Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bia Mộ Đen - Erich Maria Remarque

Chơi vơi giữa dòng xoáy cuộc đời khi mà những điều khủng khiếp của chiến tranh vẫn còn ám ảnh, Ludwig Bodmer lựa chọn cách đối mặt bằng thái độ hài hước và bất cần. Tuy nhiên, bên trong anh lại là trái tim của một nhà thơ, với tâm hồn nồng nàn và lãng mạn, đang đấu tranh với thời cuộc và với chính mình để tìm ra ý nghĩa thật sự của cuộc sống mà anh đang và muốn sống. Lấy bối cảnh thành phố quê nhà của Remarque giữa hai cuộc thế chiến, Bia mộ đên mang nhiều tính chất tự truyện và đậm màu sắc triết lý trào phúng. Như chính tác giả từng viết, đây là “câu chuyện về tuổi trẻ trễ tràng”, về một thế hệ vỡ mộng, miệt mài đi tìm lời đáp cho những câu hỏi quan trọng mà nhân loại đã dần dần quên lãng. Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Tôi không hề gặp lại một người nào nữa hết. Nhiều lần, tôi có ý định trở về nhưng lần nào cũng bị ngăn chận. Tôi nghĩ là sẽ có một thời gian nào đó thuận tiện hơn nhưng bây giờ thì đã hết rồi. Bóng tối đã phủ trùm lên nước Đức, tôi đã mất quê hương và lúc trở về, tôi chỉ còn thấy những điêu tàn. Georges đã chết. Mụ Konersmann sau bao nhiêu công trình dọ dẫm đã khám phá ra được cuộc tình vụng trộm của Lisa và Georges. Năm 1933, mười năm sau, mụ ta tố cáo với Watzek lúc bấy giờ là chỉ huy trưởng đội S.A. Mặc dầu đã ly dị Lisa tới năm năm, Watzek vẫn cứ nhốt tình địch vào trại tập trung của hắn. Vài tháng sau, Georges chết. Hans Hungermann, ủy viên văn hóa và là Đảng viên cao cấp đã ca tụng Đảng Quốc xã bằng một loạt thơ nóng bỏng. Năm 1945, hắn mất chỗ hiệu trưởng. Tuy nhiên, cũng như một số đảng viên khác, hắn sống một cách khá đầy đủ tiện nghi khỏi phải đi làm, nhờ có tiền hồi hưu. Nhà điêu khắc Kurt Bach sống luôn sáu năm trong một trại tập trung và trở về què quặt. Hiện nay, mười năm sau cuộc thảm bại, hắn vẫn phải vất vả để nuôi miệng cũng như bao nhiêu nạn nhân khác của chiến tranh. Hắn chỉ mong kiếm được mỗi tháng bảy chục ngàn Đức kim, khoảng một phần mười tiền trợ cấp cho Hungermann, khoảng một phần mười số tiền mà nhà nước cấp dưỡng cho viên chúa trùm mật vụ Gestapo, người ta có sáng kiến lập các trại tập trung mà Kurt bị nhốt và trở về què quặt... Đó là chưa kể các khoản trợ cấp cao hơn cho các tướng lãnh, tội nhân chiến tranh, và các đảng viên Quốc Xã khác. Henri Kroll, vượt thoát mọi biến cố, nhận thấy mọi quyền hạn và công lý vẫn còn đứng về phía quê hương yêu dấu của chúng tôi. Viên trung đội trưởng thiết kỵ Wolkeinstein rất lên hương. Người của Đảng và kỳ thị chủng tộc hết mình, sau chiến tranh, im hơi lặng tiếng luôn vài năm và bây giờ, cũng như bao nhiêu đồng chí khác, được làm nhân viên Bộ Ngoại giao. Bodendick và Wernicke cố giấu được một số người Do Thái trong trại điên bất trị. Họ cho những người trốn tránh cạo đầu và học cách giả điên. Sau đó ít lâu, Bodendick bị thuyên chuyển về một làng hẻo lánh vì đã lỡ nói một vài lời bất ý khi đức Giám mục của ông ta chấp nhận làm cố vấn cho một chính phủ chỉ lấy chuyện tàn sát làm bổn phận thiêng liêng. Wernicke cũng bị đổi đi vì không chịu chích thuốc độc cho những người điên. Trước khi ra đi, ông ta đã tập hộp được một số dân Do Thái và tổ chức một cuộc chạy trốn, ông ta bị gởi ra mặt trận và chết ở đó năm 1944. Willy ngã gục năm 1942. Otto Bambuss năm 1945. Charles Kroll năm 1944. Lisa chết trong một cuộc ném bom. Bà Kroll cũng cùng chung số phận. Edouard Knoblock thì vượt qua tất cả. Hắn phục vụ tất cả các quyền lực, tốt cũng như xấu, với tất cả nhiệt tâm. Nhà hàng của hắn bị phá hủy nhưng đã được xây cất lại. Hắn không cưới Gerda và không ai biết cô ta hiện ra sao. Tôi cũng chằng được một tin tức nào về Geneviève Terhoven. Oscar “mắt treo cờ tang” dựng nghiệp một cách huy hoàng. Lúc chiến tranh xảy ra hắn bị gởi sang Nga làm lính trơn và kế đó được chỉ định làm Thanh Tra nghĩa địa. Năm 1945, hắn làm thông dịch viên cho quân đội chiếm đóng và chỉ vài tháng sau được làm Thị trưởng. Thị trưởng Werdenbruck. Kế đó hắn hùn với Henri Kroll, cả hai tạo dựng một xưởng mới và rất phát tài. Vào thời đó mộ bia cũng khan hiếm như bánh mì. ... Mời các bạn đón đọc Bia Mộ Đen của tác giả Erich Maria Remarque.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân
Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cho ấn hành một trong những tác phẩm nổi tiếng của Pearl Buck đã được trao giải Nobel Văn Chương năm 1938 với tựa đề: Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ. Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa. Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở: - Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không? Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng... Mời các bạn đón đọc Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân của tác giả Pearl S. Buck.
Uyên Ương Gãy Cánh
"Với những trang sách chứa chan tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên Ương Gãy Cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt. Từ đó, người đang yêu đọc nó và mỗi sớm mai "được thức dậy lúc rạng đông với con tim chắp cánh, đưa lời cảm tạ vì có thêm một ngày yêu thương nữa." (Nguyễn Ước) *** Bản Việt ngữ này dịch từ cuốn The Broken Wings do Anthony R. Ferris dịch từ nguyên tác của Kahlil Gibran bằng tiếng Ả Rập sang Anh ngữ. Chúng tôi đã ngẫu cảm chuyển tựa đề Việt ngữ thành Uyên Ương Gẫy Cánh vì thấy nó rất phù hợp với những trang tình sử này. Người Đông phương đã đem vào huyền thoại loài chim Uyên ương sống từng đôi trống mái, mỗi con chỉ còn một cánh, phải chấp nhau mà bay cùng. Chúng ăn ở với nhau tình thâm nghĩa trọng đến nỗi nếu một trong đôi lứa có mệnh hệ nào thì con kia đành xếp cánh tuyệt vọng trước những từng trời thăm thẳm. Chim Uyên Kahlil Gibran đã nhỏ từng giọt máu trong tim chép lại chuyện tình của chính mình như một chúc thư cho những tình nhân mai sau. Mối tình đầu của con người tài hoa đa cảm đó cũng là mối tình không-thể-thay-thế của ông; sau khi bị quê hương hắt hủi lưu đày biệt xứ, tác giả suốt đời lang thang phiêu bạt và không bao giờ lập gia đình. Đủ thấy vết thương ở tim tác giả còn đau buốt mãi cho đến lúc vĩnh viễn nhắm mắt. Nhưng con chim Uyên cao thượng khác thường đó không phải chỉ biết cất tiếng hót sầu thảm để oán trách Trời Đất đã ghen với tài tử và hồng nhan. Cho nên người đời còn được đọc những tác phẩm hào sảng hùng tráng khác của Kahlil Gibran. Đó chính là nhờ ngọn lửa thiêng bất khả diệt trong tâm hồn tác giả. Và cũng nhờ sự hy sinh cao quý của chim Ương: tự mình cắt lìa chiếc cánh bị thương để chim Uyên có thể bay đi đem tiếng hót tặng cho đời... Người dịch mong mỏi rằng quý vị độc giả sẽ vì mủi lòng cho mối tình tan tác của hai tâm hồn u uất mà rộng lượng gạt đi những thành kiến, nhất là trong địa hạt tôn giáo, khi quý vị đọc bản chúc thư tình yêu này. Nghĩa cử đó sẽ muôn ngàn lần cao đẹp hơn là... nếu có dịp quý vị đặt những bó hoa lên mồ của những Uyên Ương gẫy cánh... Sau cùng, chúng tôi xin mạn phép tặng bản Việt dịch này cho một phụ nữ Việt Nam - chúng tôi không tiện nêu lên - đã can đảm sống theo một luân lý tự mình tìm ra, giữa một xã hội còn vương lại quá nhiều gông cùm của thành kiến và hủ bại. N. N. M.   *** Khalil Gibran (tên đầy đủ tiếng Ả Rập Khalil Gibran Gibran, đôi khi viết là Kahlil) (6/1/1883 - 10/4/1931) là một nghệ sĩ, nhà thơ và nhà văn Liban. Sinh ra tại thị trấn Bsharri ở phía bắc Liban ngày nay (lúc đó là một phần của Mount Lebanon Mutasarrifate, Đế quốc Ottoman), khi còn trẻ ông di cư cùng gia đình đến Hoa Kỳ, tại đó ông nghiên cứu nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình, viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập. Trong thế giới Ả Rập, Gibran được coi là một kẻ nổi loạn trong văn học và chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là tâm điểm của sự phục hưng trong văn học tiếng Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, tách ra từ trường phái cổ điển. Tại Lebanon, ông được coi như một thiên tài văn học. Ông chủ yếu được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh vì cuốn sách The Prophet (tiên tri) năm 1923 của ông, một ví dụ đầu tiên của tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết bằng thơ văn xuôi tiếng Anh. Cuốn sách bán rất chạy mặc dù bị chỉ trích lúc đầu. Nó được phổ biến trong những năm 1930 và một lần nữa trong những năm 1960 với nền văn học chống văn minh xã hội. Gibran là nhà thơ có sách bán chạy nhất thứ ba của mọi thời đại, sau Shakespeare và Lão Tử. Tác phẩm: Uyên ương gãy cánh Đóa Hoa Khát Vọng Ngôn Sứ (Kẻ Tiên Tri) Trầm Tưởng Tiếng vô thanh và người tình vĩnh cửu Giêsu Con của Con người Hoài vọng phương Đông Mật khải Tình yêu tận hiến Mây trên đỉnh núi và kẻ mộng du Nhà Tiên Tri ... Mời các bạn đón đọc Uyên Ương Gãy Cánh của tác giả Kahlil Gibran.  
Người Đàn Ông Đào Hoa
Nguyên văn tiếng Anh: The Ginger Man Dịch giả: Nguyễn Bích Lan  Tác phẩm Người Đàn Ông Đào Hoa được xuất bản vào năm 1955. Cuốn tiểu thuyết này đã trở thành kiệt tác, khiến tên tuổi Donleavy nổi tiếng khắp thế giới.  Nhân vật chính - Sebastian Dangerfield là người đàn ông được mệnh danh là "người ngoài "cô đơn trong một xã hội đầy thù địch , một kẻ luôn bị rượu và gái dẫn dắt bởi sự tham lam và lòng đố kỵ. Tuy nhiên, đằng sau thói phóng túng và hoa đường đó vẫn ẩn chứa một trái tim dịu dàng và ước muốn có được mái ấm gia đình mà trước đó anh ta đã từ bỏ .... *** J. P. Donleavy sinh năm 1926 tại Brooklyn. New - York trong một gia đình người Ailen nhập cư. Ông tham gia hải quân Mỹ trong thế chiến thứ hai sau đó sang Ailen theo học tại trường đại học Trinity, ở Dublin.  James Patrick Donleavy là một tiểu thuyết gia và nhà viết kịch người Ireland / Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn tiểu thuyết The Ginger Man (Người Đàn Ông Đào Hoa), ban đầu bị cấm vì tục tĩu. *** Một ngày nắng hiếm hoi của mùa Xuân. Chiếc xe ngựa lóc cóc chạy trên đường Tara xuôi về khu bến cảng trong khi bọn nhóc mặt trắng đi chân đất đua nhau hò hét.  O'Keefe bước vào quán rượu, đặt mông lên một chiếc ghế cao. Lúc lắc chiếc ba lô trên lưng , anh ta đưa mắt nhìn Sebastian Dangerfield.  - Bồn tắm ở đó to đùng. Hai tháng tớ mới tắm. Càng ngày tớ càng giống người Ailen. Muốn vào tắm cậu phải đi qua một cái cửa quay, giống như đi tàu điện ngầm ở Mỹ vậy.  - Cậu đi hạng nhất hay hạng ba, Kenneth?  - Hạng nhất. Tớ đến vỡ mông vì phải ngồi vò đồ lót và trong những căn phòng ẩm ướt ở Trinity thì chẳng cái quái gì có thể khô được. Cuối cùng tớ phải mang khăn tắm ra hiệu giặt là. Ở Havard tớ có thể tắm thỏa thích dưới vòi sen và có thể thọc chân vào đồ lót sạch sẽ.  - Cậu sẽ được uống gì đây nhỉ, Kenneth?  - Ai trả tiền?  - Tôi vừa mới đem cái lò sưởi điện ra hiệu cầm đồ.  ​​​​​​​ Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Đào Hoa của tác giả J. P. Donleavy.
Máu Hồng Y
Brian Moore, người được văn hào Graham Greene xem là một trong những tiểu thuyết gia đương thời mà ông ái mộ, sinh năm 1921 tại Belfast, Bắc Ireland. Cuối Thế Chiến Hai, ông phục vụ trong Bộ Vận tải Quân sự của Anh. Sau chiến tranh, ông làm việc cho Liên Hiệp Quốc ở châu Âu rồi di cư tới Bắc Mỹ năm 1948, làm ký giả và nhập tịch Canada. Từ năm 1955, ông nổi tiếng trên văn đàn với tác phẩm The Lonely Passion of Judith Hearne - Sự Thương Khó Hiu Quạnh Của Judith Hearne, một chuyện kể đầy buốt nhói về nỗi cô đơn và sự tan vỡ các ảo tưởng. Hai cuốn tiểu thuyết kế đó: The Luck of Ginger Coffey - Vận Số Của Ginger Coffey, 1975 và The Great Victorian Collection - Bản Sưu Tập Quí Báu Thời Victoria, 1975 đều được giải thưởng văn chương của Phủ Toàn Quyền Canada. Các cuốn tiểu thuyết khác của ông như Catholics - Người Công Giáo (1972), The Mangan Inheritance - Quyền Thừa Kế Mong Manh (1979), đều nằm trong danh sách đề cử nhận giải thưởng văn học danh tiếng Booker. Riêng cuốn Máu Hồng Y, tên nguyên tác là The Color of Blood - Màu Của Máu, 1987, cùng một lúc được hai giải thưởng, The Sunday Express Book of the Year Award và Canadian Authors Association Literary Award for Fiction. Ông hiện cùng gia đình sống ở Malibu, California, Hoa kỳ. Tuy tác giả không nêu tên quốc gia bối cảnh Máu Hồng Y nhưng xét theo tình tiết, có lẽ đó là Tiệp Khắc, một nước Trung Âu mà đại đa số dân chúng là người Công giáo. Từ năm 1948, Tiệp Khắc (Czech) bị đảng Cộng sản cai trị, và cùng với các nước Cộng sản Đông Âu khác, trở thành chư hầu của Liên bang Sô Viết tàn độc. Cuộc quật khởi “Mùa xuân Praha” 1968 thất bại trước đoàn xe bọc sắt của Sô Viết. Người Nga nhân đó chiếm đóng Tiệp Khắc và kìm kẹp nghiệt ngã hơn. Mãi đến 1989, nhờ chuyển biến ngay tại Nga và vận hội mới của các nước Đông Âu, cuộc “Cách mạng nhung” mới thành tựu, bắt đầu thể chế tự do dân chủ mà không có bạo động, đổ máu. Cuốn Máu Hồng Y, xuất bản năm 1987, viết về cuộc xung đột tối hậu giữa Giáo hội Công giáo với Nhà nước mà thực chất chẳng liên quan tới “Tình yêu Thiên Chúa”. Khi sắp bùng lên một cuộc nổi loạn nhằm lật đổ chế độ Cộng sản, Hồng y giáo chủ Stephan Bem thấy mình bị mắc kẹt và bí lối trong một mạng lưới của những lừa lọc, bạo động và dàn dựng chính trị không chút xót thương. Sau khi may mắn thoát khỏi một lần mưu sát tàn bạo và một cuộc bắt cóc mờ mịt, ông trở thành kẻ chạy trốn, không biết cất chân bước về hướng nào vì bốn phía đều trùng điệp kẻ nghịch. Tuy bối cảnh Máu Hồng Y không phải là Việt Nam nhưng đi vào tác phẩm, độc giả Việt có cơ hội nhìn lại những vấn đề thiết thân như bản chất và cùng đích của tôn giáo; phẩm chất của con người tôn giáo; tương quan giữa tôn giáo và chính trị trong lòng dân tộc… Độc giả cũng sẽ bắt gặp những bóng dáng không xa lạ gì với hoàn cảnh Việt Nam. Một chế độ toàn trị; một mặt xem tôn giáo như một thế lực gây thương tổn và sỉ nhục chính quyền; một mặt muốn sử dụng vài phần tử tôn giáo làm kẻ chính trị ngoại vi cho mình. Những tín đồ “thuần thành” và những tín đồ “yêu nước”. Các khuynh hướng chính trị tuy đối kháng nhau nhưng đều muốn dùng tôn giáo và tín đồ của nó để làm sức lực và phương tiện cho cái gọi là “phục vụ quyền lợi của quốc gia dân tộc” mà thực chất chỉ là tranh đoạt quyền lực… *** Vào khoảng giữa chín giờ và chín giờ rưỡi tối, chiếc xe hơi đưa ông về Nhà Chung chạy vào Quảng trường Tuyên ngôn Độc lập. Trời mưa, mưa mùa hạ. Trong quảng trường, các bức tượng, các mái nhà và các đài tưởng niệm sũng ướt, trơn mượt; vỉa hè bóng loáng. Ông bấm chiếc đèn pin nhỏ bằng cây bút rọi vào kẹp hồ sơ, không phải để coi lại những điều ông vừa ghi trong cuộc họp mà là để đọc cuốn sách nhỏ của thánh Bernard thành Clairvaux:[1] Bạn có nghĩ rằng con người bẩm sinh với lý trí mà không sống theo lý trí của mình thì, theo cách nào đó, không thua kém gì thú vật? Khi thú vật không tự chế được bằng lý trí thì nó có lý do gì về mặt tự nhiên, nó không được ban cho tặng phẩm ấy. Nhưng con người mà sống như thế thì không gì có thể biện minh được. Đôi lúc trong khi đọc thánh Bernard, ông có thể buông rơi thế giới đầy trách vụ của mình để rút vào cõi thinh lặng, nơi Thiên Chúa chờ đợi và phán xét. Nhưng lúc này, cùng với cảm giác đó, ông thấy có một chiếc xe hơi màu đen đang lạng sát vào xe mình. Ông quay mặt ngó. Người lái xe đen là một phụ nữ đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Trên chiếc ghế bên cạnh cô, một người đàn ông rậm râu hai tay cầm súng lục, giơ lên, nhắm thẳng mặt ông. Trong chớp mắt, Joseph, tài xế của ông, quặt mạnh tay lái, cố ý táng xe mình vô chiếc xe đen. Sức ly tâm làm người ông bật lên, quay tròn và văng ra ngoài. Người ông rơi uỵch xuống vệ đường ẩm ướt. Trong một lúc lâu, ông nằm đau đớn, nửa mê nửa tỉnh, mắt nhìn lên bóng tối trời đêm mịt mùng. Có tiếng còi xe hơi; ông nghe bước chân tiến tới gần. Từ phía trên ông, một phụ nữ trẻ đang ngó xuống, đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Mặt cô ứa máu, ghim đầy mảnh kính nhỏ li ti. Ông cố nhỏm dậy, thấy trên đùi cô loang lổ vết đen đặc, chỗ máu ứa ra thấm loang qua váy. “Cô không sao chứ?” ông hỏi, một cách ngớ ngẩn và bối rối. “Cô bị thương ư?” Không trả lời, cô xoay người đi thẳng, bước rất lẹ tuy khập khễnh, nhắm hướng Đường Trung Tâm Chợ. Dòng xe cộ chạy vào quảng trường bị cuốn hút bởi tai nạn, chậm dần và ngừng hẳn. Ông đứng lên, xâm xoàng. Khi mắt đã thôi mờ mịt, ông thấy có người đàn ông đang ngồi trong một chiếc xe, nhìn ông. “Ngài…” người ấy nói, như thể đang suy tính gọi ông theo danh xưng nào. “Cha không sao chứ… thưa Đức cha?” ... Mời các bạn đón đọc Máu Hồng Y của tác giả Brian Moore.