Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trái Tim Bạc Nhược

Trái tim bạc nhược đã đặt những giá trị vốn bắt rễ vững chắc trong nền văn hóa phương Tây vào tình trạng khủng hoảng. Cuộc xung đột bùng nổ trong lĩnh vực hôn nhân, một cơ cấu xã hội vốn có nhiệm vụ khó khăn là quy chuẩn hóa mối quan hệ yêu đương mà về mặt lý thuyết là người ta hoàn toàn được tự do lựa chọn. Juan, thông dịch viên cho các tổ chức quốc tế, kết hôn với Luisa, một nữ đồng nghiệp. Hai người quen biết nhau khi cùng làm phiên dịch trong một cuộc gặp gỡ giữa hai chính khách cao cấp: một quý bà người Anh và một quý ông người Tây Ban Nha...Trong năm đầu tiên sau khi kết hôn với Luisa, ngay từ buổi hôn lễ anh đã cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ, khi Ranz, người cha xuất sắc, kẻ đã làm giàu trên cương vị một nhà phê bình nghệ thuật dưới thời chế độ độc tài Franco, khuyên nhủ anh ta rằng: đừng bao giờ kể bất cứ điều bí mật nào với người phụ nữ vừa làm lễ thành hôn. Người cha, vốn rất tự tin, đặt một bàn tay lên vai con, và đã đưa ra lời khuyên nhủ kỳ quặc này cho người con vốn đã chất chứa trong lòng đầy những nghi ngờ. Lời cảnh báo vừa dịu dàng vừa bí hiểm, lại không thể đối đáp lại, cùng cử chỉ mơ hồ kia, một thứ cử chỉ vừa có nghĩa là bảo vệ vừa là đe dọa. Nghi ngại về thái độ này của người cha, từ hôm đó Juan bắt đầu công việc thám tử đầy vất vả nhằm vào người cha, và phát hiện ra một câu chuyện kinh hoàng... Mặt khác, với câu nói nổi tiếng "Tôi không muốn biết nhưng rồi đã biết" dùng để bắt đầu câu chuyện của mình, Juan ám chỉ rằng mình không hề muốn là chính mình, cũng không muốn kể điều mà đang kể, cho thấy một cuộc đấu tranh nội tâm day dứt giữa việc nói ra hay là im lặng. *** Lời cảnh báo “Nếu như con đã có một bí mật nào đó, thì đừng bao giờ tiết lộ với ai” luôn là nỗi ám ảnh đối với bất cứ ai. Bởi ai cũng sẽ có một bí mật nào đó trong đời không muốn tiết lộ, mà bản tính con người luôn nghi ngờ, tò mò, dằn vặt khiến cho trái tim trở nên bạc nhược. Và khi bí mật đó được tiết lộ thì rất có thể họ trút được gánh nặng, cũng có thể họ suy sụp… Đó là nội dung cuốn sách “Trái tim bạc nhược” mà nhà văn Javier Marías muốn đề cập đến. Câu chuyện xung quanh nhân vật - Juan làm nghề thông dịch viên trong các hội nghị cao cấp quốc tế, anh yêu và sau đó cưới Luisa, đồng nghiệp. Ngay từ buổi hôn nhân, Juan đã xuất hiện trong lòng một  mối linh cảm xấu, một mối linh cảm thảm họa. Trong lễ thành hôn, người cha đã đặt tay lên vai Juan và nhẹ  nhàng đặt câu hỏi mà Juan đang băn khoăn bao nhiêu lâu: Và bây giờ thì sẽ ra sao đây? Lời cảnh báo đó đã thực sự ám ảnh Juan, và anh bắt đầu muốn tìm hiểu nó. Cùng với quá trình tìm hiểu câu chuyện bí mật về cuộc hôn nhân của bố. Anh luôn cảm thấy một linh cảm, dường như chính mình đang tiến gần hơn đến thảm họa trong cuộc hôn nhân của mình. Trong lần đi hưởng tuần trăng mật ở La Habana, Juan và Luisa đã nghe được một cuộc nói chuyện của người đàn ông với người phụ nữ ở phòng kế  bên, họ đang mưu đồ giết hại người vợ của người đàn ông, người vợ đang ở Tây Ban Nha, để được đến với nhau. Câu chuyện này mở ra như một móc nối với các cặp đôi về sau: Berta (một người bạn gái của anh ở New York) và Bill (một kẻ lạ mặt làm quen với Berta qua chương trình quảng cáo), Ranz - bố của Juan - và người vợ đầu tiên, mà Juan luôn tưởng tượng ra. Tất cả những gì Juan biết về cuộc hôn nhân của bố mình là cuộc tự sát của người bác gái và cái chết của ông ngoại vì bị bệnh tim mà chỉ một số người biết nguyên nhân, ngoài ra không một ai, tất nhiên là cả anh. Mọi chuyện bí mật được hé lộ phần nào khi hai vợ chồng Juan và Luisa ngồi nói chuyện với một vị giáo sư, người bạn của bố Juan. Khiến cho hai vợ chồng cùng quyết định sẽ tìm hiểu ra câu chuyện của bố. Và đặt trách nhiệm đó vào Luisa, như một điều hiển nhiên, không thể khác, bởi cô là người duy nhất có thể gần gũi và nói chuyện một cách vui vẻ, thân mật được với Ranz, bố Juan. Khi Ranz trở về nhà sau một chuyến công tác, anh trở về mà không báo trước cho vợ. Và anh đã được chứng kiến cuộc nói chuyện đã được chính Luisa sắp xếp cho Juan có thể nghe thấy được. Ngồi ở mép giường trong phòng ngủ, cánh cửa khép hờ nhìn ra phòng khách, Juan đã được nghe toàn bộ câu chuyện của người bố với vợ mình, một câu chuyện kinh hoàng mà anh không bao giờ muốn biết, cuối cùng cũng đã phải biết. Đó là người bố anh đã giết chết người vợ đầu, một người phụ nữ Cuba, vì tình yêu với bác gái của anh, Teresa. Sau khi đã kết hôn với người phụ nữ Cuba, một cuộc hôn nhân không có tình yêu, ông gặp Teresa và hai người yêu nhau, bắt đầu những cuộc hẹn hò bí mật. Vì yêu Terera, và muốn kết thúc sớm cuộc hôn nhân với người phụ nữ Cuba kia, ông đã giết chết vợ, trong một lần khi mà suy nghĩ bệnh hoạn thoáng hiện trong đầu, và ông đã thực hiện luôn ngay lúc đó. Sau đó ông cưới Teresa, nhưng không lâu, trong một lần trên giường ngủ, ông đã tiết lộ bí mật ấy, bí mật về một việc đã âm thầm làm, không một ai biết cho Teresa. Sau khi biết câu chuyện kinh khủng mà chồng mình đã làm, Teresa cảm thấy kinh tởm ông, sợ hãi ông, và vì thời đó, họ không được phép ly hôn, bà đã tìm đến cái chết, bằng một cuộc tự sát trong phòng tắm, bằng chính khẩu súng của cha mình, ngay sau khi đi hưởng tuần trăng mật trở về. Một cái chết trong hoảng loạn, sợ hãi. Sau đó ông lấy người em gái của Teresa: Juana, mẹ của Juan sau này. Và bà đã im lặng, không hỏi đến nguyên nhân cái chết của chị gái mình cho đến hết cuộc đời. Ông bố của bà, sau cái chết của người vợ đầu người Cuba, đến cái chết của cô con gái thứ nhất của mình, Teresa, bây giờ lại đến đứa con gái thứ hai trở thành vợ của Ranz, ông luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, ông lo cho đứa con gái thứ hai của mình, sẽ bị lặp lại thảm họa giống như hai người vợ trước, vừa là một nỗi ám ảnh mê tín, vừa là sợ hãi chính Ranz, người con rể của mình. Cuộc sống luôn trong phấp phỏng, lo âu đã khiến ông nhanh chóng bị kết thúc cuộc đời. Câu chuyện tưởng như sẽ vĩnh viễn chìm vào im lặng, xóa mọi dấu vết của nó theo thời gian và sự im lặng của tất cả những người trong cuộc, nhưng rồi cuối cùng nó cũng phải quay trở lại, trong cuộc nói chuyện giữa người bố và người con dâu, và đây cũng là lần cuối cùng nó trở lại. Người bố sau bao nhiêu năm trời luôn tỏ ra là một con người phong độ, trẻ trung so với tuổi tác, luôn thanh lịch, hào hoa, như những gì ông cố tỏ ra, xí xóa toàn bộ mọi chuyện đã qua như chưa từng có gì để sống, nhưng sau cuộc nói chuyện này, như sau một lần quay lại đối diện với sự thật mình đã gây ra, ông đã thay đổi tất cả: trở nên già hơn, trầm tư hơn, buồn bã hơn. Điều đã làm và điều nghe thấy, điều được truyền đạt lại là hoàn toàn khác nhau. Một sự thật xảy ra với một sự thật được sắp xếp lại. Và điều đã xảy ra, một sự việc đã xảy ra, nếu như người ta im lặng, không nhắc tới nó, thì nó cũng không khác gì một việc chưa từng xảy ra, chưa từng có.  Đó là một chân lý mà tác giả đã xuyên suốt cả tác phẩm. Thảm họa đã xảy ra trong gia đình Juan, nó giống như một điều đã xảy ra, một điều đã làm. Nó gần như đã bị xí xóa hoàn toàn, không ai nhắc đến nữa, nghĩa là nó chưa từng tồn tại, cho đến một ngày câu chuyện được nhắc lại qua lời kể của người bố. Và sau khi tất cả nghi ngờ được hóa giải, tất cả bí mật được hé lộ, thì những mối linh cảm, lo sợ về một thảm họa cũng tan biến hoàn toàn trong Juan. Dù sau khi biết được sự thật kinh hoàng, có bất ngờ, có choáng váng, nhưng anh cũng cảm giác nhẹ nhàng hơn, như rũ bỏ được một gánh nặng. *** Một câu nói ám ảnh cả nhân vật lẫn người đọc: Nếu có một bí mật thì đừng bao giờ tiết lộ với ai. Những con người có thể sống với trái tim bạc nhược vì nghi ngờ, vì tò mò, vì dằn vặt, vì nỗ lực xóa bỏ quá khứ. Nhưng nếu bí mật được tiết lộ, có người sụp xuống mà cũng có người cảm thấy như vừa trút được gánh nặng... Người ta sống thế nào khi "trái tim bạc nhược"?... Juan làm nghề thông dịch viên trong các hội nghị cao cấp quốc tế, anh yêu và sau đó cưới Luisa, đồng nghiệp. Trong lễ thành hôn, người cha cảnh báo: Nếu như con đã có một bí mật nào đó, thì đừng bao giờ tiết lộ với ai. Lời cảnh báo đó đã thực sự ám ảnh Juan, và anh bắt đầu muốn tìm hiểu nó. Tất cả những gì Juan biết về cuộc hôn nhân của bố mình là cuộc tự sát của người bác gái và cái chết của ông ngoại vì bị bệnh tim mà chỉ một số người biết nguyên nhân. Ranz trở về nhà sau một chuyến công tác, không báo trước cho vợ. Anh đã được nghe toàn bộ câu chuyện mà bố kể với vợ mình, một câu chuyện kinh hoàng anh không bao giờ muốn biết nhưng cuối cùng cũng phải biết. Đó là bố anh đã giết chết người vợ đầu, một người phụ nữ Cuba, vì tình yêu với bác gái của anh, Teresa. Sau khi đã kết hôn với người phụ nữ Cuba, một cuộc hôn nhân không có tình yêu, ông gặp Teresa và hai người yêu nhau, bắt đầu những cuộc hẹn hò bí mật. Vì yêu Terera, muốn kết thúc sớm cuộc hôn nhân với người phụ nữ Cuba kia, ông đã giết chết vợ. Sau đó ông cưới Teresa, và ông đã tiết lộ bí mật về việc đã âm thầm làm cho Teresa biết. Sau khi biết câu chuyện kinh khủng, Teresa cảm thấy kinh tởm ông, sợ hãi ông, và bà đã tự sát trong phòng tắm, bằng khẩu súng của cha mình, ngay sau khi đi hưởng tuần trăng mật trở về. Sau đó ông lấy người em gái của Teresa: Juana, mẹ của Juan sau này. Và bà đã im lặng, không hỏi đến nguyên nhân cái chết của chị gái mình cho đến hết cuộc đời. Câu chuyện tưởng như sẽ vĩnh viễn chìm vào im lặng, xóa mọi dấu vết của nó theo thời gian và sự im lặng của tất cả những người trong cuộc, nhưng rồi cuối cùng nó quay trở lại, trong cuộc nói chuyện giữa người bố và con dâu. Người bố từ bao năm luôn tỏ ra phong độ, trẻ trung, thanh lịch nhằm xí xóa mọi chuyện đã qua để tiếp tục sống, nhưng sau cuộc nói chuyện này, ông trở nên già hơn, trầm tư hơn, buồn bã hơn. Một sự việc đã xảy ra, nếu như người ta im lặng, không nhắc tới nó, thì nó cũng không khác gì một việc chưa từng xảy ra, chưa từng có. Đó là một chân lý xuyên suốt cả tác phẩm. Sau khi tất cả nghi ngờ được hóa giải, tất cả bí mật được hé lộ, thì những mối linh cảm, lo sợ về một thảm họa cũng tan biến hoàn toàn trong Juan. Dù sau khi biết được sự thật kinh hoàng, có bất ngờ, có choáng váng, nhưng anh cũng cảm giác nhẹ nhàng hơn, như rũ bỏ được một gánh nặng. Nhưng bố anh thì khác... Cuốn sách này của Javier Marías - tác giả của Lãnh địa của Sói, Đường xuyên chân trời, Đấng Quân vương của thời đại, Thế kỷ, Người đàn ông đa cảm vừa đến với độc giả Việt Nam qua bản dịch của Lê Xuân Quỳnh. Gia Bách review     *** Nhà văn Javier Marías sinh năm 1951 tại Madrid (Tây Ban Nha). Ông vừa viết văn vừa giảng dạy tại các trường Đại học Oxford và trường Đại học Complutense Madrid. Ông đã được trao nhiều giải thưởng khu vực và quốc tế: Năm 1997, giải thưởng Sách Nelly ở Dortmund; năm 1998 giải thưởng Cộng đồng Madrid; năm 2000, giải thưởng Grizane Cavour ở Turín và giải thưởng Alberto Moravia ở Roma. Sách của Javier Marías đã được dịch sang ba mươi tư ngôn ngữ, xuất bản tại bốn mươi bốn nước với hơn năm triệu bản, gồm các thể loại:  Tiểu thuyết và truyện vừa như: Lãnh địa của Sói, Đường xuyên chân trời, Đấng Quân vương của thời đại, Thế kỷ, Người đàn ông đa cảm (giải thưởng quốc tế Ennio Flaiano), Hết thảy mọi linh hồn (giải thưởng thành phố Barcelona), Trái tim trong trắng (giải thưởng La Critica, giải thưởng l´Oeil et la Lettre, giải thưởng IMPAC international Dublín Literary), Ngày mai trên chiến trận anh hãy nhớ đến em (giải thưởng Fastenrath, giải thưởng quốc tế Rómulo Gallegos, giải thưởng Tổng giám mục Juan de San Clemente, giải thưởng Femenina Étranger và giải thưởng Mondillo Città di Palermo), Mặt tối của thời gian, Gương mặt ngày mai của em: sự cuồng nhiệt và ngọn giáo (giải thưởng Salambó) và Gương mặt ngày mai của em: vũ điệu và giấc mơ. Mời các bạn đón đọc Trái Tim Bạc Nhược của tác giả Javier Marías & Lê Xuân Quỳnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân
Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cho ấn hành một trong những tác phẩm nổi tiếng của Pearl Buck đã được trao giải Nobel Văn Chương năm 1938 với tựa đề: Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ. Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa. Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở: - Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không? Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng... Mời các bạn đón đọc Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân của tác giả Pearl S. Buck.
Uyên Ương Gãy Cánh
"Với những trang sách chứa chan tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên Ương Gãy Cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt. Từ đó, người đang yêu đọc nó và mỗi sớm mai "được thức dậy lúc rạng đông với con tim chắp cánh, đưa lời cảm tạ vì có thêm một ngày yêu thương nữa." (Nguyễn Ước) *** Bản Việt ngữ này dịch từ cuốn The Broken Wings do Anthony R. Ferris dịch từ nguyên tác của Kahlil Gibran bằng tiếng Ả Rập sang Anh ngữ. Chúng tôi đã ngẫu cảm chuyển tựa đề Việt ngữ thành Uyên Ương Gẫy Cánh vì thấy nó rất phù hợp với những trang tình sử này. Người Đông phương đã đem vào huyền thoại loài chim Uyên ương sống từng đôi trống mái, mỗi con chỉ còn một cánh, phải chấp nhau mà bay cùng. Chúng ăn ở với nhau tình thâm nghĩa trọng đến nỗi nếu một trong đôi lứa có mệnh hệ nào thì con kia đành xếp cánh tuyệt vọng trước những từng trời thăm thẳm. Chim Uyên Kahlil Gibran đã nhỏ từng giọt máu trong tim chép lại chuyện tình của chính mình như một chúc thư cho những tình nhân mai sau. Mối tình đầu của con người tài hoa đa cảm đó cũng là mối tình không-thể-thay-thế của ông; sau khi bị quê hương hắt hủi lưu đày biệt xứ, tác giả suốt đời lang thang phiêu bạt và không bao giờ lập gia đình. Đủ thấy vết thương ở tim tác giả còn đau buốt mãi cho đến lúc vĩnh viễn nhắm mắt. Nhưng con chim Uyên cao thượng khác thường đó không phải chỉ biết cất tiếng hót sầu thảm để oán trách Trời Đất đã ghen với tài tử và hồng nhan. Cho nên người đời còn được đọc những tác phẩm hào sảng hùng tráng khác của Kahlil Gibran. Đó chính là nhờ ngọn lửa thiêng bất khả diệt trong tâm hồn tác giả. Và cũng nhờ sự hy sinh cao quý của chim Ương: tự mình cắt lìa chiếc cánh bị thương để chim Uyên có thể bay đi đem tiếng hót tặng cho đời... Người dịch mong mỏi rằng quý vị độc giả sẽ vì mủi lòng cho mối tình tan tác của hai tâm hồn u uất mà rộng lượng gạt đi những thành kiến, nhất là trong địa hạt tôn giáo, khi quý vị đọc bản chúc thư tình yêu này. Nghĩa cử đó sẽ muôn ngàn lần cao đẹp hơn là... nếu có dịp quý vị đặt những bó hoa lên mồ của những Uyên Ương gẫy cánh... Sau cùng, chúng tôi xin mạn phép tặng bản Việt dịch này cho một phụ nữ Việt Nam - chúng tôi không tiện nêu lên - đã can đảm sống theo một luân lý tự mình tìm ra, giữa một xã hội còn vương lại quá nhiều gông cùm của thành kiến và hủ bại. N. N. M.   *** Khalil Gibran (tên đầy đủ tiếng Ả Rập Khalil Gibran Gibran, đôi khi viết là Kahlil) (6/1/1883 - 10/4/1931) là một nghệ sĩ, nhà thơ và nhà văn Liban. Sinh ra tại thị trấn Bsharri ở phía bắc Liban ngày nay (lúc đó là một phần của Mount Lebanon Mutasarrifate, Đế quốc Ottoman), khi còn trẻ ông di cư cùng gia đình đến Hoa Kỳ, tại đó ông nghiên cứu nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình, viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập. Trong thế giới Ả Rập, Gibran được coi là một kẻ nổi loạn trong văn học và chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là tâm điểm của sự phục hưng trong văn học tiếng Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, tách ra từ trường phái cổ điển. Tại Lebanon, ông được coi như một thiên tài văn học. Ông chủ yếu được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh vì cuốn sách The Prophet (tiên tri) năm 1923 của ông, một ví dụ đầu tiên của tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết bằng thơ văn xuôi tiếng Anh. Cuốn sách bán rất chạy mặc dù bị chỉ trích lúc đầu. Nó được phổ biến trong những năm 1930 và một lần nữa trong những năm 1960 với nền văn học chống văn minh xã hội. Gibran là nhà thơ có sách bán chạy nhất thứ ba của mọi thời đại, sau Shakespeare và Lão Tử. Tác phẩm: Uyên ương gãy cánh Đóa Hoa Khát Vọng Ngôn Sứ (Kẻ Tiên Tri) Trầm Tưởng Tiếng vô thanh và người tình vĩnh cửu Giêsu Con của Con người Hoài vọng phương Đông Mật khải Tình yêu tận hiến Mây trên đỉnh núi và kẻ mộng du Nhà Tiên Tri ... Mời các bạn đón đọc Uyên Ương Gãy Cánh của tác giả Kahlil Gibran.  
Người Đàn Ông Đào Hoa
Nguyên văn tiếng Anh: The Ginger Man Dịch giả: Nguyễn Bích Lan  Tác phẩm Người Đàn Ông Đào Hoa được xuất bản vào năm 1955. Cuốn tiểu thuyết này đã trở thành kiệt tác, khiến tên tuổi Donleavy nổi tiếng khắp thế giới.  Nhân vật chính - Sebastian Dangerfield là người đàn ông được mệnh danh là "người ngoài "cô đơn trong một xã hội đầy thù địch , một kẻ luôn bị rượu và gái dẫn dắt bởi sự tham lam và lòng đố kỵ. Tuy nhiên, đằng sau thói phóng túng và hoa đường đó vẫn ẩn chứa một trái tim dịu dàng và ước muốn có được mái ấm gia đình mà trước đó anh ta đã từ bỏ .... *** J. P. Donleavy sinh năm 1926 tại Brooklyn. New - York trong một gia đình người Ailen nhập cư. Ông tham gia hải quân Mỹ trong thế chiến thứ hai sau đó sang Ailen theo học tại trường đại học Trinity, ở Dublin.  James Patrick Donleavy là một tiểu thuyết gia và nhà viết kịch người Ireland / Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn tiểu thuyết The Ginger Man (Người Đàn Ông Đào Hoa), ban đầu bị cấm vì tục tĩu. *** Một ngày nắng hiếm hoi của mùa Xuân. Chiếc xe ngựa lóc cóc chạy trên đường Tara xuôi về khu bến cảng trong khi bọn nhóc mặt trắng đi chân đất đua nhau hò hét.  O'Keefe bước vào quán rượu, đặt mông lên một chiếc ghế cao. Lúc lắc chiếc ba lô trên lưng , anh ta đưa mắt nhìn Sebastian Dangerfield.  - Bồn tắm ở đó to đùng. Hai tháng tớ mới tắm. Càng ngày tớ càng giống người Ailen. Muốn vào tắm cậu phải đi qua một cái cửa quay, giống như đi tàu điện ngầm ở Mỹ vậy.  - Cậu đi hạng nhất hay hạng ba, Kenneth?  - Hạng nhất. Tớ đến vỡ mông vì phải ngồi vò đồ lót và trong những căn phòng ẩm ướt ở Trinity thì chẳng cái quái gì có thể khô được. Cuối cùng tớ phải mang khăn tắm ra hiệu giặt là. Ở Havard tớ có thể tắm thỏa thích dưới vòi sen và có thể thọc chân vào đồ lót sạch sẽ.  - Cậu sẽ được uống gì đây nhỉ, Kenneth?  - Ai trả tiền?  - Tôi vừa mới đem cái lò sưởi điện ra hiệu cầm đồ.  ​​​​​​​ Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Đào Hoa của tác giả J. P. Donleavy.
Máu Hồng Y
Brian Moore, người được văn hào Graham Greene xem là một trong những tiểu thuyết gia đương thời mà ông ái mộ, sinh năm 1921 tại Belfast, Bắc Ireland. Cuối Thế Chiến Hai, ông phục vụ trong Bộ Vận tải Quân sự của Anh. Sau chiến tranh, ông làm việc cho Liên Hiệp Quốc ở châu Âu rồi di cư tới Bắc Mỹ năm 1948, làm ký giả và nhập tịch Canada. Từ năm 1955, ông nổi tiếng trên văn đàn với tác phẩm The Lonely Passion of Judith Hearne - Sự Thương Khó Hiu Quạnh Của Judith Hearne, một chuyện kể đầy buốt nhói về nỗi cô đơn và sự tan vỡ các ảo tưởng. Hai cuốn tiểu thuyết kế đó: The Luck of Ginger Coffey - Vận Số Của Ginger Coffey, 1975 và The Great Victorian Collection - Bản Sưu Tập Quí Báu Thời Victoria, 1975 đều được giải thưởng văn chương của Phủ Toàn Quyền Canada. Các cuốn tiểu thuyết khác của ông như Catholics - Người Công Giáo (1972), The Mangan Inheritance - Quyền Thừa Kế Mong Manh (1979), đều nằm trong danh sách đề cử nhận giải thưởng văn học danh tiếng Booker. Riêng cuốn Máu Hồng Y, tên nguyên tác là The Color of Blood - Màu Của Máu, 1987, cùng một lúc được hai giải thưởng, The Sunday Express Book of the Year Award và Canadian Authors Association Literary Award for Fiction. Ông hiện cùng gia đình sống ở Malibu, California, Hoa kỳ. Tuy tác giả không nêu tên quốc gia bối cảnh Máu Hồng Y nhưng xét theo tình tiết, có lẽ đó là Tiệp Khắc, một nước Trung Âu mà đại đa số dân chúng là người Công giáo. Từ năm 1948, Tiệp Khắc (Czech) bị đảng Cộng sản cai trị, và cùng với các nước Cộng sản Đông Âu khác, trở thành chư hầu của Liên bang Sô Viết tàn độc. Cuộc quật khởi “Mùa xuân Praha” 1968 thất bại trước đoàn xe bọc sắt của Sô Viết. Người Nga nhân đó chiếm đóng Tiệp Khắc và kìm kẹp nghiệt ngã hơn. Mãi đến 1989, nhờ chuyển biến ngay tại Nga và vận hội mới của các nước Đông Âu, cuộc “Cách mạng nhung” mới thành tựu, bắt đầu thể chế tự do dân chủ mà không có bạo động, đổ máu. Cuốn Máu Hồng Y, xuất bản năm 1987, viết về cuộc xung đột tối hậu giữa Giáo hội Công giáo với Nhà nước mà thực chất chẳng liên quan tới “Tình yêu Thiên Chúa”. Khi sắp bùng lên một cuộc nổi loạn nhằm lật đổ chế độ Cộng sản, Hồng y giáo chủ Stephan Bem thấy mình bị mắc kẹt và bí lối trong một mạng lưới của những lừa lọc, bạo động và dàn dựng chính trị không chút xót thương. Sau khi may mắn thoát khỏi một lần mưu sát tàn bạo và một cuộc bắt cóc mờ mịt, ông trở thành kẻ chạy trốn, không biết cất chân bước về hướng nào vì bốn phía đều trùng điệp kẻ nghịch. Tuy bối cảnh Máu Hồng Y không phải là Việt Nam nhưng đi vào tác phẩm, độc giả Việt có cơ hội nhìn lại những vấn đề thiết thân như bản chất và cùng đích của tôn giáo; phẩm chất của con người tôn giáo; tương quan giữa tôn giáo và chính trị trong lòng dân tộc… Độc giả cũng sẽ bắt gặp những bóng dáng không xa lạ gì với hoàn cảnh Việt Nam. Một chế độ toàn trị; một mặt xem tôn giáo như một thế lực gây thương tổn và sỉ nhục chính quyền; một mặt muốn sử dụng vài phần tử tôn giáo làm kẻ chính trị ngoại vi cho mình. Những tín đồ “thuần thành” và những tín đồ “yêu nước”. Các khuynh hướng chính trị tuy đối kháng nhau nhưng đều muốn dùng tôn giáo và tín đồ của nó để làm sức lực và phương tiện cho cái gọi là “phục vụ quyền lợi của quốc gia dân tộc” mà thực chất chỉ là tranh đoạt quyền lực… *** Vào khoảng giữa chín giờ và chín giờ rưỡi tối, chiếc xe hơi đưa ông về Nhà Chung chạy vào Quảng trường Tuyên ngôn Độc lập. Trời mưa, mưa mùa hạ. Trong quảng trường, các bức tượng, các mái nhà và các đài tưởng niệm sũng ướt, trơn mượt; vỉa hè bóng loáng. Ông bấm chiếc đèn pin nhỏ bằng cây bút rọi vào kẹp hồ sơ, không phải để coi lại những điều ông vừa ghi trong cuộc họp mà là để đọc cuốn sách nhỏ của thánh Bernard thành Clairvaux:[1] Bạn có nghĩ rằng con người bẩm sinh với lý trí mà không sống theo lý trí của mình thì, theo cách nào đó, không thua kém gì thú vật? Khi thú vật không tự chế được bằng lý trí thì nó có lý do gì về mặt tự nhiên, nó không được ban cho tặng phẩm ấy. Nhưng con người mà sống như thế thì không gì có thể biện minh được. Đôi lúc trong khi đọc thánh Bernard, ông có thể buông rơi thế giới đầy trách vụ của mình để rút vào cõi thinh lặng, nơi Thiên Chúa chờ đợi và phán xét. Nhưng lúc này, cùng với cảm giác đó, ông thấy có một chiếc xe hơi màu đen đang lạng sát vào xe mình. Ông quay mặt ngó. Người lái xe đen là một phụ nữ đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Trên chiếc ghế bên cạnh cô, một người đàn ông rậm râu hai tay cầm súng lục, giơ lên, nhắm thẳng mặt ông. Trong chớp mắt, Joseph, tài xế của ông, quặt mạnh tay lái, cố ý táng xe mình vô chiếc xe đen. Sức ly tâm làm người ông bật lên, quay tròn và văng ra ngoài. Người ông rơi uỵch xuống vệ đường ẩm ướt. Trong một lúc lâu, ông nằm đau đớn, nửa mê nửa tỉnh, mắt nhìn lên bóng tối trời đêm mịt mùng. Có tiếng còi xe hơi; ông nghe bước chân tiến tới gần. Từ phía trên ông, một phụ nữ trẻ đang ngó xuống, đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Mặt cô ứa máu, ghim đầy mảnh kính nhỏ li ti. Ông cố nhỏm dậy, thấy trên đùi cô loang lổ vết đen đặc, chỗ máu ứa ra thấm loang qua váy. “Cô không sao chứ?” ông hỏi, một cách ngớ ngẩn và bối rối. “Cô bị thương ư?” Không trả lời, cô xoay người đi thẳng, bước rất lẹ tuy khập khễnh, nhắm hướng Đường Trung Tâm Chợ. Dòng xe cộ chạy vào quảng trường bị cuốn hút bởi tai nạn, chậm dần và ngừng hẳn. Ông đứng lên, xâm xoàng. Khi mắt đã thôi mờ mịt, ông thấy có người đàn ông đang ngồi trong một chiếc xe, nhìn ông. “Ngài…” người ấy nói, như thể đang suy tính gọi ông theo danh xưng nào. “Cha không sao chứ… thưa Đức cha?” ... Mời các bạn đón đọc Máu Hồng Y của tác giả Brian Moore.