Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thanh Tra Maigret Và Ngài Bộ Trưởng - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. Mời các bạn đón đọc Thanh Tra Maigret Và Ngài Bộ Trưởng của tác giả Georges Simenon
Thám Tử Yêu - Bùi Anh Tấn
“Một thế giới không có đàn bà” đã đạt được những thành công vang dội và làm nên tên tuổi của nhà văn công an Bùi Anh Tấn, song vẫn có không ít những sự phản ứng từ dư luận. Không vì thành công mà tự mãn, không lấy thất bại làm khó khăn, Bùi Anh Tấn vẫn trung thành và giữ vững ngòi bút với đề tài đồng tính. “Thám tử yêu” là tiểu thuyết mới nhất của Bùi Anh Tấn viết đề tài này như một lời khẳng định rằng con đường tác giả đang đi là đúng. Thám tử yêu – nghe qua cái tên và lật giở vài trang đầu người đọc cảm nhận ngay yếu tố “thám tử” từ anh chàng Nguyễn Nguyên và hương vị “yêu” ngọt ngào, lãng mạn giữa Minh Mẫn – nhà thiết kế thời trang trẻ với Vũ Hiệp – một thiếu úy công an. Nhưng càng về sau, từng trang văn của Bùi Anh Tấn lại mang đến cho người đọc những cảm giác thú vị với tình tiết bất ngờ mang đậm màu hình sự như chính cái nghề của tác giả. Nguyễn Nguyên – một thám tử tư của Công ty Thám tử Việt. Được sếp giao cho bản hợp đồng của nữ khách hàng là Tuyết Lan với nhiệm vụ theo dõi và điều tra một doanh nhân người Đài Loan – Bạch Vân. Ông ta là một doanh nhân có tiếng về sự giàu có và cả cách sống khép kín đến đáng sợ. Giữa Bạch Vân và Tuyết Lan đã từng có mối quan hệ thân thiết trong thương trường và cả chuyện tình cảm nhưng Tuyết Lan sớm nhận ra đằng sau vẻ bề ngoài thân tình đó còn ẩn chứa điều gì khó nói và nàng cảm thấy lo sợ. Đó là lý do Tuyết Lan tìm đến Công ty Thám tử Việt. Với Nguyễn Nguyên, trong sự nghiệp làm thám tử có lẽ đây là hợp đồng khó nhất với anh, nhiều lúc anh toan bỏ cuộc. Nhưng anh và Tuyết Lan đã kịp nhận ra giữa họ không chỉ là mối quan hệ chủ nhân – thám tử mà còn là tình yêu! Minh Mẫn, một nhà thiết kế thời trang trẻ có tiếng tăm ở đất Sài Thành dù chỉ mới bước qua tuổi 25. Tài năng, giàu có và cả vẻ đẹp căng tràn sức sống của chàng thanh niên đã đốn tim không ít cô nàng nhưng Minh Mẫn vẫn chưa rung cảm trước bất kỳ ai cho đến khi gặp Vũ Hiệp…. Trong một lần truy đuổi tên cướp, không may Vũ Hiệp đâm phải Minh Mẫn. Họ quen nhau từ đó và cũng bắt đầu tình yêu từ đó… Ban đầu còn là những ngại ngùng, giấu giếm nhưng rồi dường như lý trí không thắng được hai trái tim đang khát khao yêu đương và khi yêu người ta không còn quan tâm tới những thứ xung quanh nữa. “Tình yêu là gì? Chẳng ai định nghĩa nổi, ừ, hãy yêu đi rồi biết.” Bạch Vân – Giám đốc Công ty kinh doanh Tổng hợp Đại Nhật, một doanh nhân lớn, có tiếng và cũng là mục tiêu quan trọng trong bản hợp đồng của Công ty Thám tử Việt với Tuyết Lan. Càng tìm hiểu, Nguyễn Nguyên càng bất ngờ bởi Bạch Vân không chỉ là một Giám đốc mà còn có mối quan hệ mật thiết với Trúc Liên Bang – bang hội nổi tiếng trong giới giang hồ Đài Loan. Trong Trúc Liên Bang còn có sự xuất hiện bí ẩn và đầy bất ngờ của Thanh Long, bạn đồng nghiệp và cũng là người từng theo đuổi Minh Mẫn trước khi anh đến với Vũ Hiệp. Nhưng ở Trúc Liên Bang, một hình ảnh hoàn toàn khác, Thanh Long là tay sát thủ máu lạnh được đào tạo bởi Yu – người đàn ông quyền lực nhất. Mỗi nhân vật, mỗi tình huống, mỗi hoàn cảnh dưới ngòi bút của Bùi Anh Tấn dường như là độc lập nhưng giữa chúng lại được gắn kết với nhau bằng một sợi dây vô hình để rồi người đọc chợt bất ngờ với một kết thúc: Vũ Hiệp chính là Nguyễn Nguyên và câu chuyện tình ngọt ngào, lãng mạn của anh với Minh Mẫn trong xuyên suốt câu chuyện chỉ là những hồi ức… Vì sao Vũ Hiệp lại trở thành Nguyễn Nguyên và liệu rằng khi nhận ra sự thật này Nguyễn Nguyên có chấp nhận cuộc sống hiện tại với Tuyết Lan hay sẽ tìm về quá khứ, tìm về với Minh Mẫn? Bạch Vân, Thanh Long hay Yu sẽ dẫn dắt Trúc Liên Bang về đâu? Những mảnh ghép vụn vặt sẽ tạo thành bức tranh cuộc sống tuyệt vời khi người đọc cố gắng đến mảnh ghép cuối cùng dưới lối dẫn dắt tài tình của nhà văn Bùi Anh Tấn. *** Xếp cao một mét năm mươi bảy, nặng hơn chín mươi ký, số cân không cụ thể bởi tùy vào bữa ăn hôm trước ăn nhiều hay ít calo. Ông có một gương mặt đặc trưng dân châu Á mũi tẹt, da vàng, tuy nhiên với sếp là chiếc mũi hình quả cà chua lúc nào cũng chín mọng, luôn gây chú ý cho người đối diện. Giọng sếp chuẩn như ca sĩ đã luyện qua thanh nhạc, trầm bổng lên xuống cao trào tùy theo cơn giận dữ hay vui vẻ. Nhưng có lẽ đối với tất cả nhân viên tại công ty Thám tử Việt này, ấn tượng nhất với sếp chính là đôi mắt tròn sáng rất tinh quái, ẩn sâu sau hàng lông mày rậm rì che khuất. Ánh mắt ấy lúc lim dim hiền hòa, lúc sáng rực như lửa cháy và lúc kèm nhèm như một ông lão vậy. Bụng phệ, dáng đi lạch bạch, nhìn xa sếp giống ông địa, đó là kết luận của tất cả nhân viên dưới quyền.   Khác với những công ty kinh doanh cần mặt tiền bề thế và luôn có một chiếc bảng hiệu to đùng, thậm chí còn gắn đèn sáng nhấp nháy, công ty Thám tử Việt lại nằm lút sâu trong một cái hẻm, đó là một tòa nhà ba tầng cũ kỹ, cũ đến nỗi người ta có cảm giác nó sẽ bị đập đi bất kỳ lúc nào. Chiếc bảng tên bằng đồng đã hoen rỉ, nhìn thật đáng chán. Cũng không hiểu tại sao sếp lại đưa công ty vào nơi này, dù với khả năng kinh doanh, công ty thừa sức nằm tại những cao ốc lớn kìa. Ông tiết kiệm chăng, cũng không hẳn, làm thần bí chăng, chưa chắc, hỏi, chẳng bao giờ sếp giải thích mà chỉ nhếch nhếch mép thôi, xua tay với thói quen. - Trò vặt vãnh, anh chị đừng quan tâm đến điều thừa, hãy chú ý vào công việc đi. Thế nhưng trái với vẻ bề ngoài xoàng xĩnh của tòa nhà, bên trong lại được trang bị hết sức hiện đại với tất cả những máy móc hiện đại nhất phục vụ cho công việc. Dĩ nhiên là internet, truyền hình cáp với tất cả các kênh, chưa kể các loại máy móc hiện đại khác cần thiết cho nghề thám tử đều được công ty đặt hàng từ nước ngoài về... Đấy là niềm mơ ước và ghen tỵ của các công ty khác. Ngày Nguyễn Nguyên đến đây nộp hồ sơ xin việc, anh gãi đầu mãi ngắm nghía tòa nhà này bằng ánh mắt đầy nghi hoặc, không lẽ đây là trụ sở của công ty Thám tử Việt rất nổi tiếng đó sao. Anh cứ hình dung ra phải là một trụ sở to trên một tòa nhà hào nhoáng nằm ở vị trí trung tâm thành phố, người ra vào tấp nập, với những gương mặt nghiêm trọng đeo kính đen như bảo vệ tổng thống Mỹ hay điệp viên 007 chẳng hạn. Khi phỏng vấn nghe anh bày tỏ sự nghi ngờ này, sếp cười khà khà, cậu về viết tiểu thuyết hơn là làm nghề thám tử tư. Thế hoạt động thám tử của chúng ta liệu có sai luật pháp không thưa chú? - Nguyên dè dặt hỏi. Hoạt động thám tử của chúng ta luôn đi đúng khuôn khổ của pháp luật đã đặt ra, tuy nhiên hiện nay chưa có một hành lang cụ thể cho một ngành nghề này. - Sếp nhún vai - Chúng ta phải hiểu không phải vụ việc nào chính quyền cũng nhúng tay vào cả. Ví dụ theo dõi chồng, bạn tình có chung thủy hay không? Con cái mình có quậy phá ngoài giờ học không? Công ty đối thủ có chơi xấu mình không? Kinh doanh có ổn không... Tất nhiên chính quyền không có thời gian làm việc này, mà chúng ta, những thám tử sẽ làm. Thế nên nói mặt nào đó hoạt động thám tử sẽ giúp chính quyền nhẹ được một phần nào đối với các vấn đề không hẳn liên quan đến luật pháp. Nhưng cháu vẫn nghĩ, hoạt động của thám tử rất dễ dẫm chân lên luật pháp - Nguyên bướng bỉnh nói. Xã hội ta hiện luôn tồn tại quan niệm, lo sợ vì mới mẻ, không kiểm soát được mà cấm đoán, thực tế đó là một sai lầm. Đó chính là sự luẩn quẩn giữa quản lý và kiểm soát - Sếp cười khan - Nhưng về nguyên tắc cái gì luật không cấm tức được làm, tuy nhiên nói thế thôi chứ rất khó, bằng hoạt động của mình chúng ta sẽ chứng minh cho các cơ quan quản lý hiểu thôi cháu à. Chúng ta luôn luôn tôn trọng luật pháp, tuân thủ những quy định của luật pháp. Thế rồi, sếp thảy một tờ giấy tới trước mặt anh, nói dịu dàng nghe như hát: Xem đi cháu... ưmmm... Những ngón tay thô, to của sếp rà trên mặt tờ giấy, giảng giải: Trong nghề của mình, điều đầu tiên phải quan tâm đó là sau khi ký hợp đồng rồi, điều đầu tiên phải chú ý là Giữ mật tuyệt đối thông tin của khách hàng - Sếp nhún vai - Khi khách hàng tìm đến chúng ta để nhờ vả, chắc chắn họ có nỗi khổ riêng, nỗi khổ này không thể bày tỏ cùng ai mà không thể nhờ chính quyền giải quyết được, vì thế mới tìm đến chúng ta. Và những bí mật này sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, công việc, danh vọng của họ... Thế nên, điều tiên quyết đầu tiên với một thám tử, chính là phải giữ bí mật thông tin cho khách hàng. Điều này còn được gọi là đạo đức nghề nghiệp, nó sẽ đi kèm với việc Nghiêm cấm nhận hối lộ từ khách hàng. Rất nhanh sếp làm động tác đếm đếm tiền trên bàn, tí nữa Nguyên phì cười. Sếp nhấn nhá giọng vẻ ngán ngẩm. ... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Yêu của tác giả Bùi Anh Tấn.
Đôi Hoa Tai từ Frankfurt - Reg Wright
Richard Walton lại gặp rắc rối. Anh bị mất việc, và phải mượn tiền của chị gái, Jennifer - một lần nữa. Và bây giờ anh lại biến mất. Jennifer đang tìm kiếm anh ta, và cảnh sát cũng vậy. Cả hai đều có một số câu hỏi muốn hỏi anh ta. Tại sao anh bị mất việc? Tại sao anh lại bay đến Frankfurt? Ai đã cho bạn gái của anh ta những chiếc bông tai vàng rất đắt tiền? Chỉ có Richard mới có thể trả lời những câu hỏi này. Nhưng không ai có thể tìm thấy Richard?! *** Jennifer nhìn lên đồng hồ treo trên tường trong phòng đợi, gần tám giờ rưỡi rồi mà đèn trong phòng bác sĩ Gibson vẫn còn cháy sáng. Mình trễ mất thôi, cô tự nhủ, sao ông ta không nhanh lên nhỉ? Phòng khám buổi tối luôn đông vào những ngày thứ năm, và đặc biệt là vào ngày hôm nay. Cô cất vội mấy tờ báo vào tủ, cởi áo choàng trắng và cất luôn vào đó. Lúc cô dang tắt đèn thì có tiếng chuông cửa reo. Ồ không, có bệnh nhân nữa thì xui quá, nhất là vào giờ này. Cô chạy lại mở cửa. Bên ngoài tối, nhưng cô vẫn có thể thấy một bóng người đàn ông đứng đó hai tay thọc vào túi. Hắn ta nghiêng đầu và ánh đèn hắt vào khuôn mặt. - Richard! - cô ngạc nhiên kêu lên - Em làm gì ở đây vậy? - Em vô chút xíu được không? Rồi chẳng đợi trả lời, hắn đẩy cô qua và bước vào. Jennifer quay sang em trai, thường thì cô rất vui khi Richard đến, nhưng không phải lúc này. - Chị rất tiếc, nhưng em không thể ở đây được. Chị đang rất vội, chị có hẹn ăn tối với Claire và... Nhưng cô im bặt khi nhìn vào mắt Richard, chúng trông thật mệt mỏi và đầy lo lắng. - Có chuyện gì vậy? - cô hỏi. Ngay khi ấy có tiếng bác sĩ Gibson hỏi vọng ra. - Tôi nghe có tiếng chuông. Phải bệnh nhân không? - Không, đó là Richard, em tôi. Rồi cô quay sang Richard. - Bộ có chuyện gì hả? - cô hỏi gặng. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Hoa Tai từ Frankfurt của tác giả Reg Wright.
Thần Chết Trong Rừng
Một vụ điều tra và phá án mà nhân vật chính - nữ điều tra viên - là một người tàn tật. Bị liệt tứ chi, bị mù và câm sau một vụ khủng bố, Elise phải sống cuộc đời còn lại trên chiếc xe đẩy. Nhưng cô không mất hết mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài, vì cô còn có thể nghe được. Một lần, trong khi Elise đang ngồi chờ người giúp việc của mình đi chợ, một cô bé 7 tuổi- Virginie- đã đến làm quen và kể với cô về những vụ giết người xảy ra trong vùng mà nó chứng kiến hay được nghe kể lại. Nạn nhân những vụ án mạng ấy toàn là trẻ con, trong đó có anh trai cô bé. Hung thủ chính là “Thần Chết ở trong Rừng”, - cô bé kể, - và vẫn chưa kết thúc những tiết lộ của mình... Thần Chết trong rừng là  tiểu thuyết trinh thám hình sự rất nổi tiếng, được trao giải thưởng lớn dòng văn học trinh thám – hình sự  Pháp năm 1997. Truyện đã được 18 nước trên thế giới mua tác quyền. *** Trời vẫn mưa mãi không dứt, những vệt nước lăn dài trên cửa kính trông cứ như những dóng nước mắt chảy mãi, chãy mãi không ngừng. Tôi đang ngồi trên chiếc giường màu trắng xinh xắn của tôi. Ngày mai, lúc 8 giờ, giáo sư Combré sẽ thử cơ hội cuối cùng. Chú tôi đã thu xếp mọi chuyện. Tôi chỉ còn mỗi một việc là hy vọng mà thôi. Nhưng ngay cả khi cuộc phẫu thuật không có kết quả như ý muốn thì tôi vẫn biết rằng mọi chuyện đối với tôi từ rày trở đi sẽ tốt hơn. Việc khám nghiệm tử thi đã cho thấy Paul Fansten đã bị chết do khoảng hai mươi nhát dao với lưỡi dao rất mỏng đâm vào người. Tuần trước, Hélène và Paul đã được chôn trong phần đất tại nghĩa trang mà anh ta đã mua. Con trai anh ta, Renaud, cũng đã được chôn ở đây. Ai cũng cho rằng việc một người vợ đã giết chồng và con của chồng lại được chôn cùng với bố con họ là thật là ngược đời, nhưng họ đã kết hôn một cách hợp pháp cho đến giờ, vẫn chưa có một bản án nào kết án Hélène là thủ phạm. Thêm nữa, chuyện đó cũng tiện cho tất cả mọi người, vì nó làm giảm đáng kể chi phí tang ma. Mọi người thường hay quên luôn những chi tiết ghê tởm đó, nhưng chính những chi tiết đó lại buộc bạn phải sống lại cuộc sống bình thường, với những mối lo lắng nho nhỏ cùng những niềm vui to lớn của nó, hoặc chỉ là một mặt nào đó mà thôi. Ông Guillaume đã hỏi cưới cô Yvette ngay khi cô ấy mở mắt. Cô đã đồng ý ngay trước khi lại thiếp đi. Virginie đang được theo dõi trong khoa điều trị bệnh trẻ em. Trông vẻ bề ngoài thì con bé có những hành động hoàn toàn bình thường đối với một đứa trẻ đã sống trong hoàn cảnh như vậy. Theo như bác sĩ tâm lý thì con bé “hơi quá bình thường một chút”. “Chủ ý thì trong gia đình cũng có một ai đó bình thường”, - Tony đã nói vậy. Nói về Tony… Thanh tra Mendoza đã chờ cho đến khi Tony được thẩm phán trả tự do – nhờ lời khai của nhân chứng Jean Guillaume – để dần cho anh ta một trận. Họ đã vật lộn với nhau trên những bậc thang dẫn đến phòng xử án. Hình như là Mendoza bị nứt môi, còn Tony thì bị một vết bầm ở mắt phải. Tony còn nói đùa về chuyện đó khi bắt tay tôi rồi ngồi xuống đầu giường của tôi. Bàn tay to bè của anh đặt lên bàn tay tôi, ngón tay của tôi đan vào ngón tay anh. Nhưng vì lẽ gì mà tôi lại bị “dính” vào gã điên này chứ? Tôi không biết, nhưng tôi chấp nhận anh không hối hận. Một bến bờ của cuộc sống xưa cũ của tôi đã lùi xa, và Benoît đang ở đó, ở bến bờ đó, hình bóng anh mờ dần, mờ dần. Tôi vẫn còn sống. Còn sống. Và, chỉ sáng mai thôi, tôi sẽ được biết liệu cuộc phẫu thuật có thành công không. Mời các bạn đón đọc Thần Chết Trong Rừng của tác giả Brigitte Aubert.