Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Du Nữ

Saikaku Và Thế Gian Đa Tình "Con người là những hiện thân ma quái”, đó là nhận xét của Ihara Saikaku, văn hào Nhật Bản thế kỷ XVII. Đó không phải là một lời phê phán về đức lý mà chỉ miêu tả tài tình bản tính của con người bằng một mệnh đề ngắn gọn. Những hiện thân ma quái, ôi con người, đó là hữu thể khó nắm bắt nhất, khó định tính nhất. Đó là một sinh vật đa chiều. Nhận xét của Saikaku tình cờ phù hợp và như thể là cộng hưởng với lời thơ Hy Lạp trong khúc hợp xướng thứ nhất từ vở bi kịch Antigone của Sophocles: “Nhưng không gì vượt qua nổi con người Trong sự kỳ lạ của nó!” Chính bản thân Saikaku cũng là một hiện tượng lạ trong văn học Nhật, người có thể được so sánh với Rabelais của văn học Pháp về một tiếng cười chói lọi mà cả hai đã ném vào đời sống. CHÂN DUNG CỦA “VẦNG TRĂNG PHÙ THẾ” Ihara Saikaku (1641 – 1693) là người cùng thế hệ với thi hào Basho dù hai người ít có điểm chung nào về tâm hồn lẫn cuộc sống. Tuy nhiên, trong 26 năm sáng tác đầu tiên (Saikaku bắt đầu viết văn vào tuổi 14) ông chuyên tâm làm thơ, nhất là thơ haiku. Ông có tài làm thơ nhanh đến mức nổi danh là “Nimano” (Nhị Vạn Ông). Vì trong một cuộc thi thơ, Saikaku đã đọc hầu như liên tục hơn hai vạn bài haiku, chính xác là 23.500 bài, trong khoảng thời gian một ngày (đúng 24 giờ đồng hồ) vào năm 1684 trước ngôi đền Sumiyoshi ở Osaka. Đó là một kỷ lục thơ ca không thấy ai tìm cách vượt qua. Khả năng sáng tác thần tốc ấy không mấy thích hợp cho thơ trữ tình – hàng vạn bài haiku (hay haikai theo cách gọi thời đó) mà ông làm rồi ra sẽ không còn vương lại trong trí nhớ ai. Tuy vậy vào năm 1672 Saikaku cũng đã là nhân vật trung tâm của một nhóm nhà thơ tiên phong đi theo phái Danrin. Và tác phẩm đầu tiên của Saikaku được ấn hành nằm trong tập thơ haiku của nhóm này xuất hiện vào năm 1673. Cho dù sau này nổi tiếng là một tiểu thuyết gia lỗi lạc, Saikaku cũng dành cho thơ không ít thời gian. Tính đến cuối đời, ông xuất bản chừng khoảng 12 tập thơ và tác phẩm phê bình thơ. Nuôi ba đứa con, trong đó có một đứa con gái mù. Ông không tục huyền bao giờ và năm 1677, làm lễ thí phát, một cử chỉ khá thông thường của các nghệ sĩ thời đó khi muốn dành cuộc đời mình cho sáng tạo nghệ thuật hoặc đi tu. Năm năm sau, vào tuổi 40, ông đạt được thành công lớn khi quay ngòi bút sang văn xuôi với cuốn tiểu thuyết Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko). Cuốn sách ấy mở đầu cho hàng loạt tác phẩm “Phù thế thảo tử” (Ukiyo zoshi) của ông, ảnh hưởng đến cả thời đại. Và Saikaku trở thành tiểu thuyết gia hàng đầu, linh hồn của thời Phục hưng Nhật Bản. Saikaku tuy không phải là người sáng tạo ra văn chương phù thế, tức “Phù thế thảo tử” nhưng ông đã đem lại cho nó một màu sắc huy hoàng, tựa như tranh khắc gỗ, vẽ lại cuộc sống đa tình của thế gian, kể cả những hiện thân ma quái của nó. Phù thế, ấy là Ukiyo, là cõi người ta. Uki là “ưu” (ưu sầu) nhưng cũng là “phù” (trôi nổi). Cuộc đời hẳn nhiên là phù ảo nhưng cuộc đời cũng là phiêu lãng. Phiêu lãng là sống. Là đi. Là yêu. Là ôm ấp trần gian. Là mộng. Là bay đi theo hương. Là phong ba. Là cát bụi. Là không chết trong khi sống. Là cười cho cả tiếng. Là khóc cho khô lệ. Là một hiện thân tràn đầy của từng khoảnh khắc. Văn chương phù thế, mà Saikaku là người dẫn đầu, là văn chương của những ngọn sóng náo nức, mãnh liệt, lúy túy, nén mình về phía trước mà quay lưng lại với những thần linh xưa cũ. Sống là sóng, là nổi sóng, là thay đổi, là trôi, là dâng tràn. Và con người đô thị, những thị dân Edo chợt khám phá ra tiếng nói của chính mình nơi Saikaku. Khác với võ sĩ đạo, các thị dân ấy đã có con đường của riêng mình gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo). Các nhân vật của Saikaku, cả nam lẫn nữ, đều phiêu lãng trên con đường ấy, cuồng nhiệt và liều lĩnh, ngây thơ và sành sõi, đa tình và tuyệt vọng, thường vấp phải sai lầm nhưng tất cả đều không sợ sống. Sau đó ít năm, Saikaku thử bút trong lãnh vực sân khấu, viết kịch bản cho múa rối (Joruri). Cũng như trong thơ, ông không đọ nổi với Basho thì trong sân khấu, ông chẳng bì được với Chikamatsu. Vở kịch ông soạn vào năm 1685 chỉ là một thất bại. Ngoài ra ông cũng viết một số bài phê bình về kịch nghệ Kabuki. Và với năng lực tài hoa của mình, Saikaku còn đi vào hội họa, vẽ minh họa cho một số tập thơ và tiểu thuyết của chính ông. Các minh họa phù thế thảo tử của ông được yêu thích và nhiều nhà phê bình đánh giá khá cao. Chưa hết, Saikaku còn là một nhà thư pháp có tiếng. Do thành công của cuốn truyện đầu tay, Saikaku tiếp tục viết tiểu thuyết. Từ đó, đến cuối đời, cứ trung bình mỗi năm ông cho ra hai tác phẩm. Đặc biệt, vào năm 1688 sức sáng tạo của ông lên đến tuyệt đỉnh, hoàn thành tất cả 5 tác phẩm dài. Như vậy, viết tiểu thuyết trong khoảng 10 năm cuối đời, ông đã có không dưới 25 bộ sách. Saikaku mất vào tuổi 51. Trước đó ông soạn bài haiku từ biệt thế gian: “Vầng trăng phù thế Hai năm dài tôi đã Dõi đôi mắt nhìn theo.” Di cốt tro tàn của Ihara Saikaku được chôn cất trong chùa Seigan ở Osaka. Saikaku theo sự mô tả của thời ấy có một mái đầu thanh tú và lãng mạn, một dáng dấp trẻ trung. Chân dung ông do nhà thơ Haga Issho đương thời vẽ cho thấy một con người có vóc dáng nhỏ bé đầu cạo trọc, ngồi trầm tư trên sàn với tấm áo choàng truyền thống, đôi tai mở lớn như đang chăm chú nghe, đôi mắt đang nhìn chăm chú một điều gì đó, đôi bàn tay đặt lên nhau trên đầu gối thì rất nhỏ nhưng gân guốc. Toàn thể chân dung ấy toát lên một tính cách mãnh liệt, tràn trề sinh lực, một cái nhìn sắc sảo tinh anh, một hài hước sành đời và một lòng bao dung đầy hiểu biết. Đó là chân dung của một vầng trăng trầm lặng nhưng nồng nàn. Sự trộn lẫn giữa bóng tối và ánh sáng. CHỦ ĐỀ ĐA TÌNH Tiểu thuyết của Saikaku có thể chia làm hai đề tài lớn: Sắc dục và tiền tài. Trước hết là các tác phẩm về sắc tình, gọi là Koshokubon (Hiếu sắc bản). Thứ hai là các tác phẩm về đời sống thực tiễn hàng ngày của thị dân gọi là Choninmono (Đinh nhân vật) hầu như lúc nào cũng liên quan đến tiền tài. Tiểu thuyết những năm đầu thường tập trung vào đề tài sắc dục. Càng về sau Saikaku càng chú ý đến đời sống kinh tế của thị dân. Đa tình, hay “hiếu sắc”, là chủ đề đặc biệt đã làm nên danh tiếng của Saikaku và cũng là yếu tố từng làm cho người ta loại trừ ông trong một thời gian dài. Những tác phẩm hiếu sắc – gọi như thế vì chữ Koshoku (hiếu sắc) được Saikaku đưa vào nhan đề nhiều tiểu thuyết ban đầu của ông: ▪ Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko: Hiếu sắc nhất đại nam, 1682) ▪ Người đàn bà đa tình/ Đời du nữ (Koshoku ichidai onna: Hiếu sắc nhất đại nữ, 1686) ▪ Năm người đàn bà đa tình (Koshoku gonin onna: Hiếu sắc ngũ nhân nữ, 1686) Và ngay cả những tác phẩm mà nhan đề không có chữ “Koshoku” thì trong thời kì đầu ấy vẫn xoay quanh đề tài sắc tình. “Koshoku” ám chỉ tình yêu lẫn sắc dục trong mọi phương diện của nó, có khi bao gồm cả những mối quan hệ yêu đương đồng tính – Các nhân vật ấy thường đa tình đến cực điểm, cả nam lẫn nữ. Hiếu sắc có thể là lần lượt có nhiều người tình khác nhau trong cuộc đời. Nhưng hiếu sắc cũng có thể là chung tình đến cực điểm, có thể cùng nhau chết (tự sát đôi) để bảo vệ tình yêu. Hiếu sắc có thể là nỗi đam mê với trần gian muôn màu, niềm vui sống (Joie de vivre) lúy túy trào dâng. Thế gian xuất hiện trước mắt Saikaku là một thế gian đa tình. Hay trong ông là cả thế gian ấy, là cả người đàn ông, là cả người đàn bà. Con người trở thành nhan sắc của chính cuộc đời chứ không phải chỉ có vẻ đẹp của hoa đào, hoa mơ, hay trăng, nước. Ngắm hoa ư? Được. Ngắm trăng ư? Được. Nhưng con người, đó chính là hoa, là trăng của thời đại mới. Ngắm đi. Nâng niu đi. Ôm ấp đi. Phố xá bỗng nhiên trở thành những bài thơ mới và con người trở thành những bức tranh mới. Một truyện ngắn của Saikaku bắt đầu như thế này: “Tôi chán những đám mây hoa đào đến độ xa lánh kinh đô suốt cả mùa xuân”. Xưa nay, với người Nhật chẳng có gì đẹp bằng hoa anh đào. Thế mà ở đây, chẳng những nó mất hết vẻ quyến rũ mà còn gây buồn phiền khó chịu. Không phải Saikaku tấn công vào hoa đào và thiên nhiên. Nhưng ông thấy rõ thời đại của “hoa” đang nhường lại ngôi vị ưu tiên cho thời đại của “người” với tất cả cái đẹp và cái xấu của nó. Sau chiến tranh, con người đang tận hưởng tự do và những lạc thú mới. Họ trở nên phóng đãng, lao vào sắc dục như những con thiêu thân. Và cái gì quá độ mà chẳng có nguy cơ lố bịch. Saikaku thấy rõ thời đại mới đã đánh mất các cảm thức tinh tế của ngày xưa, thấy rõ sự dung tục đang lan tràn trong lối sống thị dân. “Người ta đến rừng mơ ở Kitano hay viếng hoa tử đằng ở Otani nhưng không phải để ngắm hoa mà để vò xé nó. Người ta nhìn làn khói hùng vĩ tuôn trào từ đỉnh Toribe để chỉ thấy nó không khác nào khói ống điếu!” Trích đoạn trên nằm trong Người đàn ông đa tình. Đó là câu chuyện về cuộc đời phóng đãng của một chàng trai tên là Yonosuke, có nghĩa là “con người của thế gian”. Đứa con trần thế ấy có mặt trong tất cả các chương sách với những phiêu lưu tình ái. Nó theo đúng số chương sách của Truyện Genji do nữ sĩ Murasaki viết từ đầu thế kỷ XI dù nó là một cuốn tiểu thuyết ngắn chứ không phải một tác phẩm trường thiên như kiệt tác cổ điển kia. Và khác với Truyện Genji, nó thuộc vào một thời đại mà người ta bộc lộ nhục cảm một cách táo bạo. Nhục cảm koshoku đã thay thế cho niềm bi cảm aware thời cổ điển. Đúng ra, cái gọi là tình ái ở đây chỉ là những cuộc ăn chơi phóng đãng qua các thành phố Edo, Osaka, Kyoto… và cái đó gọi là “tự do”: “Hơn bất kỳ điều gì khác trên đời, Yonoseko yêu tự do”. Như thế, Yonoseko là một mẫu người dục tính, khác với Hoàng tử Genji là con người lãng mạn. Con người lãng mạn đi tìm cái đẹp, cứu vớt cái đẹp và sáng tạo cái đẹp. Cỏ hoa, bóng trăng, nhan sắc và tâm hồn được tái tạo và huyễn hóa. Con người dục tính thuộc về thế gian này, khoảnh khắc này, nhục thể này. Nó tìm kiếm hoan lạc khắp nơi. Nó lấy thực làm mộng, nó không vỡ mộng nhưng lại làm vỡ thực tại với dục vọng của mình. Và khi con người dục tính làm “tiên tri” thì nó chỉ có thể là tiên tri giả. Yonoseko từng đóng vai một nhà tiên tri thần đạo mà hát to trên đường rằng “ngọn gió thiêng sẽ thổi và tàn sát tất cả các cô gái nào ở tuổi mười bảy đôi mươi mà vẫn còn trinh trắng”! Vậy mà Người đàn ông đa tình vẫn còn chút ít màu sắc lãng mạn nếu đem so sánh với tiểu thuyết viết sau đó bốn năm là Người đàn bà đa tình, tức Đời du nữ. Nhân vật trung tâm lần này là một du nữ và đây là câu chuyện của thân xác nàng. Đó là một thân xác liên kết mọi biến cố trong đời nàng và vì vậy trở nên một thân xác “có tính cách”. Nàng là nhân vật tiểu thuyết được tạo dựng sinh động nhất của Saikaku, một chân dung mang nhiều màu sắc hiện thực tâm lý nhất của văn học Nhật Bản đương thời. Các chương của tác phẩm kể theo ngôi thứ nhất trong truyền thống “Sám hối vật ngữ” (Zange monogatari) tức loại truyện tự thú, tự bạch. Tên thật của nhân vật không hề được nêu lên. Xuất thân từ một gia đình tử tế, nàng làm thị nữ cho một phu nhân ở triều đình. Nhưng sau đó bị đuổi đi vì tội vụng trộm tình ái lúc mới 12 tuổi. Không bao lâu, gia đình nàng sa sút, nàng bị bán vào “thành phố không đêm” Shimabara ở Kyoto. Những thành phố không đêm (Fujajo: bất dạ thành) là các khu vực vui chơi thời ấy. Vừa là chốn ăn chơi, vừa là trung tâm của đời sống xã hội nghệ thuật. Đó là các khu phố Yoshiwara ở Edo, Shimabara ở Kyoto và Shinmachi ở Osaka. Những khu phố ấy bao gồm các thanh lâu, nhà tắm, lữ quán, sân khấu… chứa đựng đông đảo các du nữ, vũ nữ, vai hề, diễn viên cùng với những người hầu, phục vụ và buôn bán. Chính các thị tứ của lạc thú ấy đóng một vai trò quan trọng làm nên văn hóa thời Tokugawa (1600 – 1868). Bởi vì là nguồn đề tài bất tận cho nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, họa sĩ và cả thơ. Nhân vật chính của các thành phố không đêm là du nữ (Yujo: gái làng chơi, các ả đào). Họ đàn hay, múa giỏi và nghệ thuật ứng xử, trò chuyện khéo léo… Những thị tứ như vậy được gọi là Yukaku (du quách). Shimabara chính là một Yukaku, ở đó bắt đầu cuộc đời lưu lạc khắp xứ của người đàn bà đa tình. Nàng lần lượt là du nữ, là tình nhân của một nhà sư, là thầy dạy viết thư, hầu phòng, hầu gái, ca nữ, gái nhà tắm, trà thất và khi xuống tận đáy, làm cả gái điếm đường. Có một số yếu tố khách quan từ hoàn cảnh gia đình và xã hội nhưng vẫn không mạnh bằng bản chất “Koshoku” (hiếu sắc) ở nàng. Nàng không hề là một nhân vật lãng mạn. Nàng đến với đàn ông bằng thân xác chứ không bằng tình yêu và giấc mơ. Nàng tống khứ cả tôn giáo ra khỏi ngày lễ của nó, ra khỏi tâm hồn một sư già đang mặc tăng bào, cầm kinh khí tượng A di đà. Có lúc nàng hóa thành lang thang trên đường và hát theo vũ khúc xưa: “Ta cần một người đàn ông! Ta cần một người đàn ông!”. Về già, khi không còn có thể tìm thấy lạc thú nào nữa, đứng trước dãy tượng Ngũ Bách La Hán ở chùa Đại Vân nàng vẫn đầy ắp trong tâm cuộc sống hoan lạc cũ. “Khi đứng yên lặng ngắm nhìn năm trăm vị Phật này, Tôi cảm thấy rằng từng vị một gợi cho tôi nhớ đến mỗi người đàn ông mà tôi đã từng giao hoan trong quá khứ.” Ngay cả Phật cũng không thoát khỏi sự cảm nhận của nàng bằng thân xác là đàn ông, là nam và nàng là người nữ, dường như đó là điều nàng quan tâm trong suốt cuộc đời. Về cuộc đời, nàng ngỡ rằng mình đã thoát khỏi “những đám mây ảo vọng của chính mình”. Nàng lầm. Người đàn bà đa tình là nàng, là du nữ trong bản chất, là cư dân vĩnh viễn của những thành phố không đêm. CON ĐƯỜNG CỦA THỊ DÂN Đề tài thứ hai mà tiểu thuyết của Saikaku thường khai thác là tiền tài. Biết sử dụng tiền tài là một trong những yếu tố của Chonindo (Đinh nhân đạo). Những câu chuyện về thị dân và tiền tài thuộc về chủ đề Choninmono (Đinh nhân vật) mà Saikaku bắt đầu với bộ Kho tàng vĩnh cửu (Nippon Eitaigura: Nhật Bản vĩnh đại tàng, 1688). Đó là một tập sách gồm 30 truyện diễn tả các phương cách kiếm tiền và tiêu phí nó của thị dân. Cuốn sách được xem là bộ cẩm nang làm giàu và vì thế đã trở thành kinh thánh của thế kỷ XVIII. Giá trị của Kho tàng vĩnh cửu chính là bức tranh hiện thực về thế giới thị dân dưới ảnh hưởng của tiền tài. Saikaku có lẽ là tác giả đầu tiên ở Nhật đề cập đến đời sống kinh tế một cách cụ thể, linh hoạt và đầy đủ đến như vậy. Saikaku cũng là nhà văn đầu tiên vạch ra đường lối sống của thị dân, có thể gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo), khác với tính cách cứng nhắc của võ sĩ đạo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ông đồng tình với việc làm giàu bằng mọi giá. “Những cách làm tiền bỉ ổi” bị ông vạch ra trong Kho tàng vĩnh cửu với lời kết luận như sau: “Chỉ người nào mưu sinh bằng những phương tiện đàng hoàng mới đáng gọi là người. Đời sống của con người có lẽ chỉ là giấc mơ, nhưng dù chỉ kéo dài độ năm mươi năm thì chọn một công việc tử tế trong thế gian này hẳn là cũng tìm được thôi”. Ảnh hưởng của tiền tài trong đời sống thị dân còn có thể tìm thấy trong nhiều tác phẩm khác của Saikaku, đáng kể hơn cả là cuốn sách ấn hành vào khoảng cuối đời, mang tên Nợ nần thế gian (Seken Munesanyo, 1692). Đây cũng là tập truyện ngắn. Những câu chuyện xoay quanh ngày cuối năm, thời điểm phải lo thanh toán mọi nợ nần. Đời sống tối tăm đầy lo buồn của những thị dân hiện lên trên các trang sách này khác hẳn với đời sống xa hoa của những nhân vật mà Saikaku phác họa trong thời kỳ đầu. Không phải là những cá nhân đào hoa mà là những tập thể lầm than. Cũng không còn vấn đề làm giàu như trong Kho tàng vĩnh cửu nữa mà chỉ còn là vấn đề trả nợ trong địa ngục năm tàn. “Mùa cuối năm đầy những chuyện mà người đứng ngoài cũng thấy nát lòng!”. Ở đây hầu hết các nhân vật không có tên mà chỉ có những danh từ chung để chỉ các quan hệ xã hội: ông chủ, bà chủ, người thâu tiền, thư ký, người nghèo, người vợ, người con… Ngoài hai chủ đề trên, Saikaku còn viết các tạp thoại bao gồm những truyện truyền kỳ, truyện võ đạo và cả truyện trinh thám. Nổi bật trong loại này là Truyện các xứ (Shokoku banashi, 1685). Qua Truyện các xứ, Saikaku muốn thám hiểm “cuộc đời trong tất cả chiều rộng của nó”. Nó gọi ta nhớ đến Truyện mười ngày của Boccaccio vào thời Phục hưng ở Ý. Vẻ đẹp và thói xấu của con người trong các tác phẩm ấy đều có vẻ lý thú. Đó chính là hình ảnh con người như “hiện thân ma quái”. Đó là con người trong một thế gian có muôn màu kỳ diệu, có hoan lạc, có đau khổ, có bất trắc, có bình an… nghĩa là một thế gian đa sự, đa tình. Cái hiện thực căng đầy ở Saikaku thường đi đôi với sự trào lộng. Như chính cuộc đời, ngay cả trong những cảnh bi đát, Saikaku vẫn để lóe lên tia sáng nghịch thường. Theo Hibbett đó là “nghệ thuật đan xen ánh sáng và bóng tối” của Saikaku và cho rằng: “Bằng cách trộn lẫn trào tiếu với trang nghiêm, Saikaku đã sáng tạo ra một phong cách hiện thực châm biếm đầy chất thơ để có thể miêu tả cả phương diện vui thú lẫn buồn phiền của cõi phù thế”. Tính chất hiện đại của Saikaku đã làm dậy lên một phong trào khôi phục ông vào cuối thế kỷ XIX sau khi ông bị lãng quên gần hai thế kỷ. Người ta chợt nhận ra rằng, hóa ra ngay từ thế kỷ XVII, văn học Nhật đã biết đến một chủ nghĩa hiện thực tràn trề sự sống. Với Saikaku, “những con người phù thế khám phá ra rằng các câu chuyện kể về những rồ dại và mê cuồng của họ cũng hứng thú như bất kỳ truyện kể nào nhập từ Trung Quốc sang hay của ngày xưa truyền lại. Gái hồ ly, võ sĩ và các tiểu thư vẫn còn là thời thượng văn chương đấy nhưng đã có vẻ sáo mòn, khác với các nhân vật phù thế như chàng tuổi trẻ phóng đãng, như các du nữ tài sắc quyến rũ hoặc người vợ bướng bỉnh ngang tàng” (Hibbett, The Floating in Japanese Fiction, Tokyo 1992). Những gì Saikaku sáng tạo vào cuối thế kỷ XVII giữa một xứ Phù Tang đóng kín đến nay vẫn còn tràn đầy một niềm vui sống say nồng. Con người thời đại, cho dù ở xa Nhật Bản, vẫn tìm thấy hình bóng mình trong các tác phẩm của Saikaku, cả vẻ đẹp lẫn thói xấu, cả sắc lẫn tình, cả chơi đùa và bán buôn, cả trang trọng và khôi hài. Và nhất là đọc ông, ta chợt nhận ra thế gian quanh ta đa tình biết mấy! NHẬT CHIÊU *** Thời đại Edo (1603 – 1867) dưới sự lãnh đạo của Mạc phủ Tokugawa kéo dài 264 năm có thể xem là một trong những thời kỳ êm đềm nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với chính sách bế quan tỏa cảng, người Nhật dựa vào nội lực của chính mình để phát huy đặc tính văn hóa trên tất cả lĩnh vực từ cá tính dân tộc, tay nghề, mỹ thuật… Giai cấp samurai được khuyến khích coi trọng văn hơn võ; giai cấp thương gia ngày càng trở nên giàu có. Thêm vào đó nhờ vào sự phổ cập các trường tư thục, trường dạy trong chùa (terakoya 寺子屋) và kỹ thuật in ấn phát triển, sách in bằng bản khắc gỗ ra đời nên dân thường có điều kiện tiếp xúc với văn chương. Văn học được đại chúng hóa và văn hóa trở thành văn hóa của thị dân (Chonin bunka 町人文化). Sinh vào đầu thời Edo, Ihara Saikaku (Tỉnh Nguyên Tây Hạc 井原西鶴) (1642 – 1693) là nhà thơ haiku và tác gia tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết “phù thế thảo tử”. Phần lớn cuộc đời ông viết về cuộc sống thị dân Edo với những mối quan tâm về tiền bạc và sắc tình. Với khả năng quan sát nhạy bén và tài năng đa dạng, Saikaku đã khắc họa tinh tế bản chất con người trong một xã hội của kim tiền và sắc dục. Những tác phẩm của ông vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay vì cho dù có văn minh đến đâu nhưng tâm lý con người ngàn năm nay vẫn không hề thay đổi. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là “Năm người đàn bà si tình” (Hiếu sắc ngũ nhân nữ 好色五人女). Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành 上田秋成) (1734 – 1809) vốn là con hoang của một kỹ nữ, sau được một thương nhân nhận nuôi để nối nghiệp nhưng cuối cùng lại chuyển sang nghề y. Ueda có niềm tin sâu sắc về những truyện huyền bí. “Vũ nguyệt vật ngữ” (雨月物語 Truyện kể trong mưa và trăng) đúng như tên gọi được viết xong vào đêm mưa tạnh trăng mờ năm 1768. Tuy viết về chuyện yêu ma quỷ quái nhưng lại ẩn chứa rất nhiều bài học về thế thái nhân tình. Hai tác phẩm tiêu biểu “Năm người đàn bà si tình” và “Vũ nguyệt vật ngữ” đặt song song và tương chiếu với nhau giúp chúng ta thấy được cuộc sống và quan niệm nhân sinh của người dân Nhật Bản thời Edo một cáchsống động và chân thực và từ đó có thể rút ra bài học cho chính mình trong cuộc đời hôm nay. Đặc biệt là lời cảnh tỉnh về sắc dục và ái tình. Từ xưa đến nay đã có biết bao nhiêu tấn tuồng đời diễn ra với mùi vị của kim tiền. Chính tiền bạc và sắc dục đã biến con người trở thành yêu ma, yêu ma vì tình mà trả thù người, người và yêu ma lẫn vào nhau, chung sống với nhau. Như xà tinh trong truyện “Con rắn tà dâm” vì tình mà uổng phí công tu luyện ngàn năm, nhà sư trong truyện “Chiếc khăn trùm đầu màu xanh” của “Vũ nguyệt vật ngữ” vì tình yêu với chú tiểu mà biến thành một con yêu quái. Chính Ueda Akinari cũng thừa nhận: “Trên núi ái tình mà bản thân Khổng Tử cũng trượt ngã, người đời dễ quên đi nghĩa vụ của mình và cả bản thân mình nữa”[1]. Còn truyện “Năm người đàn bà si tình” thì kết thúc hầu hết là bi thương, nhân vật chính không chết thì cũng đi tu. Ái tình đã biến thành nghiệp chướng. Cả hai tác phẩm này đều đã có bản dịch tiếng Việt dù không đầy đủ. “Năm người đàn bà si tình” của Ihara Saikaku được Phạm Thị Nguyệt dịch, Nhà xuất bản Tiền Giang ấn hành năm 1988. Còn “Vũ nguyệt vật ngữ” được Nguyễn Trọng Định dịch với tên “Hẹn mùa hoa cúc” do Nhà xuất bản Kim Đồng in năm 2000. Những trích dẫn trong bài của chúng tôi là lấy từ hai bản dịch này. ... Mời các bạn đón đọc Đời Du Nữ của tác giả Ihara Saikaku.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Đi Dây - Colum McCann
"Người đi dây" là cuốn tiểu thuyết cảm động, phản ánh cuộc sống người dân nước Mỹ trong thời chiến tranh với Việt Nam và những chuyển biến xã hội thập niên 70.   Người đi dây là cuốn sách viết theo thủ pháp tiểu thuyết mới của tác giả Column McCann. Tác phẩm đã nhận được giải thưởng Văn học quốc tế Impac Dublin 2011 và là cuốn sách bán chạy theo New York Times Tiểu thuyết gồm nhiều truyện dạng trọn vẹn và độc lập, nhưng các nhân vật và tình tiết đều có mối liên hệ với nhau. Tác giả mượn sự kiện có thực là nghệ sĩ đi dây qua hai tòa tháp trung tâm Thương mại thế giới tại New York để nói về những cuộc đời, phản ánh nước Mỹ thập niên 70 trong không khí xáo động vì chiến tranh Việt Nam lẫn những chuyển biến trong xã hội. Trong ánh rạng đông của một buổi sớm cuối mùa hè, người dân ở Manhattan đứng nín lặng, chằm chằm nhìn lên điều không thể tin nổi ở tòa tháp đôi. Đó là tháng 8, năm 1974, và một người biểu diễn bí ẩn hết chạy lại nhảy trên sợi dây chăng giữa những tòa tháp, lơ lửng cách mặt đất một phần tư dặm. Dưới đường phố, biết bao nhiêu những cuộc đời bình dị đã trở nên phi thường trong bức chân dung lộng lẫy về một thành phố và những con người của nó, được phác họa bởi ngòi bút tiểu thuyết gia xuất sắc Colum McCann, những con người ấy được liên hệ với nhau theo những cách mà chính họ cũng không hề hay  biết. Người đi dây đã nắm bắt được cái hồn của nước Mỹ trong buổi giao thời, với triển vọng phi thường, và ẩn sau là một sự vô tội đến xé ruột. Góc nhìn tinh tế của tác giả khai thác được những khía cạnh rất đời thường mà gây cảm động sâu sắc. *** Colum McCann sinh ngày 28/02/1965 tại Dublin, Ireland. Hiện sống cùng vợ và ba con ở New York và đang giảng dạy tại chương trình Viết Sáng tạo, trường Hunter College. McCann được xem là một người nghệ sĩ quốc tế, sinh ra tại Ireland nhưng ông đã đi du lịch hầu như khắp thế giới. Đến Hoa Kỳ năm 1986, trong hai năm trên chiếc xe đạp ông đã đi khắp nước Mỹ với quãng đường 12.000 km. Rồi cùng vợ Allison sống ở Nhật 18 tháng trước khi đến New York. Trong một bài phỏng vấn, McCann đã chia sẻ "Tôi tin vào sự bình đẳng của những câu chuyện. Tôi yêu sự thật rằng những câu chuyện của chúng ta có thể vượt qua tất cả các loại biên giới và ranh giới. Tôi cảm thấy khiêm nhường khi biết rằng mình chỉ là một phần nhỏ bé của nền tri thức văn chương. Tôi lớn lên trong một ngôi nhà, ở một thành phố, trong một quốc gia được hình thành từ những quyển sách. Tôi không biết còn có đặc ân nào lớn hơn việc được kể lại những câu chuyện hay lắng nghe chúng. Đó là điều làm cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn." Colum McCann là tác giả của 6 tiểu thuyết và 2 tập truyện. Tác phẩm của ông đã được xuất bản với hơn 35 ngôn ngữ, và đã xuất hiện trên các tờ New Yorker, Esquire, Paris Review, Granta, The Atlantic Monthly, GQ, Tin House, Bomb,... Ông là người nhận được nhiều danh hiệu quốc tế, giải thưởng Sách quốc gia Mỹ (The National Book Award) năm 2009, tiểu thuyết nước ngoài hay nhất năm 2010 ở Trung Quốc, giải Impac Dublin (2011), Hiệp sĩ Văn học Nghệ thuật từ chính phủ Pháp và một đề cử Oscar. Tiểu thuyết Let the great world spin (Người đi dây, NXB Trẻ) đã mang về cho Colum McCann rất nhiều giải thưởng lớn và dành được sự ca ngợi trên toàn thế giới. Trở thành tác giả sách bán chạy nhất trên 4 lục địa. Bản quyền phim Let the great world spin đã được mua bởi J.J Abrams đang trong quá trình bấm máy. Tiểu thuyết mới nhất của Colum McCann Transtalantic được xuất bản vào mùa hè 2013 bởi Random House (U.S), Blomsbury (U. K) và muộn hơn trên các nhà xuất bản nước ngoài khác như Belfond (Pháp) và Rowholt (Đức). Mời các bạn đón đọc Người Đi Dây của tác giả Colum McCann.
Lâu Đài Cát - Magdalena Witkiewicz
Bằng ngôn ngữ của nhà văn và sự nhạy cảm của phụ nữ, Magdalena Witkiewicz đem tới những cảm xúc hỗn độn của một người đàn bà trước vực thẳm hôn nhân. Veronika và Marek quen nhau khi còn là học sinh trung học. Sáu năm hẹn hò của họ kết thúc bằng một đám cưới hạnh phúc. Với Veronika, được kết hôn với mối tình đầu là một điều tuyệt vời. Mặc kệ những lời trêu chọc của cô bạn thân lẳng lơ Dominika: "Sẽ chán chết nếu chỉ kè kè với một người đàn ông", Veronika vẫn mỉm cười hạnh phúc, bởi người chồng Marek là quá đủ với cô. Họ luôn ở bên nhau, tận hưởng những cảm xúc ngọt ngào của tình yêu cho đến khi những bất ổn xuất hiện. Khi những cặp tình nhân xung quanh đã làm cha mẹ, Veronika và Marek vẫn là vợ chồng son. Veronika rất yêu trẻ con và luôn mơ ước sẽ sinh cho Marek những đứa con xinh xắn. Nhìn con gái đáng yêu của cô bạn thân Eva, ước mơ đó càng mãnh liệt. Cô bắt đầu bàn bạc nghiêm túc với chồng về chuyện sinh con. Cô bắt chồng ăn uống và sinh hoạt điều độ để khả năng thụ thai cao hơn. Điều này làm Marek không thoải mái và mâu thuẫn dần nảy sinh giữa hai người. Nhưng mọi thứ vẫn không như ý muốn. Cuối cùng, cả hai quyết định tìm đến bác sĩ. Kết quả kiểm tra sức khỏe như một lưỡi dao chĩa thẳng vào cuộc hôn nhân của họ. Mọi vấn đề đến từ phía Marek. Tinh trùng của anh quá yếu để thụ thai. Để tình hình được cải thiện anh buộc phải điều trị bằng thuốc. Marek bắt đầu thấy ngột ngạt khi Veronika lúc nào cũng đề cập đến vấn đề con cái. Ngược lại, Veronika bực bội khi thấy chồng hút thuốc và uống bia. Cô còn có cảm giác như chính Marek đã cướp đi cơ hội làm mẹ của mình. Đúng lúc đó Kuba xuất hiện. Bằng sự tinh tế và nhạy cảm của một người đàn ông từng trải, anh mang đến cho Veronika những lời khuyên hữu ích, làm tâm trạng của cô nhẹ nhàng hơn. Họ bắt đầu gọi điện và gửi email cho nhau. Cùng thời gian này, Veronika nghi ngờ Marek gian díu với Dominika. Cộng thêm việc anh suốt ngày vắng nhà và lấy lý do bận bịu công việc khiến khoảng cách giữa hai vợ chồng ngày một lớn. Marek quyết định ra đi để cho cả anh và Veronika có thời gian suy nghĩ thông suốt mọi chuyện. Ban đầu, tình cảm giữa Veronika và Kuba chỉ là tình bạn thuần túy. Nhưng khi Marek ra đi, họ đã trở thành bạn tình của nhau. Veronika hoàn toàn hài lòng với mối quan hệ này. Chỉ đến khi biết mình có thể đã mang thai với Kuba, cô mới nhận ra mọi khúc mắc trong lòng bấy lâu. Cô rất mong mỏi có con, nhưng khi biết mình có thể đang mang thai, Veronika lại không cảm thấy hạnh phúc như cô vẫn nghĩ. Cô nhận ra, cô yêu chồng nhiều hơn cả việc cô muốn có một đứa con. Bao lâu nay khát khao có con đã làm cô quên đi điều đó... Lần đầu tiên trong đời, Veronika cảm thấy may mắn khi mình không mang thai. Cô quyết định cắt đứt với Kuba và cho cuộc hôn nhân của mình thêm một cơ hội. Cuốn tiểu thuyết khép lại với cái kết hạnh phúc dành cho Veronika và Marek. Họ trở về bên nhau và có một cô con gái xinh xắn. "Hôn nhân không chỉ là sống cùng nhau và đeo nhẫn cưới mà là phải thấu hiểu và thông cảm cho đối phương" là ý nghĩa Veronika tìm được cũng là thông điệp của câu chuyện. Bằng bút pháp tinh tế của một nhà văn và sự từng trải của một người phụ nữ có gia đình, Magdalena Witkiewicz đã vẽ nên một bức tranh sống động và chân thực về tình yêu và hôn nhân. Tác giả không cho rằng tình yêu là vĩnh cửu. Bằng câu chuyện đầy thực tế, tác giả cho người đọc thấy, dẫu có là tình yêu đích thực vẫn luôn có một đặc tính: mong manh dễ vỡ. Giữ gìn một tình yêu cũng giống như xây một lâu đài cát, ta phải luôn để mắt đến nó để giữ không cho sóng cuốn đi. Lâu đài cát không chỉ là câu chuyện về một về một người phụ nữ đau khổ trước hôn nhân tan vỡ. Đó còn là câu chuyện của niềm khát khao làm mẹ đến vô bờ. Chính nỗi khát khao đó khiến con người ta đứng trước nhiều lựa chọn khó khăn. Magdalena Witkiewicz đã rất khéo léo khi xây dựng tính cách các nhân vật. Một Veronika với vẻ ngoài cứng cỏi nhưng bên trong lại rất yếu mềm. Cô là một người phụ nữ trưởng thành nhưng đôi lúc lại ngây thơ như một thiếu nữ.  Đó là Marek - một người chồng vừa cứng rắn, vừa cương quyết, nhưng vẫn tràn đầy yêu thương và luôn điềm tĩnh. Còn Kuba - người đàn ông tinh tế và mạnh mẽ - tưởng chừng rất tuyệt vời hóa ra lại là một người đàn ông nhu nhược và chỉ biết trốn chạy. *** Magdalena Witkiewicz là một cái tên quen thuộc trong dòng văn học lãng mạn Ba Lan. Ngoài Lâu đài cát, tác giả có một số cuốn tiểu thuyết khá nổi tiếng về đề tài phụ nữ và gia đình, đã ra mắt độc giả Việt Nam như: Trường học dành cho các bà vợ, Chuyện kể của người đàn bà không chung thủy... Lâu đài cát do Nguyễn Thị Thanh Thư chuyển ngữ, vừa được Nhà xuất bản Trẻ phát hành tại Việt Nam. *** “Lâu đài cát” – chúng tôi đã suy nghĩ rất lâu về tựa đề này. Tôi đã khăng khăng đòi cuốn sách phải có tên là “Trên khúc ngoặt”. Bởi nó nói về chuyện đó. Về những khúc ngoặt của cuộc đời, mà đôi khi chúng xảy ra hoàn toàn bất ngờ. Và đôi khi tưởng như sẽ dẫn đến một con đường thẳng. Nhưng lúc này, khi đọc lại một lần nữa toàn bộ cuốn sách, tôi hiểu rằng sự mong manh của lâu đài cát là phù hợp hơn cả... Tất nhiên là có một số người mà tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn vì sự ủng hộ trong quá trình viết. Nếu không có các bạn, thì cuốn sách sẽ không giống như cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay. Trước hết, xin cám ơn các bạn đọc nữ của tôi, nhưng người rất hiểu về chủ đề của cuốn sách và đã viết cho tôi. Tôi không thể kể hết tên các bạn ra đây được. Cám ơn Kasia Drywa vì sự giúp đỡ và Cô gái trên chiếc tàu xoáy cao tốc (có thể cuối cùng thì bạn ấy đã rời khỏi chiếc tàu cao tốc) vì cuốn nhật ký. Cám ơn cô bạn gái thân thiết của tôi, Gosia Lorek vì sự ủng hộ không ngừng nghỉ trong tất cả các giai đoạn hình thành nên tiểu thuyết này. Vì điều đó, tôi cũng cám ơn Ola Kucewicz-Nastaly – nhờ bạn mà những cái thai trong sách không đến nỗi quá hiển nhiên... Và như vậy sẽ hay hơn. Và nhờ bạn mà những calo được sử dụng trong phạm vi sáng tạo đã không bị phí phạm... Xin cám ơn! Cám ơn Ania Jarmolovska và Monika Borovska vì cuộc nói chuyện của chúng ta ở khu vui chơi. Nhờ các bạn mà tôi đã nảy ra những ý tưởng rất rối rắm... Và còn nữa Ania – cám ơn vì những tư vấn về tâm lý đối với các nhân vật của tôi. Tôi cũng xin cám ơn chuyên gia lớn nhất trong lĩnh vực thần thoại – cô gái hai mươi tuổi Sonia Domaradzka, người mà khi nghe tôi hỏi rằng, trong thần thoại Hy Lạp có nhân vật nào muốn có con nhưng không thể, đã suy nghĩ chỉ trong ba giây và trầm ngâm trả lời: “trong thần thoại Hy Lạp thì em không biết, nhưng trong thần thoại Ai Cập thì có Neftyda, người...” – và ở đây tôi đã biết đến mọi mối liên kết giữa Neftyda với các vị thần Hy Lạp... Cám ơn em, Sonia!!! Michalina Malczewska, xin cám ơn vì phần âm nhạc tuyệt vời và sự thể hiện ca khúc do tôi viết lời cho riêng tiểu thuyết này. Michalina đã đưa vào âm nhạc chính xác cái không khí của cuốn sách. Mời các bạn nghe ca khúc này trên trang web của tôi www.magdalenawitkiewicz.pl. Cám ơn Ania Grzyb vì sự ủng hộ trong từng giai đoạn viết cuốn sách này; Slawek – vì những tư vấn liên quan đến xe máy và không chỉ có vậy. Cám ơn Ivona Grodzka-Górnik, vì điều này: trên bảng của chị ấy tôi đã nhìn thấy sơ đồ cuốn sách của chị được viết ra rất tuyệt vời và tôi đã bỏ qua ý tưởng ấy. Cám ơn Kasia Bondz vì đã dạy Ivonka lập bảng kế hoạch. Các bạn có biết rằng đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi được viết theo sơ đồ dựng sẵn? Cám ơn mẹ tôi vì đã quán xuyến mọi việc (nhất là các con tôi), khi deadline hối thúc. Và Mai Witkiewicz, người đã trông nom các con tôi một cách kiên cường khi tôi ở Amalka để viết cuốn sách này. Kamilia Wyroślak, vì những bức ảnh đẹp, như mọi lần! Cám ơn ông xã tôi vì hình như anh đã nhất trí với việc tôi sẽ là nhà văn. Và cám ơn các con tôi – đơn giản vì sự hiện hữu. Vô cùng cám ơn Olga và Marysia. Vì sự tận tâm và vì các bạn yêu những gì mình làm. Hay ít ra cũng có vẻ như vậy. Và các bạn, NHỮNG BẠN ĐỌC YÊU QUÍ CỦA TÔI! Không có các bạn chắc sẽ không có tôi. Như thường lệ, tôi hết sức muốn biết nhận xét của các bạn về cuốn sách của tôi, về đứa con tinh thần thứ bảy này. Tôi chờ mail của các bạn ([email protected]) và xin mời các bạn đến với những cập nhật mới nhất trên Facebook www.facebook.com/witkiewicz. Magdalena Witkiewicz Mời các bạn đón đọc Lâu Đài Cát của tác giả Magdalena Witkiewicz.
Đói - Knut Hamsun
Harald Hjärne, Chủ tịch Uỷ ban Nobel Viện Hàn lâm Thụy Điển Căn cứ vào các qui chế của Quĩ Nobel, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển đã trao giải Nobel văn chương năm 1920 cho nhà tiểu thuyết người Na Uy - Knut Hamsun, với tác phẩm Nhựa của đất (1917) (Markens grøde). Sẽ là thừa nếu đưa ra một tuờng trình chi tiết về quyển sách mà chỉ trong một thời gian ngắn đã được phổ biến rộng rãi khắp mọi nơi, cả bằng nguyên tác và bản dịch. Qua sự độc đáo về cốt truyện và phong cách, cuốn tiểu thuyết đã dấy nên sự quan tâm vô cùng sống động ở nhiều nước và được tiếp nhận nồng nhiệt bởi nhiều tầng lớp độc giả khác nhau. Mới đây, một nhà điểm sách hàng đầu và bảo thủ người Anh đã viết rằng quyển sách này chỉ mới xuất hiện ở Anh năm nay nhưng đã được dư luận ngợi khen là một kiệt tác. Lí do của thành công không thể phủ nhận này chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của giới phê bình văn học trong một thời gian dài, nhưng ngay từ bây giờ, với những ấn tượng đầu tiên, thiết tuởng cần chỉ ra những lí do ấy, ít nhất là những nét chính. Bất chấp những ý kiến hiện nay về thời đại chúng ta, những ai cho rằng trong văn học, cái cao hơn tất cả là sự tái hiện trung thành hiện thực thì sẽ thấy trong Nhựa của đất , sự tái hiện một cuộc sống là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của bất cứ xã hội nào nơi con người sinh sống và tạo dựng. Những miêu tả này không bị bóp méo bởi bất cứ hoài niệm nào về một quá khứ văn minh lâu dài. Hiệu quả tức thì ở chỗ khơi lên cuộc đấu tranh gay gắt ngay từ đầu giữa con người tích cực (dĩ nhiên trong những điều kiện bên ngoài khác nhau) bền bỉ chống lại một thiên nhiên bất phục và khắc nghiệt. Khó lòng hình dung sự đối lập nào choáng ngợp hơn giữa cuốn sách này với những tác phẩm thường được gọi là "cổ điển". Tuy nhiên, ta vẫn có thể gọi tác phẩm này một cách chính tắc là cổ điển, nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, nếu ta dùng tính ngữ này thể hiện một điều gì đó khác hơn và nhiều hơn một lời ngợi khen mơ hồ. Cái cổ điển, trong nền văn hóa mà chúng ta thừa kế từ xa xưa, chỉ phần nào là cái hoàn thiện buộc ta bắt chước, còn phần nhiều là những gì có ý nghĩa, được rút ra trực tiếp từ đời sống và tái hiện dưới dạng một giá trị bền vững với cả các thời đại sau. Theo ý niệm này, những gì không có ý nghĩa, những gì tự chúng không quan trọng, chỉ có thể xem như cùng một loại với những gì được chính thức coi là tạm bợ hay khiếm khuyết. Nhưng ngoài ra, bất cứ điều gì quí giá trong cuộc sống con người, dù có vẻ bình thường, đều có thể xếp vào cùng một phạm trù với cái khác thường và cái sáng láng, với một ý nghĩa và dạng thức giá trị tương đương, chừng nào nó được hiển bày lần đầu tiên trong ánh sáng đích thực của nó. Với ý nghĩa này, không hề nói quá nếu cho rằng trong Nhựa của đất , Hamsun đã mang đến cho thời đại chúng ta cái cổ điển có thể so với cái đẹp nhất mà chúng ta từng có. Trong khía cạnh này, cái cổ xưa không có đặc quyền bất khả xâm phạm đối với các thế hệ sau, vì cuộc sống luôn luôn mới và phong phú vô tận, và có thể được tái hiện dưới những hình thức mới bởi những thiên tài mới. Tác phẩm của Hamsun là một bản hùng ca về lao động, trong đó tác giả nói về lao động bằng những áng thơ hoành tráng. Đây không phải là chuyện phân công lao động vốn chia rẽ những con người mà là chuyện lao động cần cù, tập trung, thứ lao động mà trong hình thức thuần khiết nhất của mình tạo nên toàn bộ con người, xoa dịu và mang lại gần nhau những tâm hồn chia cách, bảo vệ và gia tăng thành quả của mình trong một quá trình đều đặn và liên tục. Sức lao động của người tiên phong và người nông dân đầu tiên, với tất cả những khó khăn, dưới ngòi bút của nhà thơ, mang tính cách một cuộc đấu tranh anh hùng không hề thua kém chút nào so với cái vĩ đại của sự hi sinh lẫm liệt cho tổ quốc và chiến hữu. Cũng như nhà thơ nông dân Hesiod miêu tả lao động trên đồng ruộng, Hamsun đặt lên hàng đầu trong tác phẩm người lao động lí tưởng, người hiến trọn cuộc đời và sức lực mình cho việc vỡ đất và vượt qua những trở ngại mà con người và thiên nhiên dựng lên để chống lại anh. Nếu Hamsun đã vứt bỏ sau lưng mọi hoài niệm nặng nề về văn minh, thì tác phẩm của ông cống hiến một cách hiểu chính xác về nền văn hóa mới mà kỉ nguyên chúng ta đang chờ đợi sẽ nảy sinh từ tiến trình lao động chân tay như một sự tiếp nối nền văn minh cổ xưa. Hamsun không đưa ra cái gọi là "loại hình nhân vật" trên sân khấu của ông. Các nhân vật nam và nữ của ông đều sống động, ngay cả trong những tình huống khiêm nhường nhất. Vài người trong số họ, những người tốt nhất, có những mục tiêu và tư tưởng mà chúng ta không thể hình dung, ví dụ nổi bật là nhân vật chính, người nông dân trầm lặng và lao động không mệt mỏi. Những người khác thì buông xuôi phó mặc, bất an và thậm chí hoang mang bởi những khát vọng ích kỉ và ý nghĩ xuẩn ngốc. Tất cả họ đều mang dấu ấn của dòng máu Na Uy, tất cả đều bị nhào nặn bởi những "quả của đất". Một trong những đặc tính của các ngôn ngữ cùng gia đình Scandinavie chúng ta, đó là cùng một từ biểu thị những sắc thái ý nghĩa rất khác nhau thông qua những hình ảnh mà chúng gợi nên. Khi người Thụy Điển chúng ta nói "quả của đất", ta nghĩ ngay đến một thứ gì đó màu mỡ, dồi dào, ngon lành, nhất là ở một vùng nông nghiệp nào đó đã được canh tác lâu đời. Tư duy trong tác phẩm của Hamsun không đi theo chiều hướng này. "Đất" ở đây là một vùng đất hoang sơ hung hiểm, gồ ghề sỏi đá. Trái quả của nó không tự rơi xuống như là lộc của trời, trái quả của nó là tất cả những gì có thể nảy mầm và lớn lên trên một mảnh đất khô cằn, dù tốt hay dở, đẹp hay xấu, giữa con người hay động vật cũng như trong rừng hay trên đồng ruộng. Đây là những loại quả mà tác phẩm của Hamsun mang lại cho mùa gặt của chúng ta. Tuy nhiên, người Thuỵ Điển chúng ta, hay ít nhất là nhiều người Thuỵ Điển, không cảm thấy xa lạ về những phong tục, tập quán được miêu tả ở đây. Ta phát hiện nơi đây, bầu không khí miền Bắc với một phần hoàn cảnh tự nhiên và xã hội, với nhiều điểm tương đồng hai phía biên giới (giữa Na Uy và Thuỵ Điển, ND). Hơn nữa, Hamsun cũng miêu tả những người Thụy Điển bị lôi cuốn đến vùng đất mới khai phá và hầu hết bọn họ, không nghi ngờ gì nữa, đều bị hấp dẫn bởi ảo ảnh về thành công kinh tế, bởi những thành phố dọc theo bờ biển Na Uy xuất hiện nơi chân trời như cám dỗ về cuộc sống trần thế huy hoàng, nó quyến rũ những trái tim dễ xiêu lòng muốn thoát khỏi cảnh lao động nặng nhọc của vùng đất này. Những tái hiện tâm lí đó, cũng như nhiều tái hiện khác, đầy tính người, hoàn toàn không làm giảm mà càng củng cố thêm ấn tuợng nhờ nội dung mang tính cổ điển của câu chuyện. Chúng xua đi nỗi sợ có thể nảy sinh trong ta khi nhìn thấy ánh sáng chân lí với cái giá phải trả là sự thật. Chúng đảm bảo tính chân thực trong từng chi tiết, của hình ảnh và nhân vật. Tính toàn nhân loại của chúng không bỏ sót một ai. Bằng chứng là tác phẩm đã được đón nhận bởi những người có tính cách, ngôn ngữ và phong tục khác nhau. Hơn nữa, bằng nụ cười hài hước nhẹ nhàng khi tái hiện những sự việc đau buồn nhất, tác giả chứng tỏ lòng cảm thông đối với số phận con người và bản tính con người. Nhưng trong câu chuyện, ông không bao giờ xa rời sự trong sáng nghệ thuật toàn bích nhất. Phong cách của ông loại bỏ mọi trang trí màu mè, chỉ tập trung vào tính chân thực và sự rõ ràng, và người đọc có thể phát hiện trong đó, dưới một hình thức độc đáo và mạnh mẽ, tất cả sự phong phú về sắc thái trong ngôn ngữ mẹ đẻ của nhà văn. Thưa Ngài Knut Hamsun! Khi đương đầu với thời tiết khắc nghiệt cũng như nỗi mệt mỏi sau chuyến đi dài - mà trong thời gian này lại càng thêm bội phần cực nhọc - để đến nhận giải thuởng trao tặng cho Ngài, Ngài đã mang lại niềm vui lớn cho Viện Hàn lâm Thuỵ Điển, niềm vui nhất định sẽ được chia sẻ bởi tất cả mọi người có mặt trong buổi lễ trọng đại này. Thay mặt Viện Hàn lâm, trong khoảng thời gian ngắn ngủi cho phép, tôi đã cố gắng trình bày ít nhất những lí do chính tại sao chúng tôi đánh giá cao tác phẩm vừa được đăng quang của Ngài như vậy. Vì vậy, giờ đây, với tư cách cá nhân, tôi không muốn nhắc lại với Ngài những gì tôi đã nói. Tôi chỉ còn mỗi việc thay mặt Viện Hàn lâm chúc mừng Ngài và hi vọng Ngài sẽ giữ mãi những kỉ niệm về cuộc gặp gỡ của chúng ta, và đó sẽ là mối dây thắt chặt mối quan hệ giữa Ngài với chúng tôi trong tương lai. Trần Tiễn Cao Đăng và Tân Đôn dịch (Theo VietNamNet) *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Ha, ha, với lũ chó ấy thì phải thế mới được! Ðồ vô lương tâm! Ðó là cách dạy cho chúng kính trọng người khác, bắt chúng phải run sợ... Tôi rất hài lòng với mình và lại bắt đầu khe khẽ hát. Trong trạng thái bị kích thích mạnh, quên cả đau, thậm chí không cảm thấy khó chịu chút nào và với lòng lâng lâng, tôi đi hết quảng trường đến chợ, rẽ sang nhà thờ Ðấng cứu thế và ngồi xuống một chiếc ghế dài ở đó. Suy cho cùng thì trả lại mười curon kia hay không cũng đều thế cả. Người ta gửi cho tôi, có nghĩa chúng là của tôi, ai gửi hoàn toàn không quan trọng. Người đưa thư được lệnh đưa cho tôi, vậy thì tôi phải nhận. Chẳng nhẽ lại cho anh ta? Và quả là ngu ngốc nếu bây giờ tôi hoàn lại cho người gửi mười đồng curon khác chứ không phải mười đồng tôi đã nhận. Nếu vậy thì chẳng còn biết làm gì nữa. Tôi cố gắng tập trung nhìn quảng trường sôi động đầy những người là người và nghĩ về những việc không liên quan gì đến tôi, nhưng điều này không mang lại mấy kết quả - mười đồng curon kia vẫn chẳng chịu chui ra khỏi đầu. Cuối cùng tôi bừng bừng tức giận, bóp chặt nắm đấm. "Nếu ta trả lại số tiền đó, nàng sẽ cảm thấy bị xúc phạm, - tôi tự bảo mình. - Thế thì còn gì nữa phải suy nghĩ?" Bao giờ tôi cũng rất cao đạo, không chịu nhận quà cáp. Trong những trường hợp ấy, tôi chỉ kiêu hãnh lắc đầu và nói: "ồ không, cảm ơn, rất cảm ơn". Và kết quả là gì? Tôi lại lang thang ngoài phố. Tôi không ở lại căn phòng ấm cúng của mình, mặc dù tôi có đầy đủ khả năng làm điều ấy. Tôi là người tự trọng, nên chỉ cần nghe một câu nào đấy khiếm nhã, là không chịu nổi và sẽ quẳng ngay những đồng mười curon vào mặt người nói rồi bỏ đi hẳn... Tôi tự trừng phạt mình, tự rời bỏ căn phòng của mình và lại lần nữa rơi vào tình cảnh khó khăn này. Nhưng thôi, quỷ tha ma bắt chúng đi! Tôi không ngửa tay xin những đồng curon ấy, và chúng cũng chẳng ở trong tay tôi lâu. Liền sau đó tôi đưa chúng cho người khác, tôi trả tiền nhà cho những người xa lạ mà tôi sẽ chẳng bao giờ thấy lại. Tôi là người thế đấy, khi cần, có thể cho tới đồng xu cuối cùng. Nếu Ilaialy đúng là người như tôi tưởng, nàng sẽ không hối hận rằng đã gửi tiền cho tôi. Thế thì còn băn khoăn gì nữa? Ðiều ít nhất nàng có thể làm được là thỉnh thoảng gửi cho tôi mười curon. Vì cô gái tội nghiệp này yêu tôi mà, thậm chí yêu một cách tuyệt vọng. Hồi lâu tôi tự an ủi mình bằng ý nghĩ này. Không nghi ngờ gì nữa - nàng yêu tôi, tội nghiệp... Năm giờ. Cơn kích thích thần kinh đã lắng, đầu tôi lại bắt đầu trống rỗng, chỉ còn tiếng ù ù trong đó. Tôi nhìn vào khoảng không bằng đôi mắt đờ đẫn và không hiểu sao lại nhìn thấy một hiệu thuốc trước mặt. Cơn đói tiếp tục cấu xé, làm tôi vô cùng khổ sở. Tôi cứ ngồi như thế, trân trân nhìn phía trước. Dần dần tôi nhìn thấy một hình người. Hình người ấy cứ rõ dần và cuối cùng tôi nhận ra đó là người đàn bà bán bánh rán bên hiệu thuốc. Tôi hít thở thật sâu, ưỡn thẳng lưng trên ghế và bắt đầu nhớ lại. Vâng, tất nhiên đó chính là bà bán bánh rán lần trước, với cái bàn bánh ấy và vẫn ngồi ở chỗ ấy. Tôi huýt sáo mấy lần, bật ngón tay rồi đứng dậy khỏi ghế, đi về phía hiệu thuốc. Khi lại gần, tôi nhìn bà ta một chốc rồi ngồi xuống cạnh. Tôi mỉm cười, gật đầu với bà ta như người quen. ... Mời các bạn đón đọc Đói của tác giả Knut Hamsun.
Đẹp Và Buồn
Kawabata viết tiểu thuyết cuối cùng mang tên Đẹp và buồn như để thêm một lần nữa khẳng định quan niệm mỹ học truyền thống lâu đời của Nhật Bản, và cũng là đúc kết lại toàn bộ tư tưởng sáng tác xuyên suốt trong sự nghiệp văn chương của ông. Câu chuyện chính của Đẹp và buồn kể về mối quan hệ tình yêu tay ba đầy bi kịch và tuyệt vọng của Oki với tình nhân Otoko, và người vợ Fumiko. Những nỗi đam mê, nhục cảm trong mỗi cõi đẹp đẽ đến điên rồ. Cái đẹp nằm trong tình yêu, sự ham muốn, và lòng hận thù, để rồi miên viễn trong một cuộc truy lùng, đeo đuổi, đi đến cái đích tận cùng của chiêm nghiệm, ấy là cái chết. "Chết là vĩnh viễn từ chối mọi lý giải của người khác. Không ai biết lý do hành động tự hủy của một người, cũng không ai có quyền phán đoán người đi tìm cái chết". Câu chuyện đầy trầm mặc được đặt trong bối cảnh chính là cố đô Kyoto, với tiếng chuông chùa cuối năm tĩnh lặng, với ngọn đồi êm ả dưới ánh trăng... Kawabata đã thả bút mà vẽ nên những nét đẹp thuần khiết nhất, nhưng cũng ẩn giấu những bất an nhất, thầm kín nhất của cái đẹp. Độc giả say đắm Kawabata, đi xuống từng tầng sâu cùng cõi đẹp Kawabata, đều sẽ luôn nhận ra rằng, Kawabata giữ gìn khoái cảm về cái đẹp ấy, miên viễn ngay trong sự tàn lụi. Đẹp và buồn chính là một lời tuyên ngôn cuối cùng của Kawabata. Đó là cuốn tiểu thuyết mang đầy dự cảm về một chuyến đi cuối cùng của đời người. Mặc dù trong diễn văn đọc tại buổi lễ nhận giải Nobel, Yasunari đã lên án cách kết thúc cuộc đời con người bằng cách tự vẫn, một cách chết "rất Nhật Bản" đã cướp đi nhiều người thân của ông. Năm 1972, Kawabata đã tự tử bằng khí đốt trong một căn phòng tại Hayama. Vì không để lại thư tuyệt mệnh, nên cái chết của ông vẫn đặt ra rất nhiều nghi vấn và tranh cãi cho những nhà nghiên cứu sau này. *** Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ngày 14.6.1899, là tiểu thuyết gia người Nhật Bản đầu tiên và là người châu Á thứ đoạt giải Nobel Văn chương. Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ảnh nhiều phương diện của văn hóa cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật Bản. Mồ côi từ năm mới có hai tuổi, Kawabata và chị gái sống cùng ông bà ngoại. Khi ông lên bảy thì bà ngoại qua đời, lên chín thì mất chị, mười bốn tuổi thì mất cả ông ngoại, ông phải về sống với gia đình người dì. Ở tuổi đôi mươi, Kawabata lại đánh mất một người mà ông hết lòng yêu thương, ông đã cùng nàng hứa hôn nhưng khi mọi việc chuẩn bị xong, nàng bất ngờ từ hôn, không một lời giải thích. Kawabata chỉ còn biết tựa mình vào năng lực sáng tạo, phong kín vết thương tâm hồn bằng cuộc tìm kiếm mê mải cái đẹp trong cuộc đời. Cảm thức cô đơn trong văn phẩm Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu và tuổi trẻ của ông. Cái cô đơn ấy bắt đầu với tập Nhật ký tuổi mười sáu, được xuất bản năm 1925, tác phẩm đầu tay này có lẽ đã được viết lại dù trong đó, ấn tượng của một thiếu niên trước cái chết của người thân (ông ngoại) vẫn còn rõ nét. Những ngày cuối cùng khốn khổ của một người già yếu mù lòa, cuộc sống cô độc của một thiếu niên nhỏ bé đối diện với sinh ly tử biệt được thể hiện chân thực. Bên cạnh viết văn, Kawabata còn làm phóng viên cho một số tờ báo. Mặc dù đã từ chối tham gia vào sự hăng hái quân phiệt trong Thế chiến II, ông cũng thờ ơ với những cải cách chính trị của Nhật Bản sau chiến tranh, nhưng rõ ràng chiến tranh có ảnh hưởng lớn lao đối với ông (cùng với cái chết của cả gia đình khi ông còn trẻ). Sau đó, ông nói rằng kể từ đó ông chỉ còn khả năng viết những tác phẩm bi ca mà thôi. Năm 1972, Kawabata tự tử bằng khí đốt. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra: sức khoẻ kém, cuộc tình bị cấm đoán, sốc do vụ tự tử của người bạn văn năm 1970. Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh, các tác phẩm của ông cũng không có manh mối gì, nên đến nay không ai biết được nguyên nhân thật sự của cái chết đó. Trong diễn văn của Viện Hàn lâm Thụy Điển khi trao giải Nobel Văn chương cho ông vào năm 1968, đã tôn vinh Kawabata: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người.” *** Keiko tới trà thất Kiyamachi thấy Taichiro đã quần áo chỉnh tề đứng đợi ngoài sân thượng. “Em chào anh ạ. Anh ngủ có ngon không?” Keiko bước lại bên anh. Tựa lan can, cô gái hỏi tiếp: “Anh đợi em?” Taichiro nói: “Tôi dậy từ sớm. Tiếng sông làm tôi thức giấc. Tôi ra đây ngắm mặt trời mọc trên dẫy đồi đông.” “Anh dậy sớm thế à...?” “Đúng vậy. Nhưng dẫy đồi gần quá, nên rạng đông mà không có cảm tường là mặt trời đang mọc. Chỉ khi mặt trời đã lên cao, dẫy đồi mới đột ngột hiện rõ ra màu lục, và nắng mới làm sông sáng lên như bạc...” “Anh ngắm cảnh lâu nhỉ...” “Coi mấy xóm bên kia sông thức giấc và sinh hoạt náo nhiệt trở lại, cũng thú vị lắm.” “Vậy thì anh ngủ đâu có được nhiều. Khách sạn thiếu tiện nghi phải không?” Rồi cô gái thầm thì: “Anh mà bảo tại nhớ em mà mất ngủ thì em sướng lắm...” Taichiro yên lặng. Keiko năn nỉ: “Anh không chịu nói cho em câu đó sao?” “Có chứ. Keiko, tôi ngủ không được là vì nhớ cô.” “Anh nói chỉ vì em van xin anh.” “Nhưng Keiko, đêm qua cô ngủ ngon phải không?” Keiko lắc đầu: “Anh đoán sai rồi.” “Tôi đoán vậy tại mắt cô tươi rói.” “Tại vì tim em tươi rói. Mà tim em tươi rói là tại vì anh. Còn mắt em thì sợ gì một hai đêm không ngủ.” Keiko nhìn Taichiro chằm chặp, đôi mắt ướt long lanh. Anh nắm lấy tay cô gái. Keiko nói: “Sao mà tay anh lạnh thế.” “Còn tay cô thì ấm quá.” ... Mời các bạn đón đọc Đẹp Và Buồn của tác giả Yasunari Kawabata.