Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiến Trận

Chiến trận là tác phẩm mở đầu cho một loạt tiểu thuyết tiếp theo: Danh nhân (chân dung người cha), Thế giới rất gần (về đám tang người cha) và Quà tặng (chân dung người mẹ), kết thúc bằng Như ở trên trời (về cảnh chia li), tất cả hợp thành một bộ sách về gốc gác con người. Khi viết về chiến tranh người ta thường nhắc nhiều tới máu, súng đạn và nước mắt. Tác giả người Pháp nhìn chiến tranh từ một góc khác, không trực diện nhưng xuyên thấu nỗi đau. Giải Goncourt năm 1990 đã vinh danh tiểu thuyết Chiến Trận (Chiến trường vinh quang) của Jean Rouaud để cổ vũ cho nỗ lực làm mới một đề tài tưởng như đã sáo mòn. Tác phẩm như một làn gió mới trong các sáng tác về đề tài chiến tranh của văn đàn Pháp lúc bấy giờ. Nỗi đau của cả nhân loại được cảm nhận từ khung cửa sổ của một gia đình trung lưu ở vùng ngoại ô theo cách riêng. Khi cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất đang trong giai đoạn khốc liệt cho đến cuối những năm 80 của thế kỉ 20 đã có rất nhiều tác phẩm viết về cuộc binh lửa tàn khốc này. Với những tác giả là người lính từ chiến trường trở về, họ mang cái nhìn trực diện về chiến tranh vào trong tác phẩm. Đôi khi hiện thực được lột tả sát tới mức chúng ta tưởng chừng có thể ngửi thấy mùi thuốc súng trên trang giấy.   Là một nhà văn sinh ra khi cả hai cuộc Đại chiến Thế giới đã trở thành quá khứ, Jean Rouaud không cố tình đóng vai là “người trong cuộc” để viết về cuộc chiến như cách mà một số nhà văn ở thế hệ ông đã làm. Tác giả viết về chiến tranh bằng tâm thế và góc nhìn của một con người sinh ra sau chiến trận. Những trang văn không nồng nặc mùi thuốc súng nhưng vẫn khiến người ta day dứt. Chiến Trận (Chiến trường vinh quang) là cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh, mang âm hưởng của một cuốn hồi ký gia đình. Từ chính câu chuyện của gia đình mình, tác giả đã khắc họa sâu sắc nỗi đau dai dẳng của chiến tranh. Hơn nửa thế kỷ trước, dưới mái nhà mà ông đang sống, đã diễn ra những cuộc tiễn đưa khiến người ta hoảng sợ. Những người đàn ông và có cả những chàng trai trẻ khoác lên mình bộ quân phục và đi về phía bom đạn. Sự khốc liệt của chiến tranh đã vĩnh viễn cướp họ khỏi vòng tay người thân. Nhưng những người lính ấy không bao giờ chết. Họ vẫn sống trong ký ức của người thân. Một thứ ký ức buồn và dai dẳng như màn mưa dai dẳng của vùng Loire-Inferieure. Đọc những trang đầu của Chiến Trận (Chiến trường vinh quang), nhiều độc giả đặt ra câu hỏi: “Liệu đây có phải là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký về gia đình?”. Trong những chương đầu, tác giả tập trung miêu tả các thành viên trong gia đình với một bút pháp tỉ mỉ và tinh tế đến lạ lùng, làm cho người đọc có cảm giác như đang xem một cuốn phim tư liệu.   Nhà văn dành một tình cảm đặc biệt cho bà cô Marie, một con người sùng đạo, cả đời không kết hôn và nguyện phụng sự cho Chúa. Đây cũng chính là nhân vật mở nút cho cuốn tiểu thuyết tưởng chừng không có kịch tính này. Trước lúc lâm chung, bà Marie liên tục nhắc đến cái tên Joseph. Cái tên gợi cho tác giả nhớ đến người cha tội nghiệp của mình, người ra đi vì bệnh tật khi chỉ mới 40 tuổi. Nhưng không, ông đã nhầm, trong đại gia đình còn một thành viên khác cũng mang tên Joseph. Đó là người anh trai tội nghiệp của bà Marie, người đã tử trận năm 1914, khi mới 26 tuổi. Một chàng trai chưa nếm vị ngọt của hôn nhân và còn nhiều hoài bão.  Vì đau lòng, vì không muốn những người lính thoát chết trong trận can qua cảm thấy tội lỗi, mọi người tránh không nhắc tới ông. Nhưng ông vẫn tồn tại theo cách của riêng mình. Cả đại gia đình đã thực hiện một cuộc hành trình về lại chiến trường xưa để tìm di cốt những người đã ngã xuống. Những người chiến đấu vì đất nước nhưng giờ đây không còn một nắm xương tàn. Với Chiến Trận (Chiến trường vinh quang) Jean Rouaud đã chọn một lối kể chậm rãi, chi tiết và tinh tế, tạo nên một văn phong không lẫn lộn. Nhà văn giống như một nhà điêu khắc đang tỉ mẩn đục đẽo từng con chữ. Càng về cuối tác phẩm, sự khốc liệt và tàn nhẫn của chiến tranh mới lộ rõ. Ở đó, không chỉ có súng đạn, máu và nước mắt. Bom hóa học và những quyết sách lạnh lùng của nhà cầm quyền còn khiến chúng ta ghê sợ hơn nhiều. Bằng một cách dẫn dắt rất riêng, nhà văn người Pháp không phơi bày tất cả hiện thực ra trước mắt người đọc. Ông kín đáo giấu nó vào sâu trong những câu chuyện tưởng chừng chẳng liên quan. Đó là cách Jean Rouaud định vị bản thân và làm mới những đề tài tưởng chừng đã cũ. Lịch sử của một quốc gia là một thứ rất vĩ đại, nhưng đôi khi nó được xây nên từ chính hồi ức của từng gia đình. *** Jean Rouaud sinh ngày 12/12/1952, ông nghiên cứu văn học hiện đại tại trường Đại học Nantes. Sau khi lấy bằng thạc sĩ, Jean Rouaud làm nhiều công việc khác nhau như bơm khí hay bán bách khoa thư y tế. Năm 1978, ông cộng tác với tòa soạn Presse – Océan. Sau khi chuyển đến Paris ông làm việc trong một hiệu sách rồi bán báo. Năm 1988, Jean Rouaud gặp Jérôme Lindon, giám đốc cũng là tổng biên tập của NXB Minuit, người đã phát hiện ra tài năng văn chương của ông. *** Tóm lại, đó là quy luật “Họa vô đơn chí” mà đột nhiên chúng tôi khám phá ra sự bí mật sắp đặt buồn thảm của nó – thực ra từ xưa điều bí mật này đã được phát hiện song mỗi lần bị che phủ lại được vén lên, vùi dập một cách phũ phàng, làm cho chúng tôi ngơ ngác, u mê vì buồn phiền. Chính ông ngoại đã bưng bít cái quy luật ấy theo phương cách chẳng mấy tác dụng: “Chúng mày hãy chôn nó vào góc sâu kín nhất trong đầu đi”. Nhưng sự việc thì tự nó cứ tiếp diễn, như học bài mãi mà chẳng thuộc. Và lời nói của ông như miếng đòn thừa chẳng ai để ý, song đối với ông thật cần thiết. Một buổi tối, chẳng có nguyên cớ gì, ông mắng chúng tôi một trận thậm tệ. Chuyện này có thể do tuổi tác, nhưng vào tuổi bảy mươi sáu, ai bắt ông phải nghe theo. Những dấu hiệu gần đây cho thấy ông đã lẩm cẩm so với vẻ ngoài ông cố tỏ ra. Một con người cổ lỗ, bí hiểm, khó gần và hay đãng trí. Sự lập dị cộng với vẻ cầu kỳ quá đáng trong cách ăn mặc cũng như phong thái khiến ông có gì đó giống người Tàu. Hình hài của ông cũng vậy, cặp mắt nhỏ nứt rạn, đôi lông mày dựng như góc các nóc chùa chiền, màu da vàng bợt không phải do gốc gác giòng giống Á châu mà vì hút quá nhiều thuốc lá, một loại thuốc cực hiếm chỉ còn thấy mỗi mình ông hút – gói thuốc xanh màu hạnh nhân, dòng chữ cũ rích, có lần chúng tôi hỏi thì ông trả lời là đã đem từ nước Nga xa xôi về, một lần khác, ông nói với một thái độ nghiêm túc là đã đưa về từ Pampelune[1]. Nhưng điều chắc chắn loại thuốc ấy không còn được sản xuất nữa vì sự độc hại chết người của nó. Song quả thực ông thích hút loại này, như chỉ dành cho riêng ông. Ông đốt hết điếu nọ đến điếu kia, cả khi đang lái chiếc 2 CV[2] chẳng khác nào một cuộc biểu diễn chế ngự dã thú ngẫu hứng. Cái đầu mẩu thuốc lá hút xong đang kẹp giữa hai ngón cái và trỏ thì điếu tiếp theo đã nằm ở khóe môi rồi.   Ông chú mục vào cái điểm đỏ đầu điếu thuốc hơn là bận tâm đến con đường, điều khiển xe phong thái nhẹ nhàng, từng lọn khói nhỏ ra, lan tỏa, hội tụ thành làn mỏng và chả mấy chốc trở nên đậm đặc, như một đám mây dày, đặc quánh bao quanh. Đầu hơi ngả ra phía sau, tránh lóa mắt, tay xua tan bớt khói thuốc, dương cùi chỏ nâng tấm kính cửa phía dưới, ném mạnh mẩu thuốc ra ngoài, mắt vẫn chẳng ngó ngàng tới lòng đường, ông tiếp tục điều khiển vô lăng một cách tùy tiện làm đám người đi đường chạy tán loạn: sự cẩn thận đã bị tuổi già làm cùn nhụt, hay sau một cuộc đời từng trải, đầy biến động, ông tự cho mình có cái quyền được miễn trừ nào đó. Rồi kết cục là chẳng mấy ai dám đi cùng xe với ông nữa. Mấy người anh em họ trẻ tuổi có lần đã bày trò (việc này đâu chỉ xảy ra vài lần) là cuốn quanh đầu một chiếc khăn phu-la hay chiếc cà-vạt mượn các ông bố và ngồi vào bên cạnh ông cụ, gào to lên rằng “Phi công cảm tử muôn năm”[3]. Dùng khăn vẫy cùng với những giọt nước mắt vờ vĩnh bày tỏ sự tử biệt có lẽ là tốt nhất. Mọi người nghĩ rằng xe chạy chậm thì chẳng có gì nguy hiểm cả, ấy thế mà mối nguy lại ở chỗ xe cứ liên tục chạy lấn vào vạch vàng, lảng sang tận phía đường bên trái, trườn cả lên bờ đường lở nham nhỏ. Chiếc 2 CV rung lên chuyển động một cách nặng nhọc qua ngã ba, ngã tư cực kỳ nguy hiểm để cuối cùng mọi người xuống xe mặt mũi tái xám như một lũ ma.   Những biện pháp tế nhị như dùng đèn chiếu ra hiệu cho ông phải đi cẩn thận chẳng có tác dụng gì sất. Vì cái vai trò ấy đã bị coi là không cần thiết, người ta thấy ở đây thái độ bất chấp mọi điều khiển - rồi điệu bộ quay chiếc vô lăng tưởng tượng trong không khí của người đi đường như nhắc ông thận trọng thật khôi hài. Chúng tôi biết ông có đủ mọi tính nết của một kẻ lăng xăng, nên chỉ mất thì giờ bắt ông phải cẩn thận. Chúng tôi kịp khoát tay ra hiệu cho ông rằng chướng ngại vật hiện chỉ còn cách vài centimét, ông chán nản nhìn qua làn khói thuốc, bình tĩnh chờ cái “pa-rơ-sốc” báo hiệu mối hiểm họa. Vì trò chơi ấy mà thùng xe bị bẹp dúm dó nhiều chỗ, méo mó cả cánh cửa. Chiếc xe mang biệt danh Bobosse đã từng chiến thắng vì thành tích méo mó. Dù luôn biết điều đó, ông vẫn tỏ ra hết sức thờ ơ lãnh đạm để không bị xúc động, trong suy nghĩ, ông đã coi chúng tôi chỉ là lũ trẻ ranh thò lò mũi xanh hay một cái gì đại loại như vậy. Có lẽ ông đã chế giễu thật sự.   Trời mưa như trút, một hiện tượng hiếm thấy ở vùng ven biển Đại Tây Dương,chiếc xe 2 CV nặng nhọc trườn lên trong gió thốc, lắc giật trong mưa gió tứ bề, như chiếc tàu buôn gặp nạn trên đại dương vì đã không tin vào dự báo thời tiết. Mưa xối ào ạt trên mui xe, tạo nên cảm giác chênh vênh, lo lắng. Sấm sét ầm ầm đe dọa, làm rung chuyển cái buồng lái nhỏ hẹp, như tiếng gọi từ đáy âm ty. Mới đầu là một giọt rồi đến hàng loạt giọt nhỏ li ti thấm qua trần xe, kết thành màng nước lớn dần lên nhanh chóng, dần dần, lung linh, rơi thẳng xuống đầu, tay, đầu gối chúng tôi. Và nếu như còn chỗ trống trên mặt ghế, nước mưa đọng lại, chảy thành rãnh, phải dùng khăn lâu khô mới ngồi được. Hệ thống đồng hồ cổ đo thời gian chạy bằng nước cứ loạn xị vì nước từ mọi phía chảy xuống tạo thành giọt không đều và rôi không đúng lúc. Nước mưa tóe ra từ các vết nứt nham nhỏ ở khe cửa. Cố gắng bắt chước ông, chúng tôi tỏ vẻ thờ ơ với cơn mưa bụi nhưng làm ướt đẫm chẳng khác một trận mưa rào, cùng ông điềm tĩnh xông pha trong bão táp như vượt qua một bức tường vô hình, xác minh “tất cả những cái ấy” (Thỉnh thoảng ông vẫn có lối diễn đạt nước đôi chán ngắt như vậy) thực ra xét cho cùng đó là một chuỗi định kiến, mà mưa gió chỉ là một lý do, đúng hơn là một nỗi gian truân, một tia sáng lấp lánh ảo ảnh toàn năng. Điều này chỉ phù hợp với những lúc tinh thần đạt đến độ hưng phấn tột đỉnh, thân xác nhẹ bềnh bồng lâng lâng - hay ít ra cũng ở trong những chiếc xe đầy đủ tiện nghi êm ru, không thấm nước mưa, tạo nên cảm giác như đang chu du trong một đám mây. Nhưng trong xe này, từ những cánh cửa hoen gỉ, rỉ sắt sùi lên, bắn vượn vãi những vết lấm ố vàng trên đệm ghế, phải thừa nhận trong suốt hàng chục kilômét thái độ của ông thật lì lợm và chỉ sau vài phút định thần theo lối ngồi thiền Yoga, ướt sũng, thấy thực tại quá tồi tệ, phũ phàng, ông mới chịu đựng những thứ quyền uy lễ giáo qua những việc đần độn đại loại như vậy tuổi thơ chúng tôi bị xô đẩy, mất thăng bằng trong sự phân rã mỏi mòn của cơ thể sống.   Những giọt nước nhỏ li ti thấm qua trần, bay xiên trong lòng xe làm tức tối khó chịu, kích thích trí tò mò và tạo nên không khí thật hài hước. Đợi chờ cái điều kỳ diệu là giọt nước bứt ra bay sướt qua người như trôi trên đầu vịt, kích động chúng tôi nghĩ ra trò đùa tinh nghịch với những giọt nước. Chúng bắn nhanh thẳng căng hoặc mềm mại, ngưng đọng thành giọt trước khi tham gia vào cuộc chơi. Những giọt nước rơi không chủ định vào khóe mắt, thái dương, gò má, hoặc nhằm thẳng vào lỗ tai, không thể tính được bao nhiêu giọt, một tham số cực kỳ phức tạp đến mức không có cách gì phòng ngừa trước được hay chí ít tìm cách chui đầu vào một chiếc túi. Cuộc chơi như trận thủy chiến thô sơ, đơn giản là khi một giọt nước mạnh hơn chạm vào làm chúng tôi giật bắn lên, mọi người chỉ cùng hét lên: “Chạm rồi”. Trận thủy chiến ấy tạo ra cảm giấc chúng tôi như những cái bia của một thiện xạ vô hình nào đó. Luật chơi duy nhất là trung thực, không được né tránh, phải tỏ rõ sức chịu đựng dày dạn trước những giọt nước vô hại. Và rồi một cuộc tranh cãi đã nổ ra xung quanh trò chơi này, tất nhiên vẫn giữ thái độ trong một giới hạn nhất định, không được bốc cao giọng. Vì trong chiếc 2 CV của ông là một nơi rất quan trọng - cho dù vỏ xe đã rách mướp thảm hại, khoang thì như một xà lim.   Chỉ một lần duy nhất ông tham dự vào cuộc chơi của chúng tôi, ấy là lúc một giọt nước rơi xuống treo trên đầu mũi ông trông như tàn hoa nến, rồi từ trong im lặng bật ra một câu nói ẩn ý, pha lẫn tính cách đe nẹt, một thứ giọng hiếm khi dùng: “Cái mũi hỏng quá”[4]. Ngay lập tức, chúng tôi nín bặt, mới đầu cảm thấy khó chịu vì bị người lớn gây phiền nhiễu can thiệp vào cuộc chơi, nhưng rồi khi ngạc nhiên qua đi, như tin tốt lành mách bảo rằng cậu bé già nua hư hỏng trong ông đã trở về nhà: ông chẳng có gì xa lạ, cũng đã có những trò chơi như chúng tôi, chúng tôi tưởng tượng đến tuổi thơ của ông với những kỷ niệm cũ càng - thế là để giảm bớt không khí nặng nề và cũng có thể để biểu thị một thứ uy lực trong lúc ông đang lơ đễnh, chúng tôi cười phá lên, phải thoát, song cái cười ấy cũng là để giấu diếm sự chậm hiểu của chúng tôi đối với trò chơi chữ: cái mũi này đã chấm dứt một cách lý tưởng chiến trận của chúng tôi, rồi khi không lý giải được mục đích cuộc chơi, chúng tôi đành chịu bó buộc lặp đi lặp lại mãi cái quy tắc đáng thương ấy. Trò nghịch nước ngẫu hứng trong chớp mắt, lời nói của ông đã làm cho cạn kiệt, tỏ rõ dứt khoát là không được tiếp tục nữa. Từ lâu, những mệnh lệnh kiểu ấy là một thứ biên bản ghi nhận những điều tỉnh ngộ của chúng tôi nhân các tai họa xảy ra trong gia đình: sữa trào ra khỏi xoong, đèn không đủ sáng, xe tuột xích, đồng hồ không lên cót. Lời nói ấy còn nhằm ngay cả với những người có trách nhiệm: “Cái mũi hỏng quá” với cha là lúc xe còn cách thị trấn vài kilômét thì hết xăng. Trước khi đi, ông đã trù liệu chuyện xăng dầu phải đủ đi đến nơi về đến chốn dù có phải chạy ngoằn ngoèo. Nếu ông đã đi du lịch chứng kiến nhiều việc thì ngôn từ diễn đạt của ông chắc hẳn đơn giản thông dụng hơn. Có lẽ phải tài tình lắm may ra một trăm năm tôi mới phục hồi được nguồn gốc ý nghĩa của cái nhóm từ ấy.     Mời các bạn đón đọc Chiến Trận của tác giả Jean Rouaud & Phạm Văn Ba (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giai Điệu Cuối Của Cha - Nicholas Sparks
Giới thiệu đến các bạn thích đọc sách một tác phẩm không thể bỏ qua của Nicholas Sparks. Nếu ai đã từng đọc truyện của tác giả này rồi thì hãy yên tâm rằng đây là một trong những tác phẩm hay nhất của ông. Ai chưa biết về nhà văn này cũng nên đọc để biết thêm về một cây bút chuyên viết tiểu thuyết lãng mạn về những mối tình đầu sâu sắc, về tình cha ẩn sâu mà mãnh liệt như sóng ngầm... Đây là truyện thứ tư Sẻ dịch và chia sẻ với các bạn. Truyện này Sẻ rất thích nên bỏ nhiều công sức hơn mấy truyện trước (có edit đàng hoàng), nhưng tuy vậy chắc là không thể tránh khỏi sai sót. Bạn nào phát hiện, nhắc nhở cho Sẻ với nhé. *** Nicholas Sparks được xem là bậc thầy về tiểu thuyết lãng mạn của Mỹ. Ông đã cho ra mắt 17 cuốn sách và trong số đó có 11 cuốn được Hollywood chuyển thể thành phim. Các tác phẩm của ông thường nói về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa và mang triết lí nhân văn sâu sắc. Nổi bật trong đó phải kể đến: "A walk to remember", "The Notebook", "Dear John"... Những tác phẩm của Nicholas Sparks đều mang hơi hướng lãng mạn và buồn day dứt. Cây bút tiểu thuyết đứng đầu nước Mỹ đã đem lại cho chúng ta những câu chuyện tình tuyệt đẹp nhưng đa phần đều là dang dở. Đọc tiểu thuyết của ông, bạn đọc như được sống lại một thời tình yêu, một thời thanh xuân nồng cháy và thấm đượm ra tính nhân văn sâu sắc mà ông gửi gắm. Một số tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Kẻ May Mắn - Nicholas Sparks Lựa Chọn của Trái Tim - Nicholas Sparks Thiên Đường Bình Yên - Nicholas Sparks Những Đêm ở Rodanthe - Nicholas Sparks Đoạn Đường Để Nhớ - Nicholas Sparks Lá Thư Trong Chai - Nicholas Sparks Bản Tình Ca Cuối Cùng - Nicholas Sparks Nhật Ký - Nicholas Sparks John Yêu Dấu - Nicholas Sparks Dành Hết Cho Em - Nicholas Sparks Giai Điệu Cuối Của Cha ... Mời các bạn đón đọc Giai Điệu Cuối Của Cha của tác giả Nicholas Sparks.
Cuộc Tình Bỏ Đi - F. Scott Fitzgerald
Đây là cuốn tiểu thuyết Scott Fitzgerald khởi viết ngay sau Gatsby vĩ đại (The Great Gatsby – 1925) nhưng mất đến 9 năm (1934). Tên sách Tender Is the Night được dịch thành Cuộc tình bỏ đi (bản dịch của Mặc Đỗ, NXB Hội Nhà Văn in lại 2003), trong khi một số bài báo hoặc website tạm dịch thành Đêm dịu dàng (hoặc Dịu dàng là đêm). Có lẽ, NXB / dịch giả phần nào lấy ý từ khái niệm “thế hệ bỏ đi” mà chính nhà văn là chứng nhân của “thời đại nhạc jazz” và cũng là người mô tả rất hay qua Gatsby vĩ đại. Xin mở ngoặc: dịch giả Mặc Đỗ cũng là người đã dịch cuốn The Great Gatsby vào thập niên 1950 với tựa đề Con người hào hoa. Mặc dù tên tuổi Fitzgerald được xem như một trong những nhà văn Hoa Kỳ xuất sắc nhất, nhưng dường như cuốn sách này không gây được tiếng vang tại Việt Nam, thậm chí ít người biết đến. Tender Is the Night là một tiểu thuyết hay nhưng không quá hấp dẫn (ít nhất là qua bản tiếng Việt). Thật ra, những trăn trở, hoang mang của những cuốn sách trước được tác giả nhìn lại và đưa ra những hướng đi mới hơn. Câu chuyện là cuộc sống của Dick Diver, một bác sỹ tâm thần trẻ tuổi và vợ là Nicole, cũng từng là một bệnh nhân của chồng mình. Họ sống trong một biệt thư xa hoa ở miền Nam nước Pháp. Những diễn biến kịch tính sau đó đã cho thấy sự bế tắc trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Cuộc tình của Dick với Rosemary, của Nicole với Tommy không chỉ là chuyện tình cảm, mà chứa đựng nhiều bi kịch của con người và xã hội. (Lưu ý vợ của nhà văn cũng bị bệnh tâm thần). Bản dịch tiếng Việt viết theo giọng điệu và phương ngữ miền Nam kiểu cũ (chẳng hạn “bịnh nhân”), nên có thể bạn đọc ngày nay không quen tai lắm. Cá nhân tôi thấy phần cuối sách phần dịch không được trơn tru lắm, giống như dịch vội vàng hoặc do người khác thực hiện. In một cuốn sách từng được bình chọn trong danh sach 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ, nhưng NXB chẳng có lấy một dòng giới thiệu (thật ra họ tự ý lấy bản dịch cũ và xuất bản lại), kể cả xuất xứ của tên sách (trích từ bài thơ Ode to a Nightingale của John Keats). Thật hết sức đáng tiếc! Như vậy, “Cuộc tình bỏ đi” không chỉ là câu chuyện tình, không phải là cuốn sách dễ đọc dễ hiểu. Mỗi độc giả, với kinh nghiệm sống và vốn đọc khác nhau, sẽ có những rút tỉa và niềm vui thú khác nhau khi đọc tác phẩm này. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ.   Mời các bạn đón đọc Cuộc Tình Bỏ Đi của tác giả F. Scott Fitzgerald.
Con Sẻ Vàng - Donna Tartt
Tác phẩm của Donna Tartt mang đến suy nghiệm về những đau đớn, mất mát làm nên số phận một con người. Con sẻ vàng của Donna Tartt mang đến cho độc giả một "bom tấn" của văn học đương đại. Tác phẩm của tiểu thuyết gia Mỹ vừa được dịch sang tiếng Việt. Hơn chín trăm trang sách dày đặc những trải nghiệm và đợt sóng cảm xúc, đưa độc giả vào hành trình đầy sóng gió của Theodor Decker (hay còn gọi là Theo), từ khi ở tuổi thiếu niên đến khi trưởng thành. Cuộc đời của Theo gắn liền với bức họa Con sẻ vàng, như lời tâm sự của cậu: "Nhìn bức tranh tôi lại trải qua cảm giác vạn vật đang tụ về một điểm: một giây phút nắng chói thoáng qua, tồn tại chớp mắt và vĩnh viễn. Chỉ thi thoảng lắm tôi mới nhận ra sợi xích buộc chân chú chim, hay nhận ra cuộc đời thật tàn nhẫn đối với một sinh linh bé bỏng như thế...". Con sẻ vàng được chuyển ngữ từ tiểu thuyết The Goldfinch (2013) của nhà văn Mỹ Donna Tartt (1963). Amazon chọn tác phẩm là Cuốn sách hay nhất năm 2013. Tiểu thuyết thứ ba này được Donna Tartt viết trong 11 năm, đoạt giải Pulitzer năm 2014. Warner Bros và Amazon Studios đang chuyển thể sách thành phim, do John Crowley đạo diễn. *** "Con sẻ vàng" là cuốn tiểu thuyết với lối kể chuyện đầy sinh lực, gây sửng sốt. Những nhân vật sống động gây ấn tượng mạnh, giọng văn mê hoặc, xen với những khúc chờ nín thở, lại có khi trùng xuống với cái bình thản triết gia với những bí ẩn sâu lắng nhất của tình yêu, con người, nghệ thuật. Tiểu thuyết này được giới phê bình và độc giả đánh giá cao, được Amazon bình chọn là Cuốn sách của năm 2013, lọt vào danh sách Best-seller của tờ The New York Times suốt 39 tuần. Ngoài ra, tiểu thuyết "Con sẻ vàng" sẽ được đưa lên màn bạc sau khi Warner Bros Studio đã giành được quyền làm phim. Và Brett Ratner (đạo diễn phim Giờ cao điểm) sẽ đảm nhiệm vai trò đồng sản xuất phim cùng với Brad Simpson và Nina Jacobson, nhà sản xuất từng đoạt giải BAFTA với phim The Hunger Games.  *** Donna Tartt là một nhà văn người Mỹ, tác giả của tiểu thuyết Lịch sử bí mật, Người bạn nhỏ và The Goldfinch. Tartt đã giành giải thưởng văn học WH Smith cho Người bạn nhỏ năm 2003 và Giải thưởng Pulitzer dành cho tiểu thuyết Goldfinch năm 2014.   Mời các bạn đón đọc Con Sẻ Vàng của tác giả Donna Tartt.
Biển - John Banville
Ngay từ khi ra đời, cuốn sách đã gây nhiều dư luận trái chiều, nhưng vượt lên những lời phủ định thành kiến, The Sea (Biển) của John Banville đã giành giải thưởng Man Booker 2005 và được hàng triệu người trên thế giới biết đến như một áng văn chương tuyệt đẹp làm lay động lòng người bởi tinh thần bi tráng và nỗi hồ nghi sắc bén. Câu chuyện không bắt đầu bằng sự kiện mà khởi đầu bằng tâm trạng, nỗi mất mát, sự từ bỏ và hoang mang xáo trộn. Max Morden, một trí thức trung niên, nhà nghiên cứu nghệ thuật, sau cái chết của người vợ, đã quyết định khép kín cuộc sống của mình, làm chuyến du hành về quá khứ.  Và từ đây mở ra thế giới của hồi ức, nhưng là những hồi ức đã bị cắt lìa khỏi sự quy chiếu thực tại, khỏi những cảm xúc và sự chủ động của con người thực tại, thế giới của những kẻ thực ra là đã chết ngay từ khi họ còn hít thở, ăn uống, thậm chí yêu đương… Như chính lời của họ, “chỉ còn như những bức tượng chân dung bị đổ ngã của chính mình”.  Ngay từ khi trở về ngôi nhà nghỉ thuở ấu thơ bên bờ biển, sau gần nửa thế kỷ, Max Morden đã chán chường bực tức vì cảnh vật và mọi điều vẫn y sì như cũ, chi tiết tưởng như vô lý này cho ta hiểu một ý nghĩa khác, cái khả năng chủ động lục tìm hồi tưởng lại cảnh cũ người xưa của anh ta đã hoàn toàn bị vô hiệu hay là không hề được đề cập tới.  Và quả thực suốt phần đầu của tác phẩm, Max Morden giống như bị trôi dạt nhồi dập trên những kỷ niệm và rãnh mòn của đời sống quá khứ. Chỉ cần nghĩ tới việc phải đi cắt cỏ, là anh ta đã “thấy mình ở đó rồi, sơ mi xắn tay, quần ống rộng, nhễ nhại mồ hôi, bước thấp bước cao sau cái máy cắt, mồm dính cỏ, ruồi bu trên đầu”.  Dường như chỉ có những “rãnh mòn" ngơ ngẩn tức cười như thế là cái còn lại, sau chừng ấy năm sống. Và những kỷ niệm, cũng chẳng phải là cái gì ngọt ngào êm dịu mà giống như một xô xốc những hình dung về cái tréo nghoe, bất mãn, tồi tệ, xấu xí, một cách hiển nhiên, trong đó nổi bật lên cảm giác bơ vơ nhỏ nhoi của thân phận và những ẩn ức tính dục ngùn ngụt được giãi bày một cách tự nhiên và mạnh mẽ.  Nhân vật của Biển là tù nhân của những khiếm khuyết đau buồn, ẩn ức tính dục và cả những bí ẩn ngẫu nhiên trong cuộc sống thời thơ ấu của mình. Và John Banville đã miêu tả một cách tuyệt vời khéo léo cái thế giới đóng kín hoá thạch của những hồi ức, với vẻ vừa tức cười vừa quái lạ của con người và cảnh vật, được tái hiện bằng những cảm giác và tâm trạng siêu hình.  “Tôi đã ở đó mà không phải ở đó, là chính mình và hài lòng, vừa bị giam cầm chặt chẽ trong cái khoảnh khắc ấy mà lại vẫn lửng lơ sẵn sàng từ bỏ nó ra đi. Có lẽ toàn bộ cuộc đời cũng chỉ là một cuộc chuẩn bị dài để từ bỏ nó mà thôi.”  Cảm giác vô nghĩa về thực tại, sự mất sạch những cảm xúc hiện sinh trở đi trở lại trong phần đầu tác phẩm càng được nhấn mạnh khi Max Morden kinh ngạc nhận ra rằng những gì anh ta hình dung từ thuở bé về tương lai của mình đã hoàn toàn đúng như những gì diễn ra; và cái hình dung đó thực ra là một khuôn mẫu sẵn có đã được vạch sẵn từ trước như một tinh thần xã hội, mà nếu tại thời điểm này cho anh ta chọn lại như thuở bé thơ chắc chắn cũng không thể có lựa chọn nào khác.  Khép lại một vòng luẩn quẩn của của tồn tại, nỗi đau đớn và cảm giác bất lực như những thứ duy nhất còn lại sau gần nửa thế kỷ tiêu phí và trải nghiệm cuộc sống, phần đầu tác phẩm cho người đọc hình dung những cố gắng gần như tuyệt vọng mà cảm động của con người khi bị nhồi lắc trên sóng biển vô minh, kiếm tìm một điểm đến của tinh thần, kiếm tìm điều khả dĩ có thể coi là bản lai diện mục.  Phần sau của tác phẩm, nhà văn đã để cho bạn đọc chùng lại nghỉ ngơi với việc kể nốt câu chuyện, những ham muốn tình dục đầu tiên của cậu bé Max Morden rất tự nhiên đúng lối gửi vào bà mẹ Grace đẫy đà phốp pháp đã nhanh chóng chuyển thành tình yêu đầu vụng dại với cô con gái Chloe. Cái chết vừa ngẫu nhiên bất ngờ vừa tự nguyện của Chloe và cậu em sinh đôi, vừa là chết thực vừa đùa bỡn với cái chết, đã gieo vào tâm trí cậu bé Max đang lớn còn chưa kịp khám phá trò chơi thân thể lần đầu tiên, ý niệm về sự tuyệt đối bất khả cưỡng của cái chết.  Cái chết của Anna, người vợ hiền sau đó chính là sự tước bỏ cuối cùng đối với Max Morden, vốn đã chẳng có nhiều nhặn gì những người thân ở bên, nhưng lại được sống qua một cuộc đời quá đỗi yên bình.  Giả định mà nhà văn đặt ra qua lời của Anna, mỗi con người chỉ được tạc nặn nên nhờ vào mối quan hệ của anh ta với những người khác, đã hoàn toàn đúng với Max. Tại sao anh không là những gì anh thích, mà lại cứ phải trở thành một người nào đó, như thế này hoặc như thế kia?  Câu hỏi của Anna dành cho Max cũng sẽ là câu hỏi cứ vấn vương trong tâm trí nhiều người, khi mà thực ra chúng ta cũng giống như Max, suốt đời là tù nhân của những ẩn ức, của những mất mát hay khiếm khuyết, của ham muốn được sống trưởng giả yên bình và của những cá nhân khác? Đặt ra câu hỏi này, nhưng chính nhà văn cũng là người hiểu rõ hơn hết, sự bất lực vô minh của con người trong thế giới đương đại trước hình dung về bản ngã chính mình.  Không có biến cố, hay nói cách khác là đã dìm kể cả những biến cố lớn như cái chết vào dòng chảy phẳng lặng của biển tồn tại muôn đời; không có thiện ác, có phần buông lơi cả trách nhiệm cá nhân; câu chuyện của Banville về đời sống bình thường, thậm chí tầm thường của một người đàn ông run rảy với bản năng sinh tồn, siêu hình và bế tắc trong kiếm tìm bản ngã, chính là ẩn dụ xác thực cho thời đại chúng ta đang sống.  *** John Banville sinh tháng 12 năm 1945 tại Wexford, Ireland. Cuốn sách đầu tiên của ông, Long Lankin, được xuất bản năm 1970. Các cuốn khác là Nightspawn, Birchwood, Doctor Copernicus (đoạt giải James Talt Black Meomorial Prize năm 1976), Kepler (đoạt giải Guardian Fiction Prize năm 1981), The Newton Letter, Mefisto, The Book of Evidence (lọt vào chung khảo Booker Prize năm 1989 và giành giải Guinness Peat Aviation Award), Ghosts, Athena, The Untouchable, Eclipse và Shroud. Hiện John Banville sống tại Dublin. John Banville được trao giải thưởng Franz Kafka năm 2011. Ông cũng viết tiểu thuyết tội phạm dưới bút danh Benjamin Black. Mời các bạn đón đọc Biển của tác giả John Banville.