tất nhiên, vì tôi đã phải thi thố nhiều mẹo để làm anh tưởng đó là Norton). Tiếp đó tôi đã nêu vần đề vóc dáng và đưa ra nhận xét rằng tất cả những người ở Styles đều cao hơn hắn. Nhưng có một người thấp hơn đó là Hercule Poirot. Song muốn cao hơn hai ba phân thì quá dễ: chỉ cần độn thêm đế vào giầy. Anh cũng hoàn toàn cho rằng tôi không thể đi lại một mình. Nhưng tại sao? Chỉ tại tôi bảo anh như thế. Cuối cùng, tôi đã cho George về, và để lại chỉ dẫn cuối cùng: "Hãy đi gặp George". Othello và Clutie John nói lên rằng tên X bí mật ấy không ai khác ngoài Norton. Vậy ai là người có thể giết Norton? Chỉ là Hercule Poirot! Chỉ cần anh thoáng ngờ vực như vậy là mọi mảnh sẽ khớp lại với nhau: những điều tôi đã nói và làm, cả những điều tôi dè dặt chưa nói, lời các bác sĩ Ai Cập và bác sĩ London nói là tôi không đi lại được, lời George nói là tôi mang tóc giả, và việc tôi đi tập tễnh hơn cả Norton. Tất cả chi tiết đó lẽ ra phải làm anh hiểu. Cuối cùng, có phát súng tôi bắn: đây là điểm yếu duy nhất của tôi. Tôi thừa biết rằng đáng lẽ phải áp nòng súng vào thái dương Norton. Nhưng tôi khó chấp nhận sự mất cân xứng ấy, cho nên tôi nhắm vào đúng giữa trán. Ôi, chỉ riêng việc đó đủ để làm anh thấy ra sự thật. Nhưng biết đâu anh đã chẳng ngờ ngợ thế rồi. Biết đâu anh đã chẳng biết rõ sự thật trước đọc những dòng này. Song... tôi lại nghĩ là chưa. Bởi vì anh thật thà quá, dễ tin quá, bởi vì bản chất anh quá tốt. Tôi còn nói gì nữa đây? Franklin và Judith - tôi chắc rồi anh sẽ thấy - biết rõ sự thật, nhưng họ không nói với anh đâu. Họ sẽ không giàu có, trước mắt phải lo đối mặt với muỗi và sốt rét, nhưng mỗi người chúng ta đều có những ý kiến riêng về cách quyết định về mình, phải không nào? Thế còn anh, anh Hastings cô đơn, tội nghiệp? Tim tôi đau quặn mỗi khi nghĩ tới anh. Một lần cuối, anh có muốn nghe lời khuyên của Poirot này không? Nếu muốn thì sau khi đọc hết những dòng này, hãy đáp xe lửa - hoặc xe hàng, xe hơi - đi gặp Elizabeth Cole tức Elizabeth Litchfield. Đọc cho cô ấy nghe văn bản này, giải thích cho cô ấy rằng, nếu là anh, anh cũng sẽ làm như Margaret chị cô. Tiếc rằng chị cô ấy không có một người như Poirot để bảo vệ. Nói tất cả cho Elizabeth để cô ấy rũ bỏ hết những ác mộng ám ảnh cô suốt bấy lâu nay. Làm cho cô ấy hiểu là bố cô không chết vì tay con gái lớn, mà là do ông bạn quý hóa của gia đình: Stephen Norton. Vì thật là không công bằng một phụ nữ còn trẻ, đẹp như cô ấy lại không muốn sống chỉ vì nghĩ mình là người có số mệnh đen đủi. Không phải vậy. Hãy nói thế nhé, anh bạn, anh vẫn còn dư sức hấp dẫn với phụ nữ... Thôi, tôi không còn gì để nói. Tôi không biết việc tôi làm có chính đáng hay không. Thực sự không biết. Trong thâm tâm tôi nghĩ là một người không có quyền làm thay pháp luật. Nhưng mặt khác, tôi cũng là một phần của pháp luật. Hồi trẻ, lúc còn phục vụ ở Sở Cảnh sát Bỉ, tôi đã bắn hạ một tên tội phạm, hắn đứng trên mái nhà bắn xuống người qua đường. Trong trường hợp khẩn cấp chí nguy, tôi đã cứu được nhiều mạng người khác... Thôi, vĩnh biệt anh bạn. Tôi đã vứt bỏ những ống thuốc trợ tim trước nay vẫn giữ trong tầm tay đề phòng trường hợp nguy cấp. Tôi muốn buông xuôi, phó mặc đời mình cho Chúa. Mong Người hãy trừng phạt - hay cứu vớt - thật nhanh. Chúng ta sẽ không cùng nhau sát cánh nữa. Anh nhớ không, vụ án đầu tiên mà chúng ta cùng hợp tác để phá, diễn ra tại đây. Và cũng lại ở đây, là vụ án cuối cùng... Ôi, cái thời tươi đẹp!... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Rời Sân Khấu của tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chứng Kiến Thần Thám
Vụ án ở cổ trấn. Vụ án về cổ động viên tử vong ở nước Mỹ. Trên du thuyền xa hoa xảy ra vụ mất tích quỷ dị. Truyền thuyết hàng trăm năm về mỹ nhân ngư... Những vụ án mưu sát kỳ lạ, những vụ giết người hàng loạt khiến người nghe cảm thấy ghê sợ, bí mật hắc ám bị chôn dấu hàng trăm năm, tất cả đều chỉ có một chân lý chính nghĩa tồn tại! Ở trong mắt anh - thần thám bậc nhất thế hệ mới ở Mỹ, chỉ cần là một hạt bụi cũng sẽ là chìa khóa dẫn tới chân tướng. Lời tác giả: Nội dung truyện là do tác giả nghĩ ra vậy nên yếu tố trinh thám mới là chính, tình yêu chỉ như gia vị được nêm vào, cho nên chỉ có sủng sủng sủng, hoan nghênh nhảy hố. *** Edit: Cải Trắng Quyển 1: Mặt nạ cẩu tình nhân [ Q1 ] Chương 1: Cẩu nam nhân. Hôm nay thời tiết thật sự rất đẹp, rốt cuộc thì nửa tháng mưa triền miên cũng chấm dứt, từ sáng sớm những ánh mặt trời rực rỡ đã chiếu xuống từng ngóc ngách của thành phố, chỉ đáng tiếc là, thời tiết tươi đẹp như thế này cũng không thể khiến nội tâm Chúc An Sinh ấm áp nổi. Chúc An Sinh quả thật không nghĩ tới, trong một ngày đẹp trời như này mà cô lại nhận được một vụ về vấn đế rắc rối của người vợ trước. Chúc An Sinh lạnh lùng nhìn ba người trước mặt mình, hai người phụ nữ kia đã sớm tóc tai bù xù như quỷ. Có thể thấy trên mặt người phụ nữ kia còn đọng lại những giọt nước mắt chưa khô, đặc biệt ngón áp út còn đeo một chiếc nhẫn bạc vô cùng giản dị. Khi Chúc An Sinh tới nơi, người phụ nữ kia vẫn còn chưa dừng khóc, một giọt lại một giọt, như những viên ngọc rơi xuống, rơi xuống mu bàn tay, rơi xuống đất, tất cả đều rối tinh rối mù. Im lặng nhìn qua một lượt tình huống hiện tại, ánh mắt Chúc An Sinh có hơi dao động, nhưng khi cô nhìn về phía người đàn ông đang im lặng đứng một bên, ánh mắt lại trở nên vô cùng sắc bén. " Anh chắc hẳn là, kẻ đầu sỏ gây nên tình trạng này đi, thế nào, để hai người phụ nữ đánh nhau vì anh như này, anh vừa lòng chưa? " Thanh âm của Chúc An Sinh lạnh lùng, tựa như xung quanh đang là hầm băng vậy, người đàn ông kia thấy Chúc An Sinh châm chọc mình như vậy cũng không cãi lại được, chỉ biết cúi đầu không nói. Biểu hiện của người đàn ông bị người phụ nữ trẻ tuổi hơn kia nhìn thấy được, ngay sau đó ánh mắt ả hung ác chuyển hướng sang công kích Chúc An Sinh: " Tôi nói đồng chí cảnh sát như vậy là không được, cô đang vô duyên vô cớ vu khống đấy. Tôi nói cho cô biết, tôi báo cảnh sát chính là để các người bắt người phụ nữ điên này lại. Tôi còn chưa tố cáo tội của cô ta đâu, tự ý xông vào nhà riêng, lại còn đả thương người, điều đó cô không nhìn thấy sao, có phải hay không mắt cảnh sát mấy người bị mù rồi đi. Tôi nói cho cô biết, nếu cô dám chần chừ không bắt người phụ nữ này tôi sẽ khiếu nại mấy người đó, cô tin không? " " A. " Bộ dáng Chúc An Sinh vô cùng bình tĩnh nghe người phụ nữ đó nói, cho tới khi ả nói xong cô mới cười lạnh một tiếng: " Tự ý xông vào nhà riêng, cố ý đả thương người, đúng là có kiến thức luật cao đấy, vậy cô có biết không, theo điều luật của < Cảnh sát nhân dân Trung Hoa > điều 35 còn có quy định, nếu người dân cố ý vũ nhục người thi hành công vụ, có thể giao cho ban an ninh xử lý, tất cả những gì cô nói tôi đều có bản ghi chép, cô có muốn giờ cùng tôi đi tới đồn công an một chuyến không? " Chúc An Sinh nói xong còn mỉm cười một cái, đôi mắt sáng ngời, điều này làm cho đồng nghiệp Cao Bằng Phi bên cạnh xuân tâm nhộn nhạo. Cao Bằng Phi cảm thấy Chúc An Sinh có thể dùng hai từ hoàn mỹ để hình dung, tốt nghiệp học viện cảnh sát, còn đạt tới học vị thạc sĩ, càng không thể tin được nữa là, hắn nghe nói năm đó số điểm cô thi vào đại học có thể được xét tuyển vào Thanh Hoa hoặc Bắc Đại, vậy mà Chúc An Sinh lại một lòng hướng về học viện cảnh sát, xem ra cô rất thích làm cảnh sát, chỉ là hiện tại sao Chúc An Sinh lại làm việc ở một đồn công an nho nhỏ như này bọn họ quả thực không hiểu được. Mà bên kia, ả vừa rồi còn vênh váo uy hiếp Chúc An Sinh giờ lại bị cô đáp trả như vậy, lập tức ngậm miệng không dám nhiều lời. Chúc An Sinh không có hơi đâu quan tâm tới ả, cô tiếp tục quay đầu nói chuyện với người đàn ông đang đứng im lặng kia. " Bây giờ sao đây? Chuyện tới nước này rồi mà anh còn định kệ hả? Hãy nhìn hai người phụ nữ này đi, xem hai người này chật vật như thế nào, chính là vì anh có biết không, ở chỗ này, người mất mặt nhất chính là anh đấy. " " Cô không hiểu. " Người đàn ông kia rốt cuộc cũng mở miệng: " Tôi cùng Tố Phân sớm đã không còn tình cảm với nhau, còn Mẫn Lan, tôi thực sự yêu cô ấy. " Lời nói người đàn ông kia vừa thốt ra, làm cho biểu cảm trên mặt hai người phụ nữ đều thay đổi, người lộ ra nụ cười tươi kia chính là người vừa uy hiếp cô – Mẫn Lan, còn người che mặt khóc kia chính là Tố Phân. Ánh mắt Chúc An Sinh tràn ngập lửa giận, cô không thể tin được những gì mình vừa nghe thấy. " Hừm. Anh thế mà không biết xấu hổ nói ra từ " yêu " này sao? " Chúc An Sinh cảm thấy cô như đang được nghe chuyện nực cười nhất thế gian này: " Anh biết không, tôi không cần đoán cũng biết đã xảy ra chuyện gì. " Chúc An Sinh nói xong liền cầm lấy bàn tay Tố Phân, chiếc nhẫn bạc giản dị ngay lập tức lộ ra trước mắt mọi người. " Anh nhìn xem đi, mở to đôi mắt ra mà nhìn cho kỹ! Chiếc nhẫn này là sao? Nhìn vào nó một cái, sẽ thấy nó bình thường, nó chỉ là món đồ rẻ tiền, thậm chí còn không có ánh kim, nó còn rẻ hơn so với một cốc rượu anh uống trong bar, mà có khi anh cũng đã quên, khi anh đeo cho cô ấy chiếc nhẫn này anh cũng đâu có nói anh sẽ yêu người con gái khác tên Mẫn Lan. " " Anh không thấy cô ấy rất tiều tụy sao, nhưng dù nửa điểm thôi cô ấy vẫn ăn đứt người như Mẫn Lan. " Chúc An Sinh chán ghét liếc mắt nhìn qua chiếc vòng cổ xinh đẹp của Mẫn Lan, cuối cùng buông tay Tố Phân ra, Chúc An Sinh không biết cô sẽ giúp được gì cho Tố Phân, nhưng cô cũng tới bên cạnh nhẹ nhàng an ủi cô ấy: " Một người muốn sống tốt, quan trọng không phải là dựa vào cái gì, cứ yêu lấy bản thân mình là được. " Dứt lời cô cảm thấy chuyện này như vậy là giải quyết xong rồi, cô chỉ có thể làm tới như vậy thôi, không có ai có quyền can thiệp vào cuộc sống của người khác, trừ khi chính bản thân họ muốn thay đổi, Chúc An Sinh luôn cho rằng như vậy. Cuối cùng cô và Cao Bằng Phi còn ở lại dạy dỗ Mẫn Lan một lúc, sau đó bọn họ mới rời đi. Chỉ là tới cuối cùng Chúc An Sinh vẫn không hiểu, trên thế giới này sao lại có loại người đã phá hoại hạnh phúc của người ta còn đi công khai cho bàn dân thiên hạ nhìn được? Lúc trên đường về đồn công an cô đã hỏi Cao Bằng Phi một câu như vậy, nhưng hắn cũng không trả lời được. " Nói tới trở về, lão Lưu có nói với tôi rằng, chúng ta ở cái đồn này chính là thảm nhất, mấy năm rồi tới hiện tại tôi mới hiểu được lời của lão Lưu, mỗi ngày đều xử lý mấy vụ án vớ vẩn, làm cảnh sát cũng thật buồn chán. Mà An Sinh, cô cũng thật lợi hại, lời cô nói làm cho tên tra nam* kia sửng sốt, người không biết còn tưởng cô là người thân của bọn họ, biết rõ họ như vậy. " Tra nam: Người đàn ông cặn bã. Cao Bằng Phi nhịn không được nói hết ra, rõ ràng hôm nay tâm tình hắn cũng không tồi, nhưng sáng sớm ra gặp loại tình huống này, là ai cũng sẽ không cao hứng nổi, hắn còn nhớ rõ hình dáng Chúc An Sinh lúc dạy dỗ người đàn ông kia, bộ dáng vô cùng uy phong, lập tức mặt mày liền hớn hở. Chúc An Sinh nghe xong cười chua xót, cần gì phải biết rõ chứ, cô chỉ cần nhìn bộ dạng của hai người phụ nữ kia cũng hiểu đại khái tình huống rồi, huống chi loại chuyện này còn ít sao? Chỉ là Chúc An Sinh không nghĩ tới, cô học về suy luận phân tích hành vi vậy mà giờ lại áp dụng vào tình huống này. Nghĩ muốn nản, Chúc An Sinh cảm thấy hơi buồn, cô hạ cửa kính xe xuống, làn gió lạnh nhanh chóng ùa vào, tóc cô lập tức bay lung tung, tâm tư cô cũng khá hơn một chút. Lời Cao Bằng Phi nói có phần đúng, cô từ bỏ các trường đại học nổi tiếng để học ở một học viện cảnh sát bình thường, sao có thể chôn chân tại đồn công an nhỏ bé này được? Trước kia là vì Phương Trọng Bình hết lời khuyên bảo nên cô mới đành thuận theo ý ông ấy đi tới đồn công an này làm, hiện giờ đã qua một năm rồi, Chúc An Sinh thật không hiểu liệu trong vòng tròn lặp lại này cô có thể kiên trì được bao lâu. Chỉ có tự cô mới hiểu được, trong người cô lúc nào cũng có một con dã thú, như cô nói thì người khác không thể can thiệp vào cuộc sống của mình. Cho nên Phương Trọng Bình cũng không thể kìm kẹp được cô, cô sớm muộn gì cũng sẽ thoát ra khỏi cái lồng này, tiến vào vòng vây đầy rẫy hiểm nguy, Chúc An Sinh cảm thấy có lẽ cũng gần tới lúc đó rồi. " Hửm? " Đột nhiên, qua cửa sổ xe cô nhìn thấy một bóng dáng quen thuộc, cho dù xe đã đi qua nhưng cô nhịn không được quay lại nhìn thêm vài lần. " Làm sao vậy? " Lúc này Cao Bằng Phi cảm thấy cô có hơi khác thường. " À, không có gì, chỉ là đang nhớ lại mấy ngày trước có người tới đồn báo án đi, cô gái tên Vương Vũ Đình đó ấy, tôi nhớ rõ hôm đấy cô ấy khóc một lúc lâu, chó của cô ấy đi đâu không biết, không có manh mối chúng ta chẳng giúp được gì. " " Cô ấy, à tôi nhớ, lúc nãy thấy cô ấy trên đường làm gì vậy? " " Hình như đang phát tờ rơi, hẳn là vẫn đang tìm chó của mình, thật là một người con gái thiện lương, chắc có lẽ chú chó ấy vô cùng quan trọng với cô ấy, cô ấy coi nó như người nhà vậy. " " Đúng vậy, mà gần đây bọn trộm chó đúng là càng ngày càng càn rỡ, đáng tiếc cho dù bắt được bọn họ cũng không thể đưa ra hình phạt nặng, ai bảo chúng ta còn quá buông lỏng điều này chứ. Chỉ là tôi thấy Vương Vũ Đình này gần đây đúng là xui xẻo. " " Là có ý gì? " Chúc An Sinh cảm thấy khó hiểu. " Ôi xem trí nhớ của tôi này, chút nữa thì quên mất, buổi chiều hôm qua cô ấy tới báo án lúc cô đi ra ngoài. " " Buổi chiều ngày hôm qua? Cô ấy tới báo vấn đề gì? " " Cô ấy tới báo về việc bạn trai cũ của cô ấy dạo gần đây quấy rối và theo dõi mình, còn nói hai lần trước hắn không cần sự đồng ý của cô ấy đã xông vào nhà, giúp cô ấy dọn đồ, giặt quần áo, còn nấu cơm cho cô ấy, hy vọng có thể quay lại với cô ấy. Rồi tôi có hỏi sao ngay lúc đó cô không báo án đi, thì cô ấy bảo đó là khu dân cư riêng, cô ấy không nhẫn tâm làm vậy, giờ cô ấy vẫn cảm thấy mấy ngày gần đây bạn trai cũ bám theo mình, lúc này cô ấy mới báo án. " " Sau đó thì sao? " " Sau đó bọn tôi tìm tới bạn trai cũ của cô ấy, tên là Lục Kỳ, nhưng đúng là người cũng như tên, một bộ dáng vô cùng nho nhã, chúng ta không có chứng cứ gì cho nên chỉ có thể hỏi qua một chút rồi thả người, có thể thấy chắc là gần đây Vương Vũ Đình mới chia tay lại thêm mất chú chó nên gặp đả kích lớn, làm cho cô ấy hốt hoảng nghi thần nghi quỷ. " " Ra là như vậy. " Nghe xong cô lại không nhịn được mà ngoái lại phía sau nhìn, nhưng đã không còn nhìn được gì nữa rồi, cô cảm thấy có chút lo lắng cho cô gái lương thiện Vương Vũ Đình này, cũng tính toán khi trở về sẽ tra một lượt những vụ trộm chó gần khu, cô hy vọng mình có thể tìm được manh mối gì đó giúp ích cho Vương Vũ Đình. Còn nữa Chúc An Sinh âm thầm vạch ra kế hoạch rõ ràng, chút nữa cô phải đi tìm Phương Trọng Bình để nói rõ, tuy rằng ở đồn công an này có thể bình bình yên yên mà sống qua ngày nhưng đây không phải là điều mà cô muốn. ...... Đúng 6 giờ 30 chiều, cô lái xe tới nhà của Phương Trọng Bình, nhưng mà lúc cô tới mới biết Phương Trọng Bình vẫn chưa về nhà, trong nhà chỉ có mẹ Phương Trọng Bình. Cô cùng bà Phương ăn cơm chiều với nhau, từ nhỏ cô đã được Phương Trọng Bình một tay nuôi lớn, cho nên mẹ ông có thể coi là bà nội của cô. Cơm nước xong xuôi cô còn mát xa cho bà một lúc, tới khi bà thoải mái đi về phòng ngủ, chỉ còn mình Chúc An Sinh là đợi ông trở về nhà. Cứ ngồi đợi người như vậy cũng thấy nhàm chán, nhưng cũng may lúc đó hồ sơ cô cần người khác tìm giúp đã được gửi tới hòm thư, cô thừa lúc rảnh rỗi này xem một chút tư liệu về những vụ trộm chó gần đây, chốc lát đã trôi qua 2 tiếng, chẳng mấy chốc đã tới 11 giờ khuya rồi. 11 giờ 23, lúc mà Chúc An Sinh thiếu chút nữa ngủ gật trước máy tính thì Phương Trọng Bình đã trở về. Cô cũng không vội vã, đầu tiên tiến tới ôm một cái, cô dự tính đầu tiên cứ mềm mỏng ứng phó với Phương Trọng Bình, sau đó có thể thuận lợi từng bước theo như những gì cô định sẵn. " Chú Phương, cháu nhớ chú quá. " " Nhóc con, cháu chẳng thành thật gì cả, hôm trước không phải chú mới tới đồn hay sao, huống hồ chúng ta cũng đâu phải ở xa nhau, lúc trước chính cháu muốn dọn ra ngoài còn gì? Cháu nói nhớ chú, chú không tin. " Chúc An Sinh có hơi chột dạ, quả nhiên không hổ danh người đã lăn lội trong giới cảnh sát hơn 20 năm, chút tâm tư nhỏ của cô quả nhiên không qua mắt được ông. " Chú Phương, chú muốn ăn chút cơm không? Hôm nay cháu làm thịt sườn đó, chú có muốn ăn một chút không? " Chúc An Sinh quyết định lùi kế hoạch lại. " Hôm nay là ngày gì thế, cháu lại còn chạy tới đây làm thịt sườn cho chú? Không thể tự nhiên mà ân cần vậy được, không phải cháu đang đào hố đấy chứ. " Ánh mắt Phương Trọng Bình sáng quắc, cấp dưới của ông mà nhìn vào chắc là không giữ được bình tĩnh mất, cũng may Chúc An Sinh từ nhỏ đã quen với dáng vẻ này của ông, cô có thể trấn định được tâm tình mình. " Chú Phương, chú nói như vậy là đang nói cháu không phải là một người con tốt sao? Cháu đây sẽ đi hâm lại thịt sườn cho chú nha. " Dứt lời, cô liền đi vòng qua Phương Trọng Bình, cười cười đi vào nhà bếp hâm lại thịt sườn, chỉ là, khi Chúc An Sinh mở tủ lạnh lấy đĩa thịt sườn ra, thấy đĩa sườn, cô bỗng dưng ngẩn người ra. Chậc, đĩa thịt sườn kia vẫn còn duy trì được màu sắc hương vị, Chúc An Sinh tựa hồ có thể ngửi được mùi thịt sườn mê người, nhưng đồng thời lúc đó một ý nghĩ đáng sợ đã nảy ra trong đầu cô. Chúc An Sinh thậm chí còn chẳng đặt đĩa sườn xuống, cô cứ thế lấy điện thoại trong túi ra rồi chạy nhanh tới cạnh laptop, cô ấn điện thoại gọi cho Vương Vũ Đình ngay trước ánh mắt nghi hoặc của Phương Trọng Bình. " Alo? " " Là Vương Vũ Đình sao? " " Ai vậy...? " " Lúc trước cô là người đã báo án với tôi, tôi là Chúc An Sinh. " " Hóa ra là cảnh sát Chúc, cô gọi cho tôi là đã tìm được gì rồi sao? " Đầu dây bên kia có thể thấy được Vương Vũ Đình đang cao hứng, nhưng Chúc An Sinh lại có cảm giác lòng mình lạnh đi, đột nhiên cô cảm thấy lạnh sống lưng. " Không phải, tôi chỉ muốn hỏi một chút, cô còn nhớ rõ lần đầu tiên cô bạn trai cũ xông vào nhà cô đã nấu gì cho cô ăn không? " " Hả? Tôi cũng không biết nữa, nhưng nó là một thịt hầm lớn, có rất nhiều hương vị trộn lẫn, cũng không biết sao tôi thấy nó thật ghê tởm, tôi không ăn được nên vứt đi. " Vương Vũ Đình không biết, khi cô ấy nói xong câu đó thì Chúc An Sinh đột nhiên sự ghê tởm từ sâu trong đáy lòng mình dâng lên. Đợi Vương Vũ Đình nói xong, cô lại liếc mắt nhìn đĩa thịt sườn trong tay mình, từng miếng thịt như phát ra ánh sáng hấp dẫn mê người, rốt cuộc Chúc An Sinh không nhịn được đặt đĩa thịt xuống, chạy vào trong nhà vệ sinh nôn thốc nôn tháo, bữa cơm chiều nay của cô coi như ra ngoài hết rồi. " Đi mau. " Đây là từ đầu tiên cô nói ra sau khi nôn xong, cô thật không thể tưởng tượng được, có người sau khi chia tay xong lại đi giết chết chú chó của bạn gái cũ, còn muốn cho cô ấy ăn, thật đúng là biến thái! Càng khiến cho Chúc An Sinh sợ hãi hơn chính là, không ngờ sau khi chia tay Lục Kỳ lại trở nên điên cuồng như thế, huống chi hôm qua Vương Vũ Đình còn báo cảnh sát vì việc Lục Kỳ theo dõi mình. " Mau! Cô đang gặp nguy hiểm! Mau rời khỏi nhà đi! Tìm nhà một người bạn tốt đáng tin cậy ở lại đó! Nhanh lên! " Thanh âm Chúc An Sinh tràn ngập vẻ kinh sợ, Vương Vũ Đình ở đầu dây bên kia không biết là đang xảy ra chuyện gì, Vương Vũ Đình nghe theo sự phân phó của cô liền nhanh chóng cầm lấy túi xách, ra cửa đi giày vào. " Cô hiện tại đang làm gì rồi? " Đột nhiên, Chúc An Sinh chẳng nghe được động tĩnh gì của Vương Vũ Đình nữa. " Tôi đang chờ thang máy, giờ chỉ có thể sử dụng một thang máy, thang máy còn lại đều hỏng hơn mười ngày nay rồi, nhưng mà hiện tại thang máy đó có người đang đi lên. " Vương Vũ Đình không biết, Chúc An Sinh nghe xong câu này mắt càng lúc càng mở to hơn, ánh mắt cô tràn đầy sợ hãi, tơ máu đỏ hiện rõ trong mắt cô, cùng lúc đó, Vương Vũ Đình đang chằm chằm nhìn vào các con số hiển thị. Tầng 2 Tầng 5 Tầng 9 Tầng 12 .... Mời các bạn đón đọc Chứng Kiến Thần Thám của tác giả Tưởng Du Nguyên.
Năm Chú Heo Con
Giới thiệu tóm tắt tác phẩm: Câu chuyện lấy ý tưởng từ một bài đồng dao của trẻ em Anh, với năm nhân vật là nghi phạm trong một vụ án: Chú heo con này đi ra chợ Chú heo con này ở nhà trông  Chú heo con này ăn bò nướng  Chú heo con này bụng rỗng không  Chú heo con này khóc “oa oa oa” suốt đường về nhà Nhiều năm trước, một vụ án mạng xảy ra làm kinh động xã hội: bà Crale bị buộc tội đầu độc chồng – một họa sĩ tài hoa, và nhận án chung thân. Bà chết sau một năm thụ án. Nhưng con gái bà không tin mẹ mình là thủ phạm, cô đã đề nghị thám tử lừng danh Poirot điều tra lại vụ án này. Poirot đã tiếp cận năm người có mặt khi sự việc xảy ra – năm nghi phạm, và lần về quá khứ 16 năm trước để vén bức màn bí mật, tăm tối quanh cái chết của họa sĩ lừng danh Amyas Crale. Tiểu thuyết đỉnh cao này là một câu chuyện tinh tế và tài hoa, một chuyện tình sâu sắc và một đại diện tiêu biểu của nghệ thuật kể chuyện, trong đó có năm cách kể khác nhau của cùng một vụ giết người. Theo bình chọn của nhiều độc giả, đây là tác phẩm hay nhất của nữ hoàng truyện trinh thám Agatha Christie. *** GIỚI THIỆU CARLA LEMARCHANT Hercule Poirot nhìn người phụ nữ trẻ đang được dẫn vào phòng với sự tò mò thích thú. Không có gì đặc biệt trong lá thư cô viết. Đó chỉ là một lá thư xin hẹn gặp mà không hề có thêm ẩn ý gì bên dưới lời yêu cầu. Một lá thư ngắn gọn và thuần công việc. Chỉ có nét chữ dứt khoát kia biểu lộ Carla Lemarchant là một phụ nữ trẻ. Giờ cô đã xuất hiện bằng xương bằng thịt – một phụ nữ trẻ cao ráo mảnh dẻ mới vừa đôi mươi. Kiểu phụ nữ trẻ mà người ta không thể không ngoái nhìn. Trang phục chỉn chu, áo choàng cắt may đắt tiền cùng với váy và khăn choàng lông thú sang trọng. Vẻ thông minh đĩnh đạc, cô có hàng chân mày xếch, chiếc mũi nhỏ thanh tú, và một chiếc cằm cương nghị. Trông cô đầy sức sống. Hơn cả vẻ đẹp của cô, chính vẻ ngoài đầy sức sống đó mới là thứ giúp cô trở nên nổi bật trong mắt người khác. Trước khi cô đến, Hercule Poirot đang tự thấy mình thật già cỗi, giờ đây ông như trẻ lại lần nữa… người tràn đầy sức sống… mãnh liệt! Khi tiến đến chào cô gái, Poirot nhận ra đôi mắt xám sẫm của cô đang chú mục vào ông. Cô quan sát ông với một sự nghiêm túc cao độ. Cô ngồi xuống và nhận điếu thuốc ông mời. Sau khi châm lửa, cô ngồi yên hút thuốc trong một hai phút, vẫn tiếp tục nhìn ông với vẻ nghiêm túc kia, ánh mắt đầy suy tư. Poirot ôn tồn lên tiếng. “Vâng, trước sau gì cô cũng phải quyết mà, đúng không?” Cô giật mình. “Ông nói gì cơ?” Cô sở hữu một giọng nói thu hút, có một chút khàn khàn dễ chịu trong giọng nói ấy. “Cô đang cân nhắc, đúng không, rằng tôi có phải là một tên bịp bợm, hay chính là người cô cần?” Cô mỉm cười, nói. “Vâng, đúng vậy… đại loại thế. Ông thấy đó, ông Poirot, ông… trông ông chẳng giống tí nào với hình dung của tôi cả.” “Và tôi già rồi, phải thế không? Già hơn cô tưởng?” “Vâng, cả chuyện đó nữa.” Cô ngập ngừng. “Ông thấy đó, tôi sẽ thẳng thắn vậy. Tôi muốn… tôi phải có được người giỏi nhất.” “Cô yên tâm đi,” Hercule Poirot nói. “Tôi chính là người giỏi nhất!” “Ông chẳng khiêm tốn gì cả… Dù vậy, tôi muốn tin ông.” Carla trả lời. Poirot điềm tĩnh nói. “Cô biết đó, người ta không phải lúc nào cũng dùng đến cơ bắp. Tôi không cần phải lăn lê, đo dấu chân hay nhặt những đầu lọc thuốc lá và quan sát những ngọn cỏ gãy. Đối với tôi, chỉ cần ngồi trên ghế và suy luận là đủ. Chính là cái này,” ông gõ gõ vào cái đầu hình quả trứng của mình, “nó mới là thứ hoạt động!” “Tôi biết,” Carla Lemarchant nói. “Đó là lý do tôi đến tìm ông. Ông thấy đó, tôi muốn nhờ ông làm một việc có hơi kỳ quặc!” “Nghe có vẻ hứa hẹn!” Hercule Poirot đáp. Ông nhìn cô gái chờ đợi. Carla Lemarchant hít một hơi dài. “Tên tôi,” cô nói, “không phải Carla. Mà là Caroline. Giống với tên mẹ tôi. Tôi được đặt tên theo bà.” Cô ngập ngừng. “Và tuy là trước nay tôi vẫn dùng họ Lemarchant… nhưng họ thật của tôi là Crale.” Trán của Hercule Poirot thoáng nhăn lại đăm chiêu. Ông lẩm bẩm. “Crale… hình như tôi có nhớ…” Cô nói. “Cha tôi là họa sĩ, một họa sĩ khá nổi tiếng. Vài người nói ông từng là một họa sĩ xuất chúng. Tôi cũng thấy thế.” Hercule Poirot nói. “Amyas Crale ư?” “Đúng thế.” Cô ngập ngừng, rồi tiếp. “Còn mẹ tôi, Caroline Crale, bị xét xử vì tội sát hại ông ấy!” “À ha,” Hercule Poirot nói. “Giờ thì tôi nhớ ra rồi… nhưng vẫn mơ hồ lắm. Lúc đó tôi đang ở nước ngoài. Cũng đã lâu lắm rồi.” “Mười sáu năm,” cô gái đáp. Gương mặt cô giờ trắng bệch, còn đôi mắt thì như hai ngọn đèn rực sáng. Cô nói. “Ông có hiểu không? Mẹ tôi bị đưa ra xét xử và kết án… Bà không bị treo cổ vì họ thấy là có vài tình tiết giảm nhẹ, thế nên hình phạt được giảm xuống còn khổ sai chung thân. Nhưng bà chết chỉ một năm sau đó. Ông thấy không? Chuyện đã qua lâu lắm rồi…” Poirot lặng lẽ hỏi. “Rồi sao nữa?” Cô gái với cái tên Carla Lemarchant ép chặt hai tay vào nhau. Cô nói chậm rãi và đứt quãng nhưng với một sự nhấn mạnh rõ ràng, kì lạ. Cô nói. “Ông phải hiểu – hiểu cho chính xác – chuyện của tôi bắt đầu từ đâu. Tôi chỉ mới năm tuổi khi vụ việc… xảy ra. Quá bé để hiểu được nội tình của nó. Tôi nhớ được mẹ và cha tôi, dĩ nhiên, và tôi nhớ việc mình rời khỏi nhà vô cùng đột ngột… bị đưa đến vùng thôn quê. Tôi nhớ những chú heo và vợ một người nông dân mập mạp tốt bụng, mọi người đó đều rất tử tế, và tôi còn nhớ khá rõ cái nhìn kỳ lạ họ dành cho tôi, tất cả mọi người đều thế, kiểu khi ta lén lút nhìn gì đó. Dĩ nhiên tôi biết, trẻ con luôn biết, rằng có gì đó không ổn… nhưng tôi không rõ đó là gì. “Rồi tôi lên một con tàu, một chuyến đi mới vui làm sao, cuộc hành trình kéo dài suốt mấy ngày, tôi đến Canada và chú Simon gặp tôi, tôi sống ở Montreal với chú ấy cùng cô Louise, và mỗi khi tôi hỏi về cha hay mẹ thì họ trả lời rằng cha mẹ tôi sẽ đến đây sớm thôi. Và rồi… và rồi tôi nghĩ mình đã quên mất… tôi chỉ mơ hồ biết là họ đã chết mà không nhớ nổi có ai thực sự báo tin cho tôi hay không. Bởi lúc đó, như ông thấy, tôi không còn nghĩ về họ nữa. Tôi đã rất hạnh phúc, ông biết đó. Chú Simon và cô Louise rất thương tôi, rồi tôi đến trường, có nhiều bạn bè, và tôi gần như đã quên hẳn là mình từng có một cái tên khác không phải Lemarchant. Ông thấy đó, cô Louise nói với tôi rằng đó là tên của tôi ở Canada và tôi thấy có lý lắm, Lemarchant chỉ là cái tên Canada của tôi thôi, nhưng như đã nói dần dà tôi quên mất là mình còn một cái tên khác nữa.” Cô hất chiếc cằm cương nghị lên. Cô nói. “Nhìn tôi xem. Nếu ông thấy tôi, hẳn ông sẽ nói: ‘Kia là một cô gái vô ưu vô lo!’, đúng không nào? Tôi khá giả, sức khỏe tuyệt vời, tôi nhìn cũng không đến nỗi nào, tôi có thể tận hưởng cuộc sống. Ở tuổi hai mươi, tôi chẳng mong đổi chỗ với cô gái nào khác trên thế giới cả. “Nhưng ông biết đó, tôi bắt đầu đặt câu hỏi. Về cha mẹ ruột của tôi. Họ là ai và họ đã làm gì? Tôi hẳn đã được định trước là sau này sẽ rõ mọi chuyện… “Và đúng như thế, họ đã kể tôi nghe sự thật. Khi tôi hai mươi mốt tuổi. Họ phải làm thế thôi, bởi lẽ tôi đến tuổi được hưởng số tiền của mình. Và rồi, ông thấy đó, còn vì lá thư nữa. Lá thư mẹ để lại cho tôi khi bà chết.” Biểu cảm của cô thay đổi, dịu đi. Mắt cô không còn là hai đốm sáng rực nữa mà như hai hồ nước mờ tối. Cô nói. “Đó là lúc tôi biết được sự thật. Rằng mẹ tôi đã bị kết án vì tội giết người. Điều đó thật… khủng khiếp.” Cô ngừng lại. “Có một chuyện nữa tôi phải nói ông biết. Tôi đã đính ước. Người ta nói chúng tôi phải đợi, chúng tôi chỉ có thể cưới nhau khi tôi hai mươi mốt tuổi. Khi tôi biết mọi chuyện, tôi hiểu ngay lý do.” Poirot cựa mình và bây giờ mới cất tiếng. Ông hỏi. “Và hôn phu của cô phản ứng như thế nào?” “John ư? John không quan tâm. Anh nói với anh chẳng có gì khác biệt cả. Anh và tôi vẫn là John và Carla, còn quá khứ không ảnh hưởng gì hết.” Cô chồm về phía trước. “Chúng tôi vẫn đính ước. Nhưng dù như thế, ông biết không, chuyện rõ ràng là có ảnh hưởng. Nó ảnh hưởng đến tôi. Và nó cũng ảnh hưởng đến John nữa… Không phải quá khứ ảnh hưởng đến chúng tôi, mà chính là tương lai.” Cô siết chặt hai tay. “Chúng tôi muốn có con, ông thấy đó. Cả hai chúng tôi đều muốn có con. Và chúng tôi không muốn chứng kiến cảnh con mình lớn lên và sợ hãi.” Poirot nói. “Cô không biết là ai ai cũng có ông bà tổ tiên với quá khứ bạo lực và độc ác à?” “Ông không hiểu rồi. Dĩ nhiên là có. Nhưng mà này, không phải ai cũng biết về quá khứ của họ. Còn chúng tôi thì biết. Quá khứ đó quá gần với chúng tôi. Và đôi khi… tôi thấy John nhìn tôi. Một cái nhìn lướt qua, chỉ chớp qua thôi. Giả sử là chúng tôi lấy nhau và có một trận cãi nhau đi, rồi nếu tôi thấy John nhìn tôi và… và anh nghi ngại?” Hercule Poirot hỏi. “Cha cô bị giết như thế nào?” Giọng Carla rõ ràng và dứt khoát. “Ông ấy bị đầu độc.” Hercule Poirot đáp. “Tôi hiểu rồi.” Một thoáng im lặng. Rồi cô gái nói tiếp bằng một giọng bình tĩnh, đều đều. “Ơn chúa, ông thật tinh ý. Ông thấy là chuyện đó ảnh hưởng thế nào, và nó can hệ ra sao. Ông không cố tìm cách khỏa lấp hay buông ra những lời an ủi.” “Tôi hiểu rất rõ,” Poirot nói. “Cái mà tôi không hiểu là cô muốn gì ở tôi?” Carla Lemarchant nói đơn giản. “Tôi muốn cưới John! Và tôi sẽ cưới John! Và tôi muốn có ít nhất hai đứa con gái và hai con trai. Và ông sẽ là người khiến chuyện đó thành sự thực!” “Ý cô là… Cô muốn tôi đi nói chuyện với hôn phu của cô ư? À không, tôi nói thế có ngốc không chứ! Cô đang đề nghị tôi làm một chuyện khác hẳn. Nói tôi nghe cô đang nghĩ gì trong đầu nào.” “Nghe này, ông Poirot. Tôi muốn ông hiểu, và hiểu cho rõ. Tôi muốn thuê ông điều tra một vụ án mạng.” “Ý cô là…?” “Đúng, chính là chuyện đó. Một vụ án mạng vẫn cứ là án mạng dù cho nó mới xảy ra hôm qua hay mười sáu năm trước đi nữa.” “Nhưng cô gái thân mến ơi…” “Chờ đã, ông Poirot. Ông vẫn chưa nghe hết chuyện đâu. Còn một điểm vô cùng quan trọng nữa.” “Là?” “Mẹ tôi vô tội,” Carla Lemarchant nói. Hercule Poirot cọ cọ mũi. Ông lẩm bẩm. “Ừ thì, thông thường… tôi hiểu…” “Đó không phải là cảm tính. Có lá thư của mẹ tôi. Mẹ để lại cho tôi trước khi bà chết. Lá thư được định là sẽ trao cho tôi khi tôi hai mươi mốt tuổi. Bà để lại chỉ nhằm khẳng định điều đó, tôi khá chắc như vậy. Trong thư chỉ nói về mỗi việc này. Rằng bà không phải hung thủ, bà vô tội, và tôi luôn có thể chắc chắn về nó.” Hercule Poirot đăm chiêu nhìn gương mặt trẻ trung đầy sức sống kia đang chiếu ánh mắt chăm chú vào mình một cách vô cùng nghiêm túc. Ông chậm rãi nói: “Dù sao đi nữa…” Carla mỉm cười. “Không, mẹ tôi không như thế! Ông đang nghĩ là bà nói dối… nói dối để tôi yên lòng ư?” Cô sốt sắng chồm tới trước. “Nghe này, ông Poirot, có những thứ trẻ con biết rõ. Tôi có thể nhớ được mẹ của mình, dĩ nhiên chỉ là những ký ức rời rạc thôi, nhưng tôi nhớ khá rõ bà là người như thế nào. Bà không nói dối… dù là nói dối vì mục đích tốt. Nếu có gì đó gây ra đau đớn bà cũng sẽ nói thẳng ra cho ta hay. Đi nha sĩ, hay gai đâm vào ngón tay – những thứ đại loại như vậy. Sự thật như là… là một thôi thúc tự nhiên trong con người bà. Tôi không nghĩ ngày đó tôi thực sự yêu quý mẹ lắm, nhưng tôi tin bà. Tôi vẫn tin bà! Nếu mẹ nói rằng bà không giết cha tôi thì tức là bà không giết ông ấy! Bà không phải là loại người long trọng viết ra những lời dối trá khi biết mình sắp chết.” Hercule Poirot chậm rãi, gần như miễn cưỡng, gật đầu. Carla tiếp tục. “Đó là lý do tôi có thể an tâm cưới John. Tôi biết mình có thể. Nhưng anh thì không. Anh tin rằng việc tôi nghĩ mẹ mình vô tội là lẽ tự nhiên thôi. Chuyện này phải được làm rõ, ông Poirot ạ. Và ông sẽ là người làm việc đó!” Hercule Poirot chậm rãi lên tiếng. “Cứ cho những gì cô nói là sự thật đi, thưa cô, nhưng đã mười sáu năm rồi!” Carla Lemarchant đáp ngay. “Ồ! Dĩ nhiên là chuyện này sẽ khó khăn lắm chứ! Không ai ngoài ông làm được cả!” Hercule Poirot khẽ hấp háy mắt. Ông nói. “Cô thật khéo nói, nhỉ?” Carla nói. “Tôi từng nghe danh của ông. Những vụ ông đã làm. Cái cách mà ông giải quyết chúng. Ông hứng thú với tâm lý học, đúng không? Vâng, thứ đó không thay đổi theo thời gian đâu. Những thứ vật chất đã mất rồi: đầu lọc thuốc lá và các dấu chân, những ngọn cỏ gãy. Ông không thể tìm thấy những thứ đó nữa. Nhưng ông có thể xem lại toàn bộ tình tiết vụ án, và có lẽ là nói chuyện với những người liên quan lúc đó nữa, tất cả họ đều còn sống, và rồi… và rồi, như ông vừa mới nói đây thôi, ông có thể ngả người ra ghế và suy luận. Và ông sẽ biết được chính xác chuyện gì đã xảy ra…” Hercule Poirot đứng lên. Một tay vuốt bộ ria mép. Ông nói: “Thưa cô, tôi rất vinh hạnh! Tôi sẽ không phụ lòng tin của cô. Tôi sẽ điều tra vụ án mạng giúp cô. Tôi sẽ lục lại những sự kiện từ mười sáu năm trước và tôi sẽ tìm ra sự thật.” Carla đứng lên. Mắt cô lấp lánh. Nhưng cô chỉ nói. “Tốt quá.” Hercule Poirot lúc lắc ngón tay trỏ đầy dứt khoát. “Chờ tí đã. Tôi nói là tôi sẽ tìm ra sự thật. Nhưng cô hiểu cho, tôi không thiên về phía nào cả. Tôi không tin lời cam đoan mẹ mình vô tội của cô đâu. Nếu bà ấy có tội thật… ây chà, thì sao đây?” Carla kiêu hãnh ngẩng đầu lên. Cô nói. “Tôi là con gái của bà. Tôi muốn sự thật!” Hercule Poirot đồng ý. “Được, vậy thì, tiến tới. À, nói thế không đúng. Phải là ngược lại. Trở về…” Mời các bạn đón đọc Năm Chú Heo Con của tác giả Agatha Christie & Trương Trung Tín (dịch).
Trùm Phản Chúa
Review của Quang Huy Nguyễn.​ "Tình, có cha vốn là địa chủ bị du kích cộng sản bắn chết. Bản thân hắn trốn vào Nam theo Chúa năm 1954. Lúc này Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA muốn triển khai chiến dịch "Phá Cộng sản ngay trong lòng Cộng sản". Chúng dự định tung gián điệp vào "mật khu" để chống phá từ bên trong. Và Tình được chúng tung về xây dựng "mật khu", dưới chiêu bài rước Chúa ra Bắc, mang bí danh N1. Bắt đầu từ đây diễn ra trận chiến thầm lặng nhưng gian nan, không kém phần khốc liệt giữa 1 bên là CIA và Chi Cục Tình báo Trung ương Mỹ ở miền Nam và 1 bên là Ty Công an Ninh Bình và Cục Phản gián Bộ CA. Với lợi thế 30 năm làm công an, tác giả đã dựng nên bối cảnh cuộc chiến đấu trí ác liệt giữa hai bên. Qua đó cho thấy tài trí của các chiến sĩ tình báo Việt Nam. Cái hay là bên cạnh nghiệp vụ tình báo được miêu tả nhuần nhuyễn, tác giả còn tập trung phân tích chiều sâu tâm tư, tâm lý nhân vật trong truyện rất sắc sảo. Nhất là những dằn vặt, đấu tranh tâm lý của Tình. Lần trước trốn vào Nam hắn cố gắng mang vợ con theo. Nhưng rồi con thì chết, vợ cũng không theo cùng được. Lần này quay về Tình đấu tranh dữ dội giữa hai lựa chọn. Theo vợ, theo Việt Minh thì hắn sẽ phản bội Chúa. Theo CIA thì vợ chồng hắn có thể sẽ chết. Thân phận làm kẻ gián điệp đứng giữa ngã ba đường, Tình rơi vào cuộc chiến khủng khiếp trong chính con người hắn. Hẳn sẽ làm gì đây? Làm theo lời Chúa hay làm kẻ phản Chúa? Trả thù cha hay quên đi mối hận thù và đi theo cách mạng? Sự giằng xé của Tình càng tăng thì kịch tính của truyện cũng càng căng thẳng và gay cấn. Liệu Tình có chiến thắng được con ác quỷ phục thù xấu xa trong trái tim hắn, liệu hắn có xứng đáng với tình yêu vô bờ bến vợ hắn dành cho hắn? Liệu chiến dịch "Phá Cộng sản ngay trong lòng Cộng sản" của CIA có thành công? Lâu lắm mới được đọc một tác phẩm trinh thám phản gián tuyệt vời đến thế. Tác phẩm đậm chất tình báo Việt Nam ngày xưa. Tác giả đã tái hiện một thế giới tình báo không tiếng súng, nhưng sự gian nan, khốc liệt và hiểm nguy của nó không thua gì súng đạn trên chiến trường. Tuy nhiên, tác giả không chỉ chứng tỏ thế mạnh ở vốn kinh nghiệm trinh thám tình báo, mà còn cho thấy tài năng khi tập trung mô tả những suy nghĩ, giằng xé trong con tim Tình. Phải nói đọc những trang đấu tranh nội tâm của Tình mình rất phê, những trang viết miêu tả tận cùng đớn đau, tận cùng đau khổ và dằn vặt của cả hai vợ chồng hắn. Thêm vào đó tác giả đã lột tả được mâu thuẫn dai dẳng, nhức nhối giữa chính quyền cách mạng và đồng bào theo Công giáo. Một bên là cách mạng, một bên là Chúa. Bức tranh một xóm đạo trong thời buổi loạn ly hiện lên sinh động và rõ nét. Tác phẩm Trùm Phản Chúa là một trong ba tiểu thuyết nằm trong Tập 1 Tuyển tập của Nhà văn Trần Diễn. Mình sẽ cố gắng đọc thật nhanh và review hết các tập truyện còn lại trong tập này, cũng như trong hai tập khác còn lại. Chỉ tiếc rằng tác phẩm xuất bản từ năm 2003, đến nay có lẽ không còn trên hiệu sách." *** Trần Diễn (sinh 14 tháng 10 năm 1944) là một nhà văn công an Việt Nam, Đại tá Công an Nhân dân Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản Công an nhân dân[1], Tổng biên tập Tạp chí Sách và đời sống. Trần Diễn được độc giả Việt Nam biết đến với nhiều cuốn tiểu thuyết hình sự - tâm lý xã hội về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống, thuộc số ít nhà văn Việt Nam viết về đề tài tình báo, phản gián, trinh thám (ở đề tài này Việt Nam có các tên tuổi như Phạm Cao Củng, Trần Diễn,...). Trần Diễn sinh năm 1944 tại Hà Nam, lớn lên tại Ninh Bình.Nhà văn Trần Diễn từng làm nhiều công việc khác nhau trước khi làm việc tại Nhà xuất bản Công an nhân dân. Tại Nhà xuất bản Công an nhân dân, ông làm biên tập viên, rồi lần lượt giữ cương vị Trưởng phòng, Phó Giám đốc rồi Giám đốc - Tổng biên tập Nhà xuất bản cho đến lúc nghỉ hưu vào năm 2005. Trần Diễn đến với văn chương một cách tự nhiên, như một người có nhu cầu giãi bày tâm sự, ông viết từ những thúc bách của nghề nghiệp, từ những điều ông được chứng kiến, viết văn là cách hay nhất để ông có thể nói ra được những điều mình muốn nói. Ông được học qua hơn 10 trường lớp dài hạn, ngắn hạn với nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng chưa từng học về văn chương. Tháng 11 năm 2011, nhà văn Trần Diễn bị đột quỵ, liệt nửa người bên trái nhưng trí tuệ của ông không bị ảnh hưởng, ông vẫn đảm nhiệm chức vụ Tổng biên tập Tạp chí Sách và đời sống, lấy nhà riêng làm tòa soạn. *** Mật điện. (khẩn) Gửi Trưởng ty Công an Ninh Bình. Theo mật điện số 5 của Ty, hồi 13 giờ hôm nay báo cáo về chiếc thuyền lạ, Bộ nhận định đó là thuyền của bọn gián điệp biệt kích Mỹ-ngụy đã xâm nhập vào vùng biển Kim Sơn. Ty cho dùng ngay phương án truy lùng. Một giờ một lần báo cáo kết quả về Bộ. Cục trưởng Cục Phản gián. Nguyễn Quý Dương Sau khi nhận được chỉ thị của Bộ, các tổ truy lùng của tỉnh và Công an huyện Kim Sơn bắt tay ngay vào chiến dịch. Họ đã lùng sục suốt đêm trên tất cả các đồng cói, kênh rạch, nhưng vẫn chưa có kết quả. Thiếu uý Đặng Văn Thành, tổ trưởng tổ truy lùng số 8, vóc người tầm thước, da ngăm đen, dừng tay chèo, ngắm nhìn những hạt sương trên tàu cói, cành sú vẹt. Phía trước anh, màu đỏ hồng cả một vùng trời và biển gặp nhau. - Báo cáo đồng chí, chắc nó đã trốn vào nơi nào đó chứ không thể nằm ngoài đồng cói này được đâu! - Có thể, nhưng chúng ta phải chấp hành mệnh lệnh. Trung sĩ Lân, khoảng hai mươi mốt tuổi, hai má bầu bầu, đưa tay phải dụi mắt, nói: - Đi suốt đêm rồi. Nghỉ vài tiếng được không anh? Thượng sĩ Mạnh nước da xanh, khép áo bạt cho đỡ lạnh vì gió biển và hơi sương, nheo đôi mắt ngái ngủ. Thiếu uý Thành rút hai điếu thuốc lá đưa cho hai người: - Nghỉ một lúc rồi đi tiếp! Cả ba người ngả lưng xuống thuyền. Thiếu uý Thành cởi áo khoác ngoài, xoải tay vươn vai rồi ngồi lên mũi thuyền nhường cho Lân và Mạnh nằm. Họ ngủ được hơn một tiếng, Thành đánh thức hai người dậy. Mạnh xoải tay vươn vai rồi lấy khăn hứng từng giọt sương lau mặt. Thành cầm nắm cơm nguội to như quả bưởi bẻ từng miếng đưa cho Mạnh và Lân rồi mở gói thức ăn. - Muối vừng để ở thành thuyền này này. ​​Mời các bạn đón đọc Trùm Phản Chúa của tác giả Trần Diễn.​
Bao Thanh Thiên
Những vụ án li kỳ, hấp dẫn, hài hước, lôi cuốn người đọc Tài trí thông minh, bảo vệ chính nghĩa, phá án nhanh gọn Chấp pháp nghiêm, không khiếp sợ uy quyền hay vị nể tư tình Thanh liêm, chính trực, chí công vô tư, yêu nước, thương dân như con Hình ảnh vị quan Bao Hắc Tử - chuyên gia phá án đời Tống sẽ được khắc họa trong tập truyện thú vị này. Các bạn cùng đón đọc để thử tài phá án cùng Bao Thanh Thiên. *** Bao Tam Hắc từ nhỏ đã thông minh, lanh lợi được thầy giáo vô cùng yêu quý. Thầy đặt tên cho cậu là Bao Chửng, có nghĩa là cậu nhất định sẽ trở thành dường cột trong việc trị an. Năm 28 tuổi, Bao Chửng đỗ tiến sĩ và bước chân vào con đường làm quan. Ông từng giữ các chức: tri huyện, quan châu, phủ doãn, từng làm sứ giả sang vương quốc Khiết Đan ở Trung - Bắc Á thời đó. Ông cũng nắm những vị trí quan trọng trong lĩnh vực tài chính, giám sát và làm quan tới chức Tể phụ (quan cố vấn riêng của Hoàng đế). Bao Chửng làm quan rất công bằng, không bao giờ tư lợi, ông thanh liêm, thẳng thắn, rành mạch, rõ ràng, phá án như thần, yêu thương dân chúng, được mọi người ca ngợi là “Bao Thanh Thiên” (Ông Bao Trời Xanh). *** Bao Chửng người Hợp Phì, Lư Châu (nay là thành phố Hợp Phì, tỉnh An Huy, Trung Quốc). Cha ông là Bao Nghi, từng giữ chức đại phu trong triều. Sau khi qua đời, Bao Nghi được phong Hình bộ thị lang. Lúc còn bé, Bao Chửng đã nổi tiếng là đứa con hiếu thảo, đôn hậu, sống mực thước. Năm 1027, ông thi đậu tiến sĩ, được cử đến nhậm chức Tri huyện Kiến Xương (nay thuộc tỉnh Giang Tây), nhưng vì song thân già yếu, ông không thể làm quan xa nên xin khoan nhận việc, để ở nhà chăm sóc cho cha mẹ. Sau khi cha mẹ qua đời, Bao Chửng đi nhậm chức Tri huyện Thiên Trường (nay thuộc tỉnh An Huy), sau đó là Tri châu Đoan Châu[4] (nay thuộc Thành phố Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông). Nghe tiếng Bao Công tận tụy và thanh liêm, nhà vua cho triệu ông về kinh giao cho chức Trung thừa, rồi lần lượt thăng các chức Giám sát ngự sử, Trực học sĩ Long đồ các, Tam tư Hộ bộ Phó sử, đến Thiên Chương các Đãi chế (nên người đời sau còn gọi ông là Bao Đãi chế). Năm 1050, vì đàn hặc quốc trượng Trương Nghiêu Tá làm phật lòng hoàng đế Nhân Tông, ông bị thuyên chuyển đến Hà Bắc làm Nhậm đốc chuyển vận sứ. Bốn năm sau, ông mới được triệu về kinh nhậm chức Phủ doãn phủ Khai Phong. Đây là chức vị rất quan trọng, tương đương thị trưởng Bắc Kinh ngày nay, lo việc trị an kinh thành. Lúc ở phủ Khai Phong, Bao Công thường ngồi hướng Nam để tỏ lòng tôn kính hoàng đế, nhưng khi thăng đường ông lại ngồi theo hướng Bắc, do vậy trong các phim về Bao Công có câu "Bao Công đồ đảo tọa Nam nha Khai Phong phủ". Bao Công làm quan phủ doãn phủ Khai Phong chỉ trong vòng 1 năm. Thời gian còn lại, ông được thăng chức Thừa tướng, Ngự sử đài. Chức vụ cao nhất mà Bao Công đảm nhận ở cuối đời là Khu mật Phó sứ, tương đương với chức Phó Tể tướng. Thống kê ghi lại, những người bị Bao Chửng trừng trị không dưới 30 người là đối tượng quyền quý, hoàng thân quốc thích trong xã hội đương thời. Thậm chí ngay cả quốc trượng Trương Nghiêu Tá – cha đẻ của Trương quý phi được vua Nhân Tông sủng ái cũng bị Bao Chửng đàn hặc mà mất chức. Nhà văn đời Tống Âu Dương Tu đã dành cho Bao Chửng những lời bình luận: “Thuở nhỏ hiếu thuận, tiếng thơm khắp xóm làng, cuối đời chính trực, lưu danh khắp triều đình”. Trong 27 năm làm quan, vị trí công việc rất đa dạng: làm Tri huyện Thiên Trường; Tri phủ Đoan Châu, Doanh Châu, Dương Châu, Lư Châu, Triệu Châu; Tri phủ Giang Ninh rồi Phủ doãn phủ Khai Phong, nắm giữ toàn bộ việc hình pháp, trị an trong kinh thành. Bao Công nhận mệnh đi sứ Khiết Đan, rồi về kinh làm Lễ bộ Thị lang, Tam ti Hộ bộ… Trước sau gánh vác công việc ở các bộ Công, Hình, Binh, Lễ. Chức vụ lớn nhất của Bao Công trước khi qua đời là Khu mật Phó sứ, tương đương phó tể tướng. Sau ông được phong hàm Thiên Chương các đãi chế, Long Đồ các trực học sĩ, Khu mật trực học sĩ. Năm 1062, ông lâm bệnh mất ở nơi làm việc, hưởng thọ 63 tuổi, điều đáng nói ở đây, là thời gian từ lúc lâm bệnh cho đến khi mất chỉ có 13 ngày, nên người ta nghi ngờ rằng ông mất một phần do thuốc của hoàng đế ban cho, do lúc sinh thời Bao Chửng từng xử những vụ án vạch mặt bọn thái y, nên bị bọn chúng căm ghét (từ lúc uống thuốc đến khi phát bệnh mất chỉ là 9 ngày). Sau này, các nhà khoa học thuộc Phòng Nghiên cứu năng lượng vật lý cao Học viện Khoa học Trung Quốc đã phối hợp với Viện Bảo tàng tỉnh An Huy tiến hành xét nghiệm những mảnh xương của Bao Công. Kết quả cho thấy: Hàm lượng các nguyên tố thủy ngân, sắt và canxi trong xương Bao Công cao hơn nhiều so với xương của người hiện đại, trong khi đó hàm lượng chì và arsen (thạch tín) lại thấp hơn người thường. Ngày xưa, độc dược được sử dụng chủ yếu là tì sương (thạch tín) và chu sa (thủy ngân), chúng có độc tính cực mạnh. Kết quả này sơ bộ loại trừ khả năng Bao Công bị trúng độc cấp tính do uống phải thuốc có chứa thạch tín.[5] Hoàng đế Tống Nhân Tông đích thân làm chủ lễ truy điệu, phong cho Bao Công là Lễ bộ Thượng thư, ban cho thụy hiệu "Hiếu Túc", có nghĩa là hiếu đạo và thiết diện vô tư và còn phái một đoàn ngự lâm quân hộ tống linh cửu ông về mai táng ở quê nhà ông. *** Chuyện xảy ra đúng vào mùa thu hoạch. Trời hãy còn tờ mờ sáng, trong ánh sáng yếu ớt của ban mai thoang thoảng mùi hương cỏ cây và mùi nhựa thông. Phía đông đầu thôn, một nông phu cường tráng ra đồng cắt lúa. Trong tiếng soàn soạt của chiếc liềm, từng hàng từng hàng lúa ngã rạp ngay ngắn trên mặt bùn. Chăm chú làm việc, nhưng lòng chàng lại cảm thấy bất ổn, nên chốc chốc lại ngừng tay liềm, ngẩng nhìn về thôn trang. “Cù – cú,” tiếng cú kêu như báo trước có điềm chẳng lành xảy ra. Năm Bắc Tống khánh lịch⦾, vùng đất Trung Châu là nơi vừa phồn thịnh lại hỗn loạn, bọn người tranh loạn phát tài mọc lên như nấm, khiến thiên hạ mất đi cảnh an vui thái bình. Thôn này tên gọi Bảo Thạch, cách huyện thành Khải Khánh 30 dặm, là một bồng lai tiên cảnh ngoài thế sự loạn lạc. Do đất đai màu mỡ phì nhiêu, nguồn nước sung túc, bóng cây râm mát, thoạt nhìn đã tạo cho ta cảm giác đây là nơi tốt nhất để trăm họ an cư lạc nghiệp. Bảo Thạch thôn có nhiều đồng lúa rộng lớn, sinh sản ra giống gạo thơm nổi tiếng khắp xa gần, ngay cả Tống Hoàng đế cũng biết tiếng. Thế nhưng, người đời vốn sợ nổi tiếng là giàu có, bởi càng giàu có thì bọn đạo chích càng để ý đến. Chàng nông phu cuối cùng đành phải dừng tay, một phần có thể là vì ra đồng sớm nên bụng đói, một phần vì lòng chàng thấp thỏm không yên nên đành phải quay về nhà. Chàng là một phú nông, tên gọi Vương Thế Bân cả nhà từ đời này qua đời khác bám ruộng lúa, cha truyền con nối vì thế mà giàu có. Phụ thân chàng là Vương Thiện Nhân, tuổi đã cao không thể lo liệu việc đồng áng, nên toàn bộ công việc đều giao cho con trai. Chàng nổi tiếng khắp thôn về tính cần cù, một tay lo liệu trong ngoài. Tuy mướn người làm, nhưng chàng không để họ ra đồng sớm, mà muốn chính mình là người đầu tiên đổ mồ hôi trên cánh đồng yêu quý. Vợ của Vương Thế Bân là Quỳnh Nương, con gái nhà họ Trần trong huyện thành, tính nết dịu dàng, dáng người đẹp đẽ, từ khi gả về nhà họ Vương, sớm hôm lo phụng sự cha mẹ chồng, nhất mực hiếu thuận, ngoại trừ cách đây vài năm có xảy ra một nhầm lẫn nhỏ, mọi người trong nhà đều sống hết sức thân mật, thương yêu nhau. Còn cách nhà không xa mấy, Vương Thế Bân đã vội lên tiếng gọi: “Nương tử! Nương tử!” Đáp lời chàng chỉ là tiếng gà vịt kêu. Chàng đẩy cửa bước vào phòng, mền gối đã được xếp gọn gàng ngăn nắp, nhưng Quỳnh Nương thì không có ở đó. Chàng chạy vội vào bếp, hy vọng vợ mình đang chuẩn bị bữa sáng, nhưng vẫn không thấy. “Nương tử! Nương tử!” Vương Thế Bân lo lắng kêu to, cảm giác bất ổn càng lúc càng vây chặt lấy chàng. Lúc bấy giờ trời đã sáng tỏ, người làm đều đã dậy, đang rửa mặt ngoài giếng, nghe thấy chủ nhân tìm vợ, bọn họ đều vây lấy chủ nhân để hỏi xem đã xảy ra chuyện gì. “Các ngươi có nhìn thấy phu nhân ta đâu không?” Mọi người đều lắc đầu đáp: “Không thấy, không thấy, chúng tôi thức dậy đã không thấy phu nhân. Mà lạ thật! Bình thường phu nhân luôn dậy sớn hơn chúng tôi, chuẩn bị cơm nước sẵn sàng, hôm nay vẫn ngỡ phu nhân chưa dậy!” Đúng lúc mọi người đang bàn luận xôn xao, Vương Thế Bân bỗng nhìn thấy bóng người lảo đảo đi trên con đường nhỏ trước cổng. Khắp người đầy máu, đến ngạch cửa, người đó như không còn sức chịu đựng. “Ầm!” – y đổ nhào xuống đất. Vương Thế Bân chạy bổ về phía trước, chàng nhận ra đây chính là Tiến An, tên gia đồng của nhà Quỳnh Nương vừa đến hôm qua. Phụ thân của nàng bệnh nặng nên sai Tiến An đi mời nàng về chăm sóc. “Tiến An! Tiến An! Ngươi sao vậy?” Vương Thế Bân đỡ y lên, lay nhẹ đầu hỏi. “Chủ nhân! Chủ nhân, phu nhân…” Tiến An kinh hoàng đáp. “Quỳnh Nương ở đâu, nàng làm sao? Ngươi nói mau!” Vương Thế Bân trợn trừng mắt nhìn y. “Phu nhân, phu nhân bị người ta giết chết rồi!” Tiến An đưa bàn tay đầy máu che mặt bật khóc. “Sao?” Vương Thế Bân như sét đánh ngang mày, ngã ra bất tỉnh. Mọi người vội đặt chủ nhân lên giường, vấy nước cho chàng tỉnh dậy. Vương Thế Bân tỉnh lại, rất lâu vẫn không nói được lời nào, một lúc sau mới cất giọng khàn đặc lẩm bẩm: “Không nghe lời ta, sao không nghe lời ta!” Một người tỉnh táo nói: “Thưa chủ nhân, hay là mau đi tìm thi thể của phu nhân về?” Vương Thế Bân bấy giờ như tỉnh cơn mê, gật đầu vội nhảy ra khỏi giường, lấy trúc cột lại thành bó, dẫn theo một người làm, cùng với Tiến An đi tìm Quỳnh Nương. Tiến An lảo đảo chạy vội về phía rừng Hắc Phong. Đây là khu rừng tự nhiên nằm trên đường nối giữa Bảo Thạch thôn và huyện thành, trong rừng đồi núi nhấp nhô, thông xanh dày đặc, địa hình cực kỳ phức tạp, dã thú thoắt ẩn thoắt hiện khiến khu rừng vốn âm u càng tăng thêm phần nguy hiểm. Ngoài ra mấy năm gần đây, nơi này thường có đạo tặc hoành hành cướp phá khách bộ hành, nên sự sợ hãi của dân chúng đối với khu rừng càng lúc càng tăng. Trên một đám cỏ bị quần nát, Vương Thế Bân lờ mờ nhìn thấy thi thể bầm nát lẫn lộn thịt và máu của vợ mình. Vai trái của nàng bị chém đứt chỉ còn dính lại sợi gân trắng, tay phải đã rớt lìa nằm bên cạnh, bu quanh là đàn kiến, thân dính đầy máu, khuôn mặt càng thương tâm hơn, bị vô số những nhát chém, hầu như không còn hình dạng… “Nương tử! Nương tử!” Vương Thế Bân quỳ xuống bên cạnh thi thể Quỳnh Nương khóc nức nở. Một lúc sau chàng mới từ từ bình tĩnh, một mặt lo kêu người đào huyệt mộ, mặt khác cởi lấy chiếc áo đầy máu của vợ mình, quyết tâm đến nha huyện kêu oan. Trước cửa nha huyện, bên phải có treo một cái trống to, Vương Thế Bân vội cầm lấy dùi trống đánh ba tiếng. Quỳ ở công đường, chàng ngẩng nhìn lên. Kỳ lạ thay! Vị đại quan ngồi trước Điêu Hoa án không phải là quan huyện lệnh, mà là vị lão gia mặt đen, thân hình to lớn, ông đưa đôi mắt đầy uy lực nhưng không hung ác nhìn chàng. Ô! Sao mà quen thuộc đến thế? Vương Thế Bân nghĩ. Chàng sực nhớ ra, suýt chút nữa thì bật kêu lên: Đây có phải là Thanh Thiên đại lão gia Bao Công? Đúng vậy, Đại Tống Thiên Chương Các đặc chế, Long Đồ Các học sĩ, Bao Chưởng phủ doãn phủ Khai Phong, tuần sát đến huyện Khải Khánh, nghe báo có vụ án giết người nên đã thân hành đứng ra điều tra. Vương Thế Bân tạ ơn trời đất. Có Bao đại nhân đứng ra xét xử thì nỗi oan của Quỳnh Nương nhất định sẽ được điều tra ra! Hung thủ nhất định trốn không thoát. Bao Công như đọc được ý nghĩ của chàng bèn hỏi: “Vương Thế Bân phu nhân của ngươi hà cớ gì mà phải rời nhà để đi qua rừng Hắc Phong? Ngươi hãy thành thật khai rõ.” “Vâng, thưa đại nhân.” Vương Thế Bân bắt đầu kể lại: Hôm qua, lúc chập choạng tối thì Tiến An, tên gia đồng của nhà Trần đại nhân vội vội vàng vàng đến, báo cho Quỳnh Nương hay lão quan mấy ngày nay bị cảm phong hàn, muốn con gái về lo thuốc thang, săn sóc cha già cho đỡ nỗi nhớ thương. Quỳnh Nương nghe nói cha bị nhuốm bệnh, trong lòng không yên, hận mình không có đôi cánh để bay về báo hiếu. Nhưng muốn đi thì phải bàn bạc cùng chồng, đợi chàng đồng ý mới được. Lúc bấy giờ Vương Thế Bân vẫn chưa về, không thể quyết định ngay, nên nàng bảo Tiến An hãy ăn cơm trước, đợi chàng về.   ​​Mời các bạn đón đọc ​Bao Thanh Thiên của tác giả Trương Hiểu Nhiên & Ngô Bảo Hòa.