Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Điều Nhỏ Bé Vĩ Đại

Ruth, một y tá hộ sinh lành nghề bị gạt ra khỏi công việc vì cha đứa bé yêu cầu không để y tá người Mỹ gốc Phi chăm sóc con mình. Đứa bé chẳng may mất sau đó, và Ruth bị kiện ra tòa vì tội giết người.  Để chứng minh mình vô tội, để tiếng nói của người Mỹ gốc Phi được cất lên công bằng, Ruth phải trải qua một chặng đường rất khó khăn, nhưng cô không cô đơn. Bên cạnh cô là nữ luật sư, chị gái, con trai và những người bạn không ngờ khác… Tác phẩm Những điều  nhỏ bé vĩ đại của Jodi Picoult là một câu chuyện sâu sắc về vấn đề kỳ thị chủng tộc, sự lựa chọn, nỗi lo sợ và niềm hy vọng. Tiểu thuyết được sáng tác dựa trên một chuyện có thật ở Mỹ, gợi mở nhiều vấn đề để độc giả tự rút ra kết luận về cách chúng ta nhìn nhận bản thân và người khác trong thế giới đa dạng này. Jodi Picoult là tác giả có sách bán chạy nhất theo bình chọn của New York Times. Bà đã xuất bản 25 tiểu thuyết, bao gồm Siêu Thoát, Luật nhà, Nơi chốn lưu đày, và các tác phẩm khác.  *** Sự lựa chọn, nỗi lo sợ và niềm hi vọng trong 'Những điều nhỏ bé vĩ đại'. Những điều nhỏ bé vĩ đại kể câu chuyện đầy rung cảm về nạn phân biệt chủng tộc của tác giả lừng danh Jodi Picoult. Những ngày này, khi nước Mỹ đang rúng động vì những cuộc biểu tình dẫn đến bạo động, hơn 40 thành phố tại các bang nước Mỹ bị phong tỏa, và các nghệ sĩ nổi tiếng ở Mỹ như Billie Eilish, Ben Affleck, Beyonce, Ariana Grande, Rihanna và ngay cả chương trình Vua đầu bếp Mỹ nổi tiếng cũng giương cao khẩu hiệu: Black Lives Matter, thì năm 2016, tác giả lừng danh Jodi Picoult đã kể một câu chuyện đầy rung cảm về nạn phân biệt chủng tộc, qua tiểu thuyết Những điều nhỏ bé vĩ đại (Small great things). Tựa sách, được tác giả lấy ý từ câu trích dẫn được cho là của Martin Luther King, Jr.: “Nếu không thể làm những điều vĩ đại, tôi có thể làm những điều nhỏ bé theo một cách vĩ đại”. Hai nhân vật trong truyện có hành động nhỏ nhưng tác động lớn và lâu dài lên người khác là Ruth và Kennedy. Ruth là một y tá hộ sinh lành nghề người Mỹ gốc Phi. Cô yêu công việc ở bệnh viện, tận tụy với các bà mẹ và trân quý từng sinh linh nhỏ bé chào đời trên tay mình. Cô cũng nuôi dạy con trai một cách tử tế, để xứng với người cha là quân nhân đã hi sinh cho nước Mỹ. Nhưng một lần, Ruth buộc phải rời khỏi vị trí làm việc theo lệnh của cấp trên, vì cha của một đứa trẻ sơ sinh yêu cầu không để y tá da đen chăm sóc con mình. Đứa bé chẳng may mất sau đó và Ruth, người da màu duy nhất trong bệnh viện, bị kiện ra tòa vì tội giết người.  Để chứng minh mình vô tội, để tiếng nói của người Mỹ gốc Phi được cất lên, Ruth phải trải qua một chặng đường rất khó khăn, nhưng cô không cô đơn. Bên cạnh cô là luật sư, chị gái, con trai và những người bạn không ngờ khác… Đặc biệt, nữ luật sư Kennedy, một người Mỹ da trắng với đầy đủ những “đặc quyền vô hình” mà người da trắng vẫn thụ hưởng, đã sát cánh bên cô. Ruth không đấu tranh cho bình đẳng - cô muốn sự công bằng, vì “Bình đẳng là đối xử với tất cả mọi người như nhau. Còn công bằng là có tính đến sự khác biệt của từng người, để ai cũng có cơ hội thành công và phát triển”. Người da màu tại Mỹ, cho đến tận năm mà Những điều nhỏ bé vĩ đại được viết ra, khi Mỹ đã có tổng thống da màu đầu tiên, vẫn phải hứng chịu những bất công âm thầm mà không phải ai cũng cảm nhận được. Như Ruth và Kennedy cùng đi vào cửa hàng mua sắm, nhưng Ruth là người duy nhất bị quản lý cửa hàng nhìn theo từng bước chân và soát giỏ khi ra. Như cách người Mỹ né ra xa khi cùng ngồi với cô trong căn tin, hoặc những định kiến bám chặt lấy đứa con trai của cô, dù nó là một học sinh xuất sắc, mẫu mực... Nữ luật sư đã thẳng thắn chỉ ra “cơn gió xuôi” đó, trong một xã hội tưởng như rất tự do bình đẳng: “Thật dễ để chúng ta nhìn ra cơn gió ngược của sự kỳ thị chủng tộc, cái cách mà người da màu bị phân biệt đối xử. Chúng ta thấy nó khi một người da đen vô cớ bị cảnh sát bắn và một cô gái da nâu bị bạn cùng lớp bắt nạt vì đội hijab trên đầu. Thế nhưng cơn gió xuôi của sự kỳ thị chủng tộc thì khó thấy hơn và cũng khó thừa nhận, khi mà những người không phải da màu chúng ta được hưởng lợi từ làn da trắng. Chúng ta có thể đi xem phim và khá chắc rằng hầu hết các nhân vật chính trông sẽ giống mình. Chúng ta có thể tới trễ một buổi họp và màu da chúng ta sẽ không bị lôi ra làm cái cớ. Tôi có thể bước vào phòng của thẩm phán Thunder và đưa ra phản bác mà không bị nói rằng mình đang chơi con bài màu da. Hầu hết chúng ta không phải đi làm, về nhà và thốt lên "Tuyệt quá! Hôm nay mình không bị chặn lại và lục soát người!". Hầu hết chúng ta không vào đại học và nghĩ rằng, mình được vào ngôi trường mình lựa chọn vì hệ thống giáo dục hoạt động theo hướng có lợi cho mình. Chúng ta không nghĩ những điều đó, vì chúng ta không phải nghĩ”. Jodi Picoult cho biết, từ lúc dấn thân vào nghiệp viết lách, bà đã nghĩ đến việc viết một quyển sách về vấn đề kỳ thị chủng tộc tại Mỹ, sau một sự kiện có thật ở New York: một cảnh sát chìm người da đen bị bắn vào lưng, nhiều lần, bởi các đồng nghiệp da trắng - dù anh ta đang mang cái được gọi là “màu sắc của ngày” - một chiếc vòng tay để cảnh sát ngầm nhận ra nhau. Tuy nhiên, phân biệt chủng tộc là một vấn đề nhạy cảm tại Mỹ và không dễ viết. Hai mươi năm sau, tin tức về y tá người Mỹ gốc Phi ở Flint, Michigan thu hút sự quan tâm của bà - một người cha theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã ra yêu sách là người da màu không được đụng vào con ông ta và nhóm nhân viên người Mỹ gốc Phi đã đâm đơn kiện. Họ đã chiến thắng. Từ sự kiện này, Jodi Picoult đã dệt nên câu chuyện của mình, từ góc nhìn của một y tá da đen, một người cha theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng và một luật sư công - nữ luật sư này, cũng như Jodi Picoult và nhiều người Mỹ khác luôn nghĩ mình rất bình đẳng, không bao giờ có tư tưởng kỳ thị chủng tộc, họ dễ dàng chỉ ra và lên án những kẻ phát xít mới, nhưng không thể nhận ra sự phân biệt âm thầm trong chính bản thân mình. Có thể nói, Những điều nhỏ bé vĩ đại là câu chuyện sâu sắc về vấn đề kỳ thị chủng tộc, sự lựa chọn, nỗi lo sợ và niềm hi vọng. Tất cả được thể hiện qua ngòi bút sinh động tuyệt vời của tác giả, với những phân tích thuyết phục về tâm lý nhân vật, cuộc sống người da màu ở Mỹ, cách cả người da màu và da trắng vượt qua rào cản, nỗ lực đứng lên giành lấy công bằng cho xã hội. Tác phẩm cũng gợi mở nhiều vấn đề để độc giả tự rút ra kết luận về cách chúng ta nhìn nhận bản thân và người khác trong thế giới đa dạng này. Jodi Picoult là tác giả có sách bán chạy nhất theo bình chọn của New York Times. Bà đã xuất bản 25 tiểu thuyết, bao gồm Siêu thoát, Luật nhà, Nơi chốn lưu đày, Hai cõi người ta... và luôn được độc giả chào đón nồng nhiệt.  Nói về Những điều nhỏ bé vĩ đại, báo chí trên khắp thế giới đã không tiếc lời khen ngợi. The Washington Post viết: "Những điều nhỏ bé vĩ đại là tiểu thuyết quan trọng nhất mà Jodi Picoult từng viết… Nó sẽ thách thức độc giả… [và] mở rộng cuộc thảo luận văn hóa về chủng tộc và định kiến của chúng ta". Hoặc như San Francisco Book Review đã bình luận: "Một tiểu thuyết đã đặt những ngón tay của nó lên mạch đập của đất nước chúng ta đang sống ngày nay… lôi cuốn từ đầu đến cuối, như ta vẫn kỳ vọng từ Jodi Picoult. Tiểu thuyết này giữ được nhịp điệu khiến ta phải liên tục lật xem tiếp trang sau, không thể nào đặt xuống. Nó mở ra một cuộc thảo luận, khiến mọi người phải ngồi xuống nhìn lại cuộc đời mình, những hành động của họ (hiện tại và quá khứ) và đặt câu hỏi làm thế nào tiến lên phía trước. Đây là một cuốn sách tuyệt vời, không chỉ vì nó đề cập đến một vấn đề xảy ra trên đất Mỹ và toàn thế giới, mà còn cho chúng ta thấy thay đổi là điều có thể". Đọc Những điều nhỏ bé vĩ đại khi phong trào đấu tranh vì Black Lives Matter đang bùng nổ tại Mỹ, ta thấy những dòng tự sự của Jodi Picoult cách đây bốn năm vẫn vô cùng sâu sắc: “Ngọn lửa đang bùng cháy và chúng ta có hai lựa chọn: quay mặt đi hoặc cố gắng chiến đấu với nó. Phải, việc đó rất khó khăn và phải, chúng ta vấp váp - nhưng chúng ta, những người da trắng, cần phải trao đổi với nhau về vấn đề chủng tộc. Bởi vì chỉ khi đó mới có nhiều người hơn nữa nghe thấy chúng ta”. Và khi đó, những điều tử tế nhỏ bé sẽ hợp lại thành một sức mạnh vĩ đại. *** Ruth Phép màu xảy ra tại nhà số 74 phố Tây Thượng Manhattan, chỗ má tôi làm việc. Đó là một tòa nhà đồ sộ ốp đá cát nâu có cổng sắt rèn, hai bên cánh cửa cầu kỳ là miệng máng xối hình đầu thú, bộ mặt đá granite của chúng như được tạc từ những cơn ác mộng của tôi. Chúng làm tôi khiếp hãi, nên tôi không ngại khi chúng tôi luôn phải vào nhà qua lối cửa hồng kém uy nghi, chìa khóa cửa được má buộc ruy băng giữ trong ví. Má đã giúp việc cho Sam Hallowell và gia đình ông từ trước khi chị em tôi có mặt trên đời. Bạn có thể không biết cái tên này, nhưng chỉ cần ông ấy cất giọng chào là bạn nhận ra ngay. Không lẫn vào đâu được, đó là giọng nói mà hồi giữa thập niên 1960, cứ mở đài lên là bạn nghe nó thông báo: Tiếp theo mời các bạn theo dõi một chương trình sống động đây màu sắc do NBC mang lại! Vào năm 1976, khi phép màu xảy ra, ông Hallowell đang là giám đốc sản xuất chương trình của đài này. Cái chuông bên dưới đám đầu thú chính là tiếng nhạc hiệu ba nốt nổi tiếng mà ai nghe cũng liên tưởng ngay tới NBC. Thỉnh thoảng, trong lúc theo má đi làm, tôi lại len lén ra ngoài, bấm chuông và ngâm nga theo giai điệu đó. Hôm ấy, chị em tôi theo má vì trời đổ tuyết. Trường học đóng cửa, mà bọn tôi còn quá nhỏ để ở nhà một mình lúc má đi làm - bà cứ xăm xăm đi, băng qua tuyết, mưa đá và có lẽ cả động đất cùng tận thế. Vừa tròng lên người chúng tôi nào ủng nào áo khoác, bà vừa lẩm bẩm, có phải vượt bão tuyết cũng chẳng xá gì, nhưng lạy Chúa đừng để cô Mina phải tự phết bơ đậu phông lên lát bánh sandwich của cổ. Thực ra, tôi nhớ má chỉ nghỉ việc một lần duy nhất vào 25 năm sau đó, khi bà phải thay toàn bộ khớp háng, viện phí do nhà Hallowell hào phóng trả. Bà ở nhà một tuần, chưa khỏe hẳn đã nằng nặc đi làm lại, cô Mina đành tìm cho bà vài việc không phải động chân. Thế nhưng lúc tôi còn nhỏ, trong những kỳ nghỉ, giữa cơn sốt ngầy ngật hay ngày tuyết phủ như hôm ấy, má sẽ đưa chị em tôi lên chuyến tàu B xuống phố. Hôm ấy nhằm vào tuần lễ ông Hallowell đi California, không có ở nhà - ông thì cứ đi suốt, mà thế thì cô Mina và Christina còn cần má nhiều hơn. Chị Rachel với tôi cũng cần má chứ, nhưng hẳn là chúng tôi tự chăm sóc cho mình tốt hơn cô Mina. Khi mẹ con tôi ra đến phố 72, thế giới đã ngập trong một màu trắng xóa. Một quả cầu tuyết chụp lên cả khu Manhattan. Gương mặt những người đàn ông và phụ nữ run rẩy vượt bão táp đi làm trông chẳng có chút gì giống tôi, anh chị em họ hay hàng xóm của tôi. Tôi chưa từng đặt chân vào ngôi nhà nào ở Manhattan ngoài nhà Hallowell, nên chẳng biết chuyện một gia đình có riêng một cơ ngơi đổ sộ thế này thì khác thường đến mức nào. Nhưng tôi nhớ mình đã thấy thật vô lý khi Rachel và tôi phải nhét áo với ủng vào cái buồng tin hin, chật ních trong bếp, trong khi chỗ Christina và cô Mina treo áo khoác bên cửa chính thì còn bao nhiêu là móc và khoảng trống. Má cũng cất đi áo khoác và khăn choàng may mắn - cái khăn mềm ơi là mềm, lại có mùi má. Ở nhà, chị Rachel với tôi thường tranh nhau khoác nó, cảm giác cứ như được vỗ về một chú chuột lang hay chú thỏ trong tay. Tôi chờ má lướt qua những căn phòng tối om như nàng tiên Tinkerbell, đáp lại trên từng cái công tắc, nắm đấm cửa hay tay vịn, để con quái thú đang say ngủ là ngôi nhà từ từ rùng mình tỉnh giấc. “Hai đứa im lặng nhé,” má bảo chị em tôi, “rồi má sẽ làm cho mấy đứa con chút chocolate nóng của cô chủ Mina.” Cái món ấy là hàng nhập từ Paris, và nó có vị tựa thiên đường. Thế nên trong khi má buộc lên người tạp dề trắng, tôi lấy một tờ giấy từ tủ bếp và hộp bút màu mang theo từ nhà, bắt đầu ngôi im vẽ. Tôi phác một ngôi nhà to ngang tòa nhà Hallowell. Tôi đặt vào đó một gia đình: tôi, má, chị Rachel. Tôi thử vẽ tuyết, nhưng không ra gì hết. Bông tuyết nguệch ngoạc bằng bút trắng chìm nghỉm trên tờ giấy. Cách duy nhất để thấy chúng là nghiêng giấy về phía ánh đèn chùm, có thế tôi mới thấy vệt sáng lờ mờ bút màu đã vạch nên. “Tụi con chơi với Christina được không?” chị Rachel hỏi. Christina mới lên sáu, lọt đúng vào giữa tuổi Rachel với tuổi tôi. Christina có cái phòng ngủ lớn nhất tôi từng thấy và nhiều đồ chơi hơn tất cả những người tôi biết. Nếu chị ấy có ở nhà đúng lúc Rachel với tôi theo mẹ đi làm, bọn tôi sẽ chơi trò cô giáo dạy học cùng lũ gấu bông của chị, uống nước từ những chiếc tách tí hon bằng sứ Trung Hoa thực thụ và đánh bím mái tóc lụa óng vàng cho bầy đoàn búp bê cũng của chị ấy nốt. Nhằm bữa Christina có bạn đến nhà, chị em tôi sẽ ở yên trong bếp mà tô tô vẽ vẽ. Trước khi má kịp trả lời, có ai đó thét váng lên, tiếng thét chói lói và khản đặc như xuyên thấu ngực tôi. Tôi biết nó cũng tác động đến má tôi y hệt, vì bà suýt đánh rơi ấm nước đang mang lại chỗ bồn. “Ở yên đây,” bà dặn, giọng nói rớt lại phía sau khi bà hấp tấp chạy lên lầu. Rachel là người đầu tiên bật ra khỏi ghế; chị ấy không phải kiểu bảo sao nghe vậy. Tôi bị cuốn theo, như một quả bóng bay bị buộc vào tay chị. Bàn tay tôi lướt trên lan can cầu thang uốn lượn, không dám chạm vào. Cửa phòng ngủ của cô Mina mở toang, cô đang quằn quại trên giường, giữa vũng lầy satin khăn trải. Bụng cô căng phồng, tròn như mặt trăng; tia sáng trắng trong mắt cô làm tôi hên tưởng tới lũ ngựa trên vòng đu quay, đông cứng trong khi trốn chạy. “Sớm quá, Lou à,” cô hổn hển. “Cô đi mà nói với đứa bé này này,” má đáp lại. Cô Mina ghì cứng tay má như kẻ chết đuối bíu vào phao. “Đừng rặn nữa,” má bảo cô. “Xe cấp cứu sẽ tới ngay.” Tôi chẳng biết xe cấp cứu có thể tới ngay kiểu gì, khi mà đường đầy tuyết. “Mẹ ơi?” Mãi đến khi nghe tiếng Christina, tôi mới nhận ra tiếng ồn đã đánh thức chị ấy. Chị tới đứng giữa Rachel và tôi. “Ba đứa, về phòng cô Christina đi,” má ra lệnh, giọng đanh thép. ”Đi ngay.” Thế nhưng chúng tôi cứ chôn chân tại chỗ, má cũng mau chóng quên khuấy bọn nhóc chúng tôi. Bà đã lạc vào một thế giới dựng nên từ cơn đau và nỗi sợ của cô Mina, cố gắng trở thành tấm bản đồ cho cô bám víu vào mà lần ra khỏi đó. Tôi trân trối nhìn dây thanh quản nổi lên cổ cô Mina khi cô rên siết; tôi thấy má quỳ xuống trên giường, giữa hai chân cô, và vén váy qua khỏi gối cô. Tôi thấy cánh môi hồng giữa hai chân cô Mina cau lại, sưng lên rồi tách ra. Một cái gò tròn - đỉnh đầu, một cái khớp - bờ vai, máu và dịch trào ra, rồi đột nhiên, một đứa nhỏ nằm gọn lỏn trong lòng bàn tay nâng niu của má. “Coi nhóc kìa,” má nói, tình yêu thương tỏa rạng nét mặt bà. “Sốt ruột muốn chào đời quá hả?” Rồi cùng lúc, hai chuyện xảy ra: chuông đổ, Christina òa lên khóc. “Ôi, con yêu,” cô Mina thốt lên yếu ớt, cô chẳng còn đáng sợ nhưng vẫn đẫm mồ hôi và mặt đỏ bừng. Cô chìa tay ra, nhưng sự việc vừa chứng kiến đã khiến Christina hồn vía lên mây, chị ấy không lại chỗ cô mà dịch sát vào tôi. Chị Rachel, vẫn thực tế như mọi khi, lo đi mở cửa. Chị trở vào với hai nhân viên cấp cứu, họ ào vào tiếp quản, thế là việc má vừa làm cho cô Mina cũng lại như tất cả những việc bà đã làm cho nhà Hallowell: nó trôi tuột đi, vô hình. Nhà Hallowell đặt tên bé là Louis, theo tên của má tôi. Thằng bé vẫn khỏe dù ra đời sớm gần một tháng, nạn nhân của đợt giảm khí áp đến cùng cơn bão, dẫn đến PROM - hiện tượng vỡ ối non. Dĩ nhiên là lúc đó tôi chưa biết tới khái niệm này. Tôi chỉ biết rằng, vào một ngày tuyết trắng trời Manhattan, tôi đã chứng kiến một sinh mệnh chào đời. Tôi đã ở bên đứa bé trước lúc mọi người, mọi vật trên thế gian này có cơ hội làm bé thất vọng. Cùng chứng kiến Louis ra đời nhưng trải nghiệm đó tác động đến mỗi người chúng tôi một cách khác nhau. Christina sinh mổ. chị Rachel vượt cạn đến năm lần. Tôi thì trở thành y tá hộ sinh. Khi tôi kể lại câu chuyện này, người ta cho rằng phép màu trong cơn bão xa xưa kia là sự ra đời của một đứa bé. Đúng, chuyện đó thật phi thường. Thế nhưng hôm đó tôi còn được chứng kiến một kỳ quan vĩ đại hơn. Khi Christina nắm lấy tay tôi và cô Mina ghì tay má, có một khoảnh khắc - một nhịp tim, một hơi thở - khi tất cả những khác biệt về trường lớp, tiền bạc và màu da đều tan biến như ảo ảnh trên sa mạc. Ở đó, tất cả mọi người đều bình đẳng, chỉ là một người phụ nữ giúp đỡ một phụ nữ khác mà thôi. Phép màu đó, tôi đã trải 39 năm ròng chờ ngày tái kiến. Mời các bạn đón đọc Những Điều Nhỏ Bé Vĩ Đại của tác giả Jodi Picoult & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đứa Trẻ Cát
Tahar Ben Jelloun sinh năm 1944, nhà văn người Ma-rốc viết bằng tiếng Pháp. Đứa trẻ cát xuất bản năm 1985, được báo chí Pháp ca ngợi và độc giả đón đọc say mê ngay từ khi vừa phát hành. Đêm thiêng là phần tiếp nối và bổ sung cho đề tài Đứa trẻ cát nổi tiếng đã đưa ông đến với giải Goncourt 1987.   Chuyện xảy ra tại một khu đông dân của một thành phố Ả Rập, ông chủ lò gốm cay cú vì vợ sau bảy lần sinh chỉ toàn là con gái. Cảm thấy xấu hổ, nhục nhã vì không có con trai thừa kế, ông ta đã đi đến một quyết định thách thức với số mệnh rằng dù thế nào đi nữa, đứa con sắp ra đời dứt khoát phải là một thằng con trai. Thật oái oăm, đứa thứ tám chào đời vẫn là con gái. Thế rồi Ahmed - tên đứa trẻ sơ sinh - được trình làng và nuôi dạy như một đứa con trai. Nhưng sau bao năm tháng, cậu bé lớn lên, bối rối khám phá ra ý nghĩa đích thực của cái mà người ta vẫn che giấu cậu: giới tính.   Những di chứng quái gở của tôn giáo, sự ngu muội ở một bộ phận cộng đồng là lí do dẫn dắt ông bố đi đến một quyết định sai lầm kéo theo sau đó bao nhiêu tai họa cho gia đình, cho đứa con mà ông bất chấp mọi quy luật áp đặt nên. Và đó cũng là mục tiêu mà tác giả cũng đã tập trung phê phán trong một số tiểu thuyết khác của ông. Và không chỉ có vậy, François Nourissier, viện sĩ Viện hàn lâm Pháp, trong khi đánh giá về tiểu thuyết của Tahar Ben Jelloun, đã gọi đó là những tiểu thuyết của sự lưu đày, của trạng thái không thể hòa nhập, của sự chia rẽ của hai nền văn hóa!  ***  Tahar Ben Jelloun (Tiếng Ả Rập: الطاهر بن جلون‎) (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1944 tại thành phố Fes, Ma-rốc) là một nhà thơ, nhà văn người Ma-rốc. Mặc dù ngôn ngữ mẹ đẻ của ông là tiếng Ả rập nhưng hiện nay, các tác phẩm của ông đều được viết bằng tiếng Pháp.   Học trung học ở một trường song ngữ (tiếng Ả Rập và tiếng Pháp), sau đó Ben Jelloun học tiếp tiếng Pháp ở thành phố Tangier miền bắc Ma-rốc cho tới năm 18 tuổi. Đỗ vào trường đại học Mohamned-V ở Rabat, ông theo học ngành triết học. Trong những năm học đại học, ông đã viết nên những bài thơ đầu tiên của mình (được tập hợp trong tập thơ Hommes sous linceul de silence (1971)).   Tốt nghiệp, Ben Jelloun trở thành giáo sư dạy triết học ở Tetouan rồi sau đó ở Casablanca, Ma-rốc. Năm 1971, sau sự việc môn triết không được dạy bằng tiếng Ả Rập nữa, ông rời Ma rốc và đến Pháp để tiếp tục sự học môn triết của mình. Ở Pháp, ông bắt đầu viết nhiều hơn.   Đầu năm 1972, Ben Jelloun bắt đầu viết bài cho tờ Le Monde (Thế giới). Năm 1975, ông được công nhận học vị tiến sĩ về tâm thần học. Với những kinh nghiệm về tâm lý liệu pháp (nhờ vào những khảo cứu và lòng say mê), ông viết cuốn La Réclusion solitaire vào năm 1976.   Năm 1985, Ben Jelloun xuất bản cuốn tiểu thuyết L'enfant de sable (Đứa trẻ cát) được ca tụng rộng khắp. Ông được trao giải Goncourt năm 1987 cho tiểu thuyết La Nuit Sacrée (Đêm thiêng).   Năm 1997, cuốn Le Racisme expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) được ông cảm tác dựa trên những thực tế trong gia đình mình được xuất bản.   Ông thường xuyên được mời diễn thuyết hoặc thỉnh giảng tại các trường đại học ở Ma-rốc và trên khắp châu Âu.   Năm 2004, Ben Jelloun giành được giải thưởng văn học quốc tế IMPAC Dublin cho tác phẩm This Blinding Absence of Light (do Linda Coverdale dịch sang tiếng Pháp). Ông cũng giành được giải Prix Ulysse vào năm 2005 cho toàn bộ sự nghiệp của mình.   Tháng 9 năm 2006, Ben Jelloun giành được giải đặc biệt vì “hòa bình và tình hữu nghị giữa người với người” tại Lễ hội văn hóa Lazio between Europe and the Mediterranean Festival được tổ chức tại Rome, Lazio nước Ý.   Ngày 1/2/2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã trao cho ông Huân chương Bắc đẩu Bội tinh.   Ben Jelloun có 4 người con và hiện đang sống tại Paris.   Hai cuốn tiểu thuyết L'Enfant de sable (Đứa trẻ cát) và La Nuit sacrée (Đêm thiêng) đã được dịch ra 43 thứ tiếng. Cuốn Le racism expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) đã được dịch ra 33 thứ tiếng. Bản thân ông cũng tham gia vào việc chuyển ngữ những tác phẩm của chính mình.     Tác phẩm chính:   Harrouda (1973)  Solitaire (Cô đơn) (1976)  The Sand Child (Đứa trẻ cát) (1985)  The Sacred Night (Đêm thiêng) (1987)  Silent Day in Tangiers (Ngày yên lặng ở Tangier) (1990)  With Downcast Eyes (Mắt cúi gằm) (1991)  Corruption (Tham nhũng) (1995)  The Fruits of Hard Work (Thành quả lao động) (1996)  Praise of Friendship (Ca ngợi tình bạn) (1996)  L'Auberge des pauvres (1997)  Racism Explained to My Daughter (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) (1998)  Islam Explained (Về đạo Hồi) (2002)  This Blinding Absence of Light (2003)  La Belle au bois dormant (Người đẹp ngủ trong rừng) (2004)  The last friend (Người bạn cuối cùng) (2006)  Yemma (2007)  Leaving Tangier (Rời bỏ Tangier) (2009)  The Rising of the Ashes (Tàn tro bốc cao) (2009)   *** Ấn tượng đầu tiên là khuôn mặt ấy dài ngoẵng bởi những nếp nhăn chạy dọc, những nếp nhăn giống như những vết sẹo bị cày xới bởi những trận mất ngủ triền miên, một khuôn mặt râu cạo nham nhở, bị thời gian tàn phá. Cuộc sống - cuộc sống nào đây? Một ngoại hình kì dị được sinh ra để rồi bị lãng quên - có bổn phận ngược đãi, ngáng trở, và thậm chí phải làm cho anh ta tức tối. Người ta có thể đọc hoặc có thể đoán ra được trên gương mặt ấy nỗi đau khổ ê chề mà chỉ cần một cử chỉ vụng về của bàn tay, một ánh mắt bênh vực, một con mắt dò xét hoặc ác ý cũng đủ làm cho vết thương ấy lại tấy lên nhức buốt. Anh ta thường tránh phô bày thân hình ra giữa ánh sáng chói chang và giấu hai con mắt vào sau làn tay áo. Ánh sáng của ban ngày, của một ngọn đèn, hoặc của mặt trăng rằm, đều làm cho anh ta đau đớn: tia sáng ấy muốn lột trần thân xác anh ta, len lỏi vào từng làn da thớ thịt và khám phá ra ở đó nỗi tủi hổ xót xa và những giọt nước mắt thầm kín. Anh ta cảm thấy luồng ánh sáng đó lướt qua cơ thể như một ngọn đuốc thiêu cháy tất cả những chiếc mặt nạ của anh, như lưỡi dao lần lần lột bỏ tấm voan bằng thịt ngăn cách anh ta với những người khác. Anh ta sẽ ra sao nếu khoảng không gian bảo vệ, ngăn cách anh ta với những người khác bị xóa bỏ? Lẽ nào anh ta lại bị phơi ra trần truồng, không một phương tiện tự vệ, trong tay những kẻ luôn rượt đuổi anh chỉ vì muốn thỏa mãn thói tò mò, tính đa nghi và thậm chí chỉ vì một mối hận thù dai dẳng; bọn họ không bao giờ bằng lòng với sự im lặng và trí thông minh của một kẻ luôn gây phiền hà cho họ bằng sự hiện diện độc đoán và đầy bí ẩn.   Ánh sáng lột trần cơ thể anh ta. Tiếng ầm ĩ làm cho anh ta bấn loạn. Từ ngày giam mình trong căn phòng nhìn ra sân thượng, anh ta không còn bị cái thế giới ồn ào kia tra tấn nữa, mỗi ngày một lần, anh ấy tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua việc mở cửa cho Malika, bà giúp việc vẫn thường đưa thức ăn, đồ uống, báo chí và một bát hoa cam vào phòng cho anh. Anh ta rất quý mến bà lão vì bà đã trở thành một thành viên của gia đình. Kín đáo và dịu dàng, bà không khi nào lục vấn anh ta bất cứ điều gì, mà cả hai cứ như những kẻ tòng phạm, nhờ vậy họ rất gắn bó với nhau.   Tiếng ồn. Tiếng ồn của những giọng nói the thé hoặc nhạt nhẽo. Tiếng ồn của những tiếng cười thô lỗ, từ những tiếng hát chói tai phát ra từ chiếc radio. Tiếng ồn của những xô nước hắt ra ngoài sân. Tiếng ồn của lũ trẻ đang hành hạ một con mèo mù hay một con chó chỉ còn ba chân bị lạc vào giữa những đường phố hẹp, nơi những con vật và những người điên thường bị vướng bẫy. Tiếng ồn của những lời than vãn, nỉ non của những người ăn mày. Tiếng ồn chói tai của một chiếc loa phóng thanh, năm lần mỗi ngày, rè rè phát lời mời cầu nguyện. Đôi khi tiếng loa không còn là lời gọi mời cầu nguyện nữa mà là một cử chỉ xúi giục làm loạn. Tiếng ồn của mọi giọng nói và những tiếng la ó từ ngoài phố vọng vào và neo lại ở kia, ngay phía trên căn phòng của anh ta, đã đến lúc gió hãy cuốn chúng đi hoặc giảm bớt âm lượng của chúng.   Anh ta đã khuếch trương những dị ứng đó; cơ thể quá nhạy cảm và dễ xúc động của anh ta đón nhận mọi thứ dị ứng dù chỉ là một chấn động rất nhỏ, hấp thụ và giữ cho chúng luôn phát huy tác dụng, vì thế giấc ngủ của anh ta thật khó khăn nếu không muốn nói là không thể. Các giác quan của anh ta không hề bị rối loạn như người ta vẫn nghĩ. Mà ngược lại, chúng trở nên đặc biệt sắc sảo, năng động và không biết mệt mỏi. Chúng thực sự phát triển và chiếm lĩnh toàn bộ vị trí trong cái thân xác mà cuộc sống đã làm đảo lộn và số phận bị đổi hướng.   Khứu giác của anh ta có khả năng phân biệt được tất cả. Lỗ mũi đem đến cho anh ta mọi thứ mùi, ngay cả những thứ mùi không còn ở đó nữa. Anh ta nói rằng anh ta có khứu giác của người mù, thính giác của một xác chết đang ấm nóng và thị giác của một nhà tiên tri. Nhưng cuộc sống của anh ta không phải là cuộc sống của một vị thánh, tuy nhiên, cuộc sống ấy cũng có thể trở nên tốt đẹp như thế nếu như anh ta không có quá nhiều thứ phải làm.   Từ khi lui về ẩn dật trong căn phòng trên cao này, anh ta chẳng tiếp chuyện bất cứ ai. Anh ta cần một thời gian dài, có thể là nhiều tháng để thu nhặt các bộ phận của mình, sắp xếp lại quá khứ theo trình tự thời gian, sửa chữa cái hình ảnh bi thảm mà mọi người xung quanh đã dành cho anh ta trong thời gian gần đây, thu xếp một cái chết mà anh ta đã kí thác vào đó tất cả: cuốn nhật ký riêng tư, những điều bí mật của anh ta - có thể chỉ có cuốn sổ này là điều bí mật duy nhất - và cũng có thể đây là bản phác thảo một câu chuyện mà chỉ mình anh ta nắm giữ chìa khóa mà thôi.   Một màn sương mù dày đặc bao bọc dai dẳng xung quanh anh ta, che chắn cho anh những ánh mắt đầy ngờ vực và những lời thị phi của những người bà con và hàng xóm vẫn to nhỏ với nhau trước ngõ. Bức màn màu trắng này làm cho anh ta bình tâm trở lại, đưa anh ta vào giấc ngủ yên lành và nuôi dưỡng những giấc mơ tuyệt vời của anh.   Chuyện ẩn cư của anh ta không làm cho gia đình phải suy nghĩ nhiều. Họ đã quen với cảnh nhìn anh ta đắm chìm trong sự câm lặng ghê người, hoặc trong những cơn cáu giận bùng phát hết sức phi lí. Có cái gì đó không thể xác định được một cách minh bạch đã xen vào giữa anh ta và những người còn lại trong gia đình. Chắc hẳn là anh ta có những lí do riêng, và chỉ có mình anh ta là có thể nói ra được thôi. Anh ta quả quyết rằng thế giới của anh ta chỉ thuộc về anh ta mà thôi, và rằng cái thế giới ấy ưu việt hơn rất nhiều so với thế giới của bà mẹ và các chị của mình - nói tóm lại là rất khác nhau. Thậm chí anh ta còn nghĩ rằng mẹ và các chị không thể có một thế giới riêng nào hết. Họ bằng lòng sống ở bề ngoài sự vật, không đòi hỏi gì lớn, tuân theo quyền uy, những luật lệ và ý muốn của anh ta. Mặc dù không nói với nhau, nhưng phải chăng bà mẹ và những người chị gái đều cho rằng anh ta đã lựa chọn và chấp nhận lối sống lặng lẽ ấy, bởi lẽ anh ta không còn làm chủ được bản thân, không làm chủ được hành vi và sự biến thái trong con người mình do những cú sốc thần kinh căng thẳng tột độ lúc nào cũng chực làm anh ta mất trí? Ít lâu nay, bước chân của anh ta đã bớt đi dáng vẻ của một người đàn ông độc đoán, một chủ nhân không bị ai tranh ngôi đoạt vị trong gia đình, một người đàn ông thay cha quán xuyến mọi việc trong gia đình.   Lưng anh ta đã bắt đầu còng xuống, đôi vai buông xuôi một cách vô duyên, trở nên nhỏ hẹp và mềm nhũn, chúng k còn ý định làm chỗ dựa êm ái cho mái đầu của người tình hoặc là chỗ đặt bàn tay thân tình của bạn bè. Anh ta cảm thấy một khối nặng vô hình đè lên lưng, đến nỗi mỗi bước đi phải gắng ngẩng mặt lên và giữ cho thật cân bằng để khỏi ngã. Anh ta lết đi từng bước, nặng nhọc di chuyển thân mình, âm thầm chống chọi với những cơn đau dồn dập ập đến.   Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Cát của tác giả Tahar Ben Jelloun.
Hôn Thê Của Biển
Mỗi Tháng Một Nhân Vật Con nít trên hòn đảo nhỏ kéo nhau làm một vòng chung quanh chiếc xe đài truyền hình. Có khi nào thấy xe này dừng ở nhà ai, vậy mà hôm nay chẳng những nó dừng, lại còn lủ khủ máy móc dây nhợ khênh vào nhà một trong những cụ khả kính nhất khu phố đảo. Mỗi lần đi học ngang qua nếu có các cụ ngoài vườn, chúng thường được gọi vào tùy mùa cho trái ổi, trái táo mà chúng gọi là trái ngoại quốc, có khi cả mướp hay bầu bảo đem về cho bố mẹ, mặc dù thật sự có đứa ở tít đầu đảo bên kia, chẳng mấy quen biết và các cụ cũng chẳng cần biết chúng nó con ai. Bỗng chúng chỉ vào một cô la to: - A, bây ơi, cô này thấy trên truyền hình hoài mà, chương trình gì đó bây, đứa nào nhớ không? Cô ơi cô, có phải cô trên truyền hình không? Phải kìa bây. Cô tới đây làm gì vậy cô? Cô gái mang túi xách vải màu đen to tướng đang nhìn đồng nghiệp khệ nệ khiêng máy móc, loay hoay xuống xe, cười tươi với lũ trẻ: - Các em có biết hai cụ ở đây không? Chúng nhao nhao dành nhau trả lời: - Biết chớ cô, ai cũng biết, hai cụ tốt lắm mà. - Vậy thì tuần sau các em sẽ thấy hai cụ trên truyền hình. - A! Các cụ được đóng phim hả cô? Phim gì vậy cô? - Ừ, hai cụ đóng phim. - Chút nữa quay tụi em với nghe cô. - Hả? Ừ. Cả nhóm truyền hình cùng cười với đám trẻ con. Một anh gật gù: - Ý hay đấy, chứng tỏ các cụ được dân đảo yêu quý. Thế các cháu cứ chơi ở đây đừng đi đâu nhé! - Thiệt hả chú? Tụi cháu được đóng phim thiệt hả chú? Phim gì vậy chú, có đá banh không chú? Cả bọn hí hửng thoi nhau thùm thụp bảo vậy là tụi mình sẽ là tài tử xi nê, có té cũng ráng té sao cho đẹp nghe bây. Có đứa già dặn: - Mà chú ơi, quần áo tụi cháu xấu quá, dơ dáy quá chú à, lên phim kỳ chết! - Không sao đừng lo, rồi đứa nào cũng sẽ đẹp như tài tử thứ thiệt cho coi. - Thiệt hả chú? Chúng hè nhau khiêng phụ mấy món lỉnh kỉnh, hỏi han ríu rít món nọ món kia dùng vào việc gì. Buổi sáng trên đảo thường vẫn yên ả bỗng rộn ràng vui. Vào nhà, sau nghi lễ xã giao, thiên hạ lao xao kẻ bắt dây người chỉnh máy. Căn nhà thênh thang bớt nỗi cô đơn chỉ có hai ông bà cụ sống đã mấy chục năm, nhìn xuyên hai thế kỷ. Phóng viên truyền hình từ lục địa ra đảo phỏng vấn, chương trình “Mỗi tháng một nhân vật”, về gia đình gương mẫu, tìm hiểu bí quyết sống lâu khỏe mạnh và nhất là có cuộc đời hạnh phúc mẫu mực. Hai cụ vừa tổ chức lễ kim cương đánh dấu sáu mươi năm đeo nhẫn cho nhau. Hai cụ mỉm cười nhìn anh em lăng xăng. Trông cụ nào cũng minh mẫn, tóc trắng phau chẳng còn sót lại sợi xám nào, da dẻ hồng hào điểm vài nốt đen thời gian. Người ta đề nghị hóa trang chút đỉnh, ban đầu hai cụ nhất định không chịu, phải nói mãi rằng vẫn không mất tự nhiên, chỉ hạn chế vẻ nhợt nhạt do đèn chiếu hơi mạnh thôi. Cụ ông nguầy nguậy: - Đàn bà mới trang điểm, làm cho bà tôi thôi, tôi đàn ông cần gì. - Vẫn cần đấy thưa cụ, nếu không trông sẽ rất xanh xao thì không đúng với sự thật. - Sự thật là thế nào? - Da cụ hồng hào đẹp như ông tiên ấy mà. Cụ ông cười rổn rảng: - Khéo tán nhỉ. Nhưng này, thời buổi bây giờ chín mươi thì đâu có gì là thọ. À ờ, thiên hạ sống hơn trăm tuổi ấy chứ, sao các anh không đến đấy mà phỏng vấn? - Không phải chỉ sống thọ cụ ạ, mà còn hạnh phúc và mẫu mực nữa. - A, thế là chúng tôi mẫu mực nhỉ! Cụ ông vừa nói vừa cười vang vang sảng khoái. Lát sau cụ bà nhìn trong gương khuôn mặt đã phấn son, cười hỏi cô trang điểm: - Trông tôi có còn bắt mắt không? - Rất bắt mắt cụ ạ. Nhóm làm phim quay mấy cảnh ngoài vườn cây trái, nhóm con nít ngoan ngoãn ngồi trên hiên nhà. Thấy máy quay hướng về mình, chúng nó tụm vào cười toe toét choàng vai nhau... - Chú ơi, có cần giả bộ đá banh hay đá kiện gì không? - Không cần, cứ ngồi đó cười đi. Mọi người cười vui vẻ. Vào nhà, nhân viên giải thích cách hoạt động của hai ống kính, khuyên hai cụ cứ tự nhiên như cuộc nói chuyện bình thường. - Không được nhìn vào nó à? - Vâng, cứ như không có nó. - À ờ, khó nhỉ. Thế mà nó nhìn chúng tôi lom lom à? - Vâng. Cụ ông nhìn máy móc dây nhợ: - Lỉnh ca lỉnh kỉnh nhỉ. Chỉ mấy phút mà cũng phải đăng đê vậy à? - Vâng, phải đủ đồ nghề chứ ạ. Phát hình mười phút cụ ạ. - À ờ, thế thì cũng xong nhanh thôi nhỉ. - Vâng, nhưng thâu hình sẽ lâu hơn nhiều, rồi chỉnh sửa cắt bớt, ráp lại cụ ạ. - Này bà, mình đóng phim đấy nhé, cười cười cho duyên dáng lên, như hồi xưa mỗi lần bà gặp tôi ấy. Mọi người cười. Chờ hai cụ sửa dáng ngồi thoải mái tự nhiên, một người xoè bàn tay, rồi bốn, rồi ba, rồi hai, rồi một ngón tay, tiếng máy xè xè và cuộc phỏng vấn bắt đầu: - Thưa hai cụ, xin hai cụ cho biết bí quyết sống thế nào mà hai cụ thọ và mạnh khỏe ạ? Hai cụ nhìn nhau, cụ ông ra dấu cho cụ bà trả lời. Cụ bà mỉm cười: - Như các anh chị thấy đó, vườn chúng tôi trồng cây ăn trái. Quý nhất chắc là các cây táo Nhật. Hồi đó ở đây chưa có táo. Chắc nhờ chúng tôi ăn táo mỗi ngày. Các anh chị biết rồi, ăn táo tốt lắm. Đám trẻ thập thò ở cửa la lên: - Hai cụ thường cho tụi cháu táo ngoại quốc... Mà trái gì trong vườn cũng ngon lắm. Anh phóng viên cười cười ra dấu bảo chúng im. - Ngày mấy trái hở cụ? Mời các bạn đón đọc Hôn Thê Của Biển của tác giả Miêng.
Mùa Mưa Ở Singapore
Mùa mưa ở Singapore xoay quanh mối tình của cô họa sĩ đường phố mang hai dòng máu Việt - Singapore gốc Trung tên Minh Tuyên và một du học sinh người Việt tên Kỳ Phong. Qua ngôi kể của hai nhân vật, cuộc sống hằng ngày của những người dân nhập cư trong khu Chinatown, khu Tiểu Ấn… hiện lên khá phong phú và rõ nét. Minh Tuyên với nguồn gốc xuất thân khá phức tạp: Mẹ cô là người Việt vượt biên, bị lừa bán vào một nhà chứa và gặp cha cô tại đây. Minh Tuyên đã từng yêu rất chân thành, nhưng vì hoàn cảnh, số phận và những câu chuyện kể rất đỗi thực, mà Di - người yêu đầu của cô cảm thấy quá khó để tiếp nhận và cứ thể quay bước ra đi. Ngược lại với Di, Kỳ Phong - anh chàng Việt Nam, dù chưa ở bên Minh Tuyên bao lâu, nhưng lại có ước muốn mãnh liệt được chở che cho Minh Tuyên và muốn lấy cô làm vợ. Nhưng tình yêu của họ gặp phải sự ngáng trở từ An Nhiên - một cô bạn “thanh mai trúc mã” với Kỳ Phong từ thuở nhỏ, người cứ đinh ninh sau này sẽ chỉ mình trở thành vợ của anh. Cộng thêm sự hậu thuẫn từ gia đình Kỳ Phong, An Nhiên đã “ngầm lôi kéo” được Kỳ Phong trở về Việt Nam. Buổi chia tay Kỳ Phong không hẹn ngày gặp lại, anh cũng không biết rằng có một mầm sống đã tượng hình trong cơ thể Minh Tuyên sau lần ân ái ban đầu. *** Nội dung của truyện xoay quanh mối tình của cô họa sĩ đường phố mang trong mình hai dòng máu Việt - Sing gốc Trung tên là Minh Tuyên và một du học sinh người Việt tên Kỳ Phong. Qua ngôi kể của Minh Tuyên và Kỳ Phong, cuộc sống hằng ngày của những người dân nhập cư trong khu Chinatown, khu Tiểu Ấn… hiện lên khá phong phú và được khắc họa rõ nét. Minh Tuyên với nguồn gốc xuất thân khá phức tạp: Mẹ cô là người Việt vượt biên, bị lừa bán vào một nhà chứa và gặp cha cô tại đây, ông đem lòng yêu bà và quyết tâm mang bà ra khỏi chốn này. Cuộc sống bao nhiêu năm không được như ý muốn khiến một lần nữa, mẹ Minh Tuyên lại sa vào chốn cũ. Bà cùng người tình lên kế hoạch vượt biển về Việt Nam nhưng bị bại lộ. Mẹ Minh Tuyên đã tự kết liếu đời mình bằng cách cắt tóc mình, bện lại, quấn vải xung quanh để thắt cổ. Nỗi khổ đau lớn nhất trong cuộc đời Minh Tuyên là cha cô bắt cô vẽ lại gương mặt của mẹ mình khi đó làm di ảnh thờ. Cũng khởi nguồn từ bi kịch này, Di - người đàn ông của Minh Tuyên đã rời bỏ cô trong sự im lặng sau khi tìm hiểu được mọi chuyện. Ngược lại với Di, sau khi có được tình yêu từ Minh Tuyên và được cô kể cho nghe mọi chuyện, Kỳ Phong có ước muốn mãnh liệt là được ở bên cạnh, chở che cho Minh Tuyên và muốn lấy cô làm vợ. Nhưng tình yêu của họ gặp phải sự ngáng trở từ An Nhiên - một cô bạn “thanh mai trúc mã” với Kỳ Phong từ thuở nhỏ, người cứ đinh ninh sau này sẽ chỉ mình trở thành vợ của anh. Cộng thêm sự hậu thuẫn từ gia đình Kỳ Phong, An Nhiên đã “ngầm lôi kéo” được Kỳ Phong trở về Việt Nam. Buổi chia tay Kỳ Phong không hẹn ngày gặp lại, anh cũng không biết rằng có một mầm sống đã tượng hình trong cơ thể Minh Tuyên sau lần ân ái ban đầu. Một tai nạn không may đến với Minh Tuyên, cô mất đi đứa bé khi cái thai mới được vừa ba tháng. Trong sự bơ vơ, cô đơn đến tận cùng, cô chấp nhận đi Bắc Kinh cùng Caleb - một người mà cô không yêu, chỉ tồn tại một tình bạn. Ngày Kỳ Phong trở lại Singapore, góc phố Pagoda không còn Tuyên nữa, chỉ còn những câu nói như nhắn nhủ: “Hãy tâm niệm rằng hạnh phúc chính là được tìm về lại nơi yêu dấu cũ, để nhớ về người xưa cũ của những ngày tháng đã qua. Hạnh phúc ấy chỉ có được, khi ta nhận ra rằng mình chẳng thể nào ngừng lại những hồi tưởng ấy.” *** Hãy Đọc Quyển Sách Này, Như Thấm Một Cơn Mưa! Những trang đầu của quyển sách này đã đánh lừa tôi, và chắc sẽ đánh lừa cả bạn. Bạn sẽ tưởng như đang đọc một câu chuyện quá nhẹ, quá lỏng lẻo, nhân vật mờ mờ, lẫn vào nhau đến nỗi dù chúng không nhiều lắm, nhưng ta thấy khó phân biệt. Thậm chí khó xác định ngay giới tính của nhân vật. Sau ít trang, có vẻ mọi thứ hơi khác. Tôi đã nghĩ có thể đây là câu chuyện về nỗi buồn của những người du học. Ở lứa tuổi đầy rung cảm đầu đời, họ bị rơi vào một môi trường không có sự ấm áp quen thuộc của quê hương, nơi họ lớn lên. Cho dẫu nơi họ đi học là một nơi rất đẹp đẽ, yên bình hay một nơi đầy ắp những âm thanh ào ạt của một nhịp sống đầy cuốn hút, lộn xộn và lạ lẫm của nền văn hóa khác… thì cái mà người trẻ đi học xa quê không tránh được - là nỗi cô đơn. Tôi nghĩ giờ đây, nỗi cô đơn ấy còn sâu sắc hơn. Nếu người du học trước kia có một nỗi cô đơn giản dị của kẻ xa nhà, thì giờ đây, những người trẻ đi học ở nước ngoài mang theo nỗi cô đơn ngay từ quê hương, nơi cuộc sống có quá nhiều nguyên do khiến tâm hồn trẻ hoang mang và lạc hướng (có lẽ, đó là khó khăn, cũng là ân sủng của cuộc đời cho họ - thế hệ trước như tôi không có ân sủng ấy). Họ khám phá ra rằng phía sau những khác biệt rất lớn, tưởng chừng như thể giữa hai thế giới khác nhau, của quê nhà và xứ người, là sự giống nhau đến lạ lùng của nỗi niềm, thân phận. Lời thốt lên “Singapore này thật quá nhỏ bé” như thể chứa một hàm ý sâu xa về sự giống nhau trong nỗi u uất, niềm cô đơn, sự thèm khát cảm thông, kiếm tìm và chờ mong tình yêu cứu rỗi - những trạng thái của tâm can ta có thể gặp ở bất kỳ đâu trên Trái đất này. Phải chăng sự giống nhau trong hiện đại hóa của nếp sống đem lại sự giống nhau trong tâm trạng mất phương hướng, cô đơn, chật hẹp? Nhưng rồi những chục trang viết tiếp theo cho ta thấy có vẻ đó cũng chẳng phải là chủ đề của tác phẩm không dài, cũng không ngắn bạn đang cầm trên tay. Các tình tiết, vẫn đơn giản, như quyện đặc lại dần, và bạn đã có cảm giác rằng đây không phải câu chuyện về những nỗi buồn vô cớ, mà là câu chuyện về những số phận khắc nghiệt, những cảnh đời không giản đơn. Mọi thứ ngột ngạt dần lên, gay gắt dần lên. Phải chăng đây là câu chuyện về những vết thương, về những người trẻ tuổi phải bước vào đời và phải sống với những vết thương khó lành trong tâm hồn? Phải có lý do để họ, vào tuổi yêu, trong một môi trường không bị đói nghèo thiếu thốn đe dọa, lại có cảm giác về sự nhỏ bé (có thật theo kích cỡ địa lý, không thật theo chiều kích nhân gian) của đất nước này: “Singapore bé nhỏ nhưng sao chẳng thể nào đi hết những mệt mỏi ở nơi này”… Hay đây là câu chuyện về một thế hệ, theo ngôn ngữ triết học hiện sinh, đang “bị ném vào” thế giới hiện hữu - cái thế giới là di sản của những năm tháng trước đó, cái thế giới vẫn bị sức ép và sự độc đoán của những năm tháng trước chi phối? Mỗi thế hệ tích lũy năng lực sống của mình theo một kiểu khác nhau - Không theo ý muốn của thế hệ đó, mà do bối cảnh quy định. Trong một thời buổi nhiều ngả rẽ này, không phải là lỗi của họ, nếu những người trẻ tuổi giờ đây không thể tích lũy năng lực sống theo cách giản dị, hào sảng, hồn nhiên, mà phải theo cách vật lộn với sự ngột ngạt, chật vật tìm tia sáng trong veo (liệu có còn?) của sự giao cảm giữa những trái tim. So với các thế hệ trước, họ sống trong một thế giới đỡ thiếu thốn hơn về vật chất và tự do cá nhân. Nhưng họ cũng chạm vào các dằn vặt, bế tắc, trống vắng… sớm hơn. Đó là lý do khiến có nhiều cơ sở để tin rằng, năng lực sống của họ sẽ bền vững hơn người ta có thể nghĩ. Cho đến cuối cuốn sách, bạn đọc, cũng như tôi, sẽ nhận ra rằng các phỏng đoán về chủ đề của tác phẩm này hóa ra đều không đúng, hoặc chỉ đúng một phần. Đọc hết trang cuối, bạn mới biết rằng đây không phải một câu chuyện chỉ bao hàm những điều mà bạn đoán. Đây đơn giản là một bài thơ. Một bài thơ rất buồn. Người ta không tìm nghĩa trong thơ. Người ta chỉ lặng yên để thơ thấm vào mình. Chính xác là cuốn truyện này thấm vào ta theo cách ấy. Lúc đầu nó khó đọc, không phải vì có trúc trắc gì trong chất liệu, mà chính bởi sự nhẹ bẫng của chất liệu. Nhưng đúng như tên gọi, nó là một cơn mưa. Không vội vã, không phải lúc nào cũng ào ạt, cơn mưa từ trang này sang trang khác cứ làm nặng dần, nặng dần không gian của câu chuyện, như nước mưa dần ngập bờ bãi. Tôi thú nhận là đã đọc phần đầu cuốn sách này trong một trạng thái khá hờ hững, vì đã tưởng đây chỉ là một thứ nhật ký biến hình của tuổi mới lớn. Nhưng khi hết cơn mưa, cũng là hết trang cuối, tôi ngạc nhiên khi nhận ra mình đã bị lừa một cách ngoạn mục. Tác giả đã viết như thể một người lơ đãng dúi xuống đất một cái cây con, rồi lơ đãng vun vén cho nó, đến lúc cái cây tự lớn lên, thành một thực thể khác hẳn, mà ta không kịp nhìn ra nó được chăm sóc thế nào. Dường như các trang viết tự trải ra, đúng thật như một cơn mưa, hạt mưa rơi trước kéo hạt mưa sau. Và mưa dứt cũng tự nhiên như khi nó bắt đầu. Chúng ta bất chợt thấy mình ướt đẫm bởi những giọt da diết, thương cảm, xót xa, ấm áp… mà những nhân vật của truyện đã trải qua. Còn có thể nói gì khác - chỉ có thể là một bút pháp quá chuyên nghiệp! 7/2011 Nhà báo Trần Đăng Tuấn Nguyên Phó tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam. *** Người ta bắt đầu treo đèn lên rồi. Cả khu Chinatown ửng hồng lên như một thiếu nữ Trung Hoa vừa vận xiêm y, tô son điểm phấn lại, uyển chuyển khoe khuôn mặt tươi như hoa, lấp lánh dưới những ánh đèn vàng. Nếu Chinatown là một thiếu nữ bằng xương bằng thịt, tôi đoán sẽ chẳng mấy chàng trai dám chạm đến bởi sự lung linh và huyền bí của nó. Nhưng đã thực sự chạm đến rồi, tôi e là người ta sẽ ngại ngần hơn rất nhiều. Tôi bày đồ nghề ra, ngồi chơ vơ trên chiếc ghế, thấp bé như một viên gạch xây nhà. Góc tôi ngồi, bên cạnh hàng bác Cheng, bác bán những bức tranh cổ về một Singapore từ những ngày xa xưa, từ cái thời đất nước này chỉ mới là một làng chài của người Mã Lai vào thế kỉ XIX. Bác Cheng, người đàn ông xấp xỉ năm mươi tuổi, ấy vậy mà râu tóc bạc trắng, bộ râu dài đến ngang cổ, bác tự hào về nó lắm. Bác Cheng là người có tâm hồn nghệ sĩ và lãng mạn nhất mà tôi từng được biết từ trước đến giờ. Những người như thế, chẳng bao giờ giàu được, bác Cheng rất nghèo. Nhưng những người như thế lại thấy hài lòng và sung sướng trong hoàn cảnh của chính họ. Tôi cũng là một họa sĩ nghiệp dư, ở đây hay gọi là “họa sĩ đường phố”. Tôi cũng nghèo, cái nghèo bắt nguồn từ gia phả, từ đời ông bà truyền sang cha mẹ, đến đời tôi, lại thêm đam mê cái nghiệp này, học hành chẳng được cao, bản thân cũng lãng mạn, mong manh, dồn ứ lại bên trong là cả một sự bất lực và bế tắc, nhưng lúc nào cũng tỏ ra quá ư cao ngạo. Thực tế, tôi chẳng có gì, ngoài những bức tranh. Thực tế, tôi biết mình chẳng khá lên được. Khu Chinatown bắt đầu nhộn nhịp, những gương mặt hòa lẫn vào nhau. Tôi ngồi chống cằm, đưa đẩy những bức tranh chân dung mẫu cho người đi lại dễ thấy. Tôi vẽ chân dung, tôi vẽ những gương mặt. Bức chân dung đầu tiên tôi vẽ là mẹ, khi ấy tôi mới lên sáu tuổi. Lúc ấy mẹ đã hôn lên trán tôi, và bảo rằng nhất định tôi sẽ trở thành một nữ họa sĩ nổi tiếng. Sau đấy, mẹ đã âm thầm tìm hiểu để mang về cho tôi những cuốn sách về hội họa đắt tiền, mẹ như thấy trước tài năng của tôi và động viên tôi cố gắng từng chút một. Và bức chân dung đó, mẹ luôn giữ bên mình, giờ tôi chẳng biết nó đang ở đâu nữa... Cứ nhớ đến thế, từng đoạn phim ký ức cứ tua lại chầm chậm, mí mắt tôi bắt đầu nặng dần. Tôi cúi mặt cho từng dòng ký ức trôi qua. Tôi làm việc này ngày qua ngày một cách đều đặn. Đêm đến, tôi thở dài trong sự chán nản trước khi nhắm nghiền đôi mắt. Một cô gái đứng trước mặt tôi, nghiêng nghiêng đầu, mái tóc ngắn được vén gọn gàng hai bên tai, đôi mắt to và sáng. Cô ấy cười với tôi, nụ cười như một bông hoa sen đang nở: - Bạn vẽ mất bao lâu? - Mười lăm phút. - Tôi trả lời. Cô ấy gật đầu, tôi chỉ vào chiếc ghế nhựa nhỏ, có lưng dựa. Cô gái ngồi xuống đấy, khẽ vén váy sang một bên. Tôi ngắm nhìn cô ấy một phút, chỉ hướng cho cô gái nhìn và bắt đầu những phân đoạn nhỏ cho tổng thể gương mặt. Một vài người qua lại tò mò và thích thú đứng lại xem, những lúc như vậy, tôi sẽ bắt đầu đông khách hơn. Họ lại giơ tay chỉ trỏ, bảo tôi vẽ thật tài tình. Tôi khẽ cười, vung những nét bút, ánh mắt nhìn lên, rồi lại nhìn xuống bản vẽ… Những gương mặt cứ đến, đi vào trong đôi mắt tôi mười lăm phút, rồi lại trôi đi, dễ dàng như ăn bữa cơm hằng ngày vậy. Cô gái cầm bức tranh, cười rất mãn nguyện: - Bạn vẽ đẹp quá! - Nghề của tôi mà. - Bao nhiều vậy? - Hai mươi lăm đô2. 2Đồng đô la Singapore. Cô gái cầm tranh, quay người đi, một người khác lại ngồi vào chiếc ghế đó. Tôi lại vung vẩy cây bút vẽ, không suy nghĩ gì mấy. Bác Cheng đứng ở gian hàng bên cạnh, nhìn sang cười hóm hỉnh. Rất nhiều lần như vậy, bác Cheng và tôi thường trao đổi với nhau về những kỹ thuật vẽ chân dung. Bác Cheng là người mê tranh cổ và am hiểu hội họa sâu sắc, mặc dù bác không phải là một họa sĩ. Cả khu phố dài nhộn nhịp, tiếng người qua lại, người mua kẻ bán, những đèn lồng đỏ hồng treo cao, tôi ngồi chống cằm nhìn, vẫn luôn thấy mình thật biệt lập. Những người khách đến không làm tôi thấy vui hơn, từ bao năm nay vốn đã như vậy, dường như tôi cũng chẳng có thói quen đếm tiền thường xuyên, tôi nhét tiền vào một hộp sắt nhỏ, hằng ngày lấy ra từ đấy, và vẫn thấy mình sống đủ qua ngày. Cuộc sống như một đoàn tàu, chạy chậm, đều mãi, không dừng lại bao giờ. Tôi hoàn thành bức vẽ cuối cùng vào lúc mười giờ, cất dọn đồ nghề xong, lững thững bước về, gió bắt đầu thổi nhè nhẹ, tôi cảm nhận rõ sự chuyển động của những sợi tóc mai nhỏ trên đầu mình. Các ông lão, bà lão của tôi bắt đầu dọn dẹp hết những bàn ăn còn sót lại. Tôi cười chào họ trong bóng đêm của một ngày tàn. Bàn chân bước chậm dần, phía sau lưng tôi, đèn lồng đã tắt. Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa Ở Singapore của tác giả Linh Lê.
Chạm Tay Vào Hạnh Phúc
Chạm Tay Vào Hạnh Phúc viết về một câu chuyện cổ tích thời hiện đại, để ta thấy rằng ở đâu đó, theo một cách nào đó, hạnh phúc vẫn luôn hiện hữu, chờ ta với tay chạm vào nó. Bị vợ bỏ ở tuổi năm mươi, Paul phải làm quen trở lại với cuộc sống độc thân, mà việc đầu tiên là tự đi siêu thị. Và ở đó, ông đã gặp Julie, để rồi cả cuộc đời ông và cuộc đời cô đều rẽ sang một hướng khác... *** Tết đến thì mình làm gì? Tranh thủ vài khoảnh khắc được xả hơi sau khi thực hiện chiến dịch dọn dẹp nhà cửa bở hơi tai. Đầu năm 2020, mình đã hoàn thành quyển tiểu thuyết tình cảm của nữ nhà văn Pháp – Agnes Ledig với tựa đề “Chạm tay vào hạnh phúc”. Đây là quyển sách mình mua được trong gian hàng xả kho của Nhã Nam mới đây với giá khá hời (56.000 – đã giảm 50% so với giá bìa). Mặc dù vậy, đây là quyển sách đã thu hút mình đọc liên tù tì 3 ngày. Vì sao ư? Vì đây là quyển sách có thể chạm đến trái tim của người đọc theo cái cách riêng của Ledig. Đúng như lời bình của Le Figaro, “Chạm tay vào hạnh phúc” không bị cái cảm giác giả tạo của những cuốn sách an ủi bằng cách tô hồng mọi thứ trước những ý nghĩa u ám của độc giả. Mà giống như một trải nghiệm sống thực sự …, khi bất hạnh không làm ta gục ngã. Quyển sách xoay quanh câu chuyện về một cô thu ngân tại siêu thị chỉ mới vừa chạm ngưỡng 20 đã phải mưu sinh vì đứa con thơ. Cuộc sống của cô mang một màu tăm tối khi từng ngày phải chiến đấu với những cái nhìn đầy miệt thị của khách hàng, sự vô cảm và tàn nhẫn của tên giám đốc luôn lấy cô ra để mua vui mỗi khi con thú trong hắn trỗi dậy. Và rồi, một ngày kia, cuộc sống cô chuyển sang bước ngoặt mới khi gặp gỡ vị cứu tinh cũng mang trong mình những vết sẹo của cuộc đời. Những con người mới với những mặt tối trong con người họ bước vào cuộc sống cô một cách bất ngờ và dần dần thay đổi con người cô, và cả chính họ. Thế nhưng, có lẽ thượng đế luôn thích trêu ngươi chúng ta, thích thử thách xem con người mạnh mẽ đến nhường nào khi bất hạnh ập xuống họ. Tất nhiên, con người luôn là những sinh vật mạnh mẽ, họ vượt qua được tất thảy dù rằng mang trên mình những vết sẹo mà năm tháng khó phai mờ được. Đến cùng, những người trong câu chuyện này đều tìm được hạnh phúc cho riêng mình và rằng họ xứng đáng được chạm tay vào hạnh phúc. Hãy thử một hương vị mới mà Ledig mang tới để làm ướt át một chút cuộc sống của bạn. Để qua đó, có thêm niềm tin về hạnh phúc trong cuộc sống này. Vũ Hàn Review *** Việc bạn yêu thương và bị cuốn hút bởi cuốn sách này cũng giống như đột nhiên muốn nghe và thấy ứa nước mắt trước những bài hát cũ của Richard Marx. Có những lúc tự nhiên như vậy, sự thành thật đến từ câu chữ, ý tứ, từ cảm xúc hơn là cốt truyện… khiến bạn lay động, giúp bạn nới lỏng bản thân và thành thật với chính mình, rằng u sầu là điều không tránh khỏi, rằng ai cũng từng có cái hố của riêng mình và phải gắng gượng ngoi lên bề mặt, rằng cứ đi, cứ tin, cứ yêu và thả lỏng đôi chút hoặc nhiều chút để được hàn gắn và hồi sinh, bởi "có những lúc cần nới lỏng dây cương để nỗi buồn phi nước đại", Agnes Ledig viết. Đọc Chạm tay vào hạnh phúc của Agnes Ledig, bạn phải thực sự kiên nhẫn. Bởi phần đầu của câu chuyện dễ khiến người đọc lầm tưởng với những cuốn truyện cổ tích kẹo ngọt. Julie, người mẹ đơn thân nghèo đang phải vật lộn với công việc thu ngân, được một ông khách già giàu có để mắt tới, mời cô và con trai ba tuổi cùng tham gia một kỳ nghỉ hè. Và cuộc đời cô thay đổi mãi mãi sau cái gật đầu đồng ý đó. Một đặc điểm của nỗi u sầu là dễ khiến bạn hay nghi ngờ. Người đọc mở đầu câu chuyện với nỗi u sầu của Julie và cảm thấy nghi ngờ với những gì mình đang đọc. Cũng giống như Julie nghi ngờ mục đích của ông già Paul giàu có quyết định chóng vánh đưa cô đến với kỳ nghỉ ba tuần ở biển. Ông già cần gì ở cô gái trẻ sau khi vợ bỏ đi? Và thưa Agnes, chị định thiết đãi độc giả chuyện gì khi lọ lem gặp hoàng tử quá sớm? Nhưng rồi câu chuyện dần dần được mở ra theo hướng không ngờ khi các nhân vật xuất hiện với quá khứ khổ đau và thực tại ngổn ngang, họ là Jerome đang chìm sâu trong nỗi đau mất vợ, là Caroline vụng về và thiếu tự tin, là Romain đơn độc, là Manon vui tươi nhưng vô hướng, là chính Paul luôn dằn vặt về cuộc hôn nhân 30 năm lạnh lẽo… Đám đông mà Agnes tạo nên là một tập hợp của những con người bị tổn thương, thu mình lại trong vạn vạn lớp vỏ hoặc quẩn quanh trong cái hố của chính mình mà chưa ý thức, hoặc ý thức nhưng bất lực về cách vượt thoát. Cho đến khi họ gặp nhau, được kết nối bằng niềm âu yếm, tình yêu và cả những nỗi đau mới toác miệng. Giống như cách nói của Julie, họ là những mảnh lego rời rạc, cố gắng cố kết và bám trụ, người yếu nhất dựa vào người mạnh nhất, và người mỏng manh nhất đôi khi lại là liều thuốc liền sẹo cho người ngỡ là rắn rỏi nhất. Sự mộc mạc của người phụ nữ nghiệp dư tập viết văn từ năm 2005, bằng thiên khiếu, tính nữ và cả những nỗi đau thực sự từ cuộc sống riêng đã giúp Agnes Ledig gọi tên được một điều vô hình trong cuốn sách của mình: Niềm âu yếm. Đó không hẳn là tình yêu, càng không phải là tình dục, niềm âu yếm là ngọn lửa nhỏ sưởi ấm và đánh thức khao khát được kết nối trong mỗi con người. Niềm âu yếm khiến các nhân vật, và cả người đọc nhận ra rằng vẫn có những điều dịu dàng đợi chờ mình ngoài kia, dù bên trong lớp vỏ này chất đầy những cay đắng. Đó là cái nắm tay và nụ cười bất ngờ Lulu dành cho Jerome, là cử chỉ Romain không nỡ gập lá thư dày nặng tình yêu thương của Julie bỏ vào túi mà khe khẽ để lên bàn, và đặc biệt là đêm đầy sao khi Jerome ôm Julie say ngủ giữa dập dềnh sóng biển. Bạn cần dụi đầu thật sâu vào lồng ngực ai đó, bạn cần một bàn tay ấm nóng chạm nhẹ và sưởi ấm làn da, hay khóc thành thật và không kìm nén để thoát khỏi khổ đau và bắt đầu chạm vào hạnh phúc… Đó là niềm âu yếm riêng mà Agnes Ledig gửi đến cho những người đọc kiên nhẫn của mình. Một cuốn sách tuyệt vời cho những kỳ nghỉ dài trước mắt. *** Julie ấy mà, cô đã quen với việc này lắm rồi. Cô đã có thể phản đối, mạo hiểm, mất việc làm, nhưng giữ được phẩm giá cho bản thân. Phẩm giá nào nhỉ? Cái thẻo đàn bà này đã đánh mất phẩm giá từ đời nảo đời nào rồi. Khi động chạm tới vấn đề sống còn, ta đành xếp xó những lý tưởng vĩ đại vẽ ra từ hồi còn là một cô bé. Và ta chịu đựng, câm lặng, để mặc người khác muốn nói gì thì nói, ta cam chịu. Vả lại, cô cần công việc này. Thực sự cần. Gã Chasson chó đẻ này biết thế. Gã giám đốc cục cằn có thể đuổi việc một nhân viên thu ngân chỉ vì tính nhầm mười euro. Đằng này những năm mươi euro! Tuy nhiên, Julie biết ai đã ăn cắp năm mươi euro đó, khi cô vừa quay lưng đi. Nhưng ai mà ưa những kẻ tố cáo đồng nghiệp. Chẳng ai ưa. Chuyện này sẽ khiến ta phải gánh lấy tiếng xấu cũng dai dẳng chẳng khác nào một con chấy bám trên tóc. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. “Cô Lemaire ạ, tôi có thể đuổi việc cô ngay lập tức. Tuy nhiên, tôi biết hoàn cảnh của cô, tôi biết cô không thể hoàn trả số tiền được. Coi chừng đấy, tôi có thể yêu cầu cô tìm một giải pháp để sửa chữa những sai lầm cô mắc phải trong công việc thu ngân. Cô hiểu ý tôi muốn nói gì không? Nếu không, hãy hỏi vài đồng nghiệp nữ của cô, họ biết phải làm thế nào rồi đấy”, hắn văng những lời này vào mặt cô, mắt hắn nhìn cô chòng chọc không chút ngại ngùng, môi nở nụ cười nham hiểm. Đồ đểu! Tuy nhiên, hắn trông rất ra dáng. Chàng rể lý tưởng. Cao lớn, năng động, tươi cười, cằm vuông và tóc ngả hoa râm hai bên thái dương. Bàn tay lúc nào cũng đặt lên lưng người khác để trấn an, khích lệ. Luôn có một câu tử tế khi ghé qua chào nhân viên mỗi sáng thứ Hai. Một cô vợ thanh lịch và những đứa con lễ phép. Mẫu đàn ông xuất thân tầm thường đã đổ mồ hôi sôi nước mắt để leo dần lên, buộc người ta phải tôn trọng và ngưỡng mộ. Đấy là mặt lấp lánh của tấm huy chương. Thế rồi, khi lật nó lại, ta sẽ thấy có chó sói, thú săn mồi, gã đàn ông muốn phụ nữ quỳ mọp dưới chân để chứng tỏ mình là kẻ mạnh nhất. Vài phút sau, Julie rảo bước dọc hành lang dài nối liền phòng giám đốc với khu vực bán hàng. Giờ nghỉ của cô đã hết. Cô những muốn dành quãng thời gian đó cho việc khác chứ không phải dạng triệu tập này. Cô lấy ve ống tay áo quệt mạnh giọt nước mắt vương trên má. Một dấu hiệu yếu mềm đáng thương hại mà cô phải gạt đi tức khắc. Bởi vì Julie ấy mà, cô đã quen với việc này lắm rồi. Cô thuộc những người mà số phận chẳng mấy khi nương tay. Có những người như thế đấy… Paul Moissac dừng lại trước quầy pizza đông lạnh, hoài nghi. Ông chẳng gặp vấn đề gì khi chọn lốc bia đang cầm trên tay, nhưng còn vụ này! Có lẽ đây chính là lần đầu tiên ông đặt chân tới siêu thị. Hoặc ít nhất cũng là lần đầu tiên đi một mình. Vợ ông đã bỏ ông cách đây một tháng. Trước khi đi, trong mối hăm hở rộng lượng sau chót có lẽ sẽ để lại trong bà cảm giác thú vị vì đã hoàn thành nghĩa vụ, bà đã chất đầy đồ ăn vào tủ lạnh. Người phụ nữ hoàn hảo không chút tì vết, cho đến tận những chi tiết nhỏ nhặt nhất, sẽ không ai trách cứ bà về vụ ra đi đột ngột và chẳng hẹn ngày về này. Nhưng hôm nay, Paul không còn cách nào khác. Sụt mỗi tuần một ki lô có thể có lợi trong thời gian đầu nhưng lại có vẻ nghiêm trọng nếu vượt quá một ngưỡng nào đó. Chỉ nghĩ đến việc một mình ngồi vào bàn ăn trong nhà hàng cũng đã khiến ông nản chí đến độ mất cả cảm giác ngon miệng. Ở tuổi năm mươi mốt, có lẽ đã đến lúc cần biết tự xoay xở trong một cửa hàng thực phẩm. Cuối cùng ông quyết định chọn loại pizza đắt nhất. Chỉ còn thiếu mỗi chuyện ông ăn vớ vẩn cho qua bữa với cái cớ là vợ ông đã bỏ đi sau ba mươi năm chung sống. Khi phải lựa chọn, ông luôn chọn thứ đắt nhất, tin chắc rằng đó là một đảm bảo cho chất lượng. Khi đi ngang quầy “rau quả”, trong đầu ông chợt hiện ra một trong những câu vợ ông ưa thích nhất, thường được tuôn ra một cách máy móc, giống như mọi câu khác. “Năm lại rau quả mỗi ngày.” Bà chêm câu này vào giữa câu “Thuốc lá sẽ giết chết anh” và câu “Rượu không tốt cho sức khỏe của anh đâu.” Sao mà bà ấy có thể khiến người ta mệt mỏi đến thế! Dẫu sao ông cũng nhét vài quả táo vào túi ni long rồi tiến về dãy quầy thu ngân. Ông cầm ba món hàng trên tay, chờ đến khi tìm thấy chút chỗ trống trên băng chuyền để đặt xuống. Đằng trước ông, một bà hộ pháp vừa trút xuống cả một xe hàng toàn những thứ linh tinh. Lại một phụ nữ hẳn là cũng cơm chẳng lành canh chẳng ngọt với bạn đời. Ông nhanh chóng nhận ra rằng mình đã không chọn được quầy thu ngân vắng nhất để có thể rời thật nhanh khỏi cái hang ổ tiêu dùng này, nhưng cô nhân viên thu ngân lại xinh. Mặt khó đăm đăm, nhưng xinh xắn. Đặc quyền của nhan sắc: bù đắp cho tính nết khó chịu. Luôn là vậy. Ta lượng thứ mọi chuyện cho những phụ nữ xinh đẹp, thậm chí trước khi họ kịp mở miệng. Cô nhân viên thu ngân này chỉ thoáng nhìn bà khách khi trả lại tiền thừa, và tranh thủ dịp đó để gạt đi một giọt nước mắt không rõ từ đâu đang lăn trên má. Cằm không run, hơi thở không gấp gáp, đôi mắt không long lanh, không, một gương mặt thản nhiên nhưng giọt nước mắt đã tự tiện lọt ra ngoài để hít thở không khí trong lành. Đến lượt Paul. — Chào Julie! — Chúng ta biết nhau sao? cô vừa hỏi vừa ngước nhìn ông, vẻ ngạc nhiên. — Không, nhưng tên cô được viết trên thẻ nhân viên mà. Nếu không thì ta đeo thẻ có ghi tên để làm gì? — Để tố giác chúng tôi với trưởng quầy thu ngân nếu chúng tôi tính nhầm ba xu lẻ. Hiếm khi để chào hỏi lắm. — Tôi cũng có vài thói xấu, nhưng không có thói chỉ điểm. — Ông chưa cân táo rồi, cô nói bằng giọng đều đều chán chường. — Phải cân hả? — Đúng rồi! — Thế tôi phải làm gì bây giờ? — Hoặc ông đi cân chỗ táo này, hoặc ông bỏ lại không mua nữa. — Tôi sẽ đi cân, tôi làm nhanh thôi, Paul đáp, đoạn vớ lấy cái túi. Nhưng tại sao ông lại tha thiết muốn mua chỗ táo này đến thế?! — Cứ thong thả thôi, chuyện này sẽ chẳng thay đổi gì cuộc sống của tôi đâu! cô gái khẽ bình luận trong khi ông đã biến mất khỏi dòng người đang xếp hàng. Các khách hàng đứng sau ông bắt đầu sốt ruột. Julie tranh thủ quãng nghỉ này để thư giãn cái lưng đã khiến cô đau đớn suốt tuần nay. Người đàn ông quay lại, thở hổn hển, rồi đặt chỗ táo đã được cân trước mặt cô gái. — Ông chọn mã nho thay vì mã táo rồi! — Thật sao? — Nho Golden. Trên nhãn này ghi thế. Mà đây lại là táo Golden. — Có nghiêm trọng không? — Ông sẽ phải mua với giá cao hơn. Nếu ông muốn thì có thể quay lại đổi. Tiếng ồn ào trong hàng người đứng chờ bắt đầu to lên khiến ông từ bỏ ý định. — Không sao đâu, tôi trả tiền theo cái nhãn đó. Có lẽ vì thế mà táo sẽ ngon hơn! ông mỉm cười nói với cô. Julie cũng khẽ cười. Lâu lắm rồi không có người đàn ông nào tử tế với cô. Đừng nói là theo kiểu này! Tuy nhiên, ở tuổi hai mươi, Julie đã không còn quen với kiểu quan tâm này nữa rồi. Sự vô tư đã nhập hội với phẩm giá ở nghĩa trang của những ảo tưởng vô vọng. — Buổi tối xem bóng đá chăng? cô vừa hỏi vừa đưa biên lai cho ông. — Không, sao cô lại hỏi thế?! — Chẳng sao cả. Bia, pizza… — Buổi tối của đàn ông độc thân! — Đàn ông độc thân vẫn có thể xem bóng đá mà. Julie không thèm trả lời khách hàng kế tiếp đang cố gắng lôi cô ra làm nhân chứng, bà ta phẫn nộ vì có người lại không biết rằng rau quả thì phải cân trước khi thanh toán. Loại “lèo nhèo” mà thậm chí cô còn không nghe nữa. Bộ quy tắc ứng xử đã làm cô ngán ngẩm từ lâu rồi. Mỉm cười - Xin chào - Tạm biệt - Cảm ơn. Cô chỉ áp dụng khi biết người ta đang giám sát mình. Vụ táo tủng kia ít ra cũng cho phép cô ngơi ra vài phút và uống chút nước thảo dược trong chai mang theo, để cố gắng nuốt trôi vị đắng của công việc này. Mời các bạn đón đọc Chạm Tay Vào Hạnh Phúc của tác giả Agnès Ledig.