Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trên Mảnh Đất Người Đời

Trên Mảnh Đất Người Đời là tác phẩm văn học kinh điền nổi tiếng của Nga. Câu chuyện như được gói trong một không khí phũ phàng của cái ác và bất hạnh lồng trong một điều gì đó giống như là tình yêu tam giác. Hai người đàn ông rất khác nhau về tính cách cùng quan hệ với một phụ nữ. Và một người đàn ông bị kẻ kia hãm hại tán độc phải vào tù, mất đi người yêu và mọi thứ trên đời, gần như mất cả niềm tin đối với con người. Anh ta phải làm gì trong quãng đời hiu quạnh và ngang trái còn lại khi mà đã tắt hết mọi niềm hy vọng? Tác giả Anatoli Stepanovich Ivanov nổi tiếng với những tác phẩm Những bài hàt của Anka, Những bóng đen biến mất giữa ban ngày, Tiếng gọi vĩnh cửu, Thù địch, Trên mảnh đất người đời, Truyện một mối tình tan vỡ. *** Anatoli Stepanovich Ivanov (Anatôli Xtêpanôvits Ivanôp) sinh năm 1928 tại làng Sêmônaikha, miền đông Kazaxtan. Sau khi học hết phổ thông ở làng quê, ông vào học khoa Báo chí trường Đại học Tổng hợp mang tên Kirôp ở Alma - Ata. Tốt nghiệp đại học, ông vào làm cho tờ báo Sự thật Irtưs và nhập ngũ tại đây. Sau khi giải ngũ, Anatôli Ivanôp làm biên tập cho báo Nôvôxibir, sau đó cho nhà xuất bản ở Nôvôxibir. Từ 1958 đến 1964 là phó tổng biên tập tạp chí Những ngọn lửa Xibir. Năm 1956 Anatôli Ivanôp cho ra mắt tập truyện ngắn đầu tiên lấy tên là Những bài hát của Anka, năm 1963 bắt đầu nổi tiếng với tiểu thuyết Những bóng đen biến mất giữa ban ngày. Bộ tiểu thuyết hai tập Tiếng gọi vĩnh cửu (1970 - 1976) được tặng giải thưởng quốc gia Liên Xô năm 1979, đã đem lại tiếng tăm và vinh dự to lớn cho nhà văn. A. Ivanôp còn cho ra mắt một loạt truyện nổi tiếng như Thù địch, Trên mảnh đất người đời, Truyện một mối tình tan vỡ và các tác phẩm khác. Chủ đề quán xuyến hầu như toàn bộ sáng tác của A. Ivanôp là sự ngợi ca giá trị tinh thần, khẳng định cái thiện, lên án và đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện của cái ác trong xã hội loài người. Truyện của ông phần lớn đề cập đến những tình huống hết sức gay cấn, đôi khi đến mức bi kịch tàn nhẫn, song bao giờ cũng thấm đượm tinh thần lạc quan, tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của con người. Truyện Trên mảnh đất người đời, là một trong những truyện hay nhất, đồng thời cũng có ý nghĩa xã hội nhất trong văn học Xô Viết. Câu chuyện xoay quanh số phận của một con người, tuy phải trải qua những cảnh ngộ hết sức éo le nhưng vẫn giữ được bản chất nhân hậu và độ lượng, giữ được lòng tin vào tình yêu, vào cuộc sống, tin vào một xã hội công bằng. Giới thiệu truyện này của Anatôli Ivanôp, chúng tôi muốn bạn đọc làm quen với một tác giả tài năng của văn học Nga và hy vọng bạn đọc sẽ còn có dịp biết thêm về ông qua một số tác phẩm khác đang và sẽ được dịch sang tiếng Việt. *** Buổi ngày, khi mặt trời lạnh vừa sà xuống thấp thì sương mù bắt đầu lan trên bãi cỏ bên kia sông trên những cánh đồng đã gặt ở phía xa, dâng lên trên những khu đất trũng ngập nước. Đến chiều, những cụm sương thấm lạnh, trở nên dầy đặc và mỗi lúc một nở to hơn. Cuối cùng, chúng lặng lẽ kết lại với nhau. Màn hơi nước mờ đục ngày càng nặng hơn, trườn dần về phía đông, thoạt tiên nó phủ kín bờ bên kia, sau đó che khuất nửa dòng sông Ôbi rộng lớn nhưng đã yếu hẳn đi sau một mùa hè oi ả, rồi cứ thế lan dần sang ngôi làng bên này, đe dọa phủ kín và đè lên ngôi làng bằng cái sức nặng không trọng lượng của nó. - Cậu nói phét, Samian ạ, - Paven Đêmiđôp thốt lên. Cũng như mọi hôm, ông đang ngồi bên vách túp lều đất của mình, nhìn sang phía những cánh đồng sẫm tối bên kia sông. - Bố vừa nói gì đấy? - cậu bé Grinka, lên tám, con nuôi của Đêmiđôp, bước vào sân hỏi. Hai bàn tay dính đầy mực của cậu ôm chiếc cặp học trò đã sờn da. - Bố bảo ai nói phét cơ? - À, bố nói gã sương mù! - Đêmiđôp hất hàm về phía sông Ôbi. - Hắn đúng là thằng bịp. Grinka khịt một cái, đưa ngón tay lên quệt mũi ngẫm nghĩ. - Nó bịp thế nào ạ? - Thì nó đang dọa chúng ta đấy, con không thấy sao? Cả hai lại im lặng một lúc. Grinka - nhỏ bé, đội mũ lưỡi trai rộng thùng thình của bố, mặc chiếc áo vét dạ vừa mua ở cửa hàng bách hóa xã trước hôm khai trường. Đêmiđôp - người khô gầy, thô kệch, hai đầu gối khẳng khiu nhô hẳn ra phía trước, dưới tấm áo bông dầy cũng thấy rõ đôi vai nhọn. Tuy đã ngoài sáu mươi tuổi, đã về hưu nhưng vẫn không thể gọi ông là ông già được. Mặt ông vẫn cạo, tuy rất họa hoằn, hôm nay ông cũng vừa cạo xong, và đôi má vẫn còn đầy đặn, chưa hề bị nhăn nheo của ông bóng lên dưới ánh nắng nhạt lúc trời chiều. - Có, con có thấy, - Grinka nói, - Buổi chiều sương càng dầy bao nhiêu, thì sáng hôm sau trời càng trong bấy nhiêu. Bố vẫn bảo thế. - Đúng. Nhưng con còn thấy gì nữa không? - Không, không thấy gì nữa. - Lắng tai nghe thật kỹ xem. Thế nào, có thấy gì không? Grinka nhíu hẳn trán lại, đứng im không nhúc nhích. - Không thấy gì cả. Chỉ thấy tiếng chó đực sủa thôi. - Đồ ngốc, đấy là tiếng chó cái. Của anh đội trưởng MitrôFan. Còn gì nữa không? - Hình như có tiếng xe tải ở sân sau. Cả tiếng gì như tiếng con gái la hét. - Đấy là tiếng cô con gái bác Artamôn chăn ngựa cho nông trang, tiếng cô Klapka. - Cả tiếng những cô khác, vì có nhiều tiếng cười khúc khích. - Grinka cãi lại. - Nhưng có cả tiếng cô Klapka. Trong số đó có cả tiếng cô Klapka. Giờ là tiếng đàn phong cầm của anh lái máy kéo Lenka. Cái anh chàng Lenka khốn khổ. Có cái đàn đắt tiền, bóng như gương, thế mà không biết chơi. Nghe cứ như tiếng cưa gỗ ấy… Nhưng anh chàng cũng là tay khá, có mớ tóc trông cũng bảnh. Quả nhiên, chỉ một lát sau bắt đầu vẳng đến những âm thanh rời rạc, sai điệu, nghe rất nhỏ vì khoảng cách quá xa của chiếc phong cầm. - Đấy, thấy chưa? Thế mà hắn ta lại đe dọa, - Đêmiđôp lại hất đầu về phía bên kia sông, nơi sương mù đang lan đến. - Hắn dọa cái gì ạ? - Grinka vẫn chưa hiểu. - Hắn dọa ai? Mà làm sao hắn dọa được hả bố? - Đồ ngốc! - Mắt Đêmiđôp ánh lên giận dữ. - Thôi đi vào nhà. Có khoai tây luộc để phần con đấy. Cả hũ sữa trên bậu cửa sổ nữa… Bố còn ngồi đây lúc nữa đã… - Bố ơi, nhưng bố đừng đến cửa hàng cô Marka nhé, - Grinka van nài bố giống như Nađegiơđa, người chị nuôi đã hai năm nay vào làm ở trại quy hoạch rừng của cậu, vẫn thường van nài. Rồi cũng bắt chước chị, cậu nói thêm: - Bố đừng uống cái thứ vốtka chết tiệt ấy nữa, bố nhé! - Thôi, bước đi cho khuất mắt! - Đêmiđôp quát lên. - Đã bảo là bố sẽ ngồi đây, không đi đâu cả. Grinka bỏ vào trong nhà, và trong lúc ngồi ăn một mình, cậu thầm nghĩ, như đã thành lệ, hễ khi nào cái “mắt sói” sáng lên (“mắt sói” là tên lúc đầu bố cậu đặt ra, sau cả làng bắt chước dùng theo để gọi cái cửa sổ thấp của nhà Maria Maksêeva, cứ tối tối lại sáng ánh đèn và mụ chủ nhà dùng ô cửa ấy làm chỗ bán rượu vốtka “chẵn tiền” cho khách, nghĩa là bốn rúp một chai!), là thế nào bố cậu cũng mò đến đó; những lúc say, bố cậu thường tỏ ra hiền lành, có khi hiền hơn cả lúc tỉnh, ông thường mang về cho cậu có lúc thì những cái kẹo hay bánh đa rẻ tiền, lúc thì một chai nước chanh cũng mua ở ô cửa đó. Và trong lúc chất men chưa giã hẳn, bố cậu cứ đi vòng quanh căn buồng hẹp bảo rằng ông uống thế là đủ rồi, và hứa với cậu, với Grinka, rằng ông sẽ thôi không uống nữa, ông hay xoa đầu cậu, và có lần hình như còn khóc. Nhưng sợ Grinka nhìn thấy nước mắt, nên ông cứ phải lắc đầu thật mạnh, rồi vừa lảo đảo đi hết góc này sang góc kia, vừa lầu bầu trong cổ họng một câu hát kỳ lạ, khó hiểu: Ta là ai? Ta chẳng là ai, ta chỉ là kẻ ấy… Kẻ lạ lùng, kỳ quặc chính là ta. Ông lầu bầu một lúc mấy câu như thế rồi thôi, lăn ra ngủ. Nhưng dù sao Grinka cũng không muốn tối nào bố cậu cũng say. Cậu vẫn thích bố cậu tỉnh táo hơn là say. Vừa dọn bàn, Grinka vừa nghĩ: cậu có ông bố quả là kỳ lạ. Và mấy câu hát kia đúng là ông tự hát về ông. Cách đây ba năm ông nhận cậu từ nhà trẻ mồ côi ở Marsanikha về nuôi với một điều kiện kỳ quặc: - Tên con là Vôpka à? Từ nay ta sẽ gọi con là Grinka! - Cháu không muốn thế! - Grinka, mà lúc đó hãy còn là Vôpka nói. - Phải thế thôi. Nếu không thì không xong đâu, ta sẽ nhận đứa khác, mặc dù con có vẻ là đứa bé kháu khỉnh và cũng ngang ngạnh ra trò đấy. Rồi ông im lặng rít hết một điếu thuốc lá cuốn rõ dài, sau đó dụi mẩu thuốc lá xuống đất, họ nói chuyện với nhau trong vườn của nhà trẻ, rồi bắt đầu nói một tràng dài mà có đến một nửa những điều ông nói cậu chẳng hiểu gì cả. - Ta là người coi rừng, con ạ, nghĩa là ta canh giữ cây cối ấy mà, ta trông không cho bất cứ loại thú nào được phá rừng. Cái chòi canh của ta ở ngay trong rừng. Cây cối lúc nào cũng rì rào, rì rào… Con tưởng chúng rì rào vì gió phải không? Ồ, không đâu, con ạ. Đó là chúng chuyện trò với ta đấy. Chúng kể cho ta nghe chúng có chuyện gì vui, hay chuyện gì buồn… Hoặc giả chúng báo cho ta biết có kẻ nào vừa đi qua, kẻ đó là người tốt hay xấu. Dĩ nhiên, nếu đó là người tốt thì xin mời, cứ việc đi tự nhiên. Nhưng nếu là người xấu thì, anh bạn ạ, đừng có đùa, phải coi chừng! Rừng báo cáo lại với ta tất cả. Cây cối ấy mà. Con biết không, chúng không chỉ là cây cối đâu, mà là người sống thật sự đấy. Chỉ khi nào bị đẵn đi rồi, chúng mới là cây, là khúc gỗ chết, tóm lại là… Ta sống trong túp lều ấy cùng với con gái ta tên là Nađegiơđa. Nó cũng là con nuôi ta. Vì suốt đời ta sống một mình, chưa bao giờ có vợ cả. Tại sao ấy à? Câu hỏi ấy có khi gần hết đời mới giải đáp được con ạ. Có thể là vì ngu ngốc… Ừ, thế cũng được. Ta cứ suy nghĩ mãi, rồi cuối cùng cũng nghĩ ra chuyện đến trại trẻ mồ côi nhận đứa con gái về nuôi. Sau chiến tranh có nhiều trẻ mồ côi lắm… Nhiều hơn bây giờ. Thế là ta đến xem. Ta thích một cô bé, một cô bé thò lò mũi. Mặt cũng đầy tàn nhang như con ấy. Không hiểu sao ta thích những đứa bé mặt tàn nhang. Mỗi tội tên cô bé đó là Anna. Anka - Anka, ăn nhanh cho lớn mà đi lấy chồng. Khi nói chuyện với cô bé lúc ấy như ta đang nói với con bây giờ đây này, không hiểu sao ta bỗng nhớ đến những câu hát ngu ngốc ấy. Ta nghĩ, mình nuôi cho nó lớn rồi nó đi lấy chồng, thế là mình lại ở một mình… Ta bảo cô bé: bây giờ con sẽ là Nađegiơđa. Đối với con đó chỉ là cái tên, nhưng đối với ta nó là cả ý nghĩa cuộc đời. Ta bảo với cô bé như thế. Cứ làm như khi mang cái tên mới thì cô bé sẽ không lo đi kiếm chồng nữa không bằng mà sẽ ở lại mãi mãi với ta. Hồi đó ta ngốc quá, phải không? Con nghĩ thế nào? - Sao lại ngốc ạ? Không, bác nghĩ thế đúng lắm. Vì một khi bác đã lấy cô ấy về làm con, thì cô ấy phải là con của bác! - Đấy, ta biết ngay con là cậu bé ghê gớm lắm mà! Nhưng có điều, người anh em ạ, trách nhiệm thì đã đành là trách nhiệm, nhưng là con người thì vẫn phải sống theo tình người, cho ra con người. Mùa xuân thì nở hoa sung sướng, cả mùa hè thì sinh sôi, rồi sau đó lại đến mùa đông gặt hái. Nghĩa là sau đó phải để lại hạt giống của mình. Chỉ có ta là một mình cô độc - một con người kỳ lạ. Phải, cô bé của ta là đứa con gái tốt, Nađegiơđa lớn lên là một đứa con nết na hiền thảo. Có điều bây giờ nó hay bỏ đi Marsanikha quá - lúc thì đến đó xem phim, lúc thì đi nhảy. Ở đó có một anh chàng, con trai của một người kỹ sư trồng rừng, tên là Valentin. Chàng trai ấy, con biết không, cũng là một tay tài ba, nhưng thế mới phải coi chừng… Tóm lại là con biết chuyện đó sẽ đi đến kết thúc thế nào rồi chứ? - Con gái họ bao giờ chả thế! - Grinka, lúc ấy hãy còn là Vôpka, lại thốt ra một câu. - Nhưng cháu thì không bao giờ cháu bỏ bác đâu. - A ha, vậy là con bằng lòng rồi phải không? - Thì ở nhà trẻ mồ côi này có gì thích đâu. Nhưng cháu là Vôpka, thì bác cứ để cháu mang tên ấy. - Ồ không, không được. Dứt khoát là không thể như thế được, con ạ. - Sao lại không được ạ? Người bố tương lai của cậu lúc đó lại im lặng và rít thêm một điếu thuốc lá cuốn nữa. - Con Nađegiơđa của ta sẽ đi lấy chồng, đó là dĩ nhiên rồi. Nó sẽ lấy Valentin, hay một chàng nào đó… Ta đã nói với con là con bé lớn lên trông khá lắm - xinh xẻo, khoẻ mạnh, đùi phốp pháp. Còn mắt của nó, con biết không, Grinka - ôi cái tên Grinka mới hay làm sao - mắt của nó cứ sáng rực lên, trông thấy phải nheo mắt lại, không thì chói. Nhưng biết làm sao - ông thở dài - ta đã làm tròn bổn phận, ta đã nuôi cho nó khôn lớn. bây giờ hãy để cho nó làm bổn phận của nó. Phải làm sao trên trái đất này có nhiều người có đôi mắt trong sáng như của nó. Nó ra đi, và ta sẽ lại có một mình. Một mình ư? Không được. Nửa đêm tỉnh giấc ta bỗng nghe thấy tiếng gì kêu grin-grin-grin… Tiếng gì vậy? Tiếng cửa kính bị gió đập chăng? Không, đó là tên của con trai ta. Ta đi trong rừng và xung quay chỗ nào cũng nghe thấy grin-grin-grin. Ai thế nhỉ? Hay là tiếng chim hót? Có lẽ đúng là chim hót thật. Nhưng chúng hót về ai? Chúng hót về con trai ta…Vì thế, không thể nào giữ cái tên Vôpka được, con ạ. …Grinka dọn bàn xong, lấy cái đĩa con úp lên miệng vò sữa mà cậu vừa rót ra uống. Ngoài cửa sổ màn tối đã dầy đặc từ lâu, tựa như có người nào lấy giấy đen bịt cửa kính lại. Bố cậu vẫn chưa thấy về. Thở dài một tiếng, Grinka thu dọn chỗ ngủ, ra tắt đèn rồi chui vào trong chăn, tiếp tục nhớ lại cái quá khứ chưa xa của cậu. khi ấy, mặc dù rất tiếc rẻ phải bỏ cái tên của mình, nhưng không hiểu sao cậu thấy mến người đàn ông đứng tuổi này, và mấy lần nghe ông ta nói hai tiếng “con ơi” dịu dàng, cậu thấy ngỡ ngàng và cảm động ứa nước mắt. - Thế những con thỏ con… bác có che chở chúng không? - Lúc ấy, cậu cúi mái đầu cắt ngắn xuống để giấu ánh mắt và hỏi. - Thỏ con ấy à? Tất nhiên ta phải che chở chứ. Vì chúng là những con vật hiền lành và yếu đuối nhất mà. Chúng chơi đùa nhảy nhót xung quanh lều của ta, như bầy chim sẻ nhảy nhót xung quanh đồng cỏ xuân ấy. - Vậy thì được, cháu đồng ý. Mặc dù cậu bé đã đồng ý. Nhưng sau đó còn đẻ ra nhiều chuyện phiền phức, người ta chùng chình mãi không giao cậu cho người này nuôi. - Nhưng tuổi đồng chí hơi quá nhiều, đồng chí Đêmiđôp ạ. - ông giám đốc trại nói. - Tuổi tôi thì sao? Tôi còn khỏe lắm, tôi còn chạy trong rừng nhanh như thỏ hai chục năm nữa ấy chứ? - Người bố nuôi của cậu lúc ấy chứng minh với ông ta như thế - Mà giả dụ có chuyện gì, thì đứa con gái Nađegiơđa của tôi sẽ nuôi dạy thằng bé. Tôi sẽ dẫn nó đến đây để ông xem nó là đứa con gái như thế nào? Rồi ông dẫn con gái đến. Đó là cô gái cao lớn, khỏe mạnh, cương quyết và quả thực có đôi mắt hiền hậu và trong sáng một cách kỳ lạ, cô ta cũng chứng minh điều gì đó với ông giám đốc, sau đó cô còn phải nhiều lần chạy đến mấy cơ quan trong tỉnh để xin quyết định. Và cuối cùng xin được. Grinka sống trong túp lều coi rừng với bố và chị Nađegiơđa được vẻn vẹn có hai năm. Sống ở đó thì tuyệt nhất rồi, chả phải bàn. Có điều những con thỏ không còn đùa nghịch xung quanh lều, và nói chung chúng không dám đến gần ngôi nhà của cậu - có lẽ chúng sợ bầy chó, nhưng được cái ngay cạnh nhà có dòng suối nhỏ nước rất trong, nơi cậu cùng người chị thường câu được những con cá bống rất to, còn hai bên bờ sông thì tha hồ hái quả mâm xôi và phúc bồn tử. Nađegiơđa là cô gái hoạt bát nhanh nhẹn, lúc nào cũng cười, cả túp nhà nhỏ và cánh rừng lúc nào cũng tràn ngập tiếng cười ròn tan trong trẻo của cô. Lúc nào cô cười mắt cô lại càng rực rỡ hơn. Nhưng thường cứ tối đến thì ánh mắt cô lại thôi cười. Lúc đầu Grinka không hiểu vì sao, nhưng sau cậu đoán ra - Nađegiơđa lo lắng cho bố. Và cũng phải vì, cứ tối đến là bố cậu lại đi rất lâu không thấy về, mà lúc về thường là say. Nhưng không bao giờ ông quát tháo hay chửi rủa om sòm, còn hôm nào say quá thì ông đi nằm ngay. Cũng có hôm ông cứ đi đi lại lại trong gian nhà bếp rộng rãi và i ỉ hát trong họng cái bài quen thuộc cho đến tận sáng. Một hôm Grinka nghe thấy Nađegiơđa vừa mếu máo vừa nói với bố: - Bố đừng uống cái rượu vốtka chết tiệt ấy nữa. Bố thôi uống đi. Con trai của bố bây giờ hãy còn nhỏ, bố còn phải gây dựng cho nó khôn lớn thành người. - Chúng ta sẽ nuôi nó khôn lớn, Nađegiơđa, nhất định rồi… Bố uống, nhưng bố không để mất trí khôn đâu. - Bố nói thế. Mùa đông năm ngoái bố chả suýt chết cóng là gì. Giá con không tìm thấy bố ở đống tuyết thì bố đã chết cóng rồi. - Ừ, quả có thế, con gái của bố ạ. Bố dại dột quá. Hôm ấy thằng Maksêep làm bố điên tiết, thằng chồng của Maria ấy, cầu trời cho nó chết quách đi cho rồi. Nhưng chỉ có mỗi lần ấy thôi. Còn bố bao giờ cũng uống có chừng mực. - Nhưng sao bố cứ phải uống cái thứ nước chết tiệt ấy. - Tại bố quen mất rồi… Đời bố khổ quá, đáng ra không nên sống nữa, nhưng bố vẫn phải sống. - Bố nói đến tay Maksêep ấy không biết đến lần thứ mấy rồi. Giữa bố với tay ấy có chuyện gì vậy? Sao bố không giải quyết cho xong đi? Và lập tức Grinka cảm thấy bố cậu bỗng nhiên hầm hầm nổi giận, điều chưa bao giờ thấy ở ông cả. - Thôi câm ngay! Sao mi dám tra khảo ta? Trí óc non choẹt biết gì mà nói vào… Nađegiơđa oà lên khóc nức nở làm bố cậu phải dịu ngay và bắt đầu xin lỗi: - Con gái của bố… Bố biết là bố dại dột… Bố sẽ ghìm mình, sẽ bỏ rượu. Hơn nữa bố cũng sắp về hưu, thằng Grinka cũng sắp đến tuổi đi học rồi. Phải, chúng ta sẽ chuyển về ở Đubrôvinô, sẽ mua một túp nhà ở đó. Và bố sẽ thôi không uống nữa. Đúng là uống rượu có gì vui thú đâu! Và thế là họ đã chuyển về làng sống được hơn một năm. Nađegiơđa đã đi lấy chồng, lấy anh chàng Valentin của mình, bố bây giờ thôi không làm việc nữa mà sống bằng tiền hưu. Nhưng rượu rút cuộc ông vẫn không bỏ. Mắt Grinka díp lại, giấc ngủ bắt đầu làm nhoà ý nghĩ của cậu. Trong lúc mơ màng cậu lại nghĩ rằng bố cậu là con người kỳ quặc khó hiểu. Sương mù thì ông gọi là Samian, mưa thì gọi là Mumianchê, bão tuyết là Akulia, còn ngày ảm đạm thì gọi là MitroFan. “Sương mù - Saminan thì dễ hiểu thôi, vì nghe cũng hơi giống nhau. Mưa - Mumianchê, cũng bắt đầu cùng một chữ cái. Nhưng tại sao bão tuyết lại là Akulina? Hay trời giá buốt là Filaret? A ha, hình như ông đang về…” Grinka không sao tỉnh dậy được. Dường như từ nơi nào trong thế giới xa xôi và huyền bí, vẳng đến tai Grinka câu hát quen thuộc mà riêng cậu mới phân biệt được: Ta là ai? Ta chẳng là ai. Ta chỉ là… kẻ ấy. Mời các bạn đón đọc Trên Mảnh Đất Người Đời của tác giả Anatoli Stepanovich Ivanov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đêm
Tiểu thuyết Đêm của nhà văn Elie Wiesel được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn chương holocaust. Ngày hôm nay, dù Phát-xít đã thất trận, nhưng Lịch sử giải thích thế nào về những trẻ sơ sinh đã bị ném vào lửa, về những đứa con sẵn sàng đánh chết cha mình vì một miếng ăn, về những con người trần truồng giẫy chết trong các buồng hơi ngạt? Và Lịch sử sẽ nói gì với những con người sống sót bước ra từ các khu trại chết chóc ấy? Không có lời giải đáp thích đáng nào cho những thân phận vô tội đã bị ép chết, cũng không có câu trả lời hợp lẽ về các trại tập trung ghê rợn đã đày đọa người Do Thái, càng không có lời lẽ nào công bằng cho những con người bước ra từ nhục hình ấy; bởi lẽ chính những cái chết phi lý đã là sự kiện, những trại tập trung đã là nơi chốn, những tù nhân sống sót đã là nhân chứng của một trang đen tối và bi thảm nhất trong lịch sử loài người. *** Lời tựa của François Mauriac  Các nhà báo ngoại quốc thường đến gặp tôi. Tôi rất thận trọng với họ và luôn bị giằng co giữa ước vọng được nói hết với họ nhưng lại e rằng sẽ giao vũ khí vào tay những người phỏng vấn mà mình không hiểu thái độ của họ đối với nước Pháp như thế nào. Trong những lần gặp gỡ đó, tôi thường có khuynh hướng thủ thế. Buổi sáng đặc biệt đó, người thanh niên Do Thái đến phỏng vấn tôi cho một nhật báo ở Tel Aviv đã giành được thiện cảm của tôi ngay trong khoảnh khắc đầu tiên. Cuộc trò chuyện của chúng tôi đã nhanh chóng chuyển thành tâm sự. Chẳng mấy chốc tôi đã chia sẻ với anh ta những hồi ức từ thời kỳ Chiếm đóng5[5]. Không phải lúc nào những biến cố đã tác động đến cá nhân chúng ta cũng là những biến cố ảnh hưởng đến chúng ta nhất. Tôi thố lộ với người khách trẻ tuổi của mình rằng chẳng có điều gì mà tôi đã chứng kiến trong gian đoạn đen tối ấy đã ghi dấu ấn sâu đậm lên tôi bằng hình ảnh của các toa xe chở súc vật đầy những trẻ em Do Thái tại nhà ga Austerlitz... Thực ra thì không phải chính mắt tôi đã mục kích những toa xe đó. Vợ tôi đã kể cho tôi, và lúc kể bà vẫn còn bị chấn động về sự ghê rợn mà bà đã cảm thấy. Vào lúc đó chúng tôi vẫn chưa biết chút gì về các phương cách tiêu diệt của Đức Quốc xã. Và ai mà lại có thể tưởng tượng nổi những phương cách như thế! Nhưng những con cừu non này bị giựt ra khỏi các bà mẹ đã là điều tệ hại hơn tất cả những gì chúng ta nghĩ là có thể xảy ra được. Từ ngày đó tôi tin là như thế. Tôi tin rằng ngày đó là ngày lần đầu tiên tôi biết đến sự bí hiểm của điều tội lỗi mà khi lộ ra ánh sáng nó đánh dấu sự cáo chung của một thời đại và sự khởi đầu của một thời đại khác. Giấc mơ, thai nghén bởi người Tây phương trong thế kỷ 18, mà buổi bình minh của giấc mơ đó họ tưởng là đã thoáng thấy vào năm 17896[6], và rồi đến ngày 2 tháng Tám năm 19147[7], đã lớn mạnh hơn với sự ló dạng của Thời đại Ánh sáng và những phát minh khoa học – giấc mơ đó cuối cùng đối với tôi đã tan biến trước những toa xe lửa nhồi nhét đầy trẻ nhỏ. Mà lúc đó tôi vẫn còn xa cách hàng ngàn dặm với việc hình dung ra được rằng những đứa trẻ này đã được quyết định đưa vào những phòng hơi ngạt và những lò thiêu. Điều này, hôm ấy, là những gì có thể tôi đã nói với nhà báo này. Và khi tôi nói, với một tiếng thở dài, “Tôi đã nghĩ đến những đứa bé này rất nhiều lần!” thì anh đã nói với tôi, “Tôi là một trong những đứa trẻ đó.” Anh là một trong những đứa trẻ đó! Anh đã trông thấy mẹ anh, thấy đứa em gái nhỏ thân yêu, và hầu như cả gia đình anh, trừ người cha và hai chị lớn, biến vào một lò lửa mà nhiên liệu là những sinh vật sống, về phía người cha, cậu bé này đã ngày này qua ngày khác chứng kiến sự đọa đày của ông và cuối cùng, chứng kiến cơn hấp hối và cái chết của ông. Một cái chết! Những chi tiết của cái chết đó được kể trong quyển sách này, và tôi sẽ để cho độc giả – sẽ đông bằng số người đọc của quyển Nhật ký của Anne Frank – tự khám phá các chi tiết này cũng như cái phép lạ đã giúp cho cậu bé thoát được. Như thế tôi khẳng định rằng bản hồi ký cá nhân này, ra đời sau quá nhiều những hồi ký khác và mô tả nhưng việc ghê tởm như những việc mà chúng ta đã coi là không còn là bí mật gì đối với chúng ta nữa, thì vẫn khác lạ, riêng biệt và độc đáo. Số phận của những người Do Thái ở một thị trấn nhỏ tên là Sighet ở Transylvania; sự mù loà của họ khi đối diện với một định mệnh mà họ vẫn còn cơ hội để thoát thân; sự thụ động không thể hiểu được khiến họ đầu hàng định mệnh, điếc đặc với những lời cảnh báo và van nài của một nhân chứng là người đã thoát được cuộc tàn sát, kể lại cho họ những gì ông ta đã tận mắt nhìn thấy, nhưng họ từ chối không tin ông ta và gọi ông ta là người điên – tập hợp này cua những tình huống chắc chắn sẽ đầy đủ để viết nên một quyển sách mà tôi cho rằng không một quyển sách nào có thể so sánh được. Tuy nhiên một khía cạnh khác của quyển sách khác thường này đã là điều tôi chú ý đến. Đứa trẻ kể lại cho chúng ta câu chuyện của nó là một đứa bé được Thượng đế chọn lựa. Từ lúc nó bắt đâu biết suy nghĩ, nó đã chỉ sống cho Thượng đế, nghiên cứu Talmud8[8], nôn nóng được khai tâm vào Kabbalah9[9], tận hiến cho Đấng Toàn năng. Hãy nghĩ xem hậu quả của một sự kinh sợ kém rõ ràng hơn, ít lộ liễu hơn, nhưng là sự kinh sợ tệ hại nhất, cho những người có lòng tin trong chúng ta: cái chết của Thượng đế trong tâm hồn của một đứa trẻ đột nhiên phải đối diện với cái xấu tuyệt đối. Xin hãy cùng tưởng tượng đến những gì diễn ra trong đầu óc đứa bé khi mắt nó trông thấy khói đen tỏa lên trời, luồng khói phát xuất từ các lò mà đứa em gái nhỏ của nó cùng với mẹ nó đã bị ném vào sau hàng ngàn nạn nhân khác. “Không bao giờ tôi có thể quên được đêm ấy, cái đêm đầu tiên của đời tôi trong trại tập trung, cái đêm đã biến cuộc đời tôi thành một đêm dài tăm tối mịt mù. Không bao giờ tôi quên được làn khói ngùn ngụt ấy. Không bao giờ tôi quên được những khuôn mặt ngây thơ, những thân xác bé nhỏ đang biến dần thành cuộn khói ngùn ngụt bay vào không trung yên tịnh. Không bao giờ tôi quên được ngọn lửa ấy đã thiêu cháy vĩnh viễn lòng tin của tôi. Không bao giờ tôi quên được cái im lặng của màn đêm ấy đã vĩnh viễn tước đi lòng khao khát sinh tồn của tôi. Không bao giờ tôi quên được những giây phút đã giết đi Thượng đế trong tôi, đã mang đi linh hồn tôi, và biến những giấc mơ của tôi thành tro bụi... Không bao giờ, không bao giờ tôi quên được những thứ ấy, cho dù tôi có phải sống lâu như Thượng đế, tôi cũng không bao giờ... Không bao giờ. ” Đến lúc đó tôi hiểu ra điều gì đã thu hút tôi về chàng thanh niên Do Thái này: cái nhìn của một Lazarus trỗi dậy từ cái chết mà vẫn bị giam giữ ở những vùng tăm tối nơi anh đã lạc vào, vướng chân vào những thây ma đã bị xúc phạm. Với anh, tiếng thét của Nietzche gợi lên gần như một thực tế bằng xương băng thịt: Thượng đế đã chết, Thượng đế của tình yêu, của sự dịu dàng và an ủi, Thượng đế của Abraham, Issac và Jacob, dưới con mắt chăm chú của cậu bé này, đã tan biến vĩnh viễn vào ngọn khói bốc lên từ cuộc tàn sát Holocaust10[10] mà Chủng tộc, thứ phàm ăn nhất trong tất cả các thần tượng, đã đòi hỏi. Và đã có bao nhiêu người Do Thái thuần kiên đã phải chịu đựng một cái chết như thế? Trong cái ngày kinh tởm nhất đó, kinh tởm hơn tất các ngày tệ hại khác, khi đứa trẻ đó chứng kiến việc treo cổ – vâng!, một đứa bé khác, đứa bé mà nó bảo với chúng ta là có gương mặt thiên thần, nó nghe có ai đó ở đằng sau rên rỉ: ‘‘Lạy Thượng đế, Thượng đế ở đâu rồi? Và từ trong tôi, tôi nghe một tiếng trả lời: Ngài ở đâu? Ngài ở ngay đây – đang bị treo ở trên giảo đài này. ” Vào ngày cuối năm của Do Thái, đứa trẻ đó được đem ra trình diện tại buổi lễ Rosh Hashanah trang nghiêm. Nó nghe thấy hàng ngàn nô lệ đồng thanh la lên, “Phúc thay cho Đấng Toàn năng!” Trước đó chăng bao lâu, chắc hẳn nó cũng sẽ quỳ xuống, cũng với lòng phụng thờ, với lòng hãi sợ, với tình yêu như thế! Nhưng hôm nay, nó không quỳ, nó đứng. Cái tạo vật người đó, đã bị làm nhục và làm tổn thương ở mức cả tim lẫn óc đều không thế tưởng tượng ra được, đã chống lại vị thần linh mù và điếc. “Nhưng bây giờ, tôi không còn van xin gì nữa cả. Tôi không còn khả năng để than vãn. Trái lại, tôi thấy tôi thật mạnh mẽ. Chính tôi mới là nguyên cáo, và bị cáo là Thượng đế! Đôi mắt tôi đã mở to, và tôi thật lẻ loi, cố đơn kinh khủng trong một thế giới không có Thượng đế, không có cả người. Không có tình yêu hay lòng thương hại. Tôi không là gì cả, chỉ là tro bụi, nhưng tôi lại cảm thấy tôi mạnh hơn cả đấng Toàn năng đã gắn bó với đời tôi từ bấy lâu nay. Giữa đám đông những người tụ tập để cầu nguyện, tôi thấy tôi như là một quan sát viên thật xa lạ. ” Và tôi, người tin rằng Thượng đế là tình yêu, tôi có câu trả lời nào cho người thanh niên trẻ đang truyện trò với tôi, người mà trong đôi mắt sâu đen vẫn còn lưu giữ phản ảnh của nỗi buồn thiên thần ngày đó hiện trên mặt của một đứa bé bị treo cổ? Tôi đã có nói với anh về người Do Thái kia, người anh em bị đóng đinh, người có lẽ trông giống anh, người mà thập giá của mình đã chinh phục thế giới không? Tôi đã có giải thích với anh rằng cái đã là khối chướng ngại anh vấp phải về đức tin của anh đã trở thành một nền móng cho đức tin của tôi không? Và rằng sự liên hệ giữa thập giá và sự thống khổ của con người vẫn còn là, theo tôi, chìa khoá dẫn đến sự huyền bí sâu thẳm trong đó đức tin của thời niên thiếu của anh đã biến mất vào đó. Và Zion11[11] đã lại vươn lên một lần nữa từ những lò thiêu, những lò sát sinh. Quốc gia Do Thái đã được làm sống dậy từ giữa hàng ngàn cái chết của người Do Thái. Chính những kẻ chết đã đem lại cho Do Thái cuộc đời mới. Chúng ta không biết trị giá của chỉ một giọt máu, chỉ một giọt nước mắt. Tất cả là ân sủng. Nếu Đấng Toàn năng là Đấng Toàn năng, lời cuối của mỗi chúng ta thuộc về Ngài. Đó là những gì đáng lẽ tôi đã phải nói với đứa bé Do Thái. Nhưng tất cả những gì tôi đã có thể làm lúc đó chỉ là ôm lấy anh và khóc.  Mời các bạn đón đọc Đêm của tác giả Elie Wiesel & Marion Wiesel.
Đêm Lisbon
Trên bến cảng Lisbon sầm uất, có hai con người, với hai con đường khác nhau, đang cùng tồn tại. Một người mong được bỏ lại sau lưng tất cả, rẽ sóng đến chân trời của an toàn và tự do; một kẻ muốn trở về khi còn món nợ chưa nguôi từ chuỗi ngày trốn chạy triền miên khỏi cánh tay bạch tuộc của bọn mật vụ. Định mệnh đẩy họ vào cuộc gặp gỡ không báo trước và người này chấp nhận trở thành nơi lưu giữ những ký ức của người kia, thứ ký ức đớn đau không còn mang theo nổi. “Chúng tôi bám vào nhau trên một bờ vực của thế giới khác. Không có cách nào quay lui, chẳng rõ nơi đến, chỉ biết là bay lên, cùng với nhau, và cùng thất vọng, một nỗi thất vọng trầm lặng, siêu thực: nó uống cạn những giọt nước mắt thầm lặng vì chỉ biết rằng cứ phải đi, không đường trở lại mà cũng chẳng có nơi nào để đến.” *** Review của Phuc Hieu:   Erich Maria Remarque, một bậc thầy kể chuyện người Đức, dường như đối với ông, việc “bịa” ra một cuộc đời ai đó quá sức dễ dàng, mà cũng có thể, chúng là thật. Đêm Lisbon, đêm cuối cùng trước khi chuyến tàu chở những con người trốn chạy khỏi châu Âu tìm đường sang đất Mỹ tự do, có những kẻ đang vật vã khốn cùng tìm cho mình cơ hội lấy một tấm vé hay một con dấu nước Mỹ trên tấm hộ chiếu. Nhân vật kể chuyện của Remarque là một kẻ đang đi tìm chiếc phao cứu sinh đời mình. Anh ta dốc tiền vào canh bạc nhằm tìm vận đổi đời để có thể mua lại chiếc vé tàu từ ai đó, rủi thay, số tiền rơi vào tay kẻ khác. Đen bạc đỏ tình. Có lẽ vậy.   Anh gặp một người đàn ông giữa đêm khuya, người nằng nặc đòi anh phải theo hắn vào quán bar- chỉ để lắng nghe câu chuyện đời hắn và đổi lại – anh sẽ có được chiếc vé hộ mệnh để sang thiên đường Mỹ quốc. Người tị nạn phải đang lâm vào tình cảnh nguy hiểm hoặc là nghệ sĩ, nhà khoa học và trí thức nổi tiếng thì mới mong được chào đón ở nước Mỹ. “Cái lối phân biệt giữa con người tầm thường và con người có giá trị chẳng phải có chút bà con gần xa với cái quan niệm siêu nhân đối lập với lũ người sâu bọ của bọ Quốc xã đó sao?”, Remaque đã mượn nhân vật mình thốt lên những lời cay nghiệt ấy. Cứ như thế trong đêm tối, họ lang thang tới vài quán bar cho đến khi trời sáng để hắn có thể tâm sự hết cuộc đời mình – những tháng ngày tù đày tha hương của một kẻ bị ngay chính người anh vợ George, vốn là một tên phát xít Đức yêu nước điên cuồng tố cáo vùi dập hạnh phúc của chính cô em gái mà hắn yêu thương đến mức đáng sợ. Cuộc đời một người Do Thái như hắn có khác gì người đang ngồi nghe hắn kể lể đâu, nhưng có điều hắn cần phải kể, bởi như thế mới giúp hắn giải thoát khỏi cuộc đời của tấm hộ chiếu mang tên người đàn ông khác Schawarz. Những năm tháng ấy người ta chối bỏ tên thật và khoác lên mình tên kẻ đã chết hòng mong tồn tại. Schawarz thay vì trốn chạy đến hết cuộc đời, hắn đã trở lại quê nhà tìm người vợ thân yêu sau năm năm ròng ly biệt. Các nhân vật nam trong những tác phẩm khác của Remarque đều đau đáu về cố hương và những người phụ nữ yêu dấu. Cặp vợ chồng đã lên kế hoạch trốn chạy khỏi nước Đức, mà kẻ đầu tiên chính là người anh máu mủ của cô vợ Helen. Họ trải qua những tháng ngày đẹp đẽ của dân tị nạn với tình yêu thương nồng nàn và cả sự chia cắt khốn khổ. Thế nhưng giữa lúc hạnh phúc đoàn viên ngập tràn, căn bệnh ung thư của Helen đã bộc phát. Chiến tranh ư? Mặc kệ. Lúc này đối với họ cuộc chiến của một kẻ hăm hở đi Mỹ và một con người đang chờ chết mới tàn bạo làm sao. Đêm Lisbon hôm ấy chào đón một linh hồn phụ nữ quyết định đương đầu với thần chết, một kẻ chối bỏ tương lai để báo thù và một kẻ sẵn sàng đón nhận vận may rủi. Đêm ấy nỗi sầu lắng đọng trong bầu không khí tĩnh mịch, trên những con tàu nằm lặng lẽ ở bến cảng và những kẻ tha hương đang mòn mỏi ngóng chờ một hồi tàu vang lên để giã biệt Lisbon và màn đêm u tối của xứ sở châu Âu lụi tàn. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Bóng Tối Thiên Đường Đêm Lisbon *** Tôi chăm chú nhìn con tàu buông neo trên sông Tagus, đèn thắp sáng rực rỡ. Mặc dầu tôi ở lại Lisbon đã được một tuần lễ, tôi vẫn chưa quen được với cái ánh sáng rực rỡ vô tư lự của nó. Ở những miền đất nước mà tôi đã ra đi, thành phố tối đen như hầm mỏ than, và ngọn đèn lồng trong bóng đêm còn kinh khiếp hơn bệnh dịch thời Trung Cổ. Và đó là châu Âu của thế kỷ hai mươi. Đó là con tàu chở hành khách; nó đang được chất hàng. Tôi biết nó sẽ ra khơi vào chiều ngày hôm sau. Trong ánh sáng gay gắt của những bóng điện trần, những thùng thịt, cá, thực phẩm đóng hộp, bánh mì và rau tươi đang được đưa xuống hầm chứa hàng. Công nhân bốc dỡ đưa hành lý lên tàu, nâng những thùng, những kiện hàng lên tàu một cách lặng lẽ, tưởng như chúng nhẹ tênh. Con tàu đang được chuẩn bị để làm một cuộc hành trình - như con tàu cứu rỗi vào thời Hồng thủy. Nó đúng là một thuyền cứu rỗi. Bất kỳ chiếc tàu nào rời châu Âu vào những tháng đó của năm 1942 cũng là một tàu cứu rỗi. Đỉnh Ararat[*] xưa kia nay là nước Hoa Kỳ, và nước lũ dâng cao lên từng ngày. Đã lâu nó ào vào nước Đức và nước Áo, nay nó làm chìm ngập Ba Lan và Praha; rồi đến lượt Amsterdam, Brussels, Copenhagen, Oslo và Paris. Tiếp theo là các thành phố nước Ý đã nghe nó thấm rỉ vào, và cả Tây Ban Nha cũng không thoát được. Bờ biển Bồ Đào Nha trở thành niềm hy vọng cuối cùng của những người tị nạn mà công lý, tự do và lòng khoan dung đối với họ có giá trị hơn cả quê hương và cuộc sống. Nơi đây là cửa ngõ vào Hoa Kỳ. Nếu bạn không đến đó được, tức là bạn hết thời, bạn sẽ phải mòn mỏi tiêu hao trong đám rừng rậm của những tòa lãnh sự, đồn cảnh sát, và những cơ quan chính phủ, nơi đây hộ chiếu bị từ chối, công việc làm ăn và giấy phép cư trú không thể có, cả một rừng chằng chịt những trại tập trung, cả một hệ thống giấy tờ thủ tục hành chánh, nỗi cô đơn, nhớ nhà và sự lãnh đạm khô héo của mọi người. Như thường lệ trong thời chiến, sợ hãi và ưu phiền, cả đến sinh mạng cá thể của con người cũng không còn có nữa. Chỉ một điều duy nhất là đáng kể: một tờ giấy thông hành có giá trị. Tối hôm ấy tôi đến sòng bạc Casino Estoril để đánh bạc. Tôi còn giữ được một bộ quần áo tươm tất nên họ để tôi vào. Đây là cố gắng cuối cùng và tuyệt vọng của tôi để thách đố số phận. Giấy phép cư trú tại Bồ Đào Nha của chúng tôi trong vài ngày nữa là hết hạn, mà tôi và Ruth chẳng có giấy hộ chiếu nào khác. Khi ở Pháp, chúng tôi đã vạch kế hoạch và liệt kê danh sách các chuyến tàu có thể đi New York. Con tàu bỏ neo tại sông Tagus này là chiếc sau cùng có ghi trên danh sách của chúng tôi. Vé tàu thì đã bán ra từ nhiều tháng nay; mà chúng tôi lại không có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ, và còn thiếu hơn ba trăm đô la để mua vé. Ít ra tôi cũng cố gắng nâng số tiền này lên bằng cách còn có thể được đối với một người nước ngoài tại Lisbon, đó là đánh bạc. Thật là một ý nghĩ điên rồ vì nếu tôi đánh bạc có ăn đi nữa thì cũng phải có thêm một phép lạ chúng tôi mới lên tàu được. Nhưng trong lúc hiểm nguy và tuyệt vọng, bạn thường tin tưởng vào phép màu, nếu không bạn sẽ chìm luôn. Tôi đã thua mất năm mươi sáu đô la trong số sáu mươi hai đô la chúng tôi còn lại. Đêm đã về khuya và bến tàu thì gần như hoang vắng. Nhưng một lát sau tôi nhận ra có một người đàn ông cách tôi không xa. Lúc đầu thì hắn thả bộ phất phơ, sau đó hắn dừng lại và cũng bắt đầu chăm chú nhìn ra con tàu. Lại một kẻ tị nạn bị bỏ rơi, tôi chợt nghĩ, và không chú ý đến hắn nữa, cho đến lúc tôi có cảm giác là hắn đang nhìn tôi. Dân tị nạn không bao giờ đánh mất nỗi lo sợ đối với cảnh sát, dù là trong giấc ngủ hoặc trong lúc chẳng có gì phải sợ hãi cả. Bởi thế nên tôi quay đi, giả vờ như dửng dưng chán chường và bắt đầu chậm rãi rời khỏi cầu tàu, như một người chẳng có gì phải lo sợ cả. Một lúc sau, tôi lại nghe tiếng bước chân đằng sau. Tôi vẫn tiếp tục đi mà không vội vã, vừa tự hỏi làm sao tôi có thể báo cho Ruth biết tin nếu tôi rủi bị bắt. Những ngôi nhà màu tùng lam ở cuối cầu tàu ngái ngủ như những con bướm đêm, đối với tôi thật vẫn còn quá xa để tôi có thể chạy đến đó và biến mất trong mấy đường phố quanh co chằng chịt. Giờ đây thì hắn đã đứng ngay bên cạnh tôi. — Ông là người Đức? - Hắn hỏi tôi bằng tiếng Đức. Tôi lắc đầu và tiếp tục bước đi. — Người Áo? Tôi cũng không trả lời. Tôi nhìn những ngôi nhà màu tùng lam đang tiến lại gần một cách quá chậm chạp. Tôi thừa biết có những cảnh sát viên người Bồ Đào Nha nói tiếng Đức rất thạo. — Tôi không phải là cảnh sát. - Gã đàn ông nói. Tôi không tin lời hắn. Hắn mặc thường phục, nhưng đã có năm bảy lần những người mặc thường phục bắt tôi ở châu Âu. Tôi có giấy tờ tùy thân, vốn là một tác phẩm không đến nỗi tệ lắm do một giáo sư dạy toán người gốc thành phố Praha ở Paris thực hiện, nhưng nếu bị kiểm tra kỹ thì chắc sẽ không chút giá trị gì. — Tôi thấy ông nhìn con tàu, - Người đàn ông nói, - Điều đó khiến tôi nghĩ rằng… Tôi dửng dưng nhìn hắn ta. Thật tình thì hắn chẳng có vẻ gì là cảnh sát cả, nhưng người đàn ông mặc thường phục mới đây đã tóm cổ tôi ở Bordeaux lần vừa rồi cũng có vẻ thảm hại như Lazarus[*] khi ra khỏi mồ sau ba ngày, ấy thế mà hắn lại là kẻ tàn bạo nhất trong đám. Hắn đã bắt tôi, dẫu hắn biết qua hôm sau quân Đức sẽ có mặt tại đó, và đời tôi kể như chấm dứt nếu không có tên cai ngục tốt bụng thả tôi ra vài giờ sau đó. — Ông muốn đi New York không? - Người đàn ông hỏi. Mời các bạn đón đọc Đêm Lisbon của tác giả Erich Maria Remarque.
Tôi Không Phải Là Công Chúa
Truyện Tôi Không Phải Là Công Chúa là câu chuyện thú vị về tình yêu tuổi teen nói riêng và phản ánh đời sống tâm lý, xã hội của lứa tuổi này nói chung, xoay quanh câu chuyện về Lam và những người bạn học của mình. Nhẹ nhàng, trong sáng, giản dị và chân thành. Đó là tất cả những gì Tôi không phải là công chúa đem lại đến cho bạn đọc. Những rung động đầu đời trong sáng và vô cùng thú vị, những giận hờn vu vơ những giọt nước mắt tủi hờn và cả những sự tinh nghịch của tuổi học trò là những khoảnh khắc đẹp đẽ của tuổi áo trắng mà tác giả muốn gửi gắm đến bạn đọc. Hy vọng rằng, mỗi chúng ta, đều tìm thấy một nàng công chúa và hoàng tử của riêng mình và mỉm cười khi nhìn lại quãng thời gian của tuổi thanh xuân đã qua! *** Nhận xét của độc giả tiki: Sở Thiên Khoát: Hay Cốt truyện không được gọi là mới nhưng tác giả viết rất thú vị. Hay lắm. cuốn sách rất hay!! Đoàn Thị Mỹ Ngọc :Khá Hài Lòng bìa đẹp, nội dung truyện cx khá ổn, mỗi tội giở sách ra auto bìa xấu, k giống như mấy quyển truyện khác mà mk mua Tô Ngọc Anh Thư Tuyệt ❤Đây là một trong những cuốn sách khiến tôi thao thức mỗi khi đọc xong :) Hay lắm các bác ạ !!!! Ben Heo Lê: Cực Kì Hài Lòng Truyện này rất hay!!!!!!???????????????????????? Nên xuất bản nhiều những tác phẩm của Kawi *** Mình thường chỉ đọc những tiểu thuyết văn học kinh điển hay truyện trinh thám mà ít khi xem đến những thể loại này. Nhưng chẳng biết nghĩ thế nào, là muốn đổi gió chăng? Mình lại đặt mua quyển sách này. Bìa sách thiết kế rất đẹp, lấy gam màu chủ đạo là xanh, mang đến cảm giác dễ chịu và tò mò. Nhưng nội dung thì theo chủ nghĩa “bình cũ rượu mới”,mô típ tình tay 4 (3 chàng theo đuổi một nàng) hay là nhiều chàng theo đuổi một nàng đã không còn xa lạ gì nữa. Nhân vật chính là một cô gái bình thường dễ bị “chìm” trong đám đông. Văn phong của tác giả không đến nỗi tệ nhưng diễn biến của câu chuyện quá nhanh khiến người đọc cảm thấy có sự miễn cưỡng trong mối quan hệ của hai nhân vật chính. Lại chưa nói đến có nhiều tình tiết vô lí và quá thuận lợi trong truyện: từ gia thế của hotboy Lê Thái đến hoàn cảnh đẩy đưa cho hai người sống chung một nhà, rồi cô bạn thân của Lam(tên gì mình quên mất tiêu luôn), đang từ yêu say đắm cái cậu Hải Phi xong tự dưng lại gọi là anh như thường được, cả cô bạn Hoàng Mĩ ở đoạn cuối truyện nữa…. Với lại mới là học sinh cấp 3 mà mua nhẫn cho nhau rồi gọi “vợ ơi là vợ” thì có ổn không nhỉ? Nói chung là truyện chỉ mang tính giải trí và nếu so với những truyện cùng thể loại thì còn kém xa. Nhưng vẫn cảm ơn tác giả vì khi đọc nó, em đã cười rất nhiều…. *** Mười một giờ ba mươi tối. Nó đang ngủ. Đúng hơn là đã ngủ được mấy giấc rồi. Ò o o o... Ò o o o... Theo phản xạ, nó vừa ngủ vừa... với tay mò mẫm chiếc điện thoại đang reo inh ỏi, không biết người nào rảnh rang mà chọn giờ này quấy phá giấc ngủ của nó. Không buồn nhìn số gọi đến, nó vừa ngáp vừa bật nắp, kề cái miệng ngái ngủ vào điện thoại với cái giọng thê thảm: - A... lô! Đầu nó gục gục. Nhưng âm thanh từ đầu dây bên kia khiến nó tỉnh hẳn. - Kin! Bây giờ Kin hãy im lặng, hãy chỉ im lặng nghe Bun nói mà thôi. Nó nuốt nước bọt. - Bun biết Kin đang giận Bun, rất giận là đằng khác. Nhưng thực sự Bun không cố ý. Chỉ là... chỉ là Bun không thể kiềm chế... Bây giờ Bun muốn nói 1 sự thật, 1 sự thật mà bấy lâu nay Bun không giám nói. Bun thích Kin... Kin chỉ biết thế là được. Thôi , kin ngủ đi mai gặp. Tín hiệu đột nhiên bị cắt đứt... Lần này thì nó tỉnh hẳn, nhìn chằm chằm vào điện thoại, số vừa gọi đến là số lạ hoắt, đơn giản là vì nó không phải là Kin, dù buồn ngủ đến mấy thì nó vẫn đủ khả năng để nhớ tên mình. Phải! Nó là Lam. không phải Kin. Nó cười 1 mình. Một cuộc điện thoại kì quặc và nó vô tình trở thành người được tỏ tình bất đắc dĩ. Tội nghiệp thằng nhóc tên Bun nào đó. Nghe qua giọng nói có vẻ khó khăn lắm mới thốt ra được. Ai dè lại không đúng đối tượng. Haizzz... nó quăng điện thoại vào góc giường và ngủ tiếp. Nhưng nó không ngủ tiếp được nữa. Vậy là thêm 1 đêm làm cú vọ... Sáng hôm sau nó gật gà gật gù trên bàn ăn, kết quả của 1 đêm thức trắng. Nhìn đôi mắt thâm quần như bị ai bum vào, mẹ nó nhăn mặt - Con làm gì mà trông kinh khủng thế? - Đêm qua con không ngủ! Mắt mẹ nó bỗng sáng rực. - Ôi! Con gái yêu của mẹ bữa nay đã biết thức khuya học bài rồi cơ đấy! Nó ngán ngẩm không trả lời. Cứ để mẹ nghĩ như vậy cũng được. - Chào mẹ, con đi học! - Ừ! Nó lóc cóc leo lên chiếc xe đạp điện nó cho là "cà tưng" mà ba rước về từ nhà cậu. Vì sự đểnh đoảng bẩm sinh mà nó làm mất con ngựa sắt yêu quý để rồi phải xài con ngựa điện này 15' sau nó "đáp" trường.   Mời các bạn đón đọc Tôi Không Phải Là Công Chúa của tác giả Kawi.
Chúng Tôi
Tất cả các cuộc cách mạng hiện đại trên thế giới đều đưa đến sự củng cố sức mạnh của nhà nước tập quyền. Ở thế kỷ XXVI, cuộc cách mạng Hai Trăm Năm đã biến nhà nước trong tiểu thuyết “Chúng tôi” của Yevgeny Zamyatin thành một bộ máy chinh phục và đàn áp. Mọi quyền riêng tư đã bị phá bỏ, sở hữu cá nhân không còn nữa, con người chỉ là những mã số sinh hoạt và lao động theo một bảng giờ bất biến. Yêu đương và giải trí, tình dục và hưởng thụ đều phải theo sự sắp đặt, quy định của nhà nước. Nghệ thuật được dùng để phục vụ cho mục đích tuyên truyền và áp chế. Giáo dục trở thành phương tiện nhồi sọ để biến con người thành công cụ. Nhân bản bị vứt bỏ hoàn toàn. Các giá trị người trở thành hòn đá thử vàng cho một thiết chế nhà nước… *** Đơn giản là tôi chép lại nguyên văn những gì đăng trên tờ Nhật Báo Quốc Gia hôm nay: Việc xây dựng tàu vũ trụ Tích Phân sẽ hoàn thành sau 120 ngày. Giờ phút lịch sử vĩ đại, khi con tàu Tích Phân đầu tiên bay vào không gian, sắp cận kề. Một ngàn năm trước những bậc tiền nhân anh hùng của các bạn đã thiết lập sự cai trị của Quốc Gia Thống Nhất trên toàn cõi địa cầu. Chiến công hiển hách hơn đang đón chờ các bạn: lấy tích phân phương trình vô hạn của vũ trụ bằng con tàu Tích Phân bọc thủy tinh, dùng điện năng, khạc ra lửa. Các bạn sẽ chinh phục những sinh vật chưa từng được biết đến trên những hành tinh khác - có lẽ hãy còn trong tình trạng tự do chưa khai hóa, đưa họ vào cái ách thiện nguyện của lý trí. Nếu như họ còn chưa thấu hiểu việc chúng ta đem lại cho họ niềm hạnh phúc đúng đắn như toán học, thì nhiệm vụ của chúng ta là buộc họ phải hưởng hạnh phúc ấy. Tuy nhiên, trước khi phải sử dụng vũ lực, ta hãy dùng lời lẽ để thuyết phục. Thay mặt Lãnh Tụ Thiện Nguyện, thông báo đến toàn thể mã số của Quốc Gia Thống Nhất: Mọi mã số, nếu cảm thấy đủ năng lực, đều có nghĩa vụ sáng tác tiểu luận, thơ ca, tuyên ngôn, tụng ca hoặc những thể loại khác để tán dương cái đẹp và sự vĩ đại của Quốc Gia Thống Nhất. Đó sẽ là kiện hàng đầu tiên được tàu Tích Phân đem theo. Quốc Gia Thống Nhất muôn năm, toàn thể mã số muôn năm, Lãnh Tụ Thiện Nguyện muôn năm! Tôi viết những dòng này và cảm thấy hai má nóng bừng. Phải, để lấy tích phân phương trình vũ trụ vĩ đại. Phải, để uốn đường cong sơ khai, nắn nó lại theo tiếp tuyến - đường tiệm cận - thành một đường thẳng. Bởi lẽ con đường của Quốc Gia Thống Nhất chính là đường thẳng. Đường thẳng thông thái, chính xác, thần thánh, vĩ đại chính là đường kẻ thông tuệ nhất... Tôi, mã số D-503, Tổng công trình sư của tàu Tích Phân, chỉ là một trong số những nhà toán học của Quốc Gia Thống Nhất. Ngòi bút vốn quen với những con số của tôi không đủ khả năng sáng tác nhạc điệu cho những vần thơ. Tôi chỉ cố ghi chép lại những gì mắt thấy tai nghe, những gì suy nghĩ - chính xác hơn, những gì chúng tôi nghĩ (đúng vậy: chúng tôi, và hãy để từ "CHÚNG TÔI" này làm tựa đề cho những ghi chép của tôi). Tuy nhiên, đó sẽ là đạo hàm của cuộc đời chúng tôi, cuộc đời hoàn hảo như toán học của Quốc Gia Thống Nhất, và nếu thế, lẽ nào tự thân nó không phải là một bài thơ, bất chấp ý nguyện của tôi? Nó sẽ là như thế. Tôi viết những dòng này mà cảm thấy hai má nóng bừng. Có lẽ, điều đó tương tự cảm giác của người phụ nữ khi lần đầu nghe thấy trong cơ thể mình nhịp đập của một sinh linh mới, hãy còn tí hon và chưa mở mắt. Đó là tôi và đồng thời cũng không phải là tôi. Trong nhiều tháng dài tôi sẽ phải nuôi dưỡng nó bằng nhựa sống, bằng máu thịt của mình, để rồi sau đó đau đớn tách nó ra khỏi cơ thể và đặt dưới chân Quốc Gia Thống Nhất. Song tôi sẵn sàng, như mỗi người hay hầu hết mỗi người trong chúng tôi. Tôi sẵn sàng.   Mời các bạn đón đọc Chúng Tôi của tác giả Yevgeny Zamyatin.