Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Làm Bạc Giả

Paris, những năm đầu thế kỷ 20, định mệnh đã mang tên thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt… Không có một cốt truyện rõ ràng, không có một đường dây xuyên suốt, từ đầu đến cuối Bọn làm bạc giả là dòng chảy tùy hứng của số phận mà qua đó, bằng ngòi bút tài tình André Gide đã tạo nên một thế giới nhân sinh sâu thẳm, đi tới tận cùng vùng tăm tối trong bản thể con người. Được xem là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của Gide, cuốn sách này hàm ẩn cái chân lý văn chương trác tuyệt của ông và nhờ vậy mà trở nên bất tử. Nhận định "Bọn làm bạc giả là một cuốn bách khoa hiếm hoi về sự hỗn hoạn, nhu nhược và tuyệt vọng của nhân loại." - Nhà xuất bản Penguin Books "Tiểu thuyết của Gide mải mê chiêu đãi chúng ta một bữa tiệc đầy ắp những nốt nhạc và thanh âm, một mạng lưới chồng chéo những âm mưu và định mệnh. Nhưng sự hòa trộn đó không tạo nên một bản tạp âm chối tai mà là một phức điệu đích thực, một sự hỗn độn trong trật tự, hệt như một khúc fugue đầy biến động và vô phương hướng của Bach." - Giáo sư Robert Wexelblatt *** “Hình như họ muốn làm chúng ta tưởng rằng con người không có lối thoát nào khác ra khỏi tính ích kỷ, ngoài một lòng vị tha còn gớm ghiếc hơn! Tôi cho rằng nếu có cái gì đấy bỉ ổi hơn con người, và đê hèn hơn, thì đấy là số đông người. Chẳng có lí lẽ nào có thể thuyết phục được tôi là đem cộng những cá thể nhớp nhúa lại sẽ cho ra được một tổng thể tuyệt vời. Chẳng lần nào bước chân lên xe điện hoặc xe lửa mà tôi không ao ước xảy ra một tai nạn khủng khiếp biến cái đám người rác rưởi đó thành một đống nhão nhoét; ồ, kể cả tôi, tất nhiên…” ------------------- “Bọn làm bạc giả” là cuốn tiểu thuyết được coi như dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của André Gide. Chính bản thân tác giả cho rằng, đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong sự nghiệp của ông, bất chấp cả việc nó được viết  khi A. Gide đã 60 tuổi và có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ trước đó. “Bọn làm bạc giả” có nhiều tầng hình ảnh được đan lồng với nhau: những thiếu niên bị sa đà vào cuộc hoan vui; sự lưu hành tiền giả khiến người ta phải đặt ra câu hỏi: tiền giả chỉ đơn giản là tiền hay là sự phơi bày cảm xúc dối trá của con người; chuyện ngoại tình của các ông bố bà mẹ; chuyện sáng tác văn chương, chữa bệnh tâm thần bằng phương pháp tâm lí,…những vấn đề mang tính chất thời sự nóng hổi lúc bấy giờ. Cuốn tiểu thuyết mở ra từng dòng tự sự về thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt…Các nhân vật được xây dựng rất phức tạp với nhiều lớp lang về xuất thân, tư tưởng, hành động, tái hiện một bức tranh toàn cảnh đời sống tầng lớp thị dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.  “Bọn làm bạc giả” không được sắp xếp theo trình tự thời gian nhất định mà bị phá vỡ khi A.Gide đã đưa vào tác phẩm những trang nhật ký của nhân vật nhà văn Édouard. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm và tác phẩm tiếp theo đây cũng có cái tên “Bọn làm bạc giả”, nói cách khác, cuốn sách của A.Gide là tiểu thuyết bên trong tiểu thuyết .  *** Bernard tự nhủ: - Bây giờ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang thì phải. Hắn ngẩng đầu nghe ngóng. Không phải: cha và anh hắn ở lại tòa án, mẹ hắn bận đi thăm viếng, chị gái đi dự hòa nhạc; còn thằng út, thằng Caloub, thì trường học đã cầm chân hắn mỗi ngày sau khi bãi trường. Bernard Profitendieu ở nhà hì hục học thi tú tài, còn ba tuần lễ trước mặt hắn nữa thôi. Gia đình tôn trọng sự tịch mịch của hắn, ngạ quỷ thì không. Bernard đã cởi áo veston mặc ngoài mà vẫn khó thở. Từ khung cửa sổ mở ra đường, chỉ có sức nóng ùa vào. Trán hắn nhễ nhại. Một giọt mồ hôi chảy xuống sống mũi, và rơi xuống lá thư hắn đang cầm nơi tay. Hắn nghĩ: “Diễn trò nước mắt rồi đây. Nhưng thà chảy mồ hôi còn hơn là chảy nước mắt.” Phải, ngày tháng đã rành rành. Không nghi ngờ vào đâu được: thư liên quan đến Bernard, chính hắn. Thư gửi cho mẹ hắn, một lá thư tình mười bảy năm xưa, không kí tên. - Chữ cái này là nghĩa gì? Chữ V, cũng có thể là N lắm chứ... Có nên hỏi mẹ không?... Mình hằng tin tưởng ở sự biết điều của mẹ. Mình tự do tưởng tượng một ông hoàng nào đó. Còn hơn nếu vỡ lẽ mình là con của một tên ma cô nào thì sao? Không biết cha đẻ là ai, mình mới đỡ sợ phải giống ông ta. Mọi cuộc điều tra đều sinh trói buộc. Đáng kể chăng là sự nhẹ nhõm. Đừng đào sâu. Hôm nay thế cũng đủ cho ta rồi. Bernard gấp thư lại. Thư cùng một khổ giấy với mười hai lá thư khác trong gói. Một dải màu hồng buộc lại tất cả mà hắn không cần phải tháo ra, hắn chuồi thư vào đó để thắt cả xấp lại như cũ. Hắn đặt xấp thư vào chiếc hộp nhỏ rồi đặt chiếc hộp vào ngăn kéo bàn. Ngăn kéo không phải mở ra, nó đã tiết lộ bí mật bằng ngỏ trên. Bernard chắp nối những miếng rời của mặt gỗ đỡ tấm mã não phủ lên. Hắn nhẹ tay thận trọng, sập tấm mã não xuống, đặt lại lên trên đó hai giá đèn bằng pha lê cùng với chiếc đồng hồ kềnh càng mà hắn vừa mới đem ra sửa chơi. Đồng hồ gõ bốn tiếng. Hắn vặn lại cho đúng giờ. - Hai cha con ông dự thẩm và ông luật sư không về trước sáu giờ đâu. Ta đủ thì giờ. Thế nào cũng phải cho ông dự thẩm về thấy trên bàn tờ thư đẹp đẽ trong đó ta sẽ nói ý nghĩa sự ra đi của ta. Nhưng trước khi viết, mình thấy rất cần giải thông tư tưởng một chút đã và đi tìm gặp thằng bạn Olivier để cầm chắc một chỗ đậu, ít nữa là tạm thời. Olivier bạn thiết của ta ơi, đã đến lúc ta thử lửa tính chiều lòng của cậu và để cho cậu chứng tỏ giá trị của cậu với ta. Cái đẹp trong tình bạn của hai đứa chính là từ trước tới nay chúng ta chưa hề lợi dụng nhau. Nào! Yêu cầu giúp đỡ một việc ngộ nghĩnh chắc không đến nỗi tẻ nhạt. Phiền nỗi Olivier không ở một mình. Mặc, ta sẽ tìm cách tách riêng hắn ra. Ta muốn cho hắn hoảng kinh vì sự trầm tĩnh của ta. Chính trong cõi bất thường mình mới cảm thấy mình tự nhiên hơn hết. Con đường T..., nơi Bernard Profitendieu sống cho tới hôm nay ở gần sát vườn Luxembourg. Tại đây, cạnh hồ nước Médicis, trên lối đi nhìn xuống hồ nước, mấy đứa bạn hắn có thói quen hẹn nhau mỗi ngày thứ tư từ bốn đến sáu giờ, chuyện trò về nghệ thuật, triết học, thể thao, chính trị và văn học, Bernard bước đi rất nhanh, nhưng khi qua khỏi cổng vườn, hắn nhác thấy Olivier Molinier và lập tức chậm chân lại. Cuộc hội họp hôm đó đông đảo hơn lệ thường, có lẽ vì đẹp trời. Có vài đứa nhập bọn mà Bernard chưa quen. Mỗi đứa trong bọn trẻ này, hễ đứng trước cả bọn, là đóng một vai trò và hầu như mất hết tự nhiên. Olivier bừng đỏ mặt khi thấy Bernard đi tới và, khá đột ngột, hắn bỏ người thiếu nữ đang chuyện trò, lảng ra xa. Bernard là bạn thân thiết nhất của hắn, vì thế Olivier vô cùng thận trọng không làm ra vẻ gì là kiếm tìm hắn; đôi khi hắn còn vờ vĩnh không trông thấy Bernard nữa là khác. Trước khi tới với Olivier, Bernard phải đối đầu với nhiều nhóm, và chính vì cũng giả vờ không tìm kiếm Olivier nên Bernard còn chần chờ. Bốn đứa bạn trong bọn đang đứng quanh một đứa nhỏ người để râu đeo kính xấp xỉ lớn tuổi hơn mấy đứa kia, đang cầm cuốn sách. Hắn tên Dhurmer. Dhurmer ngỏ lời với một đứa trong bọn một cách đặc biệt hơn, nhưng lấy làm sung sướng rõ rệt vì được cả bọn lắng nghe. Dhurmer nói: - Mày nghĩ coi. Tao gắng tới trang ba mươi vẫn không thấy màu sắc gì hết, một chữ để mô tả cũng không. Chàng ta nói về một người đàn bà, áo đỏ hay xanh tao cũng chẳng hay chứ đừng nói gì. Tao, hễ không có màu sắc thì giản dị lắm, tao chẳng nom thấy gì. Và vì cần đại ngôn, nhất là vì hắn cảm thấy mình bị coi như mất bớt vẻ chững chạc, hắn nhấn mạnh: - Tuyệt đối không thấy gì hết. Bernard không để tai tới thằng khoa ngôn nữa, hắn xét thấy không nên bỏ đi quá vội, nhưng hắn đã bắt đầu nghe bọn kia cãi cọ ở sau lưng và Olivier trở lại nhập bọn sau khi bỏ rơi người thiếu nữ; một đứa ngồi trên chiếc ghế dài đọc báo Action Française. Olivier Molinier, giữa bọn chúng, sao trông trịnh trọng thế! Hắn vẫn là một trong mấy đứa nhỏ tuổi nhất. Khuôn mặt còn trẻ thơ và ánh mắt của hắn biểu lộ sự sơ khai của tư tưởng. Hắn dễ đỏ mặt. Tính tình đằm thắm. Dù hắn tỏ ra hòa nhã đối với mọi người, không hiểu một sự dè dặt khó hiểu nào đó, một sự e ấp nào đó vẫn ngăn cách hắn với bạn bè. Hắn khổ tâm vì điều đó. Không có Bernard thì hắn đã khổ hơn. Giống như Bernard lúc này, Molinier ghé vào từng nhóm một lát vì nể bạn, nhưng những điều hắn nghe, không có gì khiến hắn lưu tâm. Hắn nhòm qua vai thằng đọc báo. Bernard, không quay lại, nghe Olivier nói: - Mày không nên đọc báo, nó làm mày ứ huyết. Và tên kia đáp trả lại chanh chua: - Còn mày, hễ ai nói tới Maurras(1) là mày xanh mặt. Tiếp theo, một tên thứ ba, giọng giễu, hỏi: - Bộ mày thích những bài của Maurras sao? Và tên thứ nhất đáp: - Chán ngấy, nhưng tao thấy Maurras có lí. Kế đó, một tên thứ tư mà Bernard không nhận ra giọng: - Còn cái gì không làm mày ngấy, mày đều tưởng là thiếu bề sâu? Tên thứ nhất cãi lại: - Mày tưởng chỉ cần ngốc là chọc cười được ư? - Lại đây! - Bernard vừa nói nhỏ giọng, vừa đột ngột nắm lấy tay Olivier. Hắn kéo Olivier đi ra xa mấy bước. - Trả lời mau, mình có chuyện gấp. Cậu có nói với mình là cậu không ngủ cùng một tầng lầu với hai ông bà, đúng không? - Mình đã chỉ cửa phòng mình cho cậu rồi, cửa phòng mở ra ngay cầu thang, đi một nửa tầng lầu là lên nhà chính. - Cậu có nói em cậu ngủ chung với cậu? - Phải, thằng Georges. - Cậu và Georges không thôi? - Ừ. - Thằng nhỏ biết kín miệng không? - Nếu cần. Tại sao thế? - Là thế này. Mình đã bỏ nhà, hay nói đúng hơn, tối hôm nay mình sẽ bỏ nhà. Mình chưa biết đi đâu. Cậu có thể chứa mình một đêm không? Olivier mặt tái bệch hẳn ra. Chấn động quá mãnh liệt, hắn không đủ sức nhìn Bernard. Olivier bảo: - Được, nhưng đừng đến trước mười một giờ. Mỗi đêm má xuống thăm hỏi trước khi đi ngủ rồi khóa cửa. - Thế thì làm sao... Olivier cười: - Mình có chìa khóa khác. Cậu sẽ gõ cửa khe khẽ để khỏi đánh thức Georges nếu hắn ngủ. - Liệu bác gác cổng có để mình vào không? - Mình sẽ báo cho bác biết. Yên trí! Mình với bác ăn ý nhau lắm. Chính bác cho mình cái chìa khóa kia đấy. Hẹn gặp lại. Hai người từ giã không bắt tay nhau. Và trong khi Bernard bỏ đi, nghiền ngẫm lá thư muốn viết mà ông dự thẩm sẽ phải bắt gặp khi trở về, thì Olivier, vốn không muốn người ta bắt gặp mình đứng riêng với Bernard, nên tìm tới Lucien Bercail mà bọn kia để cho đứng hơi riêng rời. Nếu không yêu Bernard nhất thì Olivier đã yêu thích Lucien lắm đấy. Bernard bạo gan bao nhiêu thì Lucien rụt rè bấy nhiêu. Ai nấy cảm thấy Lucien yếu ớt, dường như hắn chỉ sống bằng trái tim và trí tuệ. Hắn ít khi có can đảm sấn sổ tới, nhưng hắn đã mừng ra mặt ngay khi thấy Oilivier lại gần. Lucien có làm thơ chăng, mọi người đều nghi hoặc; tuy nhiên thiết tưởng Olivier là kẻ độc nhất được Lucien thổ lộ dự định. Cả hai lần ra mé khuôn viên. Lucien bảo: - Tôi muốn làm sao thuật lại, không phải chuyện một nhân vật, nhưng câu chuyện về một địa điểm, - đấy, chẳng hạn câu chuyện một lối đi công viên, như lối đi này, thuật lại những gì xảy ra - từ sáng tới chiều. Trước tiên bọn giữ em đến, rồi bọn vú em đeo những tấm dải... Không, không hẳn... trước tiên là người toàn màu xám tất cả, không phân biệt đàn ông đàn bà tuổi tác, để quét dọn lối đi, tưới cỏ, thay hoa, tóm lại để sửa soạn sân khấu và trang trí trước khi cổng mở, anh hiểu chứ? Bấy giờ bọn vú em vào. Bọn bé con vọc cát cãi cọ, bọn giữ em tát bọn nhỏ. Kế đó là các lớp học nhỏ bãi ra... thêm bọn đàn bà thợ thuyền nữa. Có những kẻ nghèo khó đến ngồi ăn trên ghế. Sau đó là bọn thanh niên kiếm tìm nhau, bọn khác trốn tránh nhau, bọn nữa đứng ngồi riêng, tư lự. Và kế đó là dân chúng, vào lúc nhạc trỗi lên và lúc các nhà hàng đóng cửa. Bọn học sinh, sinh viên như hiện giờ. Buổi chiều, bọn tình nhân hôn nhau, có những kẻ chia tay khóc lóc. Cuối cùng, hết ngày, một cặp người già... Và thình lình, một hồi trống khua: đóng cổng. Mọi người đi ra. Kịch chấm dứt. Anh hiểu chứ: một cái gì đó cho mình cái cảm giác thôi hết rồi của mọi thứ, cái cảm giác của sự chết... nhưng vẫn không nói tới cái chết, cố nhiên. - Phải, tôi hiểu lắm, - Olivier đáp, hắn đang nghĩ tới Bernard chứ có nghe lọt chữ nào đâu. Lucien hăng say nói tiếp: - Chưa hết, chưa hết! Tôi muốn, trong phần coi như màn vĩ thanh, chứng minh chính cái lối đi này đây, ban đêm, sau khi mọi người bỏ đi hết rồi, thì thanh vắng, đẹp hơn ban ngày nhiều; trong cảnh im lặng mênh mông, mọi tiếng động trong thiên nhiên xuất thần: tiếng vòi nước, tiếng gió trong lá, và tiếng lảnh lót của con chim đêm. Ban đầu tôi nghĩ tới chuyện thêm vào đó những bóng tối, có lẽ thêm những bức tượng... nhưng tôi cho rằng như thế lại nhạt nhẽo hơn; cậu nghĩ sao? Mời các bạn đón đọc Bọn Làm Bạc Giả của tác giả André Gide.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ
Sheila Webb nghĩ mình đến gặp một quý bà bị mù đợi cô ở nhà số 19 khu Wilbraham Crescent - chứ không phải là gặp một cái xác đàn ông trên sàn nhà. Nhưng khi cô Pebmarsh phủ nhận việc yêu cầu cử cô Sheila Webb đến đây, cũng như không hề sở hữu những chiếc đồng hồ hiện diện xung quanh cái xác, rõ ràng họ cần đến một thám tử tài ba. “Vụ án quá phức tạp nên hẳn nhiên nó phải rất đơn giản,” Hercule Poirot tuyên bố. Nhưng kẻ sát nhân vẫn lộng hành còn thời gian thì cứ trôi đi… Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng với sự kiện Hercules Poirot không hề đến hiện trường xảy ra tội ác hoặc thẩm vấn nhân chứng hay người bị tình nghi. Ông bị thách thức chứng minh rằng có thể giải quyết một vụ án chỉ bằng kinh nghiệm và trí thông minh. *** Một con người có khả năng đấy! - Anh đăm chiêu nói. - Tôi khó biết nổi anh ta muốn đi đến đâu. - Chắc là anh ta không đầu hàng mà sớm hiểu ra. - Bà Tanios đã phôn cho tôi lúc nãy. - Tôi thông báo. - Tôi đã nghĩ thế. Tôi báo cho anh biết lời ủy thác. - Tốt. Mọi sự đang tiến triển như ý. Trong hai mươi bốn giờ nữa, Hastings, chúng ta sẽ được biết chính xác. - Tôi hãy còn lưỡng lự. Ai đúng là kẻ để chúng ta ngờ vực? - Tôi không thể nói người nào anh nghi ngờ, Hastings! Mọi người, lần lượt, tôi đang nghĩ ra hắn! - Đôi khi tôi có cảm giác rằng anh lấy làm thích thú để tôi rơi vào tình trạng không biết đâu mà lần! - Không, không, trò vặt ấy không làm tôi vui lắm đâu! - Tôi không tin là anh chịu bó tay trong việc này. - Tôi đáp. Poirot im lặng, vẻ lo lắng. Tôi hỏi anh: - Anh đang có điều gì, trong lúc này vậy? - Này anh bạn, khi sắp kết thúc một cuộc điều tra hình sự, tôi luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh. Có thể điều gì đó sắp xảy ra? - Anh muốn điều gì xảy ra? - Tôi không biết, anh ạ. (Anh nhíu mày và nói thêm) Tôi cho rằng đã làm hết khả năng... - Trong trường hợp này, hãy quên vụ án này đi và hãy đi đến rạp chiếu bóng, nào, mời anh! - Đúng đấy, Hastings, một ý kiến hay đấy! Chúng tôi có một buổi tối tuyệt vời, mặc dầu tôi đã phạm sai lầm là đưa Poirot đi xem một bộ phim hình sự. Một lời khuyên các bạn đọc rằng: đừng bao giờ đưa một người lính đi xem một vở kịch về chiến tranh, một thủy thủ một vở về hàng hải, một thám tử một vở về hình sự... Hàng tràng dài những câu phê bình của họ sẽ làm các bạn chán ngấy cuộc biểu diễn ấy. Poirot phát hiện ra một ngàn lẻ một chỗ yếu kém về tâm lý của bộ phim và sự thiếu phương pháp và thứ tự của thám tử xuýt làm cho anh phát điên. Khi ra về Poirot còn giải thích cho tôi rằng có thể đã vạch trần điều bí mật ngay ở nửa đầu của cuốn phim đầu. - Vô lý, không thể có phim khá thế đâu, anh Poirot! Poirot phải chấp nhận là tôi có lý. Sáng hôm sau độ hơn chín giờ một chút, tôi đến nhà bạn tôi. Tôi thấy anh đang vừa ăn sáng vừa mở các phong bì của chuyến thư tín. Điện thoại reo. Tôi cầm ống nghe. Một giọng hổn hển nói: - Có phải ông đấy không, ông Poirot? Ồ! Hóa ra là ông, đại úy Hastings? Tôi nghe thấy một thứ tiếng thở dài, và tiếng nức nở. - Có phải bà Lawson đang nói đấy không? - Tôi hỏi. - Vâng, vâng, đã xảy ra một chuyện khủng khiếp. - Cái gì vậy? - Cô ấy đã rời khách sạn Wellington... Tôi muốn nói về Bella. Tôi đã đến đó chiều hôm qua và người ta đã trả lời tôi rằng cô ấy đã đi rồi. Cô ấy cũng không để lại cho tôi một thông tin nào. Không có gì! Thật là lạ! Dù sao, bác sĩ Tanios có lẽ đã có lý. Ông nói về cô ấy bằng một giọng rất dịu dàng, và có vẻ rất buồn đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng ông ta đã không thành thực chăng. - Nào, bà Lawson, hãy nói tôi biết điều gì đã xảy ra. Phải chăng chỉ là bà Tanios đã rời khách sạn mà không báo cho bà biết trước? - Ồ không! Nếu như chỉ là thế? Bác sĩ Tanios nói rõ rằng vợ ông ấy không còn nữa... Tóm lại, ông hiểu điều tôi muốn nói... Ông ta gọi bệnh này, là chứng trưng cảm truy bại. - Vâng. Điều gì đã xảy ra vậy? - Ồ! Thật khủng khiếp! Chết trong giấc ngủ... Liều thuốc ngủ quá mạnh! Và những đứa trẻ tội nghiệp! Buồn biết bao! Tôi chỉ biết khóc từ khi tôi biết tin này! - Bà đã biết tin ấy thế nào? Bà hãy kể tôi nghe chi tiết đi. Trong khóe mắt, tôi nhìn thấy Poirot đã ngừng mở các lá thư và đang lắng tai nghe. - Người ta đã gọi tôi qua điện thoại. Từ khách sạn... Khách sạn Coniston. Hình như người ta tìm thấy tên tôi và địa chỉ của tôi trong túi cầm tay của cô ấy. Ồ! Đại úy Hastings, khủng khiếp quá phải không? Những đứa trẻ ấy không còn mẹ nữa! - Hãy nghe tôi. Bà có chắc là đó là một tai nạn không? Đừng nghĩ nhiều đến một vụ tự sát? - Ôi, một ý kiến đáng sợ, đại úy Hastings! Tôi không biết gì cả. Ông có cho đó là một vụ tự sát không? Điều đó sẽ còn kinh khủng hơn! Cô ta có vẻ rất suy sụp... vô lý, tôi cam đoan với ông như vậy. Cô ấy không có khó khăn gì về tiền bạc cả vì tôi đã sẵn sàng chia sẻ với bà ấy... Tôi xin thề với ông về việc đó! Tiểu thư Arundell muốn thế, tôi có tình cảm với bà ấy. Và nghĩ rằng bà ấy có thể sẽ tự sát... Nhưng có thể là không đúng như thế... Những người của khách sạn nói đến một tai nạn. - Bà ấy đã dùng cái gì? - Một loại thuốc ma túy để ngủ. Veronal. Không, đúng hơn là Chloral. Vâng chính là Chloral. Ô, đại úy Hastings, ông có nghĩ... Không quá câu nệ, tôi đặt lại ống nghe và quay sang Poirot. - Bà Tanios... Poirot giơ bàn tay lên. - Phải tôi biết điều anh sắp thông báo cho tôi rồi. Bà ấy đã chết phải không? - Vâng, một liều mạnh thuốc ngủ, thuốc Chloral. Poirot đứng dậy. - Đến đấy, Hastings. Ta đi đến đấy ngay lập tức! - Phải chăng đó là cái kết cục mà anh đã sợ hãi chiều hôm qua? Anh chẳng đã nói rằng vào lúc kết thúc cuộc điều tra hình sự, anh luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh đó sao? - Vấn đề là một cái chết khác. - Poirot nói, mặt xị xuống. Trong khi phóng xe đi Euston chúng tôi gần như không nói gì cả. Đến lúc thấy Poirot lắc đầu tôi mới rụt rè hỏi anh: - Anh có nghĩ... Phải chăng là một tai nạn? - Không, Hastings, không. Không phải là một tai nạn. - Làm sao biết? Poirot không trả lời tôi. Cuối cùng chúng tôi đến khách sạn Coniston. Poirot, bỗng có cử chỉ thô bạo, chìa thẻ của mình ra và xông thẳng vào văn phòng giám đốc. Người ta kể lại cho chúng tôi các sự kiện. Một quý bà tên là Peters cùng với hai con đã đến khách sạn hôm qua lúc mười hai giờ rưỡi trưa. Họ ăn lúc một giờ. Lúc bốn giờ, một người đàn ông xuất hiện, mang một mảnh giấy cho bà Peters. Chúng tôi đem giấy lên. Vài phút sau bà ấy đi xuống cùng với hai con và một chiếc va-li. Bà giao các con bà cho người khách, rồi quay lại văn phòng và giải thích rằng bà chỉ lấy một phòng thôi. Bà ấy không có vẻ đặc biệt chán chường, bà hình như cũng khá bình tĩnh. Bà ăn tối lúc bảy giờ rưỡi, và ít phút sau, đi lên phòng mình. Sáng hôm sau lúc cô hầu mang lên cho bà một tách trà, đã thấy bà ấy chết rồi. Một thầy thuốc được gọi đến vội vã, đã tuyên bố rằng bà ấy đã chết trước đó nhiều giờ. Chúng tôi tìm thấy một chai rỗng trên bàn đầu giường của bà ấy. Mọi sự chỉ rằng bà đã uống một loại thuốc ngủ và do lầm lẫn, bà đã dùng một liều quá mạnh. Thầy thuốc bảo rằng đó là Chloral. Không có gì để tin rằng đó là vụ tự sát. Chúng tôi không tìm thấy một lá thư nào cả. Khi lục lọi các đồ riêng của bà để báo cho gia đình, chúng tôi tìm thấy trong một cái túi cầm tay có tên và địa chỉ của bà Lawson chúng tôi đã báo cho bà này qua điện thoại. Poirot hỏi người ta không tìm thấy gì về mặt thư từ và giấy tờ... Chẳng hạn, lá thư được mang đến bởi người đàn ông đã đến tìm bọn trẻ. Người đối thoại đáp: không một tờ giấy thuộc bất kỳ loại nào được tìm thấy trong phòng cả, nhưng người ta thấy trong lò sưởi một đống giấy tờ đã cháy. Trong chừng mực mà người ta có thể khẳng định thì bà Peters không tiếp bất kỳ ai cả trừ người đàn ông đến mang các con bà đi. Bản thân tôi hỏi người gác cổng về dấu hiệu nhận dạng của người này, nhưng anh ta cho tôi biết một chân dung cũng khá mờ nhạt: vóc tầm thước, tóc vàng hoe, dáng vẻ một người lính, không có gì đặc biệt lắm trên thân thể. - Đó không phải là Tanios. - Tôi nói thầm với Poirot. - Hastings thân mến ơi! Anh có thật sự tin rằng bà Tanios sau biết bao khó nhọc mới mang đi được bọn trẻ khỏi bố chúng, lại ngoan ngoãn trả chúng lại cho ông ấy mà không than khóc cũng không phản đối gì cả ư? Không! Không đâu! - Vậy thì người này là ai? - Rõ ràng là một người nào đó đã có thể chiếm được niềm tin của bà Tanios, hay đúng hơn là một người nào đó được một người thứ ba có tín nhiệm của bà Tanios phái đến. Tư cách pháp nhân của người đến mang bọn trẻ nhà Tanios đi không quan trọng lắm. Tác nhân gây án thực sự hãy còn trong bóng tối. - Và mảnh giấy là của người thứ ba ấy à? - Phải. - Một người nào đó được bà Tanios tín nhiệm ư? - Nhất định là thế. - Và mảnh giấy bị cháy thì sao? - Phải, có thể là bà ấy có lệnh là phải đốt nó đi. - Còn bản tóm tắt vụ án mà anh đã đưa cho bà ấy thế nào? Poirot trả lời tôi, vẻ trịnh trọng: - Cũng đã đốt rồi. Nhưng toàn bộ việc ấy không có gì quan trọng cả. - A! Sao thế? - Vì tất cả còn lưu giữ trong đầu Hercule Poirot. Anh nắm vội cánh tay tôi. - Đi thôi! Hastings, hãy rời khỏi khách sạn này. Ta hãy để lại những người đã chết để ta săn sóc đến người đang sống. Họ đòi hỏi chúng ta phải hết sức cảnh giác. ... Mời các bạn đón đọc Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ - Agatha Christie.
Ngôi Nhà Quái Dị - Agatha Christie
Ngôi Nhà Quái Dị (Crooked House) NXB Thời Đại, Phạm Tùng Vĩnh dịch Các bản dịch khác: - Cái chết bí ẩn: Trịnh Ngọc Tuấn dịch. - H. : Nxb. Hà Nội, 1993. - 351tr. - Ngôi nhà kỳ dị: Lê Thu Hà dịch. - H. : Nxb. Hội Nhà văn, 2001. - 298tr ; 19cm. ; - Những cái chết bí ẩn: Phạm Tùng Vĩnh dịch.- H.: Công an nhân dân, 2003.- 306 tr Truyện quay xung quanh cái chết của Aristide Leonidès, một điền chủ giàu có. Ông bị ám sát bởi một liều lượng cao ésérine bị tráo thay cho insulin trong thuốc tiêm hàng ngày. Những người bị nghi ngờ gồm Brenda Leonidès, người vợ thứ kém ông hơn năm chục tuổi đời, Laurence Brown, anh chàng gia sư dường như có mối quan hệ dan díu với bà chủ; Roger, con trưởng và vợ Clemency, con thứ Phillip và vợ Magda cùng 3 đứa con, Sophia con gái cả, Eustace, đứa con trai thứ bệnh tật và Josephine, đứa con gái út luôn thích chọc mũi vào mọi chuyện, và cuối cùng là Edith de Havilland, bà cô già của cả gia đình. Gia đình ba thế hệ của ông già Leonides cùng sống trong căn nhà "ba đầu hồi" quái dị do ông tự thiết kế. Leonides là một doanh nhân thành đạt giàu có, bảo bọc cho gia đình hai con trai Roger và Philip, ba đứa cháu con của Philip. Ông có hai đời vợ. Vợ trước mất do bị trúng bom thời chiến tranh, cô em gái không lấy chồng của bà vợ này đến giúp anh rể chăm sóc các cháu. Khi các cháu đã lớn cả, ở tuổi 80 ông Leonides lại đi bước nữa với một phụ nữ trẻ đẹp. Rồi một anh gia sư trạc tuổi bà vợ sau của ông xuất hiện trong gia đình, những ghét bỏ khinh khi lâu nay của các con cháu ông Leonides bùng lên với đồn đoán về cuộc tình vụng trộm giữa bà mẹ kế trẻ đẹp và anh gia sư. Giữa lúc đó ông Leonides bị chết do tiêm nhầm thuốc! Bác sĩ từ chối chứng tử vì dứt khoát nghi ngờ đây là một vụ giết người. Cảnh sát tiến hành điều tra và điên đầu vì bất cứ ai trong gia đình đó cũng có động cơ giết ông Leonides… Ngoài ra, di chúc ông đã đọc cho con cháu nghe và đã ký tên biến mất? Một trong số ít tiểu thuyết trinh thám mà Agatha Christie không xây dựng quanh hai nhân vật lừng danh mà bà đã tạo ra là Hercule Poirot hoặc nữ thám tử Marple. Câu chuyện Ngôi nhà Quái dị được kể từ góc nhìn của người thứ ba – người yêu của cô cháu gái lớn nhất của ông Leonides – không là cảnh sát điều tra, cũng không là thám tử độc lập, nhưng buộc phải giúp tìm ra chân tướng kẻ giết người thì mới có thể cùng người mình yêu kết hôn. Agatha Christie tự viết lời tựa đánh giá đây là cuốn tiểu thuyết tâm đắc nhất của bà. *** Sau này tôi tự hỏi tại sao tôi có thể mù tịt trước một sự thật rành rành. Thủ phạm chỉ có thể là Josephine. Nó hay khoe khoang, nó tự cho mình là quan trọng, nó lấy làm vui thú khi được nói ra, nó nhấn mạnh nhiều lần rằng nó rất giỏi, mà cảnh sát thì ngốc lắm, tất cả đã chỉ rõ như thế. Bởi vì nó chỉ là một đứa trẻ nên tôi không hề nghĩ rằng nó đã giết người. Nhưng người ta đã biết những đứa trẻ giết người vậy thì các vụ án mạng ở “Ba Đầu Hồi” thuộc về một trong số đó. Chính bản thân ông già Leonidès đã giải thích cho con bé phải tiến hành thế nào và nó chỉ việc tuân theo các chỉ dẫn ấy của ông. Nó chỉ cần chú ý không để lại các vết tay, nó đã đọc khá nhiều truyện trinh thám để không quên điều đó. Phần còn lại chỉ là một mớ hổ lốn bắt nguồn trực tiếp từ các “tiểu thuyết trinh thám” mà Josephine thường đọc: một cuốn sổ tay, các cuộc điều tra “cá nhân”, những điều ngờ vực tự bịa ra, ý chí quyết không tiết lộ những điều bí mật. Cũng như vụ mưu sát mà nó đã tiến hành chống lại chính nó. Một chuyện điên rồ, nếu coi như nó rất có thể đã tự giết mình. Nhưng chuyện ấy đã trở nên sáng tỏ vì đó là một giả thuyết mà, vì nó là trẻ con nên nó chưa lúc nào chú ý tới. Nó là nhân vật chính của chuyện phiêu lưu ấy. Nhân vật chính lại không chết, nhưng nó đã để lại đằng sau nó một dấu hiệu ở đó: những mảnh đất nằm lại trên ghế. Nó là người duy nhất trong nhà này buộc phải trèo lên cái gì đó mới đặt được khối đá cẩm thạch trong thế thăng bằng trên cánh cửa. Những lỗ trên mặt đất do nhiều lần diễn đi diễn lại đã chứng minh điều đó, sự vụ đã không thành công ngay lần đầu. Kiên trì, nó lại bắt đầu lại, bê con sư tử cẩm thạch trong đôi tay bọc bằng chiếc khăn quàng để tránh để lại dấu vết trên khối đá. Cuối cùng thần chết suýt nữa bắt nó đi. Thành công gần như trọn vẹn, mục tiêu đã đạt. Josephine bị đe dọa, nó “đã biết cái gì đó” người ta đã cố giết nó. Ai chẳng nghĩ thế? Rất khéo léo, nó đã làm tôi chú ý đến phòng có các bồn nước. Và với mục đích rõ ràng nó đã làm tung tóe gian buồng của nó trước khi đi xuống xưởng giặt. Từ bệnh viện trở về, nó đã rất thất vọng. Brenda và Laurence đã bị bắt, sự vụ đã kết thúc, nó, Josephine, còn đâu được ở trong ánh sáng của các đèn chiếu nữa. Chính vì thế nó đã vào phòng của Edith lấy trộm digitaline đem bỏ vào cốc sô-cô-la của mình nhưng nó không uống mà cố tình để lại trên bàn ăn. Nó có biết là Vú có thể uống cốc ấy không? Chắc là có. Theo điều chính miệng nó đã nói với tôi, nó tiếp thu không tốt những lời nhận xét của bà hầu già ấy. Vú là người giàu kinh nghiệm về trẻ nhỏ, Vú đã ngờ ngợ biết sự thật chăng? Không phải là tôi không tin điều đó. Bà không coi Josephine như đứa trẻ bình thường. Trí tuệ nó phát triển sớm nhưng không theo hướng bình thường. Có lẽ tính di truyền tác động. Độc đoán, “tàn nhẫn” như tính nết tổ tiên đằng mẹ nó, nó có tính ích kỷ của Magda, không thể nghĩ đến gì khác hơn đến chính mình. Rất nhạy cảm như Philip, có lẽ nó rất đau khổ vì nó xấu xí, xấu đến mức, mặc dù nó rất thông minh, nó vẫn bị mẹ nó gọi nó là “con bé ngốc”. Cuối cùng, từ ông nội, nó thừa kế được một đầu óc hết sức tinh nhanh và nhiều mánh khóe mưu mẹo. Nhưng trong khi ông già Leonidès có tấm lòng nhân hậu, trong khi ông nghĩ đến những người khác, đến gia đình và đến tất cả những người ông yêu, thì nó, nó chỉ nghĩ đến bản thân nó. Tôi nghĩ rằng ông nội đã nhận thấy điều mà mọi người khác không nhận thấy là Josephine có nguy cơ trở thành nguồn gốc của biết bao tai họa không những cho gia đình, mà còn cho bản thân nó và có lẽ chính vì ông linh cảm được điều mà nó có khả năng làm nên ông muốn nó phải được nuôi dạy ở trong nhà. Đó cũng chính là những lý do đã thúc đẩy ông cố nài Sophia để nàng chăm lo cho đứa trẻ ấy. Magda có đoán được sự thật ấy không? Việc bà vội vã đưa Josephine sang Thụy Sĩ cho phép đặt ra câu hỏi ấy. Tôi nghĩ rằng bà ta không biết gì cả, nhưng một bản năng mơ hồ của người mẹ đã làm bà ấy hết sức sợ hãi... Nhưng Edith De Haviland thì thế nào? Tôi bèn mở lá thư mà tôi cầm trong tay, bà đã đặt nó trong phong bì chứa cuốn sổ đen nhỏ. Cậu Charles, Lá thư này dành riêng cho cậu... và cho Sophia, nếu cậu xét thấy điều đó là cần. Nhất thiết phải có ai đó biết sự thật. Tôi đã tìm thấy cuốn sổ kèm theo đây trong cái chuồng chó vứt ở sau nhà. Chính ở đó nó đã giấu cuốn sổ. Nó đã xác nhận toàn bộ những gì tôi đã nghi ngờ. Không biết tôi có lý hay không nếu tôi hành động như tôi sắp làm? Tôi không biết nữa. Nhưng dù sao đi nữa, cuộc đời tôi chẳng bao lâu nữa sẽ kết thúc và tôi không muốn đứa trẻ phải chịu nỗi đau khổ dai dẳng không thể tránh khỏi nếu nó phải nhận thấy các hành vi của nó. Trong tự nhiên thường có những đứa con “không giống như những đứa khác”. Nếu tôi lầm, Chúa hãy phán xét! Nhưng đó là tình yêu hướng dẫn tôi. Cầu Chúa ban phúc lành cho hai cháu! Edith De Haviland Tôi chỉ do dự một phút, rồi tôi đưa lá thư cho Sophia. Khi nàng đã đọc xong thư chúng tôi lại một lần nữa mở cuốn sổ đen nhỏ ra xem. Hôm nay, tôi đã giết ông nội. Chúng tôi lật các trang sách. Những điều viết ra thật kinh hoàng. Tôi nghĩ, nó có thể làm cho thầy thuốc tâm thần phải quan tâm. Một tính ích kỷ điên loạn bộc lộ rõ ở mỗi trang giấy, đứa trẻ với một tính chân thật đáng thương trình bày những động cơ đáng tức cười về các tội ác của nó. Ông nội không muốn cho tôi trở thành vũ nữ. Vậy thì tôi đã quyết định giết ông. Như thế, tôi sẽ đến sống ở Luân Đôn cùng với mẹ và tôi sẽ trở thành vũ nữ ba lê. Những đoạn viết tiếp sau cũng không kém súc tích.... Tôi không muốn đi Thụy Sĩ và tôi sẽ không đi. Nếu mẹ ép tôi, tôi sẽ giết bà ấy. Nhưng tôi không có thuốc độc. Có lẽ tôi phải chế tạo ra nó bằng belladone. Có vẻ đó là chất độc mạnh.... Eustace làm tôi bực tức. Anh ấy bảo rằng tôi chỉ là một đứa con gái, rằng tôi hoàn toàn không biết gì cả và rằng một phụ nữ sẽ chẳng bao giờ thành một thám tử tài ba. Anh ấy sẽ không cho là tôi quá ngu xuẩn nếu như anh ấy biết rằng chính tôi đã giết chết ông nội.... Tôi rất thích Charles, nhưng anh ta cũng khá ngu ngốc. Tôi chưa biết tôi sẽ phải buộc tội cho ai đây, Brenda và Laurence, có lẽ thế. Brenda không thích tôi, bà ấy bảo rằng tôi không có đầu óc nguyên vẹn. Nhưng tôi rất thích Laurence. Anh ta đã nói với tôi về Charlote Corday. Cô ta đã giết ai đó trong bồn tắm của cô. Vả chăng cô ta rất vụng về. Trang sổ cuối cùng viết về Vú: Tôi ghét Vú. Tôi căm thù bà ấy. Bà nói rằng tôi chỉ là một con bé tự phụ muốn cho mình là quan trọng. Chính bà ấy đã khiến cho mẹ phải gửi tôi sang Thụy Sĩ. Tôi sẽ giết bà ấy. Tôi cho rằng những viên thuốc tròn nhỏ của bà Edith sẽ làm nên chuyện. Nếu có một vụ ám sát khác, thì cảnh sát sẽ lại đến nhà và mọi việc sẽ lại trở nên tuyệt vời.... Vú đã chết. Tôi chưa biết tôi sẽ giấu cái lọ đựng các viên thuốc tròn nhỏ vào đâu. Có lẽ trong buồng của bác Clemency, có thể trong buồng Eustace. Khi nào tôi chết lúc tôi rất già, tôi sẽ dàn xếp để đưa cuốn sổ này cho chỉ huy cảnh sát. Lúc ấy người ta sẽ nhận thấy rằng tôi là một thần tội ác. Tôi gấp sổ lại. Sophia khóc. - Ôi! Charles!... Charles!... Khủng khiếp quá! Con bé tội nghiệp này là một cái quái thai... Nó chỉ gợi ra cho em lòng thương xót! Tôi cũng có những tình cảm tương tự. Trước đây, tôi đã rất yêu Josephine, giờ đây, tôi vẫn còn yêu nó. Ai lại bớt yêu những người thân chỉ vì họ đã mắc lao hoặc bệnh khác. Josephine là một cái quái thai bệnh hoạn, như Sophia vừa mới nói, nó rất đáng xót thương. Sophia quay người sang tôi: - Nếu như nó còn sống, nó có thể sẽ thế nào? - Làm sao mà biết được? Dĩ nhiên người ta có thể gửi nó vào một trường học dành cho các trẻ không bình thường. Sau đó có thể trả nó về cho người nhà của nó, hoặc có thể giam giữ... Sophia rùng mình. - Những điều ấy tốt hơn như là chúng vốn thế - Nàng nói - nhưng có điều là bà Edith... Tôi ngắt lời nàng: - Bà ấy đã chọn sự hy sinh tính mạng mình. Anh không tin rằng bức thư của bà sẽ được công bố công khai để mọi người được biết. Có thể là việc buộc tội sẽ được hủy bỏ không hơn không kém và Brenda và Laurence sẽ được trả tự do. Tôi cầm lấy hai tay Sophia và bằng một giọng hoàn toàn khác, tôi nói tiếp: - Còn em, Sophia, em sẽ lấy anh chứ! Anh vừa mới được tin là anh đã được bổ nhiệm ở xứ Ba Tư. Em sẽ cùng anh sang bên ấy và anh chắc chắn anh sẽ làm em quên đi “ngôi nhà cổ quái nhỏ bé” này. Mẹ em sẽ dựng các vở kịch, cha em sẽ tiếp tục mua các sách và Eustace sẽ vào trường đại học. Không nên lo lắng về họ nữa, Sophia, và hãy nghĩ đến anh! Nàng nhìn chăm chú vào mắt tôi. - Anh không sợ phải kết hôn với em ư, Charles? - Thế anh sợ gì nào? Bé Josephine tội nghiệp đã phải chịu tất cả các tật xấu của gia đình, còn em, em thừa kế được mọi tính tốt của dòng họ Leonidès. Ông nội em đã đánh giá em rất cao, Sophia, và anh nghĩ rằng ông là một con người rất ít phạm sai lầm. Hãy ngẩng cao đầu, người yêu của anh! Tương lai thuộc về chúng ta! - Em tin là thế, Charles. Em yêu anh và em sẽ làm cho anh được hạnh phúc! Mắt cúi xuống cuốn sổ đen, nàng nói thêm khe khẽ: - Josephine tội nghiệp! Tôi cũng lặp lại theo nàng mấy từ đó. ... Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Quái Dị của tác giả Agatha Christie.
Kẻ Thù Bí Mật - Agatha Christie
Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Đấy là một lời chúc tụng rất hay, Jane, Julius Hersheimmer nói khi anh ta đưa cô em họ về Ritz trong chiếc Rolls - Royce. - Lời chúc tụng các nhà phiêu lưu trẻ à? - Không, lời chúc tụng em ấy chứ. Không một cô gái nào khác trên đời này có thể làm được những gì em đã làm. Em thật là tuyệt vời. - Em không cảm thấy tuyệt gì cả. Trong thâm tâm, em cảm thấy chán nản và cô đơn, và em nhớ tổ quốc. - Anh cũng đang định nói với em về điều đó. Anh đã nghe thấy ngài đại sứ chuyển tới em lời mời của vợ ông ta mời em đến chỗ họ. Đây không phải là một ý tồi, nhưng anh có một dự định khác. Jane, anh muốn em hãy trở thành vợ anh. Đừng nói "không" ngay và đừng lo sợ. Anh biết rằng em chưa thể yêu anh được. Nhưng anh, anh đã yêu em ngay từ khi anh nhìn thấy tấm ảnh của em. Và bây giờ khi đã biết em, đơn giản là anh phát điên lên vì em. Nếu em bằng lòng làm vợ anh, anh sẽ không làm cho em buồn. Anh sẽ để cho em thời gian cần thiết. Cũng có thể em sẽ chẳng bao giờ yêu anh. Nếu thế, anh sẽ trả lại tự do cho em. Nhưng anh muốn có quyền được bảo vệ và chăm sóc em. - Nhưng đấy lại chính là điều mà em mong ước - Cô gái trả lời buồn bã - Em muốn có ai đó bên cạnh em. Anh không thể tưởng tượng được em cảm thấy cô đơn đến thế nào đâu! - Ồ, có chứ! Vậy thì mọi chuyện đã xong. Và ngay ngày mai, anh sẽ đến gặp ngài Tổng giám mục để ông ấy cho chúng ta một ngoại lệ. - Ôi, Julius. - Anh không muốn thúc bách em, Jane. Nhưng hoãn đám cưới của chúng ta thì thật là vô nghĩa. Đừng lo. Anh không dám mong em yêu anh ngay tức khắc. Đúng lúc đó một bàn tay nhỏ luồn vào tay cậu: - Julius, em đã yêu anh rồi. Em đã yêu anh ngay tức khắc, trong xe ô tô, khi viên đạn bay sượt qua má anh. Vài phút sau cô gái trẻ thì thầm: - Em không biết Londres lắm, Julius, nhưng đường từ Savoy đến Ritz thật sự dài đến thế à? - Còn phụ thuộc vào đường đi mà người ta chọn. - Julius trả lời không chút bối rối - Chúng ta đã đi vòng qua công viên Regent’s Park. - Ôi, Julius, anh tài xế sẽ nghĩ gì? - Vì số tiền lương mà anh trả cho anh ta, anh ta thấy tốt nhất là không nghĩ gì cả! Em biết không Jane, anh đãi tiệc ở Sovoy chỉ có một mục đích là được đưa em về khách sạn. Anh không biết làm cách nào gặp riêng em để nói chuyện. Tuppence và em bám riết lấy nhau như hai con sam. Thêm một ngày nữa là Beresford và anh, bọn anh sẽ phát rồ mất! - Ồ, bởi vì anh ấy... - Phải rồi, như một thằng điên! - Em nghi ngờ điều đó, Jane nói thêm vẻ ưu tư. - Tại sao? - Bởi vì Tuppence không nói với em! - Thế thì em thắng anh rồi. - Julius kết luận. Jane chỉ cười. Trong khi đó, những nhà phiêu lưu trẻ, cứng nhắc như công lý, trịnh trọng quá đáng và rất không thoải mái đi về khách sạn Ritz trong một chiếc taxi, không hiểu tại sao cũng đi vòng qua công viên Regent’s Park. Một nụ cười ngượng ngùng khủng khiếp làm họ co người lại. Không nhận thấy điều gì đã xảy ra, tất cả có vẻ đã thay đổi. Họ câm lặng tê liệt. Tình bạn lâu năm dường như đã bay đi đâu mất. Tuppence mất công vô ích tìm điều gì để nói. Và Tommy cũng vậy. Căng thẳng và rụt rè, họ thậm chí tránh nhìn nhau. Cuối cùng, Tuppence cố gắng một cách tuyệt vọng. - Câu chuyện cũng khá hay phải không? - Cũng khá! Lại im lặng. - Tôi rất thích Julius. - Tuppence vô tình nói. Câu đó đã kích động Tommy: - Đừng có cưới cậu ta, cô nghe chưa? Tôi cấm cô đấy. - Ôi! - Tôi cấm tuyệt đối, rõ chưa? - Anh ấy có định cưới tôi đâu. Anh ấy chỉ đề nghị tôi vì lòng tốt thôi mà. - Tôi không dám chắc thế! - Tuy vậy, đấy là sự thật. Anh ấy phát điên lên vì Jane. Tôi chắc rằng vào lúc này, anh ấy cũng đang cầu hôn đấy. - Cô ấy rất hợp với cậu ta. - Tommy đáp lại giọng thấp xuống. - Cậu không thấy là cô ấy đẹp nhất trong số các cô gái ở Londres à? - Rõ ràng rồi. - Nhưng không gì có giá bằng tiền phải không, Tommy? - Tuppence nói vờ ngây thơ. - Ôi, Tuppence, thôi đi, cậu muốn... - Tôi rất thích ông bác cậu, Tommy ạ. Cô gái trẻ nói thêm để đánh lạc hướng. À này, cậu làm gì? Cậu chấp nhận lời mời của Carter làm công chức hay cậu chọn đề nghị của Julius, chỗ làm béo bở trong một trang trại ở Mỹ? - Lời đề nghị của Hersheimmer rất có lợi cho tớ. Thế nhưng tớ sẽ ở lại đất nước thân yêu, cổ kính của chúng ta. Vả lại, cậu sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi ở Londres. - Tớ chả biết tớ sẽ làm gì ở đó. - Tớ thì biết đấy. - Có cả tiền nữa đấy. - Tuppence nhận xét giọng ưu tư và liếc nhìn chàng trai. - Tiền nào? - Carter nói rằng mỗi đứa chúng ta sẽ được nhận một tấm séc. - Cậu đã hỏi ông ấy trị giá bao nhiêu chưa? - Tommy kêu lên. - Rồi. Nhưng tớ không nói cho cậu đâu. - Tuppence, cậu thật quá đáng! - Chuyện vừa rồi thật là vui, phải không? - Tớ hy vọng rằng chúng ta sẽ còn nhiều cuộc phiêu lưu, mạo hiểm nữa... - Tuppence, cậu thật tham lam. Lúc này, tớ thấy chán rồi. - Việc mua sắm cũng khá thú vị đây - Tuppence tư lự nói - Xem nào, mua đồ gỗ cổ này, những tấm thảm phương Đông này, màn cửa băng lụa, một cái bàn đánh véc-ni cho phòng ăn và một cái đi-văng với hàng đống gối dựa! - Khoan đã, một phút thôi! Để làm gì cơ chứ? - Để dùng cho một ngôi nhà... nhưng tớ thiên về một căn hộ hơn. - Căn hộ nào? - Cậu tưởng rằng tớ ngại không dám nói ra à? Không, điều đó không làm tớ thấy xấu hố chút nào. Cho căn hộ của chúng ta. - Ôi, em yêu quý! - Tommy thốt lên và ôm cô vào lòng - Anh đã quyết định bắt chính em phải nói ra điều đó! Anh thấy cần phải trả đũa cái cách mà em đã mắng anh mỗi lần anh muốn tỏ ra tình cảm một chút! Tuppence quay mặt về phía anh: - Tommy, anh vẫn chưa thật sự hỏi em. Cái mà bà nội của chúng ta gọi là "lời cầu hôn ấy mà". Nhưng sau khi nghe chàng ngốc Julius nói điều đó, em thấy nên miễn cho anh thì hơn. - Đằng nào thì em cũng chẳng có thể làm gì khác ngoài lấy anh, vậy thì cần gì nào? - Sẽ rất tuyệt! - Tuppence đáp lời - Hôn nhân được coi là một nơi trú ẩn, lánh thân, đỉnh cao của hạnh phúc hoặc của sự gò bó và còn nhiều điều khác nữa. Nhưng em, em biết rằng nó là... - Là gì? - Một cuộc phiêu lưu, mạo hiểm. - Và thậm chí là một cuộc phiêu lưu thiêng liêng! - Tommy kết luận. Mời các bạn đón đọc Kẻ Thù Bí Mật của tác giả Agatha Christie.
Giết Người Trong Mộng - Agatha Christie
Giết Người Trong Mộng là tác phẩm về nhân vật Miss Marple hay nhất của Agatha Christie. Một câu chuyện lấy quá khứ làm điểm rơi trong tương lai ám ảnh nhân vật chính một cách kỳ lạ. Bắt đầu từ đấy, những dấu ấn chập chờn vén từng chút bức màn bí mật ẩn sâu nhằm đưa những uẩn khuất phơi mình trước sự thật. Một thiên tiểu thuyết gây kinh ngạc khi đã đi sâu vào lòng quá khứ bằng sự khắc khoải của logic.  Xứng đáng để người yêu truyện trinh thám cất công giấu nó vào mộng. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** “Nhưng nghĩ lại, Gwenda, tôi không thể bỏ đi để cô em ở lại đây một mình”. Marple vừa nói. “Tôi biết còn một tên đáng sợ nữa, dù đang ở sau vườn, tôi vẫn để mắt theo dõi”. “Vậy cô đã nhận dạng đích thị là hắn ngay từ lúc đầu? Gwenda hỏi. Cả ba người, Marple, Gwenda với Giles đang ở trên sân thượng khách sạn Imperial ở vùng Torquay. “Ta dời qua điểm mới nhé’’, Marple vừa nói. Nghe xong Giles gật đầu, Gwenda thấy thích thú. Ngài thanh tra Primer nghe chịu liền, mọi người lên xe đi về Torquay. Tới đây nàng Marple mới trả lời câu hỏi của Gwenda. ‘‘Ôi, có thể nói ta sắp nhận dạng ra hắn. Khổ cái ở chỗ ta chưa có đủ bằng chứng. Mới phát hiện có dấu hiệu cho biết’’. Chưa hiểu ra sao Giles nói: "Tôi thì chưa nhìn ra được một chút nào hết". "Ô, kìa Giles, nhớ lại thử coi. Mới đầu hắn có mặt tại hiện trường". "Đó là điều chắc chắn. Lúc Kelvin Halliday tới tìm hắn ngay trong đêm đó cũng vừa lúc hắn rời khỏi bệnh viện. Thời đó nghe dân địa phương kể lại địa điểm bệnh viện nằm sát bên ngôi nhà Hillside hay còn gọi là Sainte Catherine. Vậy là ông nhận ra chưa, ta đã xác định rõ đúng người đúng chỗ. Và hơn nữa ta còn nêu ra được một ngàn lẻ một hành vi lẻ tẻ. Đã có lần Helen Kennedy kể cho Richard Erskine nghe nàng phải bỏ đi xa để lấy anh chàng Walter Fane bởi nàng ở lại nhà không được bình yên. Không bình yên, tức là phải sống chung với người anh. Bởi anh nàng lo lắng cho nàng hết mình. Vậy nói sao nàng không được bình yên? Ông còn nhớ Afflick kể lại "ông thấy thương hại cho nàng". Tôi cho là ông nói thật. Ông thấy nàng tội nghiệp. Vì sao nàng phải lén lút gặp anh chàng Afflick? Rõ ràng nàng không yêu thuơng gì anh chàng. Hay bởi vì nàng không được hẹn hò yêu đương như bao cô nàng cùng trang lứa? Người anh nàng "nghiêm khắc" và "cổ hủ". Nghe sao mà mang máng chuyện tình của ngài Barrett ở phố Wimpole". Gwenda rùng mình. "Ông ta bị ma ám", nàng nói, "bị ma ám". "Đúng thế", Marple nói. "Không được bình thường. Ông ta say mê người em gái cùng cha khác mẹ. Một thứ tình yêu bệnh hoạn, tội lỗi. Cô em chưa biết đâu, ông ta cấm không cho con gái lấy chồng, cấm luôn cả chuyện hẹn hò dan díu. Y như chuyện ngài Barrett. Lúc nghe thuật lại câu chuyện chiếc lưới căng trên sân tennis, tôi sực nhớ câu chuyện thuở trước". "Lưới đánh quần vợt? "Đúng thế, nó khiến tôi phải lưu ý. Thử tưởng tượng nàng Helen lúc còn là một cô học sinh, sau buổi học thích được tung tăng bay nhảy như bạn bè, nao nức được hẹn hò bạn trai, để được ve vãn làm dáng ..." "Y như chuyện khát tình" "Không đâu", Marple muốn nói rõ hơn. "Đấy mới là chuyện còn ghê gớm hơn cả vụ hình sự. Bác sĩ Kennedy không giết nàng như thể là hủy diệt một thân xác. Cô em chịu khó nhớ lại, chứng cứ duy nhất có thể thấy được vì sao Helen Kennedy lại có thói mê trai hay ta có thể nói đúng nghĩa của nó là gì cưng nhỉ? À đúng thế thói cuồng dâm, là do bác sĩ Kennedy mà ra. Tôi biết nàng là một cô gái xinh đẹp, và như bao cô gái khác cũng thích đùa cợt trêu ghẹo, nếu gặp phải anh chàng nào hợp nhãn tính chuyện trăm năm luôn, chỉ có thế thôi. Ta thử quay lại từng bước hành vi của người anh nàng. Phải kể ra trước, tính ông ta nghiêm khắc, bảo thủ, ngăn cấm nàng đủ chuyện. Một bữa nọ nàng gặp gỡ bạn bè trên sân tennis, một trò giải trí lành mạnh nghiêm túc, ông ỡm ờ cho người em gái gặp gỡ bạn bè, để rồi một bữa tối ông lẻn vô sân cắt xẻo bộ lưới nát bét, phải gọi đấy là một trò chơi tàn ác y như bọn ác dâm. Mặc dù vẫn nói cô em được tự do đi lại nhảy nhót chơi tennis bình thường. Nhân nàng bị vấp té trầy da, lợi dụng ông ta để cho da làm độc lâu lành. À ra thế, tôi hiểu vì sao ông bày ra cái trò đó ... Thảo nào, tôi biết mà. "Cô em nên nhớ, Helen không hẳn nhận ra mấy chuyện đó đâu. Nàng biết ông anh say mê nàng. Nàng quyết bỏ nhà đi qua bên Ấn Độ lấy anh chàng Fane may ra được thoát ly. Thoát ly khỏi cái gì đây? Nàng chưa hiểu. Tuổi thanh niên còn non dạ. Nàng bỏ ra đi qua Ấn Độ trên chuyến tàu nàng gặp rồi chịu lấy anh chàng Richard Erskine. Và lần này không như một kẻ khát tình, nàng vẫn là một cô gái nề nếp. Nàng không buộc gã phải bỏ vợ. Không, nàng không muốn. Đến khi gặp lại Walter Fane nàng không muốn làm vợ, không còn cách xoay xở ra sao nàng đánh điện cho người anh biết để xin tiền về quê. "Trên chuyến tàu trở về nàng gặp cha cô em đây, lại một lần nữa nàng mong được giải thoát. lần này coi bộ nàng sẽ được nếm mùi hạnh phúc... "Nàng lấy ông không nhằm một ý đồ xấu xa. Bởi ông vừa mới mất vợ, còn nàng hãy còn nhức nhối vì cuộc hôn nhân dang dở. Hai người vừa tìm thấy một nơi nương tựa. Tôi thấy nàng lấy được Kelvin Halliday là tốt số, sau đó giã từ London trở lại Dillmouth rồi. "Kelvin Halliday với Kennedy là chỗ thân thiết với nhau từ trước. Nghe tin Kennedy rất vui mừng. Halliday và Kennedy tìm mua một ngôi nhà khang trang ở luôn tại đó. "Giờ ta mới nói tới điểm then chốt, giả sử Kelvin bị vợ đầu độc. Có thể nêu ra đây hai giả thiết, chỉ có thể nêu tên hai nghi can trong vụ này. Hay biết đâu Helen Kennedy, chính tay nàng đã đầu độc giết chồng, mà sao vậy nhỉ? hay là thuốc độc do bác sĩ Kennedy đưa cho. Bởi Kennedy là bác sĩ riêng của Halliday, mỗi khi có đau ốm phải nhờ đến ông. Như vậy thuốc độc do chính tay bác sĩ đưa ra cho Helen". "Hay biết đâu có món thuốc nào uống vào là tưởng đâu mình đưa tay ra siết cổ vợ?". Giles hỏi lại "Tôi thấy chả có món thuốc nào hết, phải không, món thuốc gây ra một phản ứng kỳ quặc?". "Này, Giles coi chừng không khéo ông lại sa bẫy, nhẹ dạ cả tin những chuyện người ta kể. Chỉ có ông bác sĩ Kennedy mới dám nói là Halliday mắc chứng hoang tưởng thôi. Trong tập nhật ký bỏ lại không thấy ông nói tới. Ông có hoang tưởng nhưng mà không thể xếp vô dạng nào. Tôi biết chính Kennedy đã kể cho ông nghe những ngưòi thắt cổ đều mắc chứng hoang tưởng như Kelvin Halliday". "Bác sĩ Kennedy một tên tội phạm nhan hiểm", Gwenda nói: "Theo tôi", Marple nói. "Lúc đó ông không còn nhận ra mình tỉnh hay điên. Tội nghiệp cho Helen chỉ có nàng biết việc đó. Chính nàng đã thốt ra câu nói ngày hôm đó Lily nghe thấy được. "Lúc nào tôi cũng cảm thấy lo sợ vì ông". Nàng vừa thốt ra câu đó là một manh mối quyết định, nàng muốn rời khỏi Dillmouth. Nàng giục chồng mua một ngôi nhà ở Norfolk, đừng nói cho ai biết. Đấy cô em thấy một dấu hiệu khác thường. Bức màn bí mật đã được vén lên. Phải nói nàng lo sợ người khác biết chuyện, ngẫm lại hoàn toàn không khớp với giả thiết có thể nghi can là Walter Fane hay Jackie Afflick, lại càng không khớp với nghi can Richard Erskine. Không, ta phải đi tìm một nơi gần quanh đâu đây. "Cuối cùng, bị dằn vặt bởi muộn phiền lo âu, Kelvin Halliday bộc bạch với người anh vợ. Mời các bạn đón đọc Giết Người Trong Mộng của tác giả Agatha Christie.