Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Danh Sách Của Schindler

Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Bản danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. *** Review Trần Thông:   Trong “Danh sách của Schindler”, Thomas Keneally đã kể chi tiết về cuộc đời của một nhà tài phiệt người Đức tên là Sudeten, người thành lập một nhà máy sản xuất men ở thành phố Krakow của Ba Lan nhưng dường như nó đã bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Oskar Schindler là một người đàn ông có uy tín và có khả năng kinh doanh đáng nể trong thời kỳ chiến tranh. Nhưng có một cuộc chiến khác nổ ra ở một nơi toàn cảnh đẹp như tranh vẽ ở Đông Âu -một cuộc chiến sẽ in hằn vết sẹo vào sâu trong lịch sử loài người: cuộc đàn áp người Do Thái. Schindler theo dõi những người Do Thái ở Krakow, mỗi người có câu chuyện của riêng mình, kể về những điều kiện chật chội của khu ổ chuột trong thành phố, bị cắt đứt khỏi cuộc sống và sau đó bị đuổi ra khỏi trại lao động đầy áp bức bóc lột dưới sự cai trị của chỉ huy tàn bạo, Amon Goeth. Nhưng trong cái bóng của sự tham lam kiếm tiền của Schindler, anh ta thể hiện một sự từ bi và lòng nhân hậu đối với các nhân viên Do Thái của mình. Với sự giúp đỡ của một kế toán viên, đồng thời cũng là người bạn lâu năm tên là Itzhak Stern, Schindler đã lập ra một danh sách không bình thường. Bằng cách thêm tên các công nhân vào danh sách, Schindler khiến họ không còn bị hỗn loạn và tàn sát ở Plaszow, mà thay vào đó là thiên đường – nơi nhà máy của anh ta đang hoạt động. Bằng cách mua chuộc các quan chức bằng những đồng tiền đen bạc, Schindler “di chuyển ngầm” bên dưới vòng quay của chế độ chuyên chế gây ra khủng hoảng cho thành phố này và cuối cùng cứu được 1.200 đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái khỏi các buồng khí của Auschwitz và Gross-Rosen. Schindler Juden sống ở mọi nơi trên thế giới và đến năm 1993, Schindler đã cứu được 6.000 trẻ em và cháu của mình một cách hiệu quả. Oskar Schindler qua đời năm 1974 và, như Keneally viết, ông được thương tiếc trên toàn thế giới. Việc câu chuyện này là có thật đã cho tôi rất nhiều niềm tin vào nhân loại. Tôi phải thừa nhận rằng cuốn sách này là tuyệt vời về mọi phương diện. Chủ đề được tiếp cận với sự nhạy cảm của tác giả khiến cho mọi câu văn trở nên cực kỳ dễ đọc. Câu chuyện không chỉ lướt qua sự tàn bạo của các sự kiện, như nhiều cuốn sách khác đã làm mà “Danh sách của Schindler” chính xác là một tiểu sử được tạo ra với cùng một kiểu tinh tế của một tác phẩm văn học. Oskar Schindler là một con người lang thang, một người nghiện rượu. Và mặc dù anh ta không bao giờ là một người chồng tốt với người vợ thẳng thắn của mình nhưng anh ta đã cứu sống 1.200 người. Thật đáng khâm phục. *** Oskar Schindler sinh ra ở Sudetenland nói tiếng Đức. Khi còn trẻ, ông là một thành viên của Đảng Quốc xã và khi chiến tranh bắt đầu, ông đã thành lập một nhà máy ở Cracow để sản xuất hàng hóa cho Quân đội Đức. Ông nhanh chóng trở nên rất giàu có với tư cách là một trong những tầng lớp tinh hoa của Đức Quốc xã. Tuy nhiên, ông và vợ Emilie trở nên kinh hoàng trước cách đối xử với người Do Thái và nhanh chóng bắt đầu thu xếp để bảo vệ những người lao động Do Thái của họ, chủ yếu bằng tiền của họ. Vào cuối cuộc chiến, họ đã cứu khoảng 1200 người Do Thái. Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. ​*** Năm 1980 tôi vào một tiệm bán vali ở Beverly Hills, California hỏi giá cặp tài liệu. Chủ tiệm là Leopold Pfefferberg, một cựu tù sống sót của Schindler. Chính tại đây, dưới những giá đồ da nhập khẩu từ Ý của Pfefferberg, lần đầu tiên tôi được nghe về Oskar Schindler, gã lãng tử phong lưu người Đức, nhà đầu cơ, kẻ mê hoặc, biểu tượng của sự đối lập, và về nỗ lực của Oskar nhằm giải cứu một bộ phận của một chủng tộc bị tru di, trong những năm tháng về sau được biết tới qua cái tên chung là Holocaust. Cuốn sách về cuộc đời oanh liệt của Oskar này trước hết dựa trên nội dung phỏng vấn năm mươi cựu tù ở bảy quốc gia - Australia, Israel, Tây Đức, Áo, Mỹ, Argentina và Brazil. Nó được làm phong phú thêm bằng một chuyến đi, được sự đồng hành của Leopold Pfefferberg, đến các địa điểm xuất hiện nổi bật trong sách: Cracow, nơi Oskar chọn làm quê hương; Płaszów, nơi đặt trại lao động khủng khiếp của Amon Goeth; phố Lipowa, Zablocie, nơi ngày nay nhà máy của Oskar còn đứng đó; Auschwitz-Birkenau, từ đây Oskar đã giải cứu đoàn tù nữ. Những câu chuyện còn căn cứ vào hồ sơ tư liệu và những thông tin khác từ một vài cộng sự thời chiến của Oskar mà tác giả còn có thể tiếp cận, cũng như đông đảo bạn bè thời bình của ông. Nhiều lời chứng chi tiết về Oskar, do các cựu tù Do Thái gửi tới Yad Vashem, Cơ quan Tưởng niệm các Anh hùng và bậc Tử vì đạo, giúp câu chuyện thêm phong phú hơn nữa. Bên cạnh đó là lời chứng bằng văn bản từ các nguồn riêng và bộ sưu tập giấy tờ, thư tín của Schindler, một số của Yad Vashem, số khác do bạn bè Oskar cung cấp. Sử dụng chất liệu cùng thủ pháp tiểu thuyết để kể một câu chuyện có thật là lối đi quen thuộc của văn chương hiện đại. Đó cũng là con đường tôi lựa chọn ở đây - vì viết tiểu thuyết là kỹ năng duy nhất tôi nắm chắc, và các kỹ thuật tiểu thuyết có vẻ phù hợp với một nhân vật mơ hồ và có tầm vóc như Oskar. Dù vậy tôi vẫn cố gắng hạn chế hư cấu hoàn toàn, vì hư cấu sẽ xói mòn giá trị của câu chuyện, và cố gắng phân biệt hiện thực và những huyền thoại thường gắn liền với một con người tầm cỡ Oskar. Đôi khi tôi buộc phải tái tạo một cách hợp lý những đối thoại mà Oskar và các bên tham gia chỉ để lại ký lục hết sức vắn tắt. Song phần lớn các trao đổi và đối thoại, cùng mọi sự kiện, đều căn cứ theo hồi ức chi tiết của các Schindlerjuden (người Do Thái của Schindler), của bản thân Schindler, và nhiều người khác có cơ hội chứng kiến nghĩa cử phi thường của Oskar. Trước tiên, tôi xin cảm ơn ba cựu tù sống sót của Schindler - Leopold Pfefferberg, Thẩm phán Moshe Bejski tại Tòa án tối cao Israel, và Mieczyslaw Pemper - những người không chỉ gửi gắm cho tác giả ký ức của mình về Oskar, và cung cấp tài liệu góp phần vào sự chính xác của câu chuyện, mà còn đọc bản thảo đầu tiên và góp ý những điểm cần sửa chữa. Nhiều người khác, từ các cựu tù cho đến đồng sự của Oskar thời hậu chiến, đã trả lời phỏng vấn và nhiệt tình đóng góp thông tin qua thư tín và tài liệu. Trong số đó có Frau(1) Emilie Schindler, bà Ludmila Pfefferberg, tiến sĩ Sophia Stern, bà Helen Horowitz, tiến sĩ Jonas Dresner, ông bà Henry và Mariana Rosner, ông Leopold Rosner, tiến sĩ Alex Rosner, tiến sĩ Idek Schindel, tiến sĩ Danuta Schindel, bà Regina Horowitz, bà Bronislawa Karakulska, ông Richard Horowitz, ông Shmuel Springmann, ông Jakob Sternberg quá cố, ông Jerzy Sternberg, ông bà Lewis Fagen, ông Henry Kinstlinger, bà Rebecca Bau, ông Edward Heuberger, ông bà M. Hirschfeld, ông bà Irving Glovin, và còn nhiều nữa. Tại thành phố quê tôi, ông bà E. Korn không chỉ chia sẻ hồi ức về Oskar mà còn là nguồn động viên thường trực. Tại Yad Vashem, tiến sĩ Josef Kermisz, tiến sĩ Shmuel Krakowski, Vera Prausnitz, Chana Abells, và Hadassah Mödlinger đã tạo điều kiện rộng rãi cho tôi tiếp cận hồ sơ nhân chứng về Schindler và các tư liệu phim, ảnh liên quan. Sau cùng, tôi muốn tôn vinh nỗ lực của ông Martin Gosch nhằm đưa cái tên Oskar Schindler đến với thế giới, và bày tỏ lòng cảm ơn bà quả phụ Lucille Gaynes, về sự hợp tác với dự án này. Nhờ sự hỗ trợ của tất cả mọi người, câu chuyện phi thường của Oskar Schindler đã lần đầu tiên xuất hiện một cách trọn vẹn. TOM KENEALLY (1) Tiếng Đức: cô, bà, dùng cho người phụ nữ đã kết hôn. ​ Mời các bạn đón đọc Danh Sách Của Schindler của tác giả Thomas Keneally.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mười Hai Chiếc Ghế - Ilya Ilf & E. Petrov
Mười hai chiếc ghế" của hai nhà văn Liên Xô I.Ilf và E.Petrov là một kiệt tác của nền văn học Liên Xô thuộc thể loại tiểu thuyết trào phúng, được xếp vào hàng các tác phẩm kinh điển khi các tác giả còn sống. Lấy bối cảnh năm 1927, bộ truyện kể lại một phi vụ làm ăn đầy kịch tính giữa I. Vorobyaninov , một cựu quí tộc của chế độ Sa hoàng và O.Bender, một tay lừa đảo có hạng.  Tác phẩm được viết bởi ILF, Ilia Arnoldovich (1897 – 1937) cùng với PETROV, Evgeny Petrovich (1903 – 1942) là hai nhà văn trào phúng người Odessa. Valentin Petrovich Kataev ( tiểu thuyết gia và nhà soạn kịch Nga và Liên Xô) được biết tới là người đã đề xuất ý tưởng tiểu thuyết "Mười hai chiếc ghế" cho em trai Yevgeni Petrov và Ilya Ilf. Đổi lại, Kataev yêu cầu tất cả các ấn bản và bản dịch tiểu thuyết này đều cần phải đề là tặng ông. Sức tưởng tượng, sự rung cảm và sức sáng tạo không ngừng của Kataev đã khiến ông trở thành một trong những nhà văn Xô Viết xuất sắc nhất. Sau "12 chiếc ghế" Ilf và Petrov còn viết tiểu thuyết "Con bê vàng" (Золотой телёнок). "Con bê vàng" là phần II (tiếp theo) của "12 chiếc ghế". Ostap Bender không chết sau khi bị cắt cổ trong "12 chiếc ghế" và lại bắt đầu cuộc phiêu lưu mới của một kẻ du thủ du thực. Vẫn những mánh lừa đảo, cách kiếm tiền rất thông minh như trong phần I, Ostap Bender làm phần II cũng không kém phần thú vị và hấp dẫn. Nhận định: “Toàn bộ cuốn truyện toát ra sự phê phán rất thâm thúy, sắc bén, nhưng rất nhẹ nhàng, thú vị, đối với các thói hư tật xấu của con người.” -Dịch giả Lê Khánh Trường *** Ilya Ilf (Ilya Arnoldovich Feinsilberg, tiếng Nga: Илья Арнольдович Файнзильберг, 1987-1937) và Yevgeny Petrov (Yevgeniy Petrovich Kataev/Katayev, tiếng Nga: Евгений Петрович Катаев, 1903-1942) Là hai nhà văn và nhà báo Nga, được biết đến qua cuốn tiểu thuyết trào phúng, “Mười Hai Chiếc Ghế" (1928). Ilya Ilf và Petrov cũng xuất bản một số lượng lớn các câu chuyện và phác thảo dưới bút danh "Tolstoyevsky" trong Xô viết tạp chí và báo chí. Nền văn học danh tiếng của hai nhà văn phụ thuộc chủ yếu vào tác phẩm hợp tác của họ - những cuốn sách khác đã không đứng trước sự thử thách của thời gian. Ilya Ilf (bút danh của Ilya Arnoldovich Fainzilberg), sinh tại Odessa, con trai của một nhân viên ngân hàng. Sau khi tốt nghiệp từ một trường học kỹ thuật vào năm 1913, sau đó ông làm việc trong văn phòng một kiến trúc sư, một nhà máy hàng không và một nhà máy lựu đạn tay. Ông cũng góp phần đóng góp cho một tạp chí hài, tên là Sindektikon. Năm 1923, ông chuyển đến Moskva, nơi ông được nhận là một thủ thư và ông đã viết bài cho các tờ báo và tạp chí hài hước khác. Hai năm sau đó ông trở thành một nhà báo cho các tạp chí Gudok và Moriak. Trong chuyến thăm của ông ở Trung Á, ông đã chứng kiến cuộc đụng độ giữa hải quan cũ và hệ thống mới, mà đã trở thành một trong những chủ đề Trung tâm của “Mười Hai Chiếc Ghế". Sau khi họp bàn với Petrov, ông bắt đầu viết với những mảng hài hước cho tờ Pravda và các ấn phẩm khác. Nghiên cứu khoa học kéo dài gần chục năm. Ilya Ilf qua đời ngày 13 tháng 4 năm 1937 do bị bệnh lao, nơi ông đã ký hợp đồng trên hành trình của mình ở Hoa Kỳ. Yevgeny Petrov (bút danh của Yevgeny Petrovich Kataev) sinh tại Odessa, con trai của một giáo viên lịch sử. Ông tốt nghiệp năm 1920 từ một phòng tập thể dục cổ điển và bắt đầu sự nghiệp của mình như một nhà báo. Năm 1921 ông trở thành phóng viên báo tiếng Ukraina. Trước khi chuyển tới Moscow vào năm 1923, ông làm việc tại Cục điều tra hình sự Odessa. Petrov được bổ nhiệm làm phó tổng biên tập của tạp chí châm biếm Krasnyi perets và vào năm 1923, ông gia nhập đội ngũ nhân viên của tờ báo Gudok, một ấn phẩm cho các nhân viên đường sắt. Petrov đã không có tham vọng trở thành một nhà văn. Tuy nhiên, anh trai ông, nhà văn Valentin Kataev (1897-1986), khuyến khích ông soạn truyện ngắn, và một bộ sưu tập nhỏ đã được xuất bản vào năm 1924. Petrov kết hôn vào năm 1929. Từ năm 1932 ông đã góp phần vào tờ Pravda Krokodil. Năm 1925 Petrov đã trở nên quen với Ilya Ilf, người cũng làm việc cho Gudok. Cuốn sách đầu tiên của họ, “Mười Hai Chiếc Ghế" đã đạt được một thành công lớn. “Mười Hai Chiếc Ghế" xuất hiện trong thời gian tương đối tự do, khi kinh tế chính sách mới (NEPNEP) cho phép giới hạn doanh nghiệp tư nhân. Ý tưởng về những câu chuyện đã được đề xuất bởi Valentin Kataev. Ostap Bender - nhân vật chính đáp ứng trong cuộc phiêu lưu của mình là một kẻ cơ hội, quan chức, và kẻ lừa đảo và Sinbad thời kỳ NEP. Câu chuyện “Mười Hai Chiếc Ghế" đã lấy cảm hứng chuyển thể từ sân khấu và điện ảnh, không chỉ ở Liên Xô, nhưng cũng có ở Hoa Kỳ. Phiên bản phim của Mel Brooks từ năm 1970 đã nhận được nhiều sự đánh giá lẫn lộn của các nhà phê bình. Brooks là đạo diễn, viết kịch bản, tác giả của bài hát và tham gia trong một vai nhỏ. Mặc dù với tất cả các nỗ lực, sự hài hước của ông đã không mạnh như các nhà sản xuất (1968). 1933-1934 Ilf và Petrov viếng thăm Tây Âu. Họ đã gặp các nhà báo Nga nổi tiếng Ilya Ehrenburg ở Paris, và đã viết với ông một bộ phim hài, không tạo thành. Theo Ehrenburg, hài hước của Ilf là cay đắng; Petrov đã lạc quan, hài hước của mình là nhân đạo hơn và ông muốn tốt cho tất cả mọi người. Cái chết của Ilya Ilf là một sự khó khăn với Petrov, ông sau đó chỉ viết viễn tưởng. Tác phẩm của ông chủ yếu giới hạn là kịch bản phim và chỉnh sửa một bộ sưu tập của Ilf trong máy tính xách tay riêng (1937-1938). Năm 1940, ông gia nhập Đảng Cộng sản và trở thành biên tập viên của tạp chí Ogonyok. Vào năm 1941 Petrov viếng thăm Đức, nửa năm trước khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô, và nói: "Người Đức đang mệt mỏi của chiến tranh...". Trong thế chiến II Petrov đã phục vụ như là một phóng viên chiến tranh. Ông qua đời trong một máy bay rơi ở Sevastopol vào ngày 2 tháng 7 năm 1942. Báo cáo của Petrov từ trước đã được xuất bản dưới tiêu đề Frontovoi dnevnik (1942). ”Mười Hai Chiếc Ghế" được coi là một tôn giáo cổ điển và đã được tái bản nhiều lần.   Mời các bạn đón đọc Mười Hai Chiếc Ghế của tác giả Ilya Ilf & E. Petrov.
Anthem Bài Ca Cho Tôi (Bài Ca Tư Tưởng) - Ayn Rand
Câu chuyện này được viết năm 1937. Tôi đã biên tập lại nó cho lần xuất bản này (năm 1946-LND), nhưng đã chỉ sửa về văn phong; tôi sửa lại từ ngữ trong một số đoạn và cắt bỏ một vài chỗ dư thừa ngôn từ. Không hề có một ý tưởng hay một sự biến nào được thêm vào hay bỏ đi; chủ đề, nội dung, và cấu trúc được giữ nguyên. Câu chuyện vẫn được duy trì như lúc đầu. Tôi đã chỉ gọt dũa bề mặt chứ không động gì tới cốt lõi hay tinh thần của quyển sách; vì không cần phải sửa sang gì đối với những điều này. Một số người đọc câu chuyện ngay lần xuất bản đầu tiên đã có ý cho rằng tôi bất công đối với những lý tưởng của chủ nghĩa tập thể; họ nói, chủ đích hay giáo điều của chủ nghĩa tập thể không phải như trong sách đã nêu; những người theo chủ nghĩa tập thể không hề có ý cổ xúy hay chủ trương như thế; không ai biện hộ cho họ cả. Tôi sẽ đơn giản chỉ ra rằng cái câu khẩu hiệu "Sản xuất để sử dụng chứ không vì lợi nhuận" giờ đây (tác giả viết lời bạt này năm 1946 -LND) đang được nhiều người chấp nhận như một điều hiển nhiên, và đây là điều hiển nhiên khẳng định một mục tiêu cụ thể đáng khao khát. Nếu có thể tồn tại một ý nghĩa thông thái nào đó trong khẩu hiệu này thì nó là cái gì nếu không phải là cái ý cho rằng động cơ làm việc của con người phải là vì nhu cầu của người khác, chứ không phải nhu cầu, hay mong muốn, hay quyền lợi của chính anh ta? Lời hiệu triệu lao động cưỡng bức giờ đây đang được thực hiện hay cổ xúy ở nhiều quốc gia trên trái đất này. Nó dựa trên cái gì nếu không phải là trên ý tưởng cho rằng nhà nước là người xứng đáng nhất trong việc định đoạt xem một người có thể hữu ích cho người khác hay không, cái điều hữu ích ấy là điều đáng quan tâm duy nhất, và những mục tiêu, khao khát, hạnh phúc của chính anh ta nên bị gạt sang bên vì chẳng có chút quan trọng nào? Chúng ta có Hội đồng Nghề nghiệp, Hội đồng Ưu sinh, đủ thứ hình thức Hội đồng, bao gồm cả một Hội đồng Thế giới và nếu những thứ này chưa nắm giữ toàn bộ quyền lực trùm phủ chúng ta thì phải chăng đó là do chưa có dụng ý? "Những thành quả xã hội", "mục tiêu xã hội"… đang trở thành thuốc an thần trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta. Sự cần thiết của tính hợp lý xã hội đối với mọi hoạt động và mọi dạng thức tồn tại giờ đây đang được tin là hiển nhiên. Một người vẫn có thể được lắng nghe đầy thán phục và được tán đồng nếu như anh ta tuyên bố theo một kiểu mơ hồ rằng đó là vì "điều tốt đẹp cho mọi người" dù thực ra anh ta chẳng nêu được đề xuất nào đáng chú ý. Một số người có thể nghĩ (còn tôi thì không) là chín năm trước đã có một vài biện hộ cho những người không muốn nhìn thấy con đường mà thế giới đang theo đuổi. Ngày nay có những chứng cớ hiển nhiên cho thấy không ai có thể biện hộ gì được nữa. Những người từ chối không chịu nhìn thấy giờ đây đã rõ là không phải mù, cũng chẳng phải ngây thơ. Tội lỗi lớn nhất ngày nay là do ở những người chấp nhận chủ nghĩa tập thể theo kiểu mặc nhiên giáo điều; những người tìm kiếm sự bảo vệ từ tính cần thiết của việc có một chỗ đứng, bằng cách phủ nhận với chính họ cái bản chất của những gì họ đang chấp nhận; những người ủng hộ mấy kế hoạch được thiết kế đặc biệt để đạt tới chế độ nông nô, nhưng điều này được che giấu bên dưới vỏ ngoài mỹ miều rằng họ là những người yêu chuộng Tự do, một từ ngữ được dùng mà chẳng có chút ý nghĩa cụ thể nào; những người tin rằng nội dung của lý tưởng ”của chủ nghĩa tập thể" là không cần khảo sát, rằng các nguyên tắc không cần phải định nghĩa, và rằng có thể lược giản sự kiện thực tế bằng cách nhắm một bên mắt lại. Họ kỳ vọng rằng, khi họ tìm thấy mình trong một thế giới của những tàn phá đẫm máu và của trại tập trung, họ có thể thoát khỏi trách nhiệm đạo đức bằng cách gào lên: "Tôi có định làm thế này đâu!" Những ai muốn chế độ nô lệ chắc hẳn đã có đủ lịch lãm để gọi nó bằng cái tên chính xác của nó. Họ phải đối diện với ý nghĩa đầy đủ của những gì họ đang cổ xúy hay dung thứ; cái ý nghĩa chính xác, đầy đủ, cụ thể của chủ nghĩa tập thể, của những ẩn ý luận lý của nó, của những nguyên lý hình thành nó, và của những mắt xích cuối cùng mà những nguyên lý này nhắm tới. Họ phải đối diện với nó, rồi quyết định xem đó có phải là những gì họ muốn hay không. Tháng tư, 1946 Ayn Rand *** Ayn Rand là một nhà tiểu thuyết và triết gia quốc tịch Mỹ sinh tại Nga. Bà nổi tiếng vì đã phát triển học thuyết Chủ nghĩa khách quan và vì đã viết một số tác phẩm như We the Living (Chúng ta những kẻ sống), The Fountainhead (Suối nguồn), Atlas Shrugged (Người khổng lồ nghiêng vai), For the new Intellectual (Vì giới tri thức mới) và tiểu thuyết ngắn Anthem. Là người gây ảnh hưởng rộng lớn tới nước Mỹ hậu chiến tranh thế giới thứ 2, các tác phẩm của Rand đã tạo nên sự mến mộ nhiệt thành cũng như phê phán nghiêm khắc. Tác phẩm của Rand nhấn mạnh các quan niệm tư tưởng về hiện thực khách quan, lý trí, chủ nghĩa vị kỷ, và chủ nghĩa tư bản tự do, trong khi tấn công những gì mà bà coi là không hợp lý và phi đạo đức của lòng vị tha, chủ nghĩa tập thể (collectivism) và chủ nghĩa cộng sản (communism). Bà tin rằng con người phải chọn cho mình các giá trị và hành động theo lý trí; và rằng cá nhân có quyền để tồn tại vì lợi ích của chính bản thân mình, không hy sinh bản thân cho người khác hoặc người khác vì mình; và rằng không ai có quyền chiếm đoạt những gì thuộc về người khác bằng bạo lực hay lừa dối, hoặc áp đặt tiêu chuẩn đạo đức của mình lên người khác bằng bạo lực. Tính chất lý luận của Rand được mô tả là chủ nghĩa tiểu chính phủ (minarchism) và theo chủ nghĩa tự do (liberalism), mặc dù bà không bao giờ sử dụng thuật ngữ minarchism và ghê tởm chủ nghĩa tự do. Mục tiêu rõ rệt của tiểu thuyết của Rand là miêu tả anh hùng của mình được lý tưởng hoá, một người có những khả năng và sự độc lập mâu thuân với xã hội, nhưng luôn bền gan quyết chí đạt được mục đích của mình. *** Ngay khi được đọc quyển sách đầu tiên tìm thấy trong ngôi nhà, tôi thấy từ "tôi." Và đến khi hiểu được cái từ ấy, quyển sách rơi khỏi tay, và tôi khóc. Tôi, kẻ chưa từng bao giờ biết đến nước mắt. Tôi đã khóc trong sự giải thoát và trong niềm thương xót đối với con người. Tôi hiểu được cái điều phúc mà tôi đã gọi là lời nguyền của tôi. Tôi đã hiểu được tại sao những gì tốt nhất của tôi lại trở thành tội lỗi và phạm giới; và tại sao tôi không bao giờ có cảm giác tội lỗi đối với lỗi lầm của mình. Tôi đã hiểu được rằng nhiều thế kỷ của xiềng xích và roi vọt không hề hủy diệt được tinh thần của con người cũng như cảm nhận về sự thật trong anh ta. Tôi đọc rất nhiều sách trong nhiều ngày. Rồi tôi gọi Kim Nhân, và tôi nói với cô ấy rằng tôi đã đọc và tôi đã hiểu. Cô ấy ngước nhìn tôi và từ đầu tiên mà cô ấy thốt ra là: "Em yêu người." Rồi tôi nói: "Người thương quý nhất của ta, thật không phải lối chút nào khi con người ta không có tên. Đã từng có một thời trong đó mỗi người có một cái tên để phân biệt anh ta với những người khác. Vậy thì hãy chọn tên cho chúng ta. Ta có đọc về một người đã sống cách đây nhiều ngàn năm, và trong số rất nhiều tên trong mấy quyển sách này thì tên của người đó là cái tên mà ta thích nhất. Anh ta đã lấy ánh sáng của các vị thần để trao cho loài người, và anh ta chỉ cho loài người cách để trở thành thần thánh. Và anh ta đã phải chịu hình phạt nặng nề. Tên anh ta là Prometheus." ... Mời các bạn đón đọc Anthem Bài Ca Cho Tôi (Bài Ca Tư Tưởng) của tác giả Ayn Rand.
Chân Trời Đảo Ngược
Ý thức của chúng ta nằm ở đâu? Liệu chúng ta có thể sao chép và lưu giữ ký ức bên ngoài thân xác con người không? Liệu tình yêu có thể đảo ngược quy luật khắc nghiệt về sự hữu hạn của cuộc sống trong thời gian và không gian? Xúc động, ly kỳ nhưng cũng đầy hài hước và lạc quan, Marc Levy đưa chúng ta đến với câu chuyện tình thách thức thời gian, không gian và bệnh tật, khiến ta trân trọng hơn những điều tưởng chừng nhỏ bé trong cuộc sống. "Một trong những tiểu thuyết xúc động nhất của Marc Levy. Người đẹp ngủ trong rừng phiên bản 2.0, với một trong những nhân vật nữ thành công nhất." - RTL *** Tình yêu và cái chết, điều nào sẽ lớn hơn? Trong những quyển sách tình cảm lãng mạn, kẻ ngạo nghễ chiến thắng luôn là tình yêu – dù là cái chết, là không gian hay thời gian cũng không thể chia lìa đôi lứa. Nhưng có một câu chuyện khác, các nhân vật dám thách thức cả tử thần, thách thức cả không gian và thời gian. Đó là ba sinh viên khoa thần kinh học Luke, Josh và Hope. Họ gặp nhau tại khuôn viên trường Đại học, cùng học tập, vui đùa, nghiên cứu. Như một lẽ tự nhiên, Josh và Hope phải lòng nhau. Bộ ba theo đuổi một dự án khoa học: sao chép ý thức của con người vào máy tính, vượt qua mọi sự điên rồ không tưởng và những chuẩn mực đạo đức. Nhưng cho đến một ngày, chính Hope lâm nguy, họ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc sao chép lại ý thức cho cô, để bốn mươi năm sau, Josh và Hope tuy trong hình hài khác nhưng đã được gặp lại một lần nữa, yêu nhau một lần nữa. Josh và Hope yêu nhau bằng tất cả những cuồng nhiệt của tuổi trẻ, gắn bó sâu đậm, là người duy nhất và không thể thay thế, đồng hành qua mọi khó khăn và bệnh tật, quan tâm nhau chân thành và sẵn sàng dâng tặng những điều mà mình thiếu. Trong suốt quá trình Hope chống chọi với căn bệnh và thời gian sống chỉ tính bằng tháng, Josh vẫn luôn tận tình ở bên cô bằng sự mạnh mẽ và lạc quan, bởi họ biết vẫn luôn có một hy vọng. Với tình yêu, không có gì là có giới hạn. Và vì người mình yêu, có gì mà con người ta không dám làm không? “Hãy nói với cái chết rằng tình yêu của chúng ta mạnh hơn nó bởi vì tình yêu của chúng ta vẫn sống ngay cả khi chúng ta đã lìa đời.” Khi thề nguyền trong lúc kết hôn, họ đã không nói “cho đến khi cái chết chia lìa” bởi vốn dĩ chẳng có gì chia lìa được họ. Chẳng có gì mau chóng xảy ra bằng điều bất khả, và chẳng có gì là bất khả trong tình yêu. Truyện diễn biến nhanh nên đôi khi không đọng lại nhiều cảm xúc ở nửa đầu quyển sách. Lời thoại nhiều và liên tiếp khiến truyện đôi khi bị loãng hẳn. Các kiến thức khoa học đáng ngạc nhiên thay lại khá dễ hiểu trong khi chủ đề thần kinh học luôn đòi hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu rất khó để phân tích cho đại chúng. Bìa Việt Nam đẹp và rất ý nghĩa. Với mình, Marc Levy được xếp ở mức “nhà văn đại chúng” và quyển sách cũng chỉ dừng lại ở mức “khá thú vị”. Đánh giá: 3.5/5. Yêu thích: 4/5. Winny *** Marc Levy (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1961, tại Boulogne-Billancourt, nước Pháp) là nhà văn người Pháp gốc Do Thái. Ở tuổi 18, ông gia nhập Hội Chữ Thập Đỏ ở Pháp, nơi ông đã dành 6 năm hoạt động. Trong cùng thời gian, Ông học ngành quản lý máy tính ở trường Đại học Paris-Dauphine và sau đó sinh sống tại Hoa Kỳ từ năm 1984 đến năm 1991. Tại đây, ông đã đặt nền tảng cho hai công ty - một đặt cơ sở tại California và một ở Colorado - chuyên về đồ họa tin học. Vào năm 1991, ông hợp tác lập ra một công ty thiết kế và xây dựng ở trong nước mà sau này đã trở thành một trong những hãng kiến trúc dẫn đầu ở Pháp. Marc Levy viết quyển tiểu thuyết đầu tiên của mình với tên Và nếu như chuyện này là có thật... vào năm 1998. Ông viết cuốn sách này cho con trai mình, khi đã là một thương gia thành công. Năm 1999, sau khi bán bản quyền phim Et si c'était vrai... cho hãng Dreamworks, ông kết thúc công việc ở hãng kiến trúc để theo đuổi sự nghiệp viết văn của mình. Năm 2001, ông cho xuất bản quyển sách thứ hai, Em ở đâu?, tiếp theo là quyển Bảy ngày cho mãi mãi... vào năm 2003, Kiếp sau vào năm 2004 và quyển Gặp lại vào năm 2005. Năm 2005 cũng là năm trình chiếu bộ phim Just like Heaven của hãng Dreamworks - phỏng theo tiểu thuyết Et si c'était vrai... bởi các diễn viên chính: Reese Witherspoon và Mark Ruffalo. Xuyên suốt sự nghiệp viết văn kéo dài gần 20 năm của mình, nhà văn người Pháp Marc Levy sáng tác được tổng cộng 14 quyển tiểu thuyết. Trong số đó có 13 tác phẩm đã được dịch ở Việt Nam. Điểm thu hút trong văn chương của Marc Levy nằm ở chỗ lãng mạn, ngọt ngào. Ông bao giờ cũng khai thác những câu chuyện tình yêu ở khía cạnh tròn trịa và hấp dẫn nhất. Bên cạnh đó, vì tiểu thuyết của Marc Levy bao giờ cũng kết thúc bằng "happy ending" nên nó được xem là "kinh thánh" của những tâm hồn đang yêu. Và ngay cả những người đã mất lòng tin ở tình yêu cũng sẽ dễ dàng có lại được niềm tin đó ở sách của Marc Levy. Một số tác phẩm đáng chú ý: Nếu em không phải một giấc mơ, Gặp lại, Em ở đâu, Mọi điều ta chưa nói…   Các tác phẩm của Marc Levy đã được xuất bản tại Việt Nam: Nếu Như Được Làm Lại - Marc Levy Chuyện Chàng Nàng - Marc Levy Mạnh Hơn Sợ Hãi - Marc Levy Nếu Em Không Phải Một Giấc Mơ - Marc Levy Mọi Điều Ta Chưa Nói - Marc Levy Bảy Ngày Cho Mãi Mãi - Marc Levy Em Ở Đâu - Marc Levy Gặp Lại - Marc Levy Kiếp Sau - Marc Levy Đêm Đầu Tiên - Marc Levy Ngày đầu tiên - Marc Levy Những Đứa Con Của Tự Do - Marc Levy Bạn Tôi Tình Tôi - Marc Levy Chuyến Du Hành Kỳ Lạ của Ngài Daldry - Marc Levy Người Trộm Bóng - Marc Levy Một Ý Niệm Khác Về Hạnh Phúc Cô Gái Cuối Cùng Của Dòng Họ Stanfield Chân Trời Đảo Ngược Cô Gái Như Em .... Mời các bạn đón đọc Chân Trời Đảo Ngược của tác giả Marc Levy.
Vịt Nhỏ Xấu Xí, Em Là Của Tôi! - Lê My
-Phạm Ngọc Trân (cô) – 20 tuổi, nhà nghèo, khuôn mặt không được xinh lắm nhưng dễ nhìn, dễ thương, tốt bụng. -Trịnh Bảo My – 20 tuổi, là tiểu thư của tập đoàn Trịnh Gia lớn thứ 3 thế giới, xinh đẹp, dễ thương, tốt bụng, tuy là tiểu thư nhưng không hề kênh kiệu hay chảnh chọe, là bạn thân từ nhỏ của nó, luôn bên cạnh nó -Trần Minh Phong (anh) – 25 tuổi, là tổng giám đốc của công ty Trần Gia đứng đầu thế giới về mọi mặt, rất đẹp trai, lạnh lùng, kiêu ngạo, tài giỏi -Nguyễn Minh Kiệt – 25 tuổi, là thiếu gia của tập đoàn Nguyễn Gia đứng thứ 2 thế giới, là bạn thân chí cốt của hắn, đẹp trai, sát gái, tài giỏi, phong lưu -Đặng Duy Khang – là mối tình đầu của nó. -Còn một số nhân vật sẽ giới thiệu sau ^^ ********************************************************************************************* Truyện mình còn tệ lắm, mong các bạn đọc rồi góp ý dùm mình ^^ Sự góp ý của các bạn là động lực để mình viết truyện….. Yêu các bạn nhiều!!!! *** Em đó, sao không gọi cho anh, nếu lúc đó anh không đi theo thì mọi chuyện sẽ ra sao – anh mắng yêu, tay nhẹ nhàng sát trùng băng bó cho cô -Em xin lỗi, tại lo cho con quá – cô cúi đầu -Ngốc, mai mốt đừng như vậy nữa, anh sẽ lo đó – anh ôm cô, phải anh rất sợ, rất sợ mất cô -Em biết rồi – cô cười tươi -Anh yêu em – anh -Em cũng vậy, rất yêu anh – cô cười, rồi chủ động hôn anh, anh trố mắt ngạc nhiên, rồi cũng đáp trả, cô ngốc này, bây giờ còn biết chủ động… ******************************************************** -Thông tin được cánh nhà báo đưa rất nhanh, đúng như anh nói, tập đoàn phá sản, ba trúc đi tù, trúc làm gái, còn kèm theo hình ảnh, mẹ trúc đau lòng nhìn nhà tan cửa nát sinh bệnh mà qua đời. Anh thở dài, họ thật bất hạnh, nếu họ không có đứa con hiếu thắng như trúc, thì giờ đây kết cục không đau lòng như vậy…. -Anh, tội họ quá, anh nặng tay đấy – cô thương cảm -Tại cô ta, họ có trách thì trách đứa con hiếu thắng, độc ác của mình – anh cười ... Mời các bạn đón đọc Vịt Nhỏ Xấu Xí, Em Là Của Tôi! của tác giả Lê My.