Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xứ Tuyết

Xứ tuyết  là tiểu thuyết của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được khởi bút từ 1935 và hoàn thành năm 1947. Trước khi xuất bản dưới dạng ấn phẩm hoàn chỉnh, tác phẩm đã được đăng tải thành nhiều kỳ trên nhật báo. Xứ tuyết được đánh giá là quốc bảo của nền văn học Nhật Bản. Cùng với Ngàn cánh hạc và Cố đô, Xứ tuyết đã mang lại cho tác giả giải thưởng Nobel văn học vào năm 1968, nhân kỷ niệm 100 năm (1868-1968) hiện đại hóa văn học Nhật Bản với công cuộc cải cách Minh Trị. Xứ tuyết mang âm hưởng truyền thống lữ hành của các thi nhân văn sĩ Nhật Bản từ xa xưa. Câu chuyện theo bước chân của chàng trai trẻ Shimamura du hành ngoạn cảnh và tắm suối nước nóng. Shimamura, sinh ra và lớn lên ở một khu phố thương mại của Tokyo, đã lập gia đình, nhưng lại say mê với cái đẹp như bị một huyền lực điều khiển, vì vậy chàng đam mê theo học nghệ thuật vũ đạo Tây phương và hoạt kịch. Là một chàng trai tài tử nhàn rỗi thiếu thành khẩn với chính mình, lại có đôi lúc khát vọng tự tìm hiểu bản thân thôi thúc, nên chàng thích lên miền núi một mình và đã ba lần lên xuống xứ tuyết phía Bắc Nhật Bản trong ba mùa khác nhau Xuân - Thu - Đông. Trong lần thứ nhất vào thời điểm mở cửa mùa leo núi, mùa xuân bắt đầu với chồi non xanh thẳm và hương thơm ngát, chàng gặp nàng ca kỹ (geisha) Komako. Komako là một cô gái đại diện cho vẻ đẹp tràn trề nữ tính, mạnh mẽ, tương phản giữa thánh thiện và trần tục, giữa tỉnh táo và đam mê, giữa vẻ đẹp sáng ngời nét thơ ngây bên ngoài và sức trầm lắng của nội cảm. Cảm giác mà nàng đem lại cho Shimamura là sự tươi mát và thanh sạch tuyệt vời. Trong những đêm khi mà nàng giúp vui tiệc tùng bằng cách đánh đàn samisen cho những khách du hành, uống rượu say và mệt lả, nàng về bên Shimamura với sự nồng nhiệt khiến chàng rung động đến tận tơ lòng. Con tàu đưa Shimamura vượt qua đường hầm đến xứ tuyết lần thứ hai để gặp lại Komako vào mùa đông, vài tuần trước khi mở mùa trượt tuyết. Trong ánh sáng mờ ảo, Shimamura mê mẩn ngắm khuôn mặt người thiếu nữ ngồi đối diện với chàng ngời lên trên tấm kính cửa sổ toa tàu, với vẻ đẹp vừa huyền ảo vừa siêu phàm, với sự duyên dáng kỳ lạ của khuôn mặt trôi qua phong cảnh ban đêm. Cô gái đó, chàng còn gặp lại ở vùng băng tuyết, chính là Yoko. Một ca kỹ với vẻ đẹp trong trắng và xa vời, mong manh và mờ ảo, tin cậy và thơ ngây ngay cả trong cách nàng thể hiện tình cảm với Shimamura, với giọng nói "truyền cảm, trong thanh và đẹp đến não lòng", khiến chàng mỗi lần tiếp xúc là mỗi lần khám phá thêm một nét quyến rũ nơi nàng. Rồi những ngày đầu mùa thu với lá phong đỏ thắm, Shimamura lại rời Tokyo để đi nghỉ ở xứ tuyết. Ở đó, giữa hai người con gái xứ tuyết, trong khung cảnh của một vương quốc mà cảnh sắc, con người, phong tục, lối sống đều hồn hậu, chất phác và dịu dàng, chàng mẫn cảm sâu sắc trước cái đẹp nhưng lại đắn đo lưỡng lự giữa hai mối tình, một nặng về thể xác, một nặng về tâm hồn. Say đắm Komako nhưng trong Shimamura luôn hiện diện ánh sáng kỳ ảo lóe lên từ Yoko. Xúc cảm tình yêu của chàng dành cho Yoko ngày càng lớn dần khi chàng cảm nhận được cái mờ ảo và mong manh của vẻ đẹp khó diễn tả ấy, một vẻ đẹp chàng khao khát theo đuổi và nắm bắt cả đời. Trong khi Komako càng đến bên chàng thân thiết, gần gũi, mãnh liệt và hy sinh bao nhiêu, thì cứ mỗi lần rời xa xứ tuyết chàng lại thấy nàng biến mất không còn lưu lại chút dư tình trong tâm trí. Tình yêu của Shimamura với Komako bắt đầu chớm những giận hờn đầu tiên. Komako hoang mang không biết Shimamura còn yêu mình thật hay không, còn chàng cũng không sao hiểu nổi sự lạnh lùng của lòng mình, tại sao mình không thể sống được mãnh liệt, trọn vẹn và hy sinh trong dâng hiến không đòi hỏi chút gì trả lại như nàng. Đúng vào lúc Shimamura quyết định rời xa trạm nước nóng ở xứ tuyết để tránh cơn bão lòng và cắt đứt duyên nợ một cách lặng lẽ thì mọi sự đã kết thúc trong bi thảm. Trong một buổi chiếu bóng tại một nhà kho gần nơi chàng ở, một đám cháy dữ dội đã xảy ra. Mặt đất rừng rực trong tia lửa và tàn tro bốc cao lên tận bầu trời đêm, một bầu trời với dải Ngân Hà lóng lánh trong ánh sáng đẹp một cách ma quái. Yoko, người yêu thuần khiết và mối tình lý tưởng của chàng đã chết trong đám cháy đó. Khi chàng chạy tới thì thấy thân hình bất động của Yoko với gương mặt thanh tú và thánh thiện trên đôi tay Komado, còn Komako thì lời nói như mê sảng và vẻ mặt như sắp hóa điên. Chàng lảo đảo ngẩng mặt lên trời và có cảm giác dải Ngân Hà trôi tuột vào trong người chàng với tiếng gầm thét dữ dội. *** Trong “Xứ tuyết”, thiên nhiên Nhật Bản hiện lên giản dị và tĩnh mịch, mong manh và u huyền. Những tác phẩm của Yasunari Kawabata đã giữ một vị trí đặc biệt trong văn học cận-hiện đại Nhật Bản nói riêng và cho cả nền văn học Nhật Bản nói chung. Trong bộ ba tác phẩm giúp Kawabata dành giải Nobel văn học (Ngàn cánh hạc, Cố đô, Xứ tuyết), tiểu thuyết Xứ tuyết thể hiện quan niệm thẩm mỹ trong truyền thống của người Nhật Bản. Đó là bài thơ về cảnh sắc thiên nhiên, là bài ca về tình yêu, cũng là nơi tìm lại vẻ đẹp Nhật Bản. Nhóm sinh viên khoa Ngữ văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã thực hiện nghiên cứu khoa học “Thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản trong quan niệm Kawabata”, thông qua tiểu thuyết Xứ tuyết của ông. Biên tập viên Sóng Trẻ xin lược trích chương 2 của báo cáo khoa học, “Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản” ở bài đăng này. Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản Trong Xứ tuyết, thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp xuất phát từ chính những quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata. Cái đẹp phong phú của tự nhiên hiện ra từ chính vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên xứ tuyết. Thiên nhiên xứ tuyết là một bài thơ Haiku bằng văn xuôi dung hợp trong đó những quan niệm thẩm mỹ nổi bật nhất của Kawabata. Từ đặc trưng của các nguyên lý thẩm mỹ và nội dung cụ thể của tiểu thuyết Xứ tuyết, chúng tôi tiến hành phân loại và tìm hiểu vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ của Kawabata với 4 nội dung: 1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống (Wabi) 2. Thiên nhiên mang vẻ cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian (Sabi) 3. Thiên nhiên trong cảm nhận về sự mong manh, u buồn (Aware) 4. Thiên nhiên mang vẻ đẹp u huyền (Yugen) 1. Vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống 1.1. Thiên nhiên với những sự vật nhỏ bé Trong cảm nhận của Shimamura, bên cạnh những giây phút thiên nhiên hiện ra với vẻ lung linh kì ảo thì đó là hình ảnh thiên nhiên với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc: “Lưng chừng dốc trên lùm cỏ cao và đám bụi rậm, là một bụi tre lùn rậm rạp mà cành tỏa ra mọi phía. Gần ngay cửa sổ, có một vuông vườn với những luống khoai lang, củ cải, khoai tây vươn thẳng. Mảnh vườn thật bình thường lại rực rỡ ánh ban mai khiến Shimamura được hưởng lần đầu tiên thứ màu xanh tươi tắn lạ, như được đánh bóng lên trong buổi sáng mát lành”. Hình ảnh bụi tre, vườn tược với những luống khoai lang, củ cải… giống như những biểu tượng của một làng quê hồn hậu, giản dị. Vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của vùng đất phương Bắc băng giá hiện lên từ chính những hình ảnh giản dị này. Thiên nhiên xứ tuyết dường như mất đi cái lạnh lẽo, cô đơn trong mỗi trận bão tuyết mà trở về với vẻ đẹp thường ngày. Hình ảnh thiên nhiên phương Bắc đối lập với sự hoa lệ, ồn ào của Tokyo chính là những gì mà người lữ khách Shimamura đang tìm kiếm. Dường như có một sự cách biệt rất lớn giữa cuộc sống thành thị và thiên nhiên ở xứ tuyết. “Đó cũng là khoảng cách giữa hai cõi: thế giới loài người đang chìm đắm trong chiến tranh, trong lối sống chạy theo dục vọng tầm thường, tâm hồn chai sạn do ảnh hưởng của nền công nghiệp cơ khí hiện đại và thế giới thiên nhiên hoang sơ, trinh bạch còn lưu những giá trị truyền thống”. Qua nhận định trên của TS. Nguyễn Thị Mai Liên, vẻ đẹp Wabi hiện lên trong hình ảnh thiên nhiên xứ tuyết cũng chính là giá trị của cái đẹp theo quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản – cái đẹp đơn sơ, giản dị. [...] 1.2. Thiên nhiên trong nhịp sống thường nhật Thiên nhiên xứ tuyết hiện lên trong nhịp điệu cuộc sống thường ngày, phập phồng hơi thở của cuộc sống con người. Thiên nhiên thấp thoáng bóng dáng của con người, của những ngày sống đơn điệu mà đẹp đẽ, yên bình. Trong xứ tuyết, vẻ đẹp của ngày mùa, của những bông lúa hiện lên với tất cả những gì thanh bình, ấm áp. Đó là cuộc sống con người, cuộc sống của vùng núi phía Bắc – một cuộc sống giản đơn êm ả bên cạnh sự lạnh lẽo, dữ dội của những ngày tuyết phủ: “Lúa khô cũng phơi trên sào trước nhà yoko trong cánh đồng thoai thoải ngăn cách với đường. Một dãy dài treo thành một bức rèm giữa đám cây hồng, trước bức tường trắng bao quanh khu vườn đến tận lỗi vào nhà bên cạnh, một dãy khác, ở góc phải, men theo rìa cánh cổng trước vườn, chìa ra một góc để lấy lối đi lại. Trong đồng lúa, những cây khoai sọ vẫn đang xanh tốt, tàu khỏe, lá cứng cáp; ngược lại, những đóa thược dược và những hoa hồng thì đã héo tàn. Chiếc ao sen nuôi cá vàng lấp lõ phía sau những tầng lúa…”. Vẻ đẹp giản dị của thiên nhiên xứ tuyết đã tái hiện nguyên vẹn nhịp sống thường ngày của con người nơi đây. Đó là những vẻ đẹp vẫn luôn tồn tại trong đời sống, vẻ đẹp của mỗi ngày trôi qua ở vùng đất phương Bắc. Nhưng dưới con mắt của Shimamura, nó hiện ra tràn đầy hơi thở, tràn đầy sức sống, nhịp sống chảy trôi, tràn đầy bóng dáng của con người. 2. Vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian 2.1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch Sabi được Kawabata khơi dậy trong thiên nhiên Xứ tuyết giống với vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch trong mỹ học Nhật Bản trung đại với những vần thơ của Basho. “Tác phẩm không chỉ mang phong cách haiku mà còn gợi nhớ đến tập nhật kí du hành của Basho là Oku no hosomichi (Con đường sâu thẳm). Cả hai đều tìm kiếm cái đẹp trong sâu thẳm thiên nhiên ở tận phương Bắc: Oku của Basho và Xứ tuyết của Kawabata. Cả hai đều tìm kiếm cái tố phác chưa bị những hội chợ phù hoa làm vẩn đục”. Nhận định trên đây của Nhật Chiêu đã đặt vẻ đẹp ấy trong sự đối sánh với những “Hội chợ phù hoa” của phương Tây. Có thể nói, vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch của thiên nhiên là vẻ đẹp dường như ngưng đọng trong không gian xứ tuyết, không pha lẫn sự ồn ào, náo nhiệt mà trái lại là vẻ đẹp của sự yên tĩnh, thâm trầm. Sabi với vẻ cô đơn, tĩnh mịch hiện lên trong thiên nhiên xứ tuyết là hình ảnh những cây bá hương và sự yên tĩnh của những khu rừng bá hương. “Thân của những cây bá hương ở đằng sau phiến đá cô ngồi vút lên thẳng tắp, cao đến nỗi anh phải ngửa người ra, tựa lưng vào phiến đá, mới dõi mặt được đến tận ngọn cây. Bầu trời bị che khuất bởi một lớp gần như màu đen những hàng cây mọc sít, những cành cây và những lớp lá kim xanh thẫm dày đặc. Yên tĩnh và thanh bình như một bài thánh ca”. Sự cô đơn, tĩnh mịch của rừng cây được gợi tả bằng những cảm nhận nhãn quang về màu sắc: đen, xanh thẫm. Những gam màu tối ấy khiến thiên nhiên xứ tuyết không hiện lên rực rỡ, thanh khiết mà cô đơn, trầm lặng, tĩnh mịch. “Những cây bá hương phủ một làn voan trắng mỏng nổi lên trên nền tuyết, dù không hề trộn vào nhau vẫn tạo thành một khối sẫm, mà cây nào cây ấy, hiện ra với dáng nét riêng biệt rõ ràng”. Những cây bá hương vào mùa thu hiện lên với màu trắng. Tuy không phải là những gam màu tối mà Shimamura đã cảm nhận khi lần đầu ngắm nhìn những cây bá hương nhưng sắc trắng này vẫn mang lại cho thiên nhiên một vẻ đẹp cô đơn. Sự mờ ảo lẫn vào khu rừng bá hương cũng chính là vẻ cô đơn, tĩnh mịch không lời của thiên nhiên xứ tuyết. Có thể nói, Sabi với vẻ đẹp không lời của sự cô đơn và tĩnh mịch đã hiện lên nguyên vẹn trong thiên nhiên xứ tuyết. Sự tĩnh mịch gần như ngưng đọng của thiên nhiên xứ tuyết khiến cho cảm nhận về thời gian ở đây dường như không trôi chảy. Đó cũng chính là vẻ đẹp mà thời gian đã ban tặng cho thiên nhiên nơi đây. 2.2. Thiên nhiên cổ sơ mang dấu ấn thời gian Những thiên tiểu thuyết của Yasunari Kawabata thường xuất hiện vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảm quan về thời gian. Trong Xứ tuyết, dấu ấn thời gian hiện lên rõ nét qua hệ thống những biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên. Từ đó, Sabi lại được cảm nhận dưới vẻ đẹp được tạo nên từ thời gian trôi chảy – vẻ đẹp cổ sơ mang màu dấu ấn thời gian. Trước hết, vẻ đẹp cổ sơ hiện lên từ những hình ảnh biểu tượng của thiện nhiên xứ tuyết. Trước hết, vẻ đẹp đó hiện ra từ hình ảnh con tàu. Ngay từ đầu tác phẩm, con tàu đã hiện lên với tư cách là một phương tiện đến với xứ tuyết – một vùng đất gần như riêng rẽ, tách biệt: “Còn các toa tàu cũ kĩ, chúng như đã trút bỏ trong đường hầm bộ áo lóng lánh của sương giá tuyết băng. Tàu chạy xuống một thung lung, ở đây, những khoảng tối hơi nhuốm màu hoàng hôn và ngập đầy những vực thẳm xen giữa các ngọn núi chồng lên nhau”. “Con tàu với ba hoặc bốn toa cũ rích và cổ lỗ, chẳng giống gì những đoàn tàu nhanh ở các chuyến lớn trung tâm, khiến ta tưởng như đang ở trong một con tàu của xứ sở khác hoàn toàn xa lạ”. Con tàu của xứ tuyết cũng mang dáng vẻ của vùng đất này – đó là dáng vẻ của cổ sơ, cũ kỹ trên nền băng tuyết. Con tàu cổ lỗ này giống đã đi xuyên thời gian, xuyên qua quá khứ để đưa con người đến đây. Kawabata đã đặc biệt khắc họa hình ảnh “con tàu của xứ sở hoàn toàn khác lạ” như một vật thể thuộc về vùng đất xứ tuyết, thuộc về thiên nhiên cổ sơ. Tiếp đến, vẻ đẹp cổ sơ, cũ kỹ từ sự trôi chảy thời gian hiện lên trong những ngôi nhà ở xứ tuyết với bóng dáng của những mái nhà, mái chùa với vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Khu suối nước nóng mà Shimamura chọn làm điểm nghỉ ngơi với những dãy hành lang hiện rõ thời gian mà nó tồn tại: “… Mỗi bước chân anh trên lớp sàn gỗ cũ kĩ làm kính ở các cánh cửa ra vào rung lên”. Lớp sàn gỗ là dấu ấn của thời gian, là lớp thời gian đã bao trùm lên xứ tuyết. Âm thanh của những cánh cửa là tiếng kêu của thời gian. Dường như đó là vẻ đẹp tích tụ theo dòng chảy của thời gian, vẻ đẹp ngưng đọng từ quá khứ. Vẻ đẹp cổ sơ của thiên nhiên xứ tuyết còn hiện lên qua hình ảnh những mái nhà, mái chùa với những lớp lợp cũ kĩ: “… Một ngôi nhà cũ, mái đã trĩu xuống với một cửa sổ sơn đã bong vì mưa nắng... Phần lớn lợp bằng gỗ, có chẹn đá, các mái nhà trông như những dãy giống nhau, các hòn đá song song với con đường, những hòn đã to, tròn và nhẵn, trắng xóa những tuyết ở phía bóng râm và sáng loáng ở phía có nắng, đen như mực, chúng bóng loáng không hẳn vì ướt mà chủ yếu vì chúng được bào nhắn bởi băng giá, gió mưa”. Vẻ đẹp của những ngôi nhà, những mái gỗ chẹn đá được Shimamura nhìn nhận dưới những tác động của thời gian. Thời gian đã làm những ngôi nhà, những chiếc mái trở nên cũ kĩ, hao mòn nhưng chính thời gian cũng tạo nên vẻ đẹp cổ kính đặc trưng của những ngôi nhà xứ tuyết. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, của thời gian đã đi qua vùng đất này, của “mưa nắng”, “băng giá” và “gió mưa”. Đó cũng chính là Sabi, là vẻ đẹp hiện lên từ những gì cũ kĩ, hoen gỉ. [...] Thiên nhiên mang vẻ đẹp Sabi trong Xứ tuyết còn hiện lên dưới cảm thức thời gian (ảnh: internet) Trong tác phẩm của Yasunari Kawabata, rất ít khi thời gian chính xác được đề cập trong các chi tiết truyện. Tuy nhiên, thời điểm mùa trong năm luôn được thể hiện rõ nét qua những đặc trưng, dấu ấn của mùa. Điều này giống với cách gợi cảm thức thời gian trong thơ Haiku. Khi Basho viết: “Một đám mây hoa/ Chuông đền Ueno vang vọng/ Hay đền Asakusa” thì thời điểm mùa xuân hiện lên chính từ hình ảnh “Đám mây hoa” đó. Điều này cho thấy sự gắn bó giữa thơ Haiku Nhật Bản và Kawabata trong quan niệm về thời gian. Những dấu hiệu về thời gian trong ngày hay dấu hiệu về mùa trong Xứ tuyết cũng là một yếu tố khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật trong tác phẩm và đặc biệt, nó thể hiện rõ dấu ấn thời gian trong nguyên lý thẩm mỹ Sabi. “Cái đẹp của tuyết, cùa các mùa và phụ nữ luôn luôn lấp lánh qua từng trang văn, đẹp như thơ”. [...] 3. Vẻ đẹp u buồn, mong manh Trong cảm nhận của người Nhật Bản, vẻ đẹp của thiên nhiên có lẽ cũng đi liền với sự buồn bã, mong manh. Điều này thể hiện ở chính việc lựa chọn quốc hoa của đất nước này, đó là hoa anh đào. Hoa anh đào đẹp nhất là khi chúng nở rộ, nhưng dù hoa có nở đẹp đến đâu đi chăng nữa thì nó vẫn mang một nỗi buồn phảng phất bởi một lẽ, anh đào sẽ rụng vào đúng lúc nó nở rực rỡ nhất. Như vậy, ngay từ trong cảm quan của mình, người Nhật đã đã để cho hai khái niệm “đẹp” và “buồn” song hành với nhau. Ngay cả với thiên nhiên, cái đẹp cũng gắn với cái buồn. Đây cũng chính là một trong những quan niệm thẩm mỹ truyền thống của Nhật Bản. […] 3.1. Thiên nhiên trong sự lạnh giá Thiên nhiên xứ tuyết mang một sự lạnh giá đến gay gắt. Tuyết ở đây rơi rất nhiều và mạnh, “tuyết rơi nhiều đến nỗi các đoàn tàu luôn bị những khối tuyết lở chặn lại”. Không chỉ có tuyết bao phủ “dày hai, ba mét, đôi khi đến hơn bốn mét” mà ở nơi đây, nhiệt độ cũng xuống rất thấp: “năm ngoái, nhiệt độ ở đây xuống đến hơn hai mươi độ âm”. Khí hậu khắc nghiệt đã tạo cho xứ tuyết một cái lạnh không giống với bất kì một nơi nào khác, “sờ vào vật gì, ta cũng thấy nó lạnh khác lắm”. Xứ tuyết lạnh giá tạo nên một vẻ buồn man mác. Sự lạnh lẽo ấy thấm hết vào cảnh vật, khiến chúng cũng trở nên khác biệt với Shimamura. Cái lạnh của xứ tuyết không chỉ thể hiện trực tiếp ở khí hậu nơi đây mà còn thể hiện gián tiếp qua sự hòa hợp của ánh sáng, bóng tối. Cứ mỗi lần sáng, tối lồng vào nhau, là một lần tạo cho người ta cảm giác hoài vọng, nuối tiếc và u buồn. Bóng tối đang hiện hữu thì ánh sáng cũng xuất hiện. Ngay khi đang nồi trên tàu, dưới con mắt tinh tế của Shimamura hay của chính Kawabata, bầu trời đêm hiện lên và để lại ấn tượng thật đặc biệt: “Phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Bóng đêm đã bao trùm lên xứ tuyết nhưng ở đằng xa, ánh sáng vẫn còn hiện hữu. Dù có ở trong toa tàu hay bên cánh cửa sổ, Shimamura vẫn luôn cảm nhận được sự xen kẽ sáng tối này. […] Cũng chính từ căn phòng mình, Shimamura nhìn thấy “ở đáy thung lũng, nơi thường tối sớm, đã bắt đầu tối. Nhô cao ở bên ngoài vùng tối, các ngọn núi ở đằng kia rực rỡ nắng chiều, chúng như gần hơn bởi chúng tương phản với những hõm tối và màu trắng của chúng như ánh lân quang dưới bầu trời đỏ ối”. Và Shimamura “cảm thấy mỗi lúc một buồn”. Bóng tối và ánh sáng cùng nhau xuất hiện trên khung cảnh thiên nhiên xứ tuyết, sự tồn tại song song của cả bóng tối lẫn ánh sáng làm cho thiên nhiên như lạnh hơn, tạo nên một khung cảnh băng giá đầy u buồn, hoài vọng. 3.2. Thiên nhiên mang vẻ đẹp mong manh Trong quan niệm của người Nhật Bản, cái đẹp và cái hư vô, mong manh luôn đi cùng với nhau. Điều này được thể hiện khá rõ qua thơ Haiku. Nhà thơ Shiki đã từng viết: “Đẹp lạ lùng Ai mà không ghen tị Lá đỏ rời cành phong” Vẻ đẹp mong manh ấy hiện lên trong Xứ tuyết là thiên nhiên ngập trong sắc trắng. Màu trắng cũng là màu sắc được nhắc tới khá nhiều trong Kinh Phật. Màu trắng là biểu tượng của sự tinh khiết, thanh cao và cũng là màu của sự hư ảo. Trong Xứ tuyết, rất nhiều lần tác giả nhắc tới sắc trắng. Có khi, cảnh vật trở nên mềm mại hơn khi được che phủ bởi sự nhẹ nhàng của tuyết: “Xa xa, trên các ngọn núi, tuyết trông như một lớp kem mềm mại được bao phủ một làn khói nhẹ”. Tuyết cũng làm cho mọi thứ trở nên nặng nề, chật hẹp và cô đơn: “Sự chật hẹp của cái thung lũng bé xíu bị ép chặt giữa những ngọn tuyết phủ dày. Nơi đây chẳng khác gì một cái túi tối om, một cái hốc xiết bao đơn độc giữ lòng núi hẻo lánh này”. [...] Thiên nhiên xứ tuyết là nơi “cư ngụ” của những kiếp phù du như những loài côn trùng. Màu xanh của loài bướm đêm đã gây một ấn tượng cho anh. Với anh, đó là “màu xanh ngỡ ngàng, đơn độc, ngược ngạo thay, nhuốm màu chết chóc”; “nó rơi xuống như một chiếc lá khô, chậm và nhẹ buông rơi, lúc lên lúc xuống, trước khi chạm đất” hay lời tự hỏi “không biết con côn trùng đã chết chưa”. Chúng chỉ là những sinh mệnh mang kiếp phù du, bay lượn trong không trung rồi lìa đời nhanh chóng. Cuộc đời của những kiếp phù du luôn là như vậy. Cõi đời này sẽ không lưu lại được gì từ những vẻ đẹp ấy. [...] 4. Vẻ đẹp u huyền, kì ảo Trong các tác phẩm của Kawabata, thiên nhiên thường xuyên xuất hiện trong gương. Thiên nhiên qua những tấm gương hiện lên rất sống động nhưng cũng manh đầy vẻ siêu thưc, huyền ảo. Thiên nhiên vẫn luôn là bí ẩn mà con người luôn muốn tìm kiếm và chinh phục. Thông qua chiếc gương soi, thiên nhiên bỗng trở nên kỳ ảo hơn, khó nắm bắt hơn bao giờ hết. Với Xứ tuyết, Shimamura không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp u huyền con người mà còn cảm nhận được cả vẻ u huyền của thiên nhiên nơi xứ tuyết. Gương phản chiếu hình ảnh của tuyết, làm cho tuyết kỳ ảo hơn rất nhiều: “Tuyết bỗng sáng rực thêm nữa trong gương, chẳng khác gì ở đó có một đám cháy băng giá”. Tấm gương khiến cho lớp tuyết trắng “bỗng sáng rực”, đây vừa là hình ảnh tự nhiên của tuyết nhưng cũng lại là hình ảnh tuyết được “cải biến” trong thế giới gương soi. Từ trong gương soi, thiên nhiên đã đổi khác. Thiên nhiên không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tự thân của nó mà vẻ đẹp ấy còn được nhân lên, đưa con người vào một thế giới mới với những khung cảnh vừa thực mà vừa hư: “Trong bầu trời đêm, phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm, muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Thiên nhiên trong gương soi được Shimamura cảm nhận không chỉ với hình ảnh đơn lẻ mà nó còn hòa vào vẻ đẹp của con người xứ tuyết. Thiên nhiên và con người như soi chiếu vào nhau: Cảnh đêm và điểm sáng đều được Shimamura nhìn qua tấm kính của toa tàu. Chúng ở phía xa và ở đằng sau, chúng mang những cái đẹp lung linh và huyền ảo. Shimamura cảm nhận được những vẻ đẹp ấy và anh cũng không thể rời mắt khỏi Yoko: “Anh bàng hoàng khi một ánh lửa tít xa trong núi bỗng lóe sang ở giữa gương mặt đẹp của người đàn bà trẻ, khiến cho vẻ đẹp không thể nào tả xiết ấy đạt đến đỉnh điểm”. Trong tấm gương soi, thiên nhiên và con người cùng tồn tại, vẻ đẹp thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp con người. Chính và thế mà vào một buổi sáng, khi nhìn thấy vẻ đẹp của Komako hiện lên trong gương và trên nền tuyết, Shimamura đã nhớ lại vẻ đẹp của Yoko được phản chiếu lại trên cửa kính của toa tàu. Vẻ đẹp của Komako cùng với vẻ đẹp của tuyết trắng tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh. Ở đây, tuyết trắng như làm nền cho Komako. Cụ thể hơn, vẻ đẹp của tuyết làm nổi bật đôi má đỏ hồng của cô. Shimamura hay chính Kawabata đã “mượn những chiếc gương soi để tạo lập nên một thế giới huyền ảo chưa từng có nhưng lại làm cho chúng ta tin tưởng vào đấy”. Thiên nhiên trong gương soi mang một vẻ đẹp của sự hư ảo, của sương khói bao phủ và của tuyết trắng. Chính bản thân Shimamura cũng giống như một chiếc gương. Ở đó ta có thể nhìn thấy sự mơ hồ của anh cũng giống như lúc anh nhìn thấy sự mơ hồ, kì ảo của thiên nhiên qua tấm gương.   Mời các bạn đón đọc Xứ Tuyết của tác giả Yasunari Kawabata.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

6 Tảng Đá Thiêng
Một nhóm nhà khảo cổ học lên đường tìm kiếm và dựng lại một di vật cổ xưa trong truyền thuyết, được biết đến với tên gọi "cỗ máy". Những đầu mối giúp họ xác định "cỗ máy" này lại dẫn đến sáu tảng đá thiêng nổi tiếng nhưng đã bị lãng quên. Trên đường đi, các nhà khảo cổ nhận ra họ không phải là nhóm duy nhất muốn có sáu tảng đá. Họ phải đối mặt với những thế lực đen tối, chống lại những nguy hiểm luôn rình rập, chạm trán với những bộ lạc dị thường và dã man của Châu Phi.... Cuối cùng, khi đã vượt qua ranh giới giữa sự sống và cái chết, họ lại phát hiện một sự thật bất ngờ và cay đắng... Mời các bạn đón đọc 6 Tảng Đá Thiêng của tác giả Matthew Reilly.
Bạn Khác Giới
Bạn khác giới được đề cử: - Yoshikawa Eiji Prize for New Writers năm 2015 - Naoki Prize năm 2014 Bạn khác giới, cái từ nghe thật là gian xảo! Người ta hỏi: Sao hai người không yêu nhau luôn đi?Họ đáp: Không được, nếu như thế, làm sao mà ở bên nhau mãi mãi? *** Nữ tác giả Akane Chihaya là một tác giả giấu mặt, bà sinh năm 1979 tại Hokkaido, hiện đang sống và làm việc tại Tokyo.. Nhưng suốt năm tháng đi học, bà dành hơn nửa thời gian học sinh của mình tại Zambia (Đông Phi), nơi mà người cha là một bác sĩ thú y. Để con mình không quên đi văn học nước nhà, mẹ của bà, một giáo viên dạy ngoại ngữ đã cho bà đọc những tác phẩm Nhật Bản được giao hàng sang tận Đông Phi.  Akane Chihaya đã học chuyên ngành mĩ thuật và bắt đầu viết lách khi lên đại học. Tác phẩm đầu tay của bà, Iogami (Chúa của loài cá) đã giành giải thưởng Shōsetsu Subaru và Izumi Kyōka dành cho "Cây bút mới" vào năm 2008. Tác phẩm nổi tiếng nhất của bà là Atokata (Vết sẹo), một tuyển tập 6 câu chuyện ngắn về những tổn thương trong các mối quan hệ. Tác phẩm này đã dành được giải Naoki vào năm 2013. (Hi vọng Atokata cũng sẽ sớm được dịch tại Việt Nam) Otoko Tomodachi (Bạn Khác Giới) được đề cử giải Yoshikawa Eiji cho "Cây bút mới" năm 2015 và giải Naoki năm 2014. Câu chuyện được kể theo góc nhìn của Aoi Kanna, 29 tuổi, một người vẽ minh họa cho các tạp chí. Dù đã có người yêu là Akihito nhưng cô vẫn có tình nhân là Shinji và một đàn anh, người bạn khác giới Haseo. Người đọc sẽ không chỉ được cảm nhận về tình yêu mà còn một niềm khát khao và theo đuổi công việc, những tố chất được Kanna thể hiện xuyên suốt tác phẩm. Và vì sao tôi lại nói "nên đọc trước tuổi 30"? -Vì cuốn sách đã thể hiện được sự băn khoăn, trăn trở và chút gì đó mơ hồ của tuổi trẻ bên cạnh các câu chuyện về tình yêu. Đồng thời tác giả cũng đã cho người đọc hiểu rõ hơn về cái "ranh giới" về tình bạn giữa nam và nữ. Một mối quan hệ mãi mãi, bền chặt hơn thứ tình yêu sớm nở chóng tàn. Dù trong xã hội ngày nay, vẫn còn có những định kiến về bạn khác giới, giống như câu nhận xét đằng sau bìa sách, "bạn khác giới, cái từ nghe thật gian xảo". #Aoi Kanna Nhân vật chính của câu chuyện là một cô gái luôn hết mình vì đam mê mĩ thuật, tôi nghĩ là hình tượng của tác giả Akane Chihaya khi bà cũng từng học cao đẳng mĩ thuật. Cô là một người luôn chạy theo chạy theo tiếng gọi con tim mình, thế nên từ lúc nào đó, tình cảm giữa cô và Akihito có phần rạn nứt. Thật sự thì tôi cảm thấy rất khó chịu khi Kanna đi ngoại tình với Shinji, trong khi ở nhà lại có một người luôn ủng hộ và yêu thương là Akihito. Đối với Haseo, cô chính là chỗ dựa tinh thần của anh và Haseo cũng như thế. Dù có vài điểm mà người đọc không thể chấp nhận ở Kanna, nhưng cô cũng chỉ là một người phụ nữ mềm yếu, sống nội tâm, cô độc trong công việc của mình và hơn hết là luôn tiến về phía trước sau những nỗi đau. Tôi tin là nhiều người đồng trang lứa sẽ thấy đồng cảm ở Kanna, nhất là khi họ chuẩn bị sắp bước sang độ tuổi 30. #Haseo Là đàn anh thời đại học của Kanna, hai người thường ngủ chung nhưng không hề làm tình. Anh trân trọng Kanna, trân trọng mối quan hệ mình đang có. Anh là một kẻ luôn tốt với mọi phụ nữ, không biết tình yêu là gì, anh luôn đi lăng nhăng với mọi phụ nữ mình gặp. Ngoài ra anh còn là một người luôn âm thầm ủng hộ Kanna từ đằng sau, luôn những điều mà khiến người đọc nghĩ "thực sự 2 người này chỉ là bạn thân thôi à?" Câu nói tâm đắc nhất của Haseo mà tôi còn nhớ, cứ như là một cái tát cho những kẻ lụy tình vậy: "Đồ ngốc, lưu luyến chỉ dành cho những kẻ rỗi hơi." Có lẽ vì câu chuyện chỉ tập trung theo góc nhìn của Kanna, thế nên đời tư của Haseo là một ẩn số với người đọc cũng như Kanna. Anh luôn giấu đi những tâm tư, suy nghĩ của mình để không ai bận lòng về mình. Nhưng thực sự thì anh rất cô đơn, mối quan hệ thân thiết mà anh có chắc chỉ là Kanna và Isawa. #Akihito Đây có lẽ đúng chuẩn kiểu đàn ông tốt mà các bạn nữ bây giờ đang tìm kiếm. Dù nhỏ hơn Kanna một tuổi nhưng anh lại có những suy nghĩ vô cùng chững chạc để sẵn sàng sống chung với Kanna. Anh không muốn ràng buộc Kanna quá nhiều mà để cô tự do trong thế giới của mình, Kanna đi đâu anh cũng không tò mò dù có là qua đêm với ai đó. Các chàng trai đã từng từ chối Kanna khi cô nói mình hay ngủ chung với Haseo dù hai người không làm gì, nhưng Akihito lại là người đầu tiên chấp nhận điều đó. Nhưng mọi sự thoải mái cũng dần tàn khi anh nhận ra Kanna càng lúc càng không cần mình nữa. Trong mối quan hệ giữa hai người thì ngay từ đầu Kanna đã dần lạnh nhạt trước. #Shinji Nếu Akihito tốt đến đâu thì Shinji lại là một hình ảnh đối lập. Một gã bác sĩ đã có vợ con nhưng vẫn đi làm tình nhân với Kanna. Dần dần người đọc sẽ thấy đây là một gã đểu cáng thật sự và điều đó đã được Haseo lật mặt một cách vô cùng dễ dàng. Shinji chỉ coi Kanna như một công cụ để thỏa mãn cho nhục dục của mình, thật may mắn rằng Haseo đã cứu Kanna khỏi gã này. #Miho Một nhân vật cho Kanna thấy hậu quả nếu như cô muốn vượt lên ranh giới bạn bè. Cũng như Kanna, Miho là một phụ nữ đã có chồng nhưng vẫn đi ngoại tình. Cô cũng từng có một "anh trai", như Kanna có Haseo, nhưng thay vì duy trì mối quan hệ anh em đó, Miho đã vượt rào. Và kết cục của Miho là hạnh phúc không kéo dài lâu, cô không còn chỗ dựa tinh thần nữa mà luôn trống rỗng trong tình yêu cũng như cuộc sống. Miho và Kanna như hai cục nam châm bắc-nam, cả hai luôn bổ sung các khuyết điểm cho nhau. Nhìn vào Miho, chúng ta có thể hiểu rằng không phải bất cứ ai cũng có thể biến "bạn thân" thành tình yêu, có người hạnh phúc, có người thì không. Ít nhất đến phút cuối, Miho đã lấp đầy được khoảng trống của mình bằng một động lực. #Cảm nhận cá nhân Tôi cũng có một người bạn khác giới thế nên ngay từ lúc cầm cuốn sách đã nghĩ là nó rất hợp với mình. Những mối quan hệ bạn bè của tôi chưa đến mức như Haseo và Kanna đâu. Chỉ là một mối quan hệ mà cả hai không ai muốn phải lòng ai thôi, về mặt đó thì tôi khá giống suy nghĩ của Kanna. Nội dung câu chuyện hấp dẫn, bên cạnh việc nói về các mối quan hệ thì tác giả cũng chia sẻ những cảm xúc của việc vẽ tranh minh họa thông qua nhân vật Kanna. Dù thế nào chăng nữa thì cũng thật khó để nói đây là một công việc ổn định, khi phải chờ những đơn hàng từ các công ty thì bạn mới có việc để nuôi bản thân. Vẽ tranh minh họa đã vốn được coi là một công việc tự do, dù nó phải tốn nhiều chất xám và công sức ra để vẽ. Nếu muốn sống bằng nghề này thì họ phải có một niềm đam mê cực lớn để theo đuổi, dù không phải ai cũng giàu từ nghề này. Người yêu cũ của tôi cũng là một người giống Kanna, hiện cô đang học thiết kế đồ họa dù rằng đã bị người nhà phản đối nhiều vì nghề này sợ không có tương lai. Tôi sẽ chọn làm một Haseo, luôn âm thầm ủng họ những tác phẩm từ đằng sau.  Vì hiện tại tôi vẫn chưa đến tầm tuổi của các nhân vật trong cuốn sách thế nên có những suy nghĩ mà thực sự tôi vẫn chưa thể thấm được. Nhất là "ngoại tình", một chủ đề mà rất nhiều các tác phẩm Nhật Bản đề cập đến nó như là ăn cơm bữa vậy. Một lần tôi đọc bài báo về "Giới trẻ Nhật nghĩ thế nào về ngoại tình?" Thực sự thì suy nghĩ của người Nhật rất là thoáng, họ cho rằng việc nam nữ mà chỉ làm tình với nhau nhưng có tình yêu xen lẫn thì đó chỉ là phục vụ nhu cầu sinh lý mỗi người. Sẽ có một lúc nào đó một trong hai sẽ tìm một tình nhân để biết cảm giác mới lạ hơn...thật sự thì tôi không thể đồng lòng với suy nghĩ đó lắm, nhưng bên Nhật nó vốn thoáng như thế nên cũng không thể bình luận gì thêm. Nếu ai muốn tìm một cuốn sách có nội dung tương tự thì tôi xin phép đề cử "Tháp Tokyo" của Ekuni Kaori. Ekuni Kaori cũng là một tác giả có vài tác phẩm lãng mạn nói về những kiểu tình yêu lạ lùng lắm. Nguồn review navinguyen.blogspot.com *** Tôi đang bị vùi trong một vũng bùn đủ sắc màu hỗn độn. Nhưng tôi biết, đó chỉ là một giấc mơ. Tôi thả mình trôi trong đó, xung quanh là dòng bùn hòa trộn với nhau tạo nên những hoa văn rối rắm và chói lọi. Thi thoảng, có những vệt màu nổi lên thành hình thù hẳn hoi. Mỗi lúc như thế, tôi lại cố tìm quyển vẽ phác thảo nhưng tay ngập trong bùn, không thể cử động được. Đến là bực. Mà kể ra, cứ mặc cho bản thân chìm trong đống màu sắc này cũng hay. Khoái cảm ấy gần giống như khi nhịn tiểu. Đang bập bềnh, chìm nổi trên mặt bùn thì màu chợt bắn tóe ra tứ phía. Tiếng rung trầm trầm kéo ý thức tôi về với hiện tại. Tôi quờ quạng theo phản xạ nhưng các ngón tay chỉ chạm thấy mặt ghế xô pha thô ráp. Phải mất một lúc tôi mới nhớ ra điện thoại di động đã để trên bàn ăn. Nó đang tiếp tục rung, âm thanh tàn nhẫn đó khoan thẳng vào đầu óc còn lơ mơ lúc sáng sớm của tôi. Tôi chẳng buồn nhỏm dậy. Để chế độ rung rồi mà vẫn inh cả tai. Đồng hồ treo tường chỉ hơn 7 giờ sáng. Ánh sáng trong veo lọt qua khe rèm, còn vương sắc xanh nhạt nhòa của bóng đêm. Rốt cuộc tôi cũng tỉnh táo trở lại. Gọi điện vào giờ này chỉ có thể là anh Shinji. Hẳn anh vừa xong ca trực nên nổi hứng gọi. Vẫn nằm ườn trên ghế xô pha, tôi đưa mắt nhìn Akihito đang đứng trước cái bếp ga trong gian bếp mở, quay lưng lại tôi. Mùi thịt xào hành thơm ngào ngạt. Hôm nay lại có món shogayaki[1] rồi. Người ta thường bảo, đàn ông toàn nấu những món chỉ cần một cái chảo rán là xong, nhưng trong năm năm chung sống, thói quen của anh không hề thay đổi, ngày nào cũng tự tay làm cơm hộp. Anh siêng năng đến mức các bà các cô ở chỗ làm đều mến mộ. Mùi mỡ sôi xèo xèo khiến tôi buồn nôn, cơ thể cũng bị đánh thức. Nhắc mới nhớ, từ hôm qua đến giờ tôi chưa ăn gì. Điện thoại trên bàn vẫn rung, Akihito vừa mở nắp nồi cơm điện vừa nhắc: “Em không nghe à? Nhỡ có việc gì thì sao?” Làm sao tôi nhận điện trước mặt Akihito được. Thể nào tôi cũng nổi trận lôi đình với Shinji, vì anh toàn gọi điện vào những giờ oái oăm. Anh Shinji thường tỏ thái độ bực bội mỗi khi tôi gọi điện bất ngờ, nhưng lại tự cho mình cái quyền thích lúc nào gọi lúc đó. Chắc anh nghĩ chỉ người có gia đình như anh mới cần giữ gìn, còn người sống chung với bạn trai như tôi thì chẳng cần ý tứ. “Cả biên tập lẫn thiết kế chẳng ai đi làm sớm thế này, chắc lại điện thoại quấy rối. Gần đây em cũng hay nhận được email làm phiền.” “Tại em không chịu đổi địa chỉ hòm thư đấy. Dạo này tên em xuất hiện nhiều trên truyền thông, hay em thử đổi xem?” “Chắc thế…” Nghe câu trả lời qua loa ấy, Akihito ngoái đầu lại, hơi giơ chiếc thìa xới cơm về phía này, tôi lắc đầu. Tuy dạ dày rỗng tuếch, nhưng thần kinh căng thẳng khiến tôi chẳng thiết ăn. Làm việc thâu đêm luôn là thế. “Em minh họa xong cho tạp chí bói toán rồi à?” Akihito hỏi, sau khi liếc bảng danh sách công việc treo trên tường. Trên đó mới xuất hiện thêm một dấu gạch chéo màu đỏ. “Ừm, vừa kịp. Ai ngờ vẽ các cô gái tượng trưng cho mười hai cung hoàng đạo lại mệt đến thế. Em không thích vẽ theo đúng hình dung của mọi người nên lúc gửi phác thảo đi thì bị chê là chẳng giống gì cả, phải sửa lại hết. Anh nghĩ mà xem, Sư Tử thì phô trương, Bảo Bình thì điềm tĩnh, vậy chẳng hóa ra sinh vào tháng nào thì tính cách đều được hình thành từ trước rồi à? Làm gì có chuyện đó, phải không? Ấy thế mà…” “Ừm…” Akihito gật đầu nhưng vẫn đứng quay lưng lại khiến tôi phải nuốt luôn những lời chưa kịp nói. Dừng thôi, nói tiếp anh sẽ cho rằng tôi đang than vãn mất. Tôi nhìn xuống, cạo cạo những vệt màu vẽ dính trên đầu ngón tay. Màu bong ra thành bụi. Khóc lóc, kêu ca về công việc chỉ là một cách giải tỏa, nhưng Akihito lại nghĩ tôi muốn xin anh lời khuyên. Dù hiểu tính nghiêm túc quá mức của anh nhưng cứ mỗi lần bị góp ý là tôi lại tự ái. Thêm nữa, anh cứ ra vẻ thấu hiểu làm tôi đâm nghi ngờ, có thật anh hiểu tôi đang muốn nói gì không? Và khẩu chiến sẽ nổ ra. Hoặc tôi khai hỏa trước, “Akihito chẳng hiểu gì hết,” hoặc Akihito, “Anh không biết gì về nghề minh họa, được chưa?” Sau vài lần đôi co như thế, chẳng ai bảo ai, chúng tôi chủ động tránh đề tài này. Tuy không đả động đến nhưng Akihito vẫn theo dõi tiến độ làm việc của tôi. Chỉ có thế, không hơn không kém. “Em xong việc rồi thì ăn gì đi, làm nghề tự do cũng phải sinh hoạt điều độ chứ. Để anh đi hâm sữa cho em nhé.” Anh toàn nói những lời chuẩn mực như thế. Nghe tới ba chữ “nghề tự do”, tôi đang gật đầu bỗng khựng lại. Nghề tự do - cảm giác như cái từ ấy bao hàm đủ cả luộm thuộm, bê bối, quái gở, phản xã hội. Người đời cứ thích gán hết những đặc tính này cho chúng tôi, họ cho rằng làm nghề tự do là nhàn cư vi bất thiện, là kỳ quặc. Mỗi lần bị dùng từ đó, tôi lại thấy chạnh lòng. Có lần Akihito bảo tôi nhạy cảm quá, anh chỉ nói vậy thôi. Tôi cũng muốn xem như anh đang quan tâm đến mình rồi quên luôn câu chuyện, nhưng đằng này lời của anh chẳng giải quyết được gì, toàn làm tôi thêm bực bội. Giờ tôi chẳng còn hơi sức để xét nét từng câu chữ của anh nữa, chỉ biết mỉm cười. “Không cần đâu, cảm ơn anh. Đằng nào em cũng phải đợi bên chuyển phát nhanh đến nhận hàng. Giờ ăn vào thì em lăn ra ngủ mất.” Vẫn nằm trên ghế, tôi nhìn lên trần nhà. Khu chung cư này có trần rất cao, tuy không ấm nhưng không gian thoáng đãng dễ chịu. Tôi với lấy cái rổ nhỏ để cạnh xô pha, xé một chiếc kẹo mật ong cho vào miệng. Lúc nào tôi cũng chuẩn bị sẵn bánh kẹo, các loại hạt hay hoa quả sấy để khi bận rộn chỉ cần ăn bằng một tay. Tôi nhắm nghiền mắt lại. Đôi mắt mệt mỏi bắt đầu nhức nhối. Vị ngọt sắc lan tỏa trong miệng, ý thức tôi cũng từ từ bị cuốn trôi. Bên trong mí mắt, các màu sắc bay tứ tán. Đột nhiên, máy nướng bánh kêu inh ỏi. Mời các bạn đón đọc Bạn Khác Giới của tác giả Chihaya Akane & Trịnh Lê Thu Trang (dịch).
Chuyện Làng Nhô
Chuyện làng Nhô, kịch bản phim truyền hình (1995), là tác phẩm đầu tay ở thể loại này của nhà văn Phạm Ngọc Tiến khi anh đầu quân về Trung tâm sản xuất phim truyền hình thuộc Đài truyền hình Việt Nam. Cốt lõi của nó là từ cuôn tiểu thuyết Kẻ ám sát cánh đồng (Nxb Công An Nhân Dân, 1994) của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Một cuốn tiểu thuyết được viết ra từ chính một sự kiện có thật đã diễn ra ở vùng đồng chiêm Kim Bảng (Hà Nam). Những người nông dân nơi đó do có những mâu thuẫn với một số cán bộ chính quyền địa phương trong việc quản lý đất đai, cách thức làm ăn, đời sống sinh hoạt, đã kiến nghị, đã phản đối, và cuối cùng đã thành ra chống đối khi có kẻ xấu ở làng bày mưu xúi giục, tìm cách lái họ chệch hướng đấu tranh. Vụ việc bùng ra gây chấn động dư luận và cuối cùng đã được giải quyết, lập lại trật tự ở làng quê, để cho người nông dân được sống thực trên mảnh đất của mình. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã về tận nơi tìm hiểu sự việc, lấy tài liệu, gặp gỡ trò chuyện với những người thực trong biến cố đó, và anh soi chiếu nó bằng cái nhìn văn học. Tên sách Kẻ ám sát cánh đồng mang tính biểu tượng, đó không chỉ là một nhân vật cụ thể mà còn có thể là một cách làm sai, một cách nhìn chưa đúng gây ra nhũng loạn, hà hiếp ở nông thôn mới. Ý nghĩa này ở cuốn tiểu thuyết của người bạn văn chắc hẳn đã hấp dẫn Phạm Ngọc Tiến khi anh tìm kiếm một cốt truyện viết kịch bản phim truyền hình đầu tay. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Quang Thiều đã có những nhân vật rõ nét, có những biến cố kịch tính, có những cảnh huống căng thẳng, đủ chất liệu cho phim. Lên phim, Phạm Ngọc Tiến xoáy bật vào cái làng sinh chuyện - Chuyện làng Nhô. Chuyện làng nhưng cũng là chuyện nước, tác phẩm nghệ thuật phải chưng cất, khái quát hiện thực, không chỉ mô tả mà còn phản ánh, sau phản ánh còn là thể hiện, và thể hiện là để nghiền ngẫm. Tác phẩm Kẻ ám sát cánh đồng của Nguyễn Quang Thiều đã không đơn thuần chỉ là kể về một vụ việc, nó không phải là một báo cáo hình sự, nó là tiểu thuyết. Tác phẩm Chuyện làng Nhô của Phạm Ngọc Tiến chuyển thể từ tiểu thuyết thành phim, biến con chữ nằm im thành hình ảnh chuyển động, là cụ thể hóa rõ hơn, sâu hơn những số' phận người, đập thẳng vào giác quan và tâm trí người xem. Cố nhiên từ sách lên phim thông qua kịch bản là bằng sự đạo diễn và diễn xuất (dựng thành phim năm 1997). Nhưng "có bột mới gột nên hồ", một cuốn sách hay thành một kịch bản hay và được một bộ phim hay. *** Ngôi nhà thờ họ Trịnh nằm ở đầu làng (đó là dòng họ lớn nhất nhì vùng). Ngoài gian chính có điện thờ, còn có một nhà ngang 3 gian nơi ở của cụ Tín, người trông coi việc hương đèn. Nhà thờ họ được quây bằng bức tường đá xám. Lúc này trời đã chạng vạng tối, cụ Tín khóa cổng rồi cập quạng lên gian chính. Điện thờ âm u nhờ nhịt. Cụ Tín đứng trầm mặc trước bàn thờ. Đoạn cụ móc túi lấy bao diêm. Đôi tay già lẩy bẩy quẹt đến bốn năm lần que diêm mới bắt lửa. Cụ lập cập tháo thông phong chiếc đèn dầu nhỏ. Tiếng gió rít nhẹ rờn rợn. Lửa tắt. Lại lẩy bẩy quẹt diêm. Lần này lửa được châm vào đèn. Bập bùng thứ ánh sáng vàng vọt ma quái liếm nhòe nhoẹt các bức ảnh chân dung tiền nhân họ Trịnh. Cụ Tín châm hương, run rẩy cắm vào bát hương, chắp tay. Bên ngoài nhà thờ, làng Nhô lùm lùm thành khối trong màn đêm sầm sẫm. Lác đác những ngọn đèn điện đỏ tòng tọc. Chó sủa thành vệt dài đến nhà thờ họ thì tắt. Một bóng đen đứng tần ngần ở cổng. Tiếng khóa, xích xoeng xoẻng. Bóng đen khẽ gọi: - Cụ Tín… cụ Tín… Gọi thêm vài lượt, không thấy động tĩnh gì, bóng đen chặc lưỡi, đu mình qua tường tiến vào gian thờ. Trong gian thờ cụ Tín vẫn chắp tay không quay lại. Giọng cụ rành rọt. - Chào anh Khả! Bóng đen giật nảy mình: - Hả? - Anh Khả mới về? - Dạ! Nhưng bỗng dưng sao cụ lại biết là con? - Biết chứ. Mắt tôi bây giờ cập bà nhèm nhưng trời thương còn để cho đôi tai. Không phân biệt nổi tiếng chân người họ Trịnh, sao dám chường mặt ở chốn này. - Dạ, con chịu cụ. - Anh Khả về hẳn? Trịnh Khả run bắn người: - Ơ… cụ Tín… sao… . Một tràng cười của cụ Tín cất lên. Tiếng cười nhẹ, mảnh, lạnh, sắc: - Nghe tiếng chân của anh ta biết. Nó nặng nề lắm. Trịnh Khả hơi chồm lên bối rối: - Cụ Tín. Cụ là người hay là… - Ta là con cháu họ Trịnh. Mà thôi, về là phải, con cá chết một giờ ngửa bụng với nước. Con cáo chết ba năm quay đầu về núi. Huống hồ con người… Anh Khả vào thắp hương đi. Cụ Tín quay trở lui ra sân. 2 - Nhà thờ họ Trịnh, tối. Khả châm hương vái. Lần lượt hiện về những khuôn hình thờ. Tiếng gió rít. Các bức ảnh đảo chung chiêng. Mắt Khả đậu lại ở một bức ảnh. Khả thẫn thờ: - Cha ơi. Từ bức ảnh hiện dần lên một người đàn ông mặc áo dài khăn xếp. giọng người ảnh trầm trầm, âm âm: - Anh đã về đấy ư? - Con là Trịnh Khả. Giọt máu buồn, giọt máu lưu lạc của họ Trịnh. Con đã trở về. Người ảnh nhếch mép cười: - Về hẳn à? Hưu à? Làm gì đến tuổi, đúng không nhỉ? Trịnh Khả cung kính: - Con mới 52 tuổi nhưng ở lại làm gì nữa, buồn lắm. Cả đời chẳng đâu vào đâu, vài năm nữa ở lại làm gì. Người ảnh: - Về cũng được. Rút cục anh là người sướng nhất họ Trịnh. Được đi tận Liên Xô học. Gõ đầu người khác, lại ở bậc đại học, lớn lắm đấy. Chả bằng mấy làm quan ư? Trịnh Khả hằn học: - Nước non gì cái chức thầy đồ. Hơn nữa ai để ý gì đến con. Họ thù bố ngày xưa làm sao con ngóc đầu lên được. Xin tổ tiên đừng bỏ rơi con. Người ảnh cất tiếng cười ha ha: - Thù à, ha ha… Trịnh Khả, tuổi kia rồi phải biết phân biệt phải trái chứ, ha ha… Trịnh Khả lùi dần, lùi dần ra cổng, miệng lắp bắp: - Xin đừng bỏ rơi con. Khả lùi sát cổng, hoảng hốt. Tiếng cười vây bủa ghê rợn. Người ảnh lừ lừ trôi phía trước mặt. Thoắt cái, người ảnh biến thành ông cụ Tín, tay cầm đèn cao ngang mặt: - Kìa anh Khả, về nhà đấy à? Còn túi hành lý kia nữa. Khả trân mắt nhìn cụ Tín. Đoạn Khả cầm túi hành lý rút vào bóng đêm. Chó lại sủa rộ thành vệt. 3 - Nhà Trịnh Khả, tối. Khả lùi lũi đi vào ngõ nhà mình. Con chó vàng nhảy chồm chồm ném từng tiếng sủa vào mặt Khả. Khả lậm lừ tiến. Con chó vừa sủa, vừa lùi. Khả lẩm bẩm chửi: - Tiên sư, toàn chó là chó. Trong căn nhà tối om, vẳng ra tiếng đàn bà tru tréo: - Tiên nhân đứa nào trêu chó nhà bà đấy. Khả dằn giọng: - Khả đây! Đèn nhà bật tách sáng. Vợ Khả mừng rỡ: - Ôi thầy nó. Tôi cứ tưởng đứa nào trêu chọc. - Con đâu? - Con Lụa, thằng Khảm lớn rồi, tởn lắm. Chưa cơm nước xong đã tấp tểnh. Kệ xác chúng nó. À chết, bố nó ăn uống gì chưa? - Ăn rồi! - Vậy để tôi pha ấm nước. Vợ Khả đi xuống bếp. Khả ngồi xuống chiếc ghế cũ chợt nhổm người nhăn nhó: - Mẹ kiếp, nhà cửa bẩn thỉu, hôi hám quá. Vợ Khả xách phích nước lên, vừa lúi húi pha trà, vừa lẩm bẩm khẽ: - Nhà không chủ nó thế đấy. Có đàn ông, đàn ang đâu… . Khả vằn mắt: - Cô nói cái gì? Vợ Khả không đáp đi vào buồng. Một lát sau bước ra, tóc tai đã chải gọn gàng, chiếc áo gụ nhàu nát đã được thay bằng chiếc áo cộc tay màu mỡ gà còn mới. Bây giờ vợ Khả mới đáp: - Anh cứ đi biền biệt, có bao giờ ngó ngàng gì đến nhà với cửa. Vợ Khả nấc lên tức tưởi: - Mấy tháng trước con Lụa bị bệnh mắt, suýt mù phải đi Hà Nội chữa. Tìm đến bố, nào có thấy… Khả, giọng đã dịu: - Tôi phải đi công tác liên miên. Thôi, Liên này, tôi sẽ ở nhà. Ở hẳn! - Già rồi còn gì. Ở nhà với vợ, với con lại chả chán vạn lần hơn. Khả nhìn kỹ vợ: - Cô dạo này thay đổi nhiều nhỉ. Nói năng cũng khác. Ai dám bảo tôi già. Sự nghiệp của tôi còn dài. Liên lau nước mắt, chợt bật cười: - Đi cả đời chẳng thấy sự nghiệp đâu. Giờ về dưỡng già lại sự với nghiệp. Đâu, đồ đạc anh để đâu hết. Khả nhăn mặt: - Chỉ có cái túi ấy chứ còn gì nữa. Liên lôi ra bộ quần áo, vài thứ đồ lặt vặt: - Khốn nạn, cả đời công tác, giờ chỉ có ngần này thứ. Sự nghiệp ở đây chắc. Khả rít liên: - Im mồm. Đàn bà biết gì mà nói. Liên khóc: - Tôi thật khổ cả đời! Khả như nhận thấy mình vô lý, đặt tay lên vai vợ: - Thôi, đừng trẻ con, tôi đã về, không phải lo nữa. Rồi cô xem, còn lâu Khả mới già. Khả đẩy Liên vào buồng. Đèn tắt. Tiếng dế rúc. 4 - Làng Nhô buổi sáng. Nhà gạch, mái ngói san sát. Một vài ngôi nhà mái bằng. Đường làng lát gạch nghiêng. Khả, quần áo chỉnh tề, gặp ai cũng sởi lởi chào. Đến cuối làng, hết con đường độc đạo, Khả nhìn ra cánh đồng. Lúa đang trổ. Mắt Khả mông lung. Mời các bạn đón đọc Chuyện Làng Nhô của tác giả Phan Ngọc Tiến & Nguyễn Quang Thiều.
Bố Già
Bố Già là tên một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Mỹ gốc Ý Mario Puzo được xuất bản lần đầu vào năm 1969 bởi nhà xuất bản G. P. Putnam's Sons. Bố Già là câu chuyện về một gia đình mafia gốc Sicilia tại Mỹ được tạo lập và lãnh đạo bởi một nhân vật được gọi là Bố Già-Godfather, Don Vito Corleone. Các sự kiện chính của tiểu thuyết xảy ra từ năm 1945 đến 1955 ngoài ra cũng đề cập đến thời thơ ấu và giai đoạn thanh niên của Vito Corleone vào đầu thế kỉ 20. Thế giới ngầm được phản ánh trong tiểu thuyết Bố già là sự gặp gỡ giữa một bên là ý chí cương cường và nền tảng gia tộc chặt chẽ theo truyền thống Mafia xứ Sicily với một bên là xã hội Mỹ nhập nhằng đen trắng, mảnh đất màu mỡ cho những cơ hội làm ăn bất chính hứa hẹn những món lợi kếch xù. Trong thế giới ấy, hình tượng Bố già được tác giả dày công khắc họa đã trở thành bức chân dung bất hủ trong lòng người đọc. Từ một kẻ nhập cư tay trắng đến ông trùm tột đỉnh quyền uy, Don Vito Corleone là con rắn hổ mang thâm trầm, nguy hiểm khiến kẻ thù phải kiềng nể, e dè, nhưng cũng được bạn bè, thân quyến xem như một đấng toàn năng đầy nghĩa khí. Nhân vật trung tâm ấy đồng thời cũng là hiện thân của một pho triết lí rất “đời” được nhào nặn từ vốn sống của hàng chục năm lăn lộn giữa chốn giang hồ bao phen vào sinh ra tử. Với kết cấu hoàn hảo, cốt truyện không thiếu những pha hành động gay cấn, tình tiết bất ngờ và không khí kình địch đến nghẹt thở, Bố già xứng đáng là đỉnh cao trong sự nghiệp văn chương của Mario Puzo. Nhận định “Bố già là sự tổng hòa của mọi hiểu biết. Bố già là đáp án cho mọi câu hỏi.” (Diễn viên Tom Hanks) “Bạn không thể dừng đọc nó và khó lòng ngừng mơ về nó.” (New York Times Magazine) “Một tác phẩm kinh điển về mafia… Tự bản thân nó đã tạo ra một thứ bùa mê hoặc độc giả.” (The Times) *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu trường u ám (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) *** Lão Amerigo Bonasera ngồi tại tòa đại hình số 3 ở New York mà chờ đợi, lão chờ đợi công lý trả thù cho lão, trả thù những thằng quá tàn bạo với con gái lão, định xâm phạm tiết hạnh con bé. Ngài chánh án đường bộ xắn hai tay áo chùng đen lên, cứ như sắp thẳng tay trừng trị hai thằng nhóc đang đứng trước tòa. Mặt ngài lạnh lùng, nghiêm nghị. Nhưng lão Amerigo Bonasera cảm thấy tất cả cái màn này có cái gì đó có vẻ giả tạo, mà lão chưa đoán ra được là trò gì. Ngài chánh án gay gắt cất tiếng: – Các ngươi hành động như những kẻ mạt hạng, tồi bại nhất. Đúng vậy, lão Amerigo Bonasera nghĩ, đúng là đồ thú vật. Hai thằng ranh con tóc tai thẳng thớm, mặt mày sáng sủa, đầu cúi gục đầy vẻ ăn năn, hối hận. – Các ngươi hành động như thú dữ trong rừng, cũng may là các ngươi đã không xâm phạm tiết hạnh của cô bé tội nghiệp kia, chứ nếu có chuyện đó thì tòa phải xử các ngươi hai chục năm tù. Ngài ngừng lại, cặp mắt dưới đôi lông mày rậm rì thoáng nhìn khuôn mặt thiểu não của lão Amerigo Bonasera, rồi cúi xuống chồng hồ sơ xin được tại ngoại, cải tạo tại gia. Ngài nhăn mặt, nhún vai, cứ như phải ép lòng làm một chuyện ngoài ý muốn. Ngài lên tiếng: – Xét vì các người còn trẻ người, non dạ, lý lịch sạch, con nhà tử tế, và xét vì tính nghiêm minh của luật pháp không phải nhằm trả thù, do đó, tòa tuyên án mỗi đứa ba năm tù. Được hưởng án treo. Suốt 40 năm làm nghề mai táng, lão Amerigo Bonasera biết cách không để lộ mối hờn căm lộ ra ngoài mặt. Chứ đứa con xinh đẹp của lão vẫn phải đang nằm viện với cái cằm vỡ nát, phải kẹp bằng dây, mà hai con thú vật kia lại được tự do thoải mái như vậy sao? Tất cả màn xử án vừa qua là trò hề sao? Cha mẹ hai thằng khốn đang xoắn xuýt lấy chúng. Tất cả bọn chúng đang hớn hở, vui cười với nhau. Cảnh đó làm lão Amerigo Bonasera điên tiết, tim gan phèo phổi lão như sắp phọt ra khỏi hai hàm răng nghiến chặt. Lão phải móc cái khăn mùi xoa trắng, bịt lên miệng. Lão đứng thận ra mà nhìn hai thằng nhóc phản phơ, trơ tráo, không thèm liếc tới lão, tỉnh bơ ra về thơ thới hân hoan. Lão cứ câm như hến khi chúng đi qua mặt lão, tay lão vẫn ghì chặt cái khăn lên miệng. Cha mẹ chúng, hai thằng đàn ông, hai mụ đàn bà trạc tuổi lão, nhưng quần áo có vẻ Mỹ hơn lão; khi đi qua mặt, chúng thoáng nhìn lão, mặt có vẻ sượng sùng, nhưng ánh mắt chúng vẫn thấp thoáng sự đắc thắng ngạo mạn. Không nín nổi nữa, Bonasera xông ra lối đi, gào theo: – Chúng mày sẽ phải khóc như tao đã khóc. Con tụi bây làm tao phải khóc, tao cũng sẽ bắt tụi bây phải khóc, rồi lão đưa khăn lên mắt. Đám luật sư bào chữa vội tiến lên cùng thân chủ, bao bọc lấy hai thằng nhóc, vì cả hai thằng đều chớm quay lại như để bảo vệ cha mẹ chúng. Một tay thừa phát lại to đùng mau mắn chạy lại chặn lối Bonasera. Nhưng rồi chẳng có gì ầm ĩ xảy ra. Suốt bấy nhiêu năm sống trên đất Mỹ, lão Amerigo Bonasera đã tin tưởng vào trật tự và luật pháp. Và cũng nhờ vậy mà lão làm ăn khấm khá lên. Thế mà lúc này đây, đầu lão bốc cháy căm hờn, lão chỉ muốn mua ngay một khẩu súng, bắn vỡ sọ hai thằng nhãi kia, nhưng Bonasera vẫn phải quay lại mụ vợ đang ngẩn tò te, chẳng hiểu có sự thế này là thế nào, mà cắt nghĩa: Mình bị tụi nó gạt rồi. Lão ngừng lại rồi đi đến quyết định, dù giá nào cũng phải chơi. Lão bảo vợ: – Muốn có công lý, mình phải quỳ lết tới Ông Trùm Corleone thôi. ★ Trong căn hộ trang trí lòe loẹt của khách sạn Los Angeles, Johnny Fontane đang say, y như những anh chồng bình thường khác say xỉn trong cơn ghen. Nằm sõng soài trên cái đi văng đỏ, nó cầm nguyên chai rượu mà tu, rồi vục mồm vào cái xô pha lê đựng nước đá lạnh để chữa lửa. Bốn giờ sáng rồi, trong cái đầu phừng phừng hơi men của nó loay hoay ý định giết chết con vợ mất nết, khi ả về nhà. Nếu ả còn trở về. Gọi cho vợ cũ để hỏi thăm mấy đứa con thì giờ này quá trễ, mà gọi cho mấy thằng bạn trong lúc nghề nghiệp đang xuống dốc thế này thì xuống cấp quá. Thời hoàng kim của nó, thằng nào được nó gọi vào bốn giờ sáng thế này cứ là sướng rên rồi, còn bây giờ, gọi vào giờ này là quấy rầy chúng. Nó mỉm cười, nhớ lại, mới ngày nào, chỉ một rắc rối nhỏ của Johnny Fontane cũng đủ làm mấy nữ minh tinh lớn nhất nước Mỹ bấn cả người lên. Cuối cùng, đang ừng ực nốc rượu, nó cũng nghe thấy tiếng con vợ đang mở khóa cửa, nhưng nó vẫn tì tì uống cho đến khi ả bước vào phòng, đứng lù lù trước mặt nó. Ả đẹp quá, mặt như thiên thần, mắt tím sóng sánh tình tứ, thân hình mảnh mai, tuyệt mỹ. Trên màn ảnh, nhan sắc ả thật tinh khiết, diệu kỳ. Hàng trăm triệu anh đàn ông trên thế giới mê mệt tấm nhan sắc của Margot Ashton, đổ tiền ra mua vé để chiêm ngưỡng dung nhan đó trên màn bạc. Johnny Fontane hỏi vợ: – Cô đi chỗ chó nào về vậy? Vợ nó tỉnh bơ: – Đi nhảy đực. Ả không ngờ nó xỉn quá rồi. Nó phóng qua bàn rượu, nắm cổ ả. Nhưng khi cái khuôn mặt huyền hoặc kia, đôi mắt tím tình tứ kia sát gần mặt nó, thì cơn giận của nó, dũng khí của nó biến mất ráo. Thấy nó buông nắm đấm xuống, ả cười cười cợt nhả: – Johnny ôi, đừng uýnh vô mặt em. Em đang mắc đóng phim đó. Ả cười rũ ra. Nó thui cho ả một quả ngay bụng, làm ả té lăn đùng xuống sàn. Hắn nằm đè lên ả. Ả thở gấp, nó ngửi thấy hơi thở thơm thơm. Nó thui tới tấp, cánh tay, bắp vế, làn da mướt như lụa của cặp đùi ả. Nó dọng ả, như ngày còn là một thằng bé cà lơ trong những xó xỉnh tối tăm của thành phố New York, nó đã từng dọng những nhóc con nhỏ hơn nó... Cái kiểu hành hạ cho đau, nhưng không làm gãy răng, vỡ mũi. Nhưng nó cũng không đánh ả quá mạnh. Nó không nỡ. Thế là ả giở giọng cà chớn mà giễu nó. Ả nằm dạng háng ra, cái váy hếch lên khỏi vế, khinh miệt bỡn cợt: – Nào, cắm vào đi. Cắm vào đi Johnny, mày chỉ ham cái đó thôi mà. Johnny Fontane đứng dậy. Nó căm ghét con đàn bà đang nằm õng ra trên sàn kia, nhưng nhan sắc ả là tấm lá chắn tuyệt vời. Margot uốn mình, bật dậy như một vũ viên. Đứng trước mặt nó, ả nhún nhảy, ca hát như một đứa trẻ ngây thơ: "Anh Johnny chẳng bao giờ đánh mình, chẳng bao giờ làm mình đau đâu." Rồi ả đổi tông, sủa ngay vào mặt Johnny: – Thằng khốn nạn, mày kiềm tỏa, giam hãm tao như một đứa con nít. A ha, Johnny ơi, mãi mãi mày vẫn chỉ là một thằng mọi ngu đần. Cả chuyện làm tình, mày làm cũng như con nít. Mày tưởng làm tình cũng giống như ong ỏng mấy bài ca hạng bét của mày à? Ả lắc đầu ngao ngán: – Tội nghiệp mày quá, Johnny. Thôi, chào, ả vào phòng ngủ, khóa cửa lại. Johnny ngồi xuống sàn, hai tay ôm mặt. Thế rồi, sức mạnh đã từng giúp nó sống nổi tại Hollywood tàn bạo này làm nó bật dậy, nhấc điện thoại, gọi xe ra phi trường. Chỉ một người có thể cứu nó, phải trở về New York. Trở về với con người quyền lực, khôn ngoan đã từng là cứu cánh của nó, và một tình thương yêu mà nó vẫn hằng tin tưởng. Đó chính là cha đỡ đầu Corleone của nó. ★ Lão chủ lò bánh mì Nazorine tánh nết quạu quọ, vừa mập vừa lùn, giống hệt mấy ổ bánh mì Ý của lão, người ngợm dính đầy bột mì, gắt gỏng nhặng xị từ mụ vợ, đứa con gái vừa tuần cập kê, con Katherine, cho tới thằng thợ phụ Enzo. Thằng Enzo đã thay quần áo, tròng lên người bộ đồng phục tù binh, với những chữ xanh trên tay áo, phát hoảng lên vì sợ trễ giờ điểm danh. Nó là một trong hàng ngàn tù binh Ý được tại ngoại mỗi ngày để phục vụ cho nền kinh tế Mỹ, nó sống trong sự phập phồng lo sợ cái khế ước này bị hủy bỏ. Vì vậy màn hài kịch này đối với nó là một dịch vụ tối quan trọng. Mời các bạn đón đọc Bố Già của tác giả Mario Puzo & Đặng Phi Bằng (dịch).