Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiếng Gọi Vĩnh Cửu

A-na-tô-li I-va-nốp (sinh năm 1928) - nhà văn Nga nổi tiếng, người được giải thưởng Quốc gia Liên Xô, đã hoạt động trong nền văn học Xô-viết hơn 30 năm. Tên tuổi ông gắn liền với việc khai thác dưới góc độ văn học vùng Xi-bi-ri cùng với lịch sử và hiện tại của nó. I-va-nốp sinh ra và lớn lên tại làng Sê-mô-na-i-kha thuộc miền đông Ca-dắc-xtan. «Ở đó đời sống Xi-bi-ri và con người Xi-bi-ri vẫn đi theo nề nếp của mình», - sau này ông đã viết về làng quê của mình như vậy. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp khoa báo chí trường đại học tổng hợp, ông đã làm việc một số năm tại các tòa soạn các báo huyện ở vùng Xi-bi-ri, Viễn Đông và đã từng đi nhiều nơi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông xuất bản năm 1956. Tiếp đó là các tiểu thuyết lớn: «Bóng đen biến mất giữa ban ngày», «Tiếng gọi vĩnh cửu» (1970) rất nổi tiếng ở Liên Xô và ở nước ngoài. Hầu hết các tác phẩm của ông đều được đưa lên màn ảnh, các bộ phim vô tuyến truyền hình nhiều tập dựa theo cốt truyện các tiểu thuyết của ông đã đạt được thành công lớn. Sự việc diễn ra trong cuốn sách này bao gồm gần nửa thế kỷ cuộc sống của một làng quê Xi-bi-ri-từ đầu thế kỷ đến năm 1942, năm thứ hai trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống bọn phát-xít Hít-le. A-lếch-xan-đrơ Ốp-tsa-ren-cô, một nhà ngữ văn học lớn của Liên Xô đã viết về cuốn tiểu thuyết «Tiếng gọi vĩnh cửu»: «...chúng ta ngập vào trong thế giới của những xung đột cực kỳ gay gắt, những tình huống vô cùng căng thẳng, những đụng độ về trí tuệ, tinh thần và thể lực ác liệt nhất. Ở đây những khát vọng sôi lên sùng sục, những con người của những niềm tin khác nhau mâu thuẫn với nhau phải dùng đến cả đại bác, tiểu liên, súng máy, súng ngắn, súng lục, nắm đấm và cả hàm răng nữa. Ở đây người ta cũng cảm thấy hơi thở của sự diệt vong gần ngang như hơi thở của sự sống... bởi vì có một thế giới đang sụp đổ và một thế giới khác đang ra đời...» *** Vào một ngày tháng Sáu năm 1908, trong phòng hỏi cung của sở hiến binh thành phố Tôm-xcơ có hai người: dự thẩm La-khơ-nốp-xki, chừng ba mươi lăm tuổi, chiếc mũi tẹt lúc nào cũng như láng mỡ, và cai ngục Cô-xô-rô-tốp, một gã đàn ông vẻ ngoài khó coi với chiếc quai hàm bạnh ra bè bè. La-khơ-nốp-xki ngồi sau bàn làm việc uống nước chè, mình chỉ mặc một chiếc sơ-mi lót trong. Trời nóng nực, áo khoác ngoài nhà binh treo trên lưng ghế tựa. Cô-xô-rô-tốp đứng phục dịch, khăn vắt ngang tay, trông hắn chẳng khác gì một tên hầu bàn ở các quán ăn. La-khơ-nốp-xki đặt chiếc cốc không xuống khay, lên tiếng: - Ta có xem bản báo cáo của anh gửi cấp trên. Anh muốn xin về nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki phải không? - Thưa ngài, đó là điều con vẫn mơ ước từ thời trẻ đấy ạ. - Mơ ước - đó là điều rất tốt. Mơ ước của con người cần phải được thực hiện. - Dạ, ngài có lần đã hứa, nếu con lập được công, ngài sẽ giúp. - Được, được, ta sẽ nói hộ. Cho anh đi thì hơi tiếc, nhưng cũng phải khen thưởng anh vì sự phục vụ tận tụy và trung thành. - La-khơ-nốp-xki đẩy chiếc khay với bộ ấm chén sang một bên. - Thôi, bây giờ ta lại bắt đầu với mấy người đồng hương từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ của anh... Làm thế nào mà anh chộp được chúng thế? - Dạ, thưa ngài Ác-nôn-đơ Mi-khai-lô-vích, hôm đó con đang đi đến rạp xem xi-nê. Khi đi ngoài phố, bao giờ con cũng chú ý quan sát xung quanh, xem có gì đáng khả nghi không? Con đang nhìn thì bỗng thấy từ một ngõ hẹp ngay trước mặt có hai người bước ra, rồi vội vã đi thẳng. Con nghĩ: có cái gì đáng nghi lắm... Vừa lúc đó, một đứa ngoái nhìn lại. Con ngạc nhiên nhận ra đó là Pi-ốt Pô-li-pốp. Đồng hương! Thế còn người đi với hắn là ai? Thôi đúng là An-tôn Xa-vê-li-ép rồi! Hai đứa hồi năm chín trăm linh năm, linh sáu đã bị giam ở nhà tù Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Lúc đó con làm cai ngục ở đấy. Con nghĩ, không biết chúng đến Tôm-xcơ để làm gì? Và thế là con thổi còi... - Thôi, được rồi, khá lắm. Dẫn từng đứa một vào đây. La-khơ-nốp-xki khoác chiếc áo nhà binh lên vai, châm lửa hút. Khói thuốc bay ra ngoài phòng theo lỗ thông hơi của chiếc cửa sổ bịt bằng lưới thép. Chưa đầy hai phút sau, Cô-xô-rô-tốp đã đẩy An-tôn Xa-vê-li-ép vào phòng. An-tôn mặc chiếc áo vét-tông nhàu nát, mấy túm tóc màu bạch kim rủ lòa xòa trước trán dưới vành mũ lưỡi trai. Đôi mắt trong và rất sáng nhìn La-khơ-nốp-xki đầy vẻ hằn học, cau có. Tên dự thẩm rít một hơi thuốc, bước đến bên cạnh An-tôn, hất đầu chỉ hai cặp giấy dày cộp nằm trên bàn, cười gằn: - Tôi vừa mới hỏi xin hồ sơ cá nhân của anh và Pô-li-pốp ở sở hiến binh Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về đấy. Thế nào, bây giờ thì còn khăng khăng ngoan cố nữa không?   * * *   Gần một tháng trước đây, An-tôn Xa-vê-li-ép vừa tròn 18 tuổi. Và cũng đúng vào ngày sinh, anh tổ chức lễ cưới. Vợ anh là Li-da Da-kha-rô-va, con gái ông Nhi-can-đrơ Da-kha-rốp, một đảng viên Đảng xã hội, quê ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Ông đã hy sinh hồi tháng Ba năm 1905 trong một chuyến vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki. An-tôn, sinh ra và lớn lên ở làng Mi-khai-lốp-ca nhỏ bé thuộc xã San-ta-ra, cách Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ chừng trăm rưởi véc-xta1. Cha của cậu, Xi-lan-chi Xa-vê-li-ép, rất nghèo, như ở Mi-khai-lốp-ca người ta thường nói, «nghèo hơn cả con chó của cố đạo». Câu đó có nghĩa gì, không bao giờ An- tôn có thể hiểu được, vì ở Mi-khai-lốp-ca vốn không có nhà thờ, không có cố đạo, và lẽ dĩ nhiên, không có cả chó của cố đạo. An-tôn lớn lên như một đứa trẻ lêu lổng, thường hay đánh đập hai em trai là Phê-đô và I-van. Tất cả trẻ con làng Mi-khai-lốp-ca đều sợ cậu chết khiếp. Chưa ai biết An-tôn rồi sẽ lớn lên thành người như thế nào, thì mùa xuân năm 1904, Mi-tơ-rô-phan, em ruột của Xi-lan-chi, làm nghề thợ mộc, từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về thăm làng Mi-khai- lốp-ca. - Này chú Mi-tơ-rô-phan, chú đưa thằng An-tôn ra thành phố một thời gian nhé? - người anh hỏi. - Có thể chú dạy nghề cho nó. Ở nhà tôi và mẹ nó chịu không làm sao bảo được nó. Thằng bé sẽ hỏng mất thôi. Nghe nói hình như còn kết bạn với bọn chuyên ăn trộm ngựa, được chúng dạy cho cờ bạc. Ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ An-tôn rất thích, nhưng không chịu học nghề thợ mộc. Suốt ngày cậu lang thang khắp các phố, làm quen với bọn du côn, đánh bạc với chúng, tìm cách móc túi những người say rượu nằm lăn lóc các quán, và nhiều lần bị đánh nhừ tử. Rồi bỗng nhiên cậu bỏ tất cả những trò đó và trở nên say mê bẫy chim ở các cánh rừng xung quanh thành phố, đưa ra chợ bán hoặc đổi lấy bánh quế cho Pi-ốt Pô-li-pốp, con trai một chủ hiệu buôn ở gần đấy. Bản thân An-tôn không ưa của ngọt, bao nhiêu bánh cậu đều cho Li-da có đôi chân thon thả, «con lão khổ sai» - như người ta thường gọi cô. Cô bé Li-da này, người gầy đét như một bộ xương, đầu gối nhọn hoắt và cặp lông mày đen rất dài, lúc đó chừng mười bốn tuổi, nhà ở cùng phố với chú Mi-tơ-rô-phan. Bà mẹ cô hình như bị bệnh lao, ho quanh năm suốt tháng, làm việc ở nhà máy xà-phòng. An-tôn quan tâm đến Li-da chỉ vì cô là con gái của một người tù khổ sai. «Cũng hay, không biết vì sao mà người ta bắt ông ta đi đày, - cậu nghĩ, - chắc có lẽ vì đâm chết ai đó». Một lần, An-tôn đem điều này ra hỏi Gri-gô-ri, con trai cả của chú Mi-tơ-rô-phan làm nghề đốt lò ở đề-pô xe lửa. Anh cao lớn, xương xẩu, đôi mắt to, người bao giờ cũng sặc mùi khói và bồ hóng. Gri-gô-ri là một thanh niên rất vui nhộn, thường hay cho An-tôn đi theo câu cá, và nói chung, đối xử với cậu thân mật, bình đẳng như với một người bạn cùng lứa tuổi. - Con người muốn tìm sự thật nên bị tống đi đày khổ sai, - Gri-gô-ri nói. Anh chăm chú nhìn An-tôn rồi tiếp thêm: - Ông ấy, cha của Li-da, là đảng viên Đảng Xã hội. - Đảng Xã hội là cái gì? - Là cách mạng. - Thế cách mạng là cái gì? Gri-gô-ri phá ra cười, và không hiểu sao, anh lại nháy mắt nhìn An-tôn: - Thế nào, lạ lắm phải không? Rồi anh cũng sẽ biết được thôi. Mọi cái đều có lúc của nó. Ít lâu sau, An-tôn biết được rằng cả Gri-gô-ri, cả chú Mi-tơ-rơ-phan, thậm chí cả bà thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na cũng là những người cách mạng, mặc dù họ tìm mọi cách để giấu kín, không cho An-tôn biết điều này. Và khi thấy An-tôn đã biết hết mọi chuyện, suýt nữa họ bắt cậu phải trở về với bố mẹ ở làng Mi-khai-lốp-ca. Găng nhất là thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na. Nếu không có Gri-gô-ri, chắc chắn An-tôn đã phải về rồi. - Cha ạ, con thật không hiểu cha muốn gì?! - một lần, Gri-gô-ri đã to tiếng với cha. Anh túm lấy bộ quân bài của An-tôn vừa bị thím U-li-a-na tước được vứt trên bàn, lắc lắc trong không khí. - Cha muốn để cho An-tôn cứ đi theo con đường này à? Càng để lâu thì càng khó chữa đấy. Cha phải hiểu rằng, vào cái tuổi này, ma quỷ nào biết nó muốn gì. Toàn những chuyện khác thường! Cho nên, cần phải tìm cách giúp đỡ An-tôn! Và ngay trong ngày hôm đó, chỉ nửa giờ sau, trong lúc nhận tài liệu bí mật từ tay liên lạc viên tại một ga xép ở ngoại ô thành phố, Gri-gô-ri - anh thanh niên Gri-gô-ri bao giờ cũng sôi nổi, không biết chán nản là gì, người đã phản đối việc gửi trả An-tôn về làng Mi-khai-lốp-ca, - đã bị cảnh sát bắn trọng thương. Chiều hôm đó anh tắt thở trên tay An-tôn, chỉ kịp nói mấy lời: - An-tôn, nếu anh đi tìm sự thật, thì nhà tù, khổ sai và, có thể, cả cái kết cục như thế này... sẽ đợi anh... Anh có dám đi không? - Đi! - Không sợ à? - Không! - Tốt lắm... - Tôi cũng sẽ trở thành người như chú! - Tôi tin... Chẳng bao lâu sau, An-tôn đã được nếm mùi tù ngục lần đầu tiên. Cả anh, cả Li-da, cả Pi-ốt Pô-li-pốp, - mặc dù Pi-ốt là con trai của một chủ hiệu khá giàu có. Dần dần, An-tôn và Pi-ốt trở nên thân nhau. Tình bạn của họ chỉ bị có một điều duy nhất làm cho vẩn đục: từ bao giờ không biết, cả hai người đều đã thầm yêu Li-da. Không hiểu cô gái có cái gì làm cho anh chàng Pi-ốt phải say mê? Li-da không xinh, chỉ có đôi mắt của cô là đẹp, đôi mắt hơi xanh như làn nước suối, bao giờ cũng lấp lánh một thứ ánh sáng vừa sống động, vừa bồn chồn. An-tôn yêu cô vì sự táo bạo đến liều lĩnh của cô, mặc dù nhìn bề ngoài thì không thể kết luận như vậy được. Mới 14-15 tuổi, cô đã nhiều lần đến Tôm-xcơ và chuyển tài liệu mật, thậm chí cả vũ khí nữa, từ đấy về. Về phía Li-đa, cô đối xử với An-tôn và Pi-ốt bao giờ cũng như nhau; và mãi cho tới tận thời gian gần đây cũng không biết được là cô thích ai hơn. Trong thâm tâm, An-tôn cho Pi-ốt có nhiều lợi thế và triển vọng hơn, đặc biệt là từ sau ngày ở tù ra. Họ bị bắt vào cuối tháng Mười năm 1905, tất cả gồm bốn người: An-tôn, Li-da, Pi-ốt và I-van Mi-khai-lô-vích Xu-bô-tin - người lãnh đạo tổ chức Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga ở thành phố Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ, một nhà hoạt động cách mạng có nhiều kinh nghiệm. Cùng với cha của Li-da, ông vừa mới vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki về mấy tháng trước đây. Các đồng chí kiếm cho ông được giấy tờ hợp pháp mang tên Cu-dơ-ma Tsúc-kin, và bố trí cho làm chân rửa bát ở bếp nhà lao Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Làm việc ở đây, ông tích cực chuẩn bị cho những người tù chính trị vượt ngục. Vào một ngày tháng Mười, trong thời gian bãi công, những người công nhân đường sắt, - sau cái chết của Gri-gô-ri, tổ chức ở đây do cha anh, Mi-tơ-rô-phan, lãnh đạo, - đã tổ chức một cuộc biểu tình chính trị lớn chưa từng thấy và phá được nhà tù. Những đại đội Cô-dắc và quân đội chính quy chỉ mấy phút sau được điều đến để giải tán đám biểu tình, và toàn bộ những người tổ chức cuộc phá ngục đã bị bắt. Ngày hôm đó, Tsúc-kin - Xu-bô-tin trao cho An-tôn và Pi-ốt Pô-li-pốp một nhiệm vụ chiến đấu thật sự. Từ sáng, An-tôn cần phải đến một ga xép vắng vẻ để nhận từ tay ông già công nhân đường sắt một túi đạn và trước mười giờ phải mang đến chỗ hẹn trong rừng ở ngoại ô thành phố. Đây là số đạn dự trữ. Trong trường hợp cần thiết, Pi-ốt Pô-li-pốp sẽ chuyển số đạn đó vào thành phố cho tổ xung kích. Pô-li-pốp là học sinh trung học. Mặc bộ đồng phục học sinh, anh dễ dàng mang đạn đi trong thành phố mà không gây sự nghi ngờ. Nhưng An-tôn lại tự ái vì anh không những không được chọn vào tổ xung kích đi phá nhà tù, người ta cũng không tin tưởng giao cho anh mang đạn vào thành phố. Vì vậy, từ ga xép, anh đến thẳng địa điểm tập trung của tổ xung kích.   Mời các bạn đón đọc Tiếng Gọi Vĩnh Cửu của tác giả Anatoli Ivanốp.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Băng Điểm - Ayako Miura
Ayako Miura là nhà văn nữ hiện đại Nhật Bản. Tuổi trẻ của bà là những chuỗi ngày lăn lộn với đời và vật lộn với bệnh tật, thời gian nằm ở bệnh viện dài hơn thời gian cắp sách đến trường. Băng Điểm là tác phẩm đầu tay cũng là tác phẩm đưa tên tuổi tác giả lên đài danh vọng. Chỉ riêng ở nước Nhật năm 1965, tờ Tokyo đã phải mua bản quyền đăng tác phẩm Băng Điểm với giá 10 triệu Yên. Băng Điểm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản hơn 20 triệu cuốn. *** Những đám mây ở bầu trời phương đông nằm bất động, những tia nắng chói chang ngủ yên trên tàng lá của rừng tòng, tạo khoảng tối rộng bên dưới. Không một cơn gió thổi, cảnh vật đứng im nhưng vẫn sống động một cách khó chịu. Thuộc vùng ngoại ô thành Khởi Xuyên của hòn Bắc Hải Đảo, cạnh khu rừng tòng đất Thần Lạc là ngôi nhà đồ sộ của ông họ Lại, giám đốc bệnh viện, cất theo kiểu Âu Nhật phối hợp, trông có vẻ khác biệt với những ngôi nhà chung quanh. Hôm nay là ngày hai mươi mốt tháng bảy năm Chiêu Hòa hai mươi mốt (1946) Cuộc lễ tế thần mùa Hạ đã xong, nhưng tiếng trống vẫn còn bập bùng đâu đây. Trong gian phòng khách nhà họ Lại, bà giám đốc Lại Khởi Tạo nhũ danh Hạ Chi đang ngồi đối diện với bác sĩ nhãn khoa Lâm Tịnh Phu. Cả hai đều im lặng, không khí nóng bức làm ướt cả áo. Lâm Tịnh Phu chợt đứng dậy, bước nhanh về phía cửa xoay mạnh quả đấm. Tiếng cọt kẹt phát ra quá lớn làm Hạ Chi ngạc nhiên ngẩng đầu lên. Đôi mắt to đen với những cọng mi dài, chiếc mũi cao đài các trên khuôn mặt bầu bĩnh trắng nõn của xứ đầy băng giá, thân hình nở nang trong bộ kimono màu xanh lá mạ. “Sao không nói gì cả thế?" Hạ Chi tự hỏi, nụ cười thật khiêu gợi nở trên đôi môi đáng yêu, nàng là một thiếu phụ mới hai mươi sáu tuổi. Hướng về phía Tịnh Phu đôi môi anh chàng mấp máy như định nói một cái gì rồi lại thôi. Hạ Chi chờ đợi, chợt nghĩ về thái độ của mình và hình bóng người chồng với đôi mắt ngây dại trên đường, một chút thẹn thùng thoáng nhanh qua đầu. ... Mời các bạn đón đọc Băng Điểm của tác giả Ayako Miura.
Những Cột Trụ của Trái Đất - Ken Follett
Những Cột Trụ của Trái Đất của nhà văn Ken Follett về sự phản bội và niềm tin,  thể hiện sự hỗn loạn, quyền lực, chiến tranh cùng những lời nguyền trong nền quân chủ thế kỉ 20 ở Anh. Những Cột Trụ của Trái Đất thực sự là một chuyến đi đầy mê đắm và đầy màu sắc qua thế giới giả sử mà Follett đã tạo dựng nên. *** Ken Follett sinh ngày 05 tháng 6 năm 1949 tại Cardiff, Wales, Anh quốc, con trai lớn nhất của ông Martin, một vị thanh tra thuế vụ và bà Veenie Follett. Cũng như những vợ chồng trẻ sau thời Đệ Nhị Thế Chiến, cha mẹ cậu Ken không thể đầy đủ phương tiện để cho cậu con trai có được một cuộc sống vàng son nên rất tự nhiên, từ năm lên 7 tuổi, đã tự tưởng tượng ra cho mình những cuộc phiêu lưu của cậu. Cha mẹ Ken Follett lại là những người thiên chúa giáo rất sùng đạo, cấm cậu bé không được xem truyền hình, nghe radio hoặc đi xem ciné, nhưng Ken Follett đã vượt qua sự "cô lập" hàng ngày bằng thú đọc sách. Khi được 10 tuổi, gia đình Follett dời Cardiff về Luân Đôn sống. Tại đây Ken Follett hoàn tất trung học và theo học tại University College, London; cũng theo lời của Ken Follet việc chọn lựa triết học như một định mệnh để sau này cho phép ông liên kết giữa triết học và những chuyện hư cấu. Trong lúc chờ đợi những thành công, thực tế khá phũ phàng đuổi bắt Ken Follett: Cô bạn gái của chàng sinh viên triết học mang thai, hai người làm đám cưới và chỉ một thời gian thật ngắn sau đó Emanuele, một đứa bé trai ra chào đời vào tháng 7 năm 1968. Follet đóng hai vai trò cùng lúc vào lúc mới được 19 tuổi: Người sinh viên trẻ và người cha. Bấy giờ người ta đang ở vào thời kỳ cuối những năm 1960, chiến tranh Việt Nam đang trong giai đoạn cao điểm và Follett khởi sự đam mê chính trị. Tháng 9 năm 1970, sau khi tốt nghiệp triết học tại University College Luân Đôn, Ken Follett theo học cấp tốc 3 tháng về nghề ký giả rồi làm việc với tư cách phóng viên cho tờ South Wales Echo ở Cardiff. Rồi năm 1973 sau khi Marie Claire, cô con gái thứ hai ra chào đời, Ken về làm cho tờ Evening News tại Londres. Cùng lúc Ken Follett sáng tác những truyện hư cấu vào ban đêm và những ngày nghỉ cuối tuần. Năm 1974, Ken Follett bỏ nghề báo chí đến làm việc cho nhà xuất bản Everest Books. Cũng trong năm này, Ken Follett xuất bản hai tác phẩm đầu tiên: The Big Needle và The Big Black với bút hiệu Simon Myles. Năm 1975, tác phẩm The Big Hit được Follett cho xuất bản cũng với bút hiệu Symon Myles rồi sau đó tác phẩm The Shakeout với tên thật là Ken Follett. Nhờ vào những lời khuyến cáo của người đại lý văn chương, Al Zuckerman, sách dần dần bán khá chạy. Rồi tác phẩm Eye of the Needle ra đời, một tác phẩm trinh thám căng thẳng và độc đáo với một nhân vật nữ với cá tính khó thể quên được trong vai chính. Tác phẩm đã đoạt giải Edgar và ngay sau đó đã bán được hơn 10 triệu ấn bản - đưa Ken Follett lên hàng đầu những tác giả lừng danh cũng như đã cho phép Ken Follet tậu một ngôi biệt thự ở miền nam nước Pháp để sống và sáng tác. Ba năm sau, gia đình Follet trở về Anh; cư trú tại Surrey. Tại đây Ken Follett lao đầu vào những chương trình quyên góp qũy và trợ giúp vào những vận động bầu cử cho đảng Lao Động Anh. Trong lúc thực hiện những việc này Follett đã quen biết một nữ thành viên của đảng Xã Hội Anh mà ông sẽ lấy làm vợ vào năm 1985, Barbara Follet Broer cũng là dân biểu Stevenage từ năm 1997 và được bổ nhiệm chức vụ bộ trưởng trong chính phủ của thủ tướng Gordon Brown vào ngày 3 tháng 10 năm 2008. Ken Follett đã sáng tác 14 tập truyện trong 23 năm và hoàn toàn là những tác phẩm bestsellers. Sau 5 tập tiểu thuyết gián điệp với thành công vô cùng lớn : Eye of the Needle, Triple, The Key to Rebecca, The Man from St Petersburg và Lie Down with Lions, vào năm 1989 Ken Follett đã gây ngạc nhiên cho độc giả bằng sự thay đổi một cách triệt để với tác phẩm The Pillars of the Earth, một truyện đề cập tới việc kiến tạo một ngôi giáo đường vào thời Trung cổ. Tập sách xuất bản tháng 9 năm 1989 đã nằm trong bảng danh sách những bestsellers kéo dài suốt 18 tuần lễ và nằm hàng thứ 1 tại Canada, Anh, Ý, Đức (suốt 6 năm). Sách được chọn bởi Oprah Winfrey cho hiệp hội sách vào cuối năm 2007, "Pillars" thêm một lần nữa vẫn là một best seller 18 năm sau ngày xuất bản lần đầu tiên. Tiếp sau đó là Night over Water, A Dangerous Fortune, và A Place Called Freedom. Ken Follett lại viết truyện giật gân trở lại. The Third Twin một tiểu thuyết ly kỳ nóng bỏng với một nhân vật khoa học nữ bị vấp phải một kinh nghiệm bí mật về khoa di truyền học. Bản quyền truyện đã bán cho CBS với giá 1 triệu 400 ngàn dollars, kỷ lục cho một phim truyền hình ngắn 4 tiếng đồng hồ. The Third Twin được xếp hạng sách bán chạy thứ 2 trên thế giới sau tác phẩm của nhà văn Hoa Kỳ John Grisham trên hit parade những tiểu thuyết thành công. The Hammer of Eden, một tác phẩm hồi hộp hiện đại xuất bản năm 1998, sau đó Code to Zero xuất bản năm 2000, liên quan đến cuộc chiến tranh lạnh trong những năm 50 được đứng hàng thứ nhất trong danh sách best seller tại Hoa Kỳ, Đức và Ý. Ken Follett lại quay sang viết về thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến với hai tiểu thuyết: Tiếp đó là Jackdaws (2001), nói về những người nữ chiến binh quân đội đồng minh nhẩy dù xuống đất Pháp để phá hoại hệ thống thông tin liên lạc của quân đội Đức quốc xã, tiểu thuyết này đã đoạt giải Corine Prize năm 2003 rồi đến tiểu thuyết Hornet Flight xuất bản năm 2002 đề cập tới cuộc phiêu lưu của những người Đan Mạch trẻ tuổi bỏ trốn quê hương họ trên một chiếc máy bay hai cánh Hornet. Trong thời kỳ tìm kiếm tài liệu viết , Follett đã học lái một chiếc máy bay sưu tập cũ, chiếc Hornet Moth của cơ sở Havilland Aircraft Company. Whiteout, xuất bản năm 2004, đề cập về một chuyện đánh cắp một loại vi khuẩn giết người tại một phòng thí nghiệm... Tiểu thuyết được Ken Follett vừa cho xuất bản vào tháng 10 năm 2007 là World Without End, truyện được người đọc chờ đợi, tiếp theo của The Pillars of the Earth. Suốt 32 tuần lễ tác phẩm World Without End đứng trong bảng danh sách bestseller của tờ New York Times. Tính tới nay Ken Follett là một nhà văn có những tác phẩm bán nhiều nhất trên thế giới, hơn 100 triệu ấn bản. Mời các bạn đón đọc Những Cột Trụ của Trái Đất của tác giả Ken Follett.
Thương
Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel vừa được dịch ra tiếng Việt với tên gọi “Thương”. Sách do NXB Phụ Nữ và Công ty sách Alpha phối hợp ấn hành. Beloved được xuất bản tại Mỹ năm 1987 và đoạt giải Pulitzer năm 1988. Tác phẩm kể về cuộc đấu tranh sinh tồn của Sethe và cô con gái Denver sau khi thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Một ngày, một cô gái trẻ xuất hiện tại ngôi nhà của hai mẹ con, tự xưng tên mình là “Beloved”. Sethe tin rằng đây chính là đứa con gái xấu số đã bị cô tự tay giết chết từ lúc hai tuổi để đánh đổi lấy sự sống cho mình và Denver. Cuốn tiểu thuyết dựa trên cuộc đời thực của một người phụ nữ da đen tên là Margaret Garner. Là sáng tác quan trọng nhất trong sự nghiệp văn chương của Toni Morrison, cuốn sách được đánh giá là: “Lịch sử thân phận cá nhân tải nặng cả một quá khứ tập thể. Một bản thánh ca dâng tặng tình yêu, tình mẫu tử. Một cuốn tiểu thuyết của lầm lỗi và lòng khoan dung, của sự lãng quên và nỗi ám ảnh, của cái chết cũng như sự hy sinh tất yếu và khát vọng sống mãnh liệt, của những dày vò đau đớn đối với tâm hồn và ngọn lửa yêu thương bất diệt”. Cuốn sách từng được bình chọn là tác phẩm văn học hay nhất của Mỹ 25 năm qua. Toni Morrison sinh năm 1931. Bà là nhà văn da đen đầu tiên của Mỹ đoạt giải Nobel Văn học (1993), ngoài Beloved (Thương), Morrison còn nổi tiếng với những tác phẩm như: The Bluest Eye (Con mắt xanh biếc), Song of Solomon (Bài ca của Solomon), Sula... *** I24 hằn học. Đầy nọc độc trẻ thơ. Những người đàn bà trong nhà biết thế và lũ trẻ cũng biết thế. Đã nhiều năm, mỗi người chịu đựng sự hằn học ấy theo cách riêng của mình, nhưng đến năm 1873, chỉ còn Sethe và con gái Denver là nạn nhân của nó. Bà nội Baby Suggs đã mất, và hai đứa con trai Howard và Buglar đã trốn đi khi chúng mười ba tuổi − khi chỉ nhìn vào gương thôi đã đủ làm nó vỡ tan (dấu hiệu cho Buglar); ngay sau khi hai vết bàn tay nhỏ hiện ra trên mặt chiếc bánh ngọt (thế là xong với Howard). Chúng không đợi để chứng kiến thêm nữa; thêm một nồi đậu đổ chất đống bốc khói trên sàn nhà; bánh quy giòn bóp vụn và rải dọc theo bệ cửa. Chúng cũng không đợi đến lúc mọi chuyện nguôi ngoai, khi nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng trôi qua mà không điều gì bị xáo trộn. Không. Từng đứa tức thì bỏ đi − ngay khi căn nhà phạm một điều đối với chúng là sự lăng mạ không chịu đựng nổi hay không thể chứng kiến đến lần thứ hai. Trong vòng hai tháng, ngay giữa mùa đông, chúng để mặc bà nội Baby Suggs, mẹ Sethe và em gái Denver tự mình xoay sở trong căn nhà trắng xám ở đường Bluestone. Lúc ấy nhà không có số, vì Cincinnati chưa kéo dài đến chỗ ấy. Thật ra, lúc thằng anh rồi đến đứa em nhồi chăn vào mũ, chụp đôi giày, và lẻn trốn khỏi sự hằn học dữ dội căn nhà dành cho chúng thì Ohio chỉ mới tự nhận là tiểu bang được bảy mươi năm. Baby Suggs không buồn nhấc đầu dậy. Từ giường bệnh bà nghe chúng đi, nhưng không phải vì vậy mà bà nằm yên. Với bà, chuyện lạ là mãi đến lúc ấy hai thằng cháu mới nhận ra không ngôi nhà nào giống như ngôi nhà trên đường Bluestone. Ở lưng chừng giữa cuộc sống khốn nạn và cái chết ác mó, rời bỏ cuộc đời hay tiếp tục sống bà đều không thiết tha, nói gì đến nỗi sợ của hai thằng cháu đang lẻn đi. Quá khứ của bà cũng giống như hiện tại − chịu không thấu − và vì bà biết rằng cái chết không là gì khác ngoài sự quên lãng, bà dùng chút hơi tàn để suy ngẫm về màu sắc. “Mang chút màu tím nhạt vào nếu con có. Nếu không, thì mang màu hồng.” ... Mời các bạn đón đọc Thương của tác giả Toni Morrison.
Những Quân Cờ Domino - Minh Nhật
"Ngay khi đó, cô bừng tỉnh. Tất cả chỉ là giấc mơ. Khanh nằm im lặng trong căn gác mái. Chút ánh sáng nhỏ nhoi từ cửa sổ hắt vào ngờ vực. Cô ngồi im, như sự tan mất những cảm xúc còn đọng lại trong mình. Giọt mocha cuối cùng của ảo mộng rót xuống tâm hồn Khanh những kỳ vọng lớn lao. Giấc mơ quá thật đến nỗi cô không muốn tỉnh dậy. Nếu cho Khanh quyền lựa chọn, cô sẽ không nhường  hoàng hôn đỏ rực đầy quyến rũ đó lại cho bất - kì - ai. Không một ai." Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của "Hoàng tử teen story" Minh Nhật sau hàng loạt những tập truyện ngắn, tản văn gây sốt, một bước ngoặt trong con đường chinh phục độc giả bằng ngòi bút lôi cuốn đầy sức lay động của nhà văn trẻ này. *** Chủ nhật đẹp trời. Nắng tràn trề rực rỡ trên phố. Thứ nắng này luôn khiến người ta tưởng tượng đến một điều gì đó huy hoàng sắp xảy ra, nhưng thực ra sẽ chẳng có gì xảy ra, chỉ là nắng thôi. Những chùm bóng bay nhiều màu tỏa khắp mọi con đường, giống cảnh quay cuối cùng trong một bộ phim Pháp. Chút gió nhẹ cuối cùng tiễn mùa cũ, từng cành cây bên đường như ngả thấp xuống một chút sát với hơi thở của phố. Cuối cùng thì hè cũng đã đến. Điều khó chịu nhất khi sống ở một nước nhiệt đới là bạn sẽ phải liên tục thay đổi cảm xúc cho phù hợp với mùa. Mùa đông ngày càng ngắn lại, ai cũng có thể nhận thấy rõ điều đó. Nhiệt độ không phải thứ quyết định lối sống tại thành phố này, tuy thế bạn cũng phải có một tủ quần áo đa dạng đủ để không trở nên ngớ ngẩn mỗi khi hè sang đông tới. Khanh thử đi thử lại mớ quần áo trong tủ, cái thì ngắn quá, cái thì nực nội, cái vừa thì lại không biết mặc gì cho hợp, cái hợp với nhau thì lại không hợp với cô. Quả là bi kịch. Một nghiên cứu nhỏ chỉ ra rằng phụ nữ tốn khoảng sáu năm trong cuộc đời chỉ dành riêng cho việc đứng trước gương mỗi ngày thay ra mặc vào mớ vải đủ màu sắc, cá nhân Khanh cho rằng nói như vậy có vẻ hơi quá. Nhưng nếu bạn đã bắt đầu dễ dãi với bản thân trong việc đắp gì lên người cũng ra đường được, thì xin chúc mừng, bạn sắp ế chồng. Tuy còn đến gần mười năm mới phải lo về thảm kịch ấy, Khanh đã mường tượng ra được viễn cảnh từ người dì của mình – một người phụ nữ luôn là chủ đề dèm pha của cả họ hàng gia tộc anh em gần xa gà mèo chim chuột mỗi khi họ có dịp tụ tập lại – một bữa giỗ hay tất niên chẳng hạn. Bản thân cô, hai mươi tuổi, chẳng phiền muộn cuộc đời, mỗi ngày chỉ ăn một bữa rưỡi, ngủ sau mười hai giờ, vẫn còn dán poster một boyband thần tượng ngay đầu giường; nhưng đã sớm ý thức được rằng phụ nữ dẫu có đẹp mấy mà không sớm được nhấc đi trước khi đầu ba ập tới, thì nhất định sẽ thành một của nợ không hơn không kém trong đại gia đình. Có ai đó nói rằng phụ nữ qua hai mươi tám tuổi mà vẫn chưa lấy chồng thì giống như là cái quạt gió giữa mùa đông – đến bố mẹ bạn còn chẳng hiểu nhiệm vụ của bạn trong nhà là gì, nữa là người khác. ... Mời các bạn đón đọc Những Quân Cờ Domino của tác giả Minh Nhật.