Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đỉnh Tuyết - Cuộc Phiêu Lưu Của Alex Rider

Đỉnh Tuyết là cuốn sách thứ hai trong series Alex Rider, được viết bởi tác giả người Anh Anthony Horowitz. Cuốn sách được phát hành tại Vương quốc Anh vào ngày 3 tháng 9 năm 2001 và ở Bắc Mỹ vào ngày 15 tháng 4 năm 2002, với tựa đề thay thế là Point Blank. Truyện viết về cuộc phiêu lưu mới của Alex Rider, trong một điệp vụ mới của tình báo nước Anh. Với trí tưởng tượng phong phú, cách hành văn hiện đại và rất lôi cuốn qua hàng loạt tình tiết gay cấn, tác giả đưa người đọc đến một ngôi trường kỳ lạ, bí ẩn từ giáo viên đến học sinh và tại đây Alex Rider đã đối đầu với một tên sát nhân thiên tài và điên khùng nhất nhì thế giới. Truyện phù hợp với mọi đối tượng bạn đọc đặc biệt là những bạn trẻ yêu thích các chuyến phiêu lưu mạo hiểm và những ai đã đọc qua phần 1 “Công tắc bão” càng không thể bỏ qua. *** Alex Rider là bộ tiểu thuyết tình báo cho thanh thiếu niên về một điệp viên nhỏ tuổi có tên là Alex Rider, đã được xuất bản thành sách và phát hành bắt đầu từ năm 2000 cho đến nay, gồm 13 cuốn. Ngoài 13 cuốn là nội dung chủ yếu, bộ truyện còn kèm theo sáu truyện tranh, bảy truyện ngắn và một cuốn bổ sung. Tại Vương quốc Anh, cuốn tiểu thuyết đầu tiên (tập 1) phát hành vào năm 2000, cuốn cuối cùng (tập 13) phát hành năm 2020. Bộ tiểu thuyết được Walker Books ở Anh xuất bản. Ở Việt Nam, một số cuốn trong bộ tiểu thuyết này đã được dịch ra tiếng Việt. Tác giả của bộ truyện này là Anthony Horowitz - một nhà văn người Anh chuyên viết tiểu thuyết và kịch bản đã nổi tiếng về các tác phẩm The Diamond Brothers (anh em kim cương), The Power of Five (Người gác cổng), Sherlock Holmes, v.v. Bộ tiểu thuyết này nổi tiếng vì là một tác phẩm văn học thuộc thể loại tiểu thuyết ly kỳ pha với hoạt động tình báo (spy fiction), kết hợp phiêu lưu, đã hấp dẫn nhiều lứa tuổi, hiện rất phổ biến ở nhiều nước châu Âu, châu Mỹ. Sách được bán rất chạy, hiện đã bán được trên 9 triệu bản hoặc có thể hơn nữa. Một số tập của bộ tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim chiếu rạp (từ 2006), thành phim truyền hình (từ 2020) với tựa đề cùng tên. Ngoài ra một số nội dung trong cốt truyện còn được chuyển thể thành trò chơi điện tử "Alex Rider Game". Ở Việt Nam, phần I của bộ phim truyền hình cùng tên là Alex Rider đã công chiếu trên kênh AXN châu Á từ tháng 3 năm 2021. *** Chiếc xe hơi vẫn chở ông đi làm vào bảy giờ mười lăm phút sáng là một chiếc Mercedes được chế tạo theo đơn đặt hàng, có bọc thép và các ô cửa đều được lắp kính chống đạn. Tài xế của ông là một nhân viên FBI đã về hưu, lúc nào cũng thủ trong người một khẩu súng lục Beretta tự động và rất thành thạo cách sử dụng nó. Từ chỗ chiếc xe hơi dừng đến lối vào tòa nhà Roscoe, nằm trên Đại lộ số Năm ở New York, chỉ cách nhau có năm bước chân, thế nhưng những chiếc camera được gắn vào hệ thống truyền hình cáp vẫn theo sát ông ta trong từng cử động. Các cánh cửa tự động nhẹ nhàng khép lại sau lưng ông; một tay bảo vệ mặc đồng phục - có trang bị vũ khí - dõi theo khi ông băng qua phòng lớn, bước vào thang máy riêng. Chiếc thang máy riêng của ông có những bức vách lát đá cẩm thạch trắng muốt, một tấm thảm màu xanh dương, một tay vịn màu bạc, và không có nút bấm nào cả. Ông Roscoe đặt bàn tay của mình lên một ô kính nhỏ. Bộ phận cảm biến đọc vân tay của ông, kiểm tra lại chúng và kích hoạt thang máy. Cửa thang máy nhẹ nhàng đóng lại, thang máy lên thẳng một mạch tới tầng thứ sáu mươi. Không một ai có thể sử dụng nó. Mà nó cũng không bao giờ dừng lại ở bất cứ tầng nào trong tòa nhà. Trong lúc thang máy đi lên, các nhân viên tiếp tân ở tiền sảnh bắt đầu nhấc điện thoại, thông báo cho tất cả nhân viên trong tòa nhà biết rằng ông Roscoe đang đến. Mọi người làm việc trong văn phòng riêng của ông Roscoe đều đã được lựa chọn một cách cẩn thận và xem xét chặt chẽ, kỹ lưỡng cả về lý lịch lẫn chuyên môn. Không bao giờ có thể gặp ông mà không hẹn trước. Hẹn trước rồi thì phải ba tháng sau mới được gặp. Khi người ta giàu, người ta phải cẩn thận. Cuộc sống có nhiều người kỳ quặc lắm, những kẻ bắt cóc, những tên khủng bố - liều lĩnh và cướp bóc. Ông Michael J. Roscoe là chủ tịch Tập đoàn điện tử Roscoe và là người thứ chín, hay thứ mười, giàu nhất trên thế giới, thế nên ông rất cẩn thận. Từ lúc chân dung ông Roscoe xuất hiện trên trang bìa tạp chí Thời đại (Vua điện tử), ông biết rằng mình đã trở thành mục tiêu của nhiều người. Khi ở chốn công cộng, ông bước đi rất nhanh, đầu cúi xuống. Mắt kính râm ông chọn phải che được nhiều nhất gương mặt tròn trịa và bảnh trai của ông. Bộ complê ông Roscoe mặc rất đắt tiền nhưng vô danh. Nếu đến nhà hát hay đi ăn tối, thì vào đến phút chót, ông mới đến, ông không hề thích phải đi quanh quẩn đâu đó. Cuộc sống của ông có hàng tá hệ thống bảo vệ khác nhau, mặc dù chúng làm ông khó chịu, nhưng ông đã biến chúng trở thành thói quen. Hãy hỏi bất kỳ một điệp viên hay nhân viên an ninh nào đi. Thói quen là thứ có thể giết chết người ta. Nó báo cho kẻ đối địch biết rằng ta sẽ đi đâu và khi nào thì ta tới đó. Thói quen sẽ giết chết ông Michael J. Roscoe, và hôm nay là ngày thần chết đã chọn để gọi ông. Lẽ tất nhiên, ông Roscoe không hề có ý niệm gì về chuyện này khi ông bước ra khỏi thang máy mở thẳng vào văn phòng riêng của mình, một căn phòng rất to chiếm lĩnh một góc tòa nhà với những cửa sổ kéo dài từ sàn tới trần nhà, trông ra hai hướng: Đại lộ số Năm ở hướng đông và một phần của Công viên Trung tâm ở hướng Bắc. Hai bức tường còn lại có một cửa ra vào, một kệ sách thấp và một bức tranh sơn dầu đơn độc - một bức tranh vẽ bình hoa của họa sĩ Vincent van Gogh. Các vật dụng trên mặt kính đen ở bàn làm việc của ông được sắp xếp gọn ghẽ: một máy vi tính, một sổ tay bọc da, một máy điện thoại và một tấm ảnh của cậu bé mười bốn tuổi nằm trong khung hình. Khi cởip chiếc áo vét-tông ra và ngồi xuống, ông nhận ra mình đang nhìn vào bức ảnh của cậu bé. Tóc vàng, mắt xanh, và có tàn nhang. Paul Roscoe giống bố mình như đúc hồi ba mươi năm trước, ông Michael Roscoe năm nay đã bước vào tuổi năm mươi hai và bắt đầu nhận ra tuổi tác của mình, mặc dù nước da ông vẫn rám nắng quanh năm. Con trai ông cao gần bằng bố. Tấm hình này chụp vào mùa hè năm ngoái, trên đảo Long Insland. Họ đã trải qua những ngày lênh đênh trên biển. Sau đó là bữa ăn đồ nướng trên bãi biển. Đấy là một trong những ngày hạnh phúc mà họ đã có cùng nhau. Cửa mở, người thư ký bước vào. Helen Bosworth là người Anh. Cô rời nhà, dĩ nhiên, cả chồng nữa, để đến và làm việc ở New York; cô yêu mỗi phút giây ở đây. Cô đã làm việc trong văn phòng này được mười một năm rồi, và trong suốt quãng thời gian đó, cô chưa hề quên một chi tiết hay phạm một lỗi lầm nào. - Xin chào ông Roscoe - Cô lên tiếng. - Chào cô, Helen. Cô đặt xấp tài liệu lên bàn ông. - Số liệu mới nhất từ Singapore. Dự toán về tổ chức R-15. Ông có bữa trưa với Thượng nghị sĩ Andrews lúc mười hai giờ rưỡi. Tôi đã đặt chỗ ở Ivy. - Cô đã gọi đi London chưa ? - ông Roscoe hỏi. Helen Bosworth chớp chớp mắt. Cô chưa bao giờ quên điều gì, vậy tại sao ông ta lại hỏi thế ? Cô đáp: - Chiều hôm qua, tôi đã gọi tới văn phòng ông Alan Blunt rồi. Buổi chiều ở New York là buổi tối ở London. Cô Helen nói tiếp: - Ông Blunt không rảnh, nhưng tôi đã sắp xếp cho ông một cuộc điện thoại gọi qua tổng đài vào chiều nay. Chúng tôi có thể nối số vào xe hơi của ông. - Cảm ơn cô, Helen. - Tôi đem cà phê cho ông nhé ? - Không cần đâu, cảm ơn Helen. Hôm nay tôi không uống cà phê. Helen Bosworth rời khỏi phòng, cô thực sự hoảng hốt. Không uống cà phê ? Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo nữa đây ? Theo như những gì cô biết thì ông Roscoe luôn bắt đầu một ngày làm việc của mình với hai tách cà phê kia mà. Liệu có phải ông bị ốm không nhỉ ? Gần đây ông hoàn toàn không còn là ông nữa - không phải là từ lúc Paul trở về nhà từ ngôi trường ở miền Nam nước Pháp. Lại còn cuộc điện thoại cho ông Alan Blunt ở London nữa chứ ! Chưa có ai kể với cô về con người này cả, nhưng cô đã từng nhìn thấy cái tên này trên một tệp tài liệu, ông Roscoe có việc gì đó với Cục tình báo quân đội. MI6. Ông Roscoe đang làm gì vậy, nói chuyện với một điệp viên ư ? Cô Helen Bosworth quay trở lại văn phòng làm việc của mình, cố gắng làm dịu nỗi kích động, không uống cà phê - cô không thể chịu nổi điều này - mà uống một tách trà làm tỉnh người trong bữa trà điểm tâm của Anh. Một điều gì đó rất lạ đang diễn ra, và cô không hề thích thú điều đó.. Cô không thích điều đó chút nào. Trong lúc ấy, dưới đó sáu mươi tầng, một người đàn ông bước vào tiền sảnh, hắn mặc quần yếm xám với một huy hiệu nhận diện đính trên ngực. Huy hiệu cho biết hắn là Sam Green, một kỹ sư bảo dưỡng của Công ty liên hợp Thang máy X-Press, một tay hắn xách một chiếc cặp, tay kia xách một cái hộp dụng cụ lớn, màu bạc. Hắn đặt cả hai xuống phía trước quầy tiếp tân. Same Green không phải là tên thật của hắn. Tóc hắn - đen và hơi nhờn - là tóc giả; cũng là giả cả cặp kính mát, hàng ria mép và hàm răng không bằng phẳng. Trông hắn khoảng năm mươi tuổi, nhưng sự thật thì hắn chỉ mới gần ba mươi. Không ai biết tên thật của người đàn ông này, nhưng với công việc hắn đang làm, cuối cùng, hắn cũng đã để lại tiếng tăm. Hắn được biết đến với cái tên vỏn vẹn: "Quý ông'', là một trong những tên giết mướn thành đạt nhất và được trả lương cao nhất trên thế giới. Hắn được tặng biệt danh này bởi vì hắn luôn luôn gửi hoa đến gia đình nạn nhân của hắn. Người bảo vệ ở tiền sảnh nhìn hắn chằm chằm. - Tôi đến để xem thang máy - Hắn lên tiếng. Hắn nói gọng khu Bronx (nằm ở phía Đông Bắc thành phố New York) mặc dù cả đời hắn chưa bao giờ ở đó quá một tuần. - Để làm gì ? - Người bảo vệ hỏi - Người của ông đã đến đây tuần trước rồi mà. - Vâng. Đúng rồi. Chúng tôi đã phát hiện thấy một dây cáp bị hư ở thang máy số mười hai. Nó cần được thay thế, nhưng lúc ấy, chúng tôi lại không có thiết bị. Thế nên họ mới cử tôi quay trở lại. Quý ông lục tìm trong túi, lấy ra một tờ giấy nhàu nát. - Anh có cần gọi đến văn phòng chính không ? Thật sự là tôi được chỉ định đến đây mà. Nếu người bảo vệ mà gọi cho Công ty Liên hiệp Thang máy X-Press, thì anh ta sẽ khám phá ra được rằng quả thực Công ty có nhận một người tên là Sam Green vào làm - nhưng đã hai ngày qua, chẳng thấy mặt mũi ông ta đâu. Bỏi vì Sam Green thật hiện đang nằm ở dưới đáy sông Hudson với một con dao trên lưng và một khối bê-tông nặng chín kilôgram buộc ở chân. Nhưng người bảo vệ đã không gọi điện cho Công ty. Quý ông cũng đã đoán trước được rằng anh ta sẽ không gây cản trở cho mình. Xét cho cùng thì thang máy vẫn luôn bị hỏng như thế. Lúc nào mà chả thấy thợ sửa chữa đi ra đi vào. Có gì khác biệt nếu có thêm một người nữa vào làm ? Người bảo vệ đưa ngón tay cái ra hiệu. Anh ta nói: - Lên đi. Quý ông cất tờ giấy vào túi, xách đồ đạc lên, đi lại phía thang máy. Có mười hai tòa nhà chọc trời đang được bảo dưỡng, thêm tòa nhà của ông Michael J. Roscoe nữa là thứ mười ba. Thang máy số mười hai nằm ở phía cuối. Khi hắn bước vào, một chú bé giao hàng cầm trên tay một bưu kiện cũng cố gắng vào theo. - Xin lỗi nhé - Quý ông nói - Phải đóng cửa để sửa chữa. Cửa thang máy nhẹ nhàng đóng lại. Quý ông bắt đầu làm công việc của mình. Hắn nhấn nút lên tầng sáu mươi mốt. Quý ông chỉ mới được giao nhiệm vụ này vào tuần trước. Hắn đã phải tiến hành thật nhanh, giết một kỹ sư bảo dưỡng thật, bắt chước hình dáng của ông ta, tìm hiểu cách bố trí trong tòa nhà Roscoe, và cố gắng sử dụng thành thạo một số dụng cụ mà hắn biết trước là hắn sẽ phải cần đến. Những người thuê hắn muốn nhà triệu phú này phải bị loại trừ càng sớm càng tốt. Quan trọng hơn, trông nó phải giống với một vụ tai nạn. Vì vậy, người ta đã nhờ đến Quý ông - và hắn được trả một trăm ngàn đôla. Tiền được gửi vào một tài khoản ở ngân hàng Thụy Sĩ; họ trả trước một nửa và sẽ trả tiếp nửa kia sau khi xong việc. Cửa thang máy lại mở ra. Tầng sáu mươi mốt được sử dụng chủ yếu cho hoạt động bảo vệ. Đây là nơi người ta đặt bể nước, cũng như những máy vi tính điều khiển nhiệt độ, máy điều hòa không khí, camera theo dõi và những thang máy trong tòa nhà. Quý ông tắt thang máy bằng cách sử dụng chiếc chìa khóa đã từng thuộc về Sam Green, sau đó, hắn đi lại phía những chiếc máy vi tính. Hắn biết chính xác những chiếc máy vi tính này nằm ở đâu. Thực tế, hắn có thể nhận ra chúng đang được che lại. Hắn mở chiếc cặp của mình ra. Trong cặp có hai ngăn. Ngăn thấp chứa một chiếc máy vi tính xách tay. Ngăn cao hơn đặt những mũi khoan và các dụng cụ khác, mỗi món đồ đều được buộc ràng lại, nằm cố định một chỗ. Hắn mất mười lăm phút để xâm nhập vào máy vi tính trung ương và kết nối nó vào máy vi tính xách tay của hắn. Việc truyền dữ liệu qua hệ thống bảo vệ tòa nhàRoscoè lại mất thêm một khoảng thời gian nữa nhưng cuối cùng nó cũng trót lọt. Hắn gõ một lệnh vào bàn phím, ở tầng dưới, thang máy riêng của ông Michael J. Roscoe vừa làm một việc mà trước đây nó chưa hề làm bao giờ. Nó lên thêm một tầng nữa - tầng thứ sau mươi mốt. Tuy nhiên, cửa thang máy vẫn đóng. Quý ông cũng chẳng cần bước vào. Thay vào đó, hắn nhấc chiếc cặp cùng với cái hộp dụng cụ màu bạc lên, mang trở lại vào thang máy mà hắn đã lên đây từ tiền sảnh. Hắn mở khóa và nhấn nút xuống tầng năm mươi chín. Một lần nữa, hắn lại khóa thang máy. Rồi hắn với tay lên, đẩy. Nóc thang máy là một cửa lật. Hắn đặt chiếc cặp và chiếc hộp dụng cụ màu bạc lên trên đó rồi nhảy lên trên nóc thang máy. Lúc này, Quý ông đang đứng trong khoang thang máy chính của tòa nhà Roscoe. Bốn phía xung quanh hắn toàn những cột và các ống đen xì những dầu mỡ cùng bụi bẩn. Những sợi dây cáp làm bằng thép dày buông thõng xuống, một số kêu o o khi chúng đang tải vật nặng. Nhìn xuống phía dưới, hắn có thể trông thấy một đường hầm trông như kéo dài vô tận, với những khe sáng do cửa thang máy trượt ra rồi đóng lại khi những chiếc thang máy đi lên các tầng khác nhau. Chúng tạo ra một làn gió nhẹ thổi tung bụi vào mắt hắn. Bên cạnh hắn là cửa thang máy, mà nếu mở ra, chúng sẽ dẫn hắn vào thẳng văn phòng ông Roscoe. Bên trên những cánh cửa này, phía trên đầu của hắn, thêm vài mét nữa về bên phải là mặt dưới thang máy riêng của ông Roscoe. Cái hộp đựng dụng cụ đang ở bên cạnh hắn. Một cách thận trọng, hắn mở chiếc hộp ra. Xung quanh chiếc hộp được lót một miếng bọt biển dày. Trong lòng miếng lót ấy là một vật dụng trông như một máy chiếu phim phức tạp, màu bạc, hình lòng chảo, có một thấu kính thủy tinh dày. Hắn lấy chiếc máy ra, sau đó, nhìn vào đồng hồ. Tám giờ ba mươi lăm phút sáng. Quý ông còn những một tiếng đồng hồ nữa để lắp thiết bị này vào bên dưới thang máy của ông Roscoe, và thêm chút xíu thời gian nữa để kiểm tra lại cho chắc chắn rằng nó đang hoạt động. Hắn còn cả khối thối gian nữa. Mỉm cười với chính mình, Quý ông lấy ra một cái tuavít vạn năng và bắt đầu làm việc. Mười hai giờ trưa, cô Helen Bosworth nói vào điện thoại: - Thưa ông Roscoe, xe hơi của ông đến rồi. - Cảm ơn cô, Helen. Buổi sáng hôm ấy, ông Roscoe không làm việc nhiều, ông tự nhận ra rằng mình chỉ để có một nửa đầu óc vào công việc. Một lần nữa, ông lại nhìn vào bức ảnh trên bàn. Paul. Làm thế nào mà cha và con lại trở nên hục hặc với nhau như thế chứ ? Và điều gì đã xảy ra vào mấy tháng cuối cùng đó khiến cho tình cảm cha con của họ trở nên tồi tệ đến như vậy ? Ông đứng dậy, mặc áo vét-tông vào, rời khỏi phòng làm việc, lên đường đi ăn trưa với Thượng nghị sĩ Andrews. Ông hay ăn trưa với những chính khách. Những người này hoặc muốn tiền, muốn ý kiến của ông - hoặc chỉ là muốn quan hệ xã giao với ông. Bất cứ ai giàu sụ như Roscoe cũng đều muốn kết bạn với người có quyền lực, và các chính khách thì lại cần có những người bạn như thế. Ông nhấn nút thang máy, cánh cửa nhẹ nhàng mở ra, ông bước một bước về phía trước. Điều cuối cùng ông Michael J. Roscoe còn nhìn thấy trong cuộc đời mình chính là mặt trong chiếc thang máy của ông, với những vách cẩn đá cẩm thạch trắng, tấm thảm xanh dương, và tay vịn màu bạc. Chân phải của ông, mang chiếc giày da màu đen do một cửa hàng nhỏ ở thủ đô Rôma làm bằng tay để dành riêng cho ông, đặt lên tấm thảm và đã xuyên qua nó, kéo theo cả thân hình của ông đổ nghiêng vào trong thang máy và rồi cũng xuyên qua tấm thảm, ông lọt xuống, rơi khỏi sáu mươi tầng lầu cho đến chết. Ông Roscbe hoàn toàn không thể hiểu được điều gì đã xảy ra, ông đã ngạc nhiên đến độ không thể kêu lên được một tiếng nào. Ông rơi vào bóng tối đen ngòm của khoang thang máy, rơi dọc theo những bức vách, và đâm sầm vào nền bê-tông rắn chắc ở bên dưới, cách đó bốn trăm năm mươi bảy mét. Chiếc thang máy vẫn ở nguyên chỗ cũ. Trông nó vẫn vững chắc, nhưng thật ra, nó không còn ở đó nữa. Cái mà ông Rosoe bước vào chỉ là một hình ảnh ba chiều, một hình ảnh được chiếu vào khoảng không trống rỗng của khoang thang máy, nơi có để chiếc thang máy thật. Quý ông đã lập trình cho cửa mở ra khi ông Roscoe bấm nút, và ung dung nhìn thấy ông đi vào quên lãng. Nếu nhà triệu phú ngước nhìn lên một chút, ông sẽ nhận ra một máy chiếu không gian ba chiều màu bạc, đang chiếu ra một hình ảnh, cái máy ấy chỉ ở bên trên đầu ông có vài mét. Nhưng người đàn ông bước vào thang máy để xuống ăn trưa không hề ngước mắt lên. Quý ông đã biết trước điều đó. Và hắn chưa bao giờ tính toán sai. Mười hai giờ ba mươi lăm phút, người lái xe gọi lên, nói rằng ông Roscoe không vào xe hơi. Mười phút sau, cô Helen Bosworth báo động khẩn cấp, cô bắt đầu rảo quanh phòng lớn của tòa nhà. Lúc một giờ, người ta gọi tới nhà hàng. Ngài Thượng nghị sĩ vẫn đang chờ ở đó. Nhưng ông Roscoe thì không thấy tăm hơi. Thật ra, mãi đến ngày hôm sau, người ta vẫn chưa tìm ra được thi thể của ông Roscoe; nhưng vào tại thời điểm đó, sự mất tích của nhà triệu phú đã trở thành tin tức nổi cộm của các báo. Một tai nạn kỳ quặc - có vẻ như vậy. Không ai có thể lý giải được điều đã xảy ra. Bởi vì lúc đó, lẽ dĩ nhiên, Quý ông đã lập trình lại máy vi tính, gỡ máy chiếu ra và xóa bỏ mọi dấu vết, trước khi bình thản rời khỏi tòa nhà. Hai ngày sau, một người đàn ông trông giống một kỹ sư bảo dưỡng bước vào sân bay quốc tế John F. Kennedy. Ông ta đáp chuyến máy bay đến Thụy Sĩ. Nhưng trước tiên, ông ta đến một cửa hàng hoa, đặt mười hai bông hoa uất kim hương đen, yêu cầu gửi đến một địa chỉ nào đó. Người đàn ông ấy gửi tiền mặt, ông ta đã không để lại tên. Mời các bạn đón đọc Đỉnh Tuyết - Cuộc Phiêu Lưu Của Alex Rider của tác giả Anthony Horowitz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bạch Mã Hoàng Tử, Chàng Ở Đâu? - Agathe Hochberg
Một điều vô cùng chắc chắn: thời nay chẳng kiếm đâu ra bạch mã hoàng tử! Nam giới toàn những kẻ hoặc miệng lưỡi dẻo quẹo, hoặc bủn xỉn, hoặc ích kỷ vô trách nhiệm, hoặc gàn dở thậm chí ấu trĩ và nhu nhược đến nực cười. Bằng chứng ư? Chính là vô số những bức mail độc nhất vô nhị và cùng lúc hấp dẫn khôn cưỡng giữa hai cô nàng Ariane và Justine, một ở Paris, một ở New York, một đã có chồng, một còn độc thân. Và một điều còn chắc chắn hơn nữa: chính bạn sẽ bị cuốn theo mối bận tâm chung của hai cô nàng ấy từ lúc nào chẳng hay, đến mức chỉ có thể buông cuốn sách xuống chừng nào bạn đã biết được kết cuộc. “Trong tấn hài kịch lôi cuốn, vui nhộn và đúng mực này, Agathe Hochberg biết bắt lấy nhạc điệu của thời gian với cả sự thông tuệ lẫn hài hước.” - Pascale Frey, Lire *** Đôi nét về tác giả Sinh tại Paris, Agathe Hochberg lớn lên và trưởng thành tại cả Pháp và Mỹ. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành luật và thương mại quốc tế, cô quay sang lĩnh vực điện ảnh. Trải qua quãng thời gian tác nghiệp như một nhà báo chuyên về lĩnh vực âm nhạc và nhờ vào sự sáng dạ, tinh tế và hài hước, Agathe Hochberg đã có được một lượng lớn độc giả ngay sau khi phát hành cuốn tiểu thuyết đầu tay Bạch mã hoàng tử: chàng ở đâu? vào năm 2003. Tiếp nối thành công ấy là một loạt các tiểu thuyết khác như Mes amies, mes amours, mais encore? (2005), La Coupe du monde et autres footaises: le dico non officiel (2006), Lettres à ma fille (2006), Lettres à mon amour (2007), và Lettres à ma mère (2007). *** - Trượt tuyết nhé? Dĩ nhiên là không. Hồi còn nhỏ tôi đâu có được học: tôi trèo lên ván trượt tuyết lần đầu tiên vào năm mười bảy tuổi; thật điên khùng, cái gọi là ý thức về sự nguy hiểm có thể làm hỏng bét mọi thú vui. Thế nhưng tôi đã nỗ lực, bạn bè thay phiên nhau chỉ bảo cho tôi còn tôi thì ngoan ngoãn chống gậy, gập đầu gối... trong khi lũ nhóc bốn tuổi vượt mặt tôi cái vèo. Sau một tuần, trên người tôi xuất hiện những vết tím bầm hẳn là khả dĩ giúp tôi có thể xuất hiện trong bách khoa thư về những bọc máu, và rốt cuộc tôi đã có thể khập khiễng trở về nhà. Đấy, những kỷ niệm duy nhất về núi non của tôi là thế đấy, đống kỷ niệm ấy và chuyện ăn mặc. Chưa bao giờ tôi lại mất nhiều thời gian đến vậy cho việc khoác đồ vào và cởi đồ ra. Khoác đồ, cởi đồ; trèo lên, bước xuống: chẳng phải chuyên môn của tôi. Mà ở đó trời còn lạnh, rất lạnh nữa chứ. Tôi ghê sợ cái lạnh, khi lạnh tôi cảm thấy mình thật nhỏ nhoi. Lạnh lẽo thật chẳng phải thứ gì thân thiện cho lắm, vả lại, đã co ro là chỉ có co ro một mình. Được rồi, giờ thì phải trả lời cô ấy thôi: Không, tớ không định đi trượt tuyết cũng chẳng định đi ra biển, trong kỳ nghỉ tớ thích tham quan các thành phố hơn. Tôi viết cho Justine, cô bạn mới quen vẫn giữ liên hệ với tôi qua mạng, chúng tôi gặp ở một đám cưới nơi cả hai cùng là người làm chứng. Đến tiệc cocktail, cô ấy hỏi tôi: - Cuộc sống khi kết hôn sẽ thế nào? Tôi hơi lưỡng lự chút xíu, tôi không muốn làm cô ấy thất vọng nhưng cuối cùng tôi cũng trả lời: - Rất khó khăn. - Sao ai cũng nói thế nhỉ? - Vì đó là sự thật... Có thể nói điều đó giống như việc cặp đôi mà không kết hôn và có khuynh hướng tai hại là tin rằng mình đã chiếm được người kia. Justine sống ở New York, cô ấy ba mươi hai tuổi, tóc đen và mắt xanh quyến rũ. Cô ấy cũng rất thông minh và sinh động, đến nỗi mà ngay cả một cô gái tự nhận là hiện đại như tôi cũng phải tự hỏi sao cô ấy lại không kết hôn. Thế là ngay lập tức chúng tôi bị cuốn vào phần sôi nổi nhất của câu chuyện. Các cô gái tuổi chúng tôi không có thời gian để lãng phí, dù câu chuyện là gì đi chăng nữa. ... Mời các bạn đón đọc Bạch Mã Hoàng Tử, Chàng Ở Đâu? của tác giả Agathe Hochberg.
Cuộc Đời Chín Ngày - Thierry Cohen
Một chuyện tình được viết ra với phong cách từa tựa như Marc Levy và Guillaume Musso - nhẹ nhàng, lãng mạn, ngập tràn cảm xúc nhưng cũng không kém phần hồi hộp và ly kỳ. Jeremy luôn tin rằng Victoria yêu anh, họ sẽ chung sống với nhau. Cái ngày cô rời bỏ anh, 8/5/2001, Jeremy quyết định từ giã cuộc đời và kết tội Chúa là người đã gây ra mọi bất hạnh cho anh. "Chúa ơi... Tại sao con lại kêu tên Người? Người có ở đó không? Có từng ở đó không? Người có thấu được những lời cầu nguyện của con? Thôi nào Chúa ơi, chúng ta hãy thanh toán nợ nần nhé! Làm sao Chúa trời nhân từ là thế lại tạo ra một con người tuyệt vời như nàng ở cận kề con rồi lại chối từ không trao nàng cho con? Vì mục đích gì vậy? Đế con phải đau khổ ư? Người đã thành công rồi đấy! Con đang đau khổ đây. Đến mức không thiết sống nữa. Thế nào, Người tự hào về mình chứ? Con trả lại Người tương lai của con đấy. Hãy đem nó cho kẻ khác đi. Người chỉ mách con vực thẳm thì con xuống đó đây". Nhưng kỳ lạ thay, khi Jeremy tỉnh dậy, Victoria đang ở đó và cô vẫn yêu anh. Đó là ngày 8/5/2002. Một năm đã trôi qua và mặc cho mọi sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, anh thấy mình như đang ở chốn Thiên đường trần gian... Sau một ngày đầy bất ngờ, Jeremy lại chìm vào giấc ngủ sâu. Khi anh mở mắt ra, lại một năm nữa đã trôi qua, một năm mà anh không có chút ý niệm nào về những gì đã xảy ra. Victoria đang mang thai đứa con của anh... Khi Jeremy tỉnh dậy vào ngày 8/5/2004, anh đã là bố... Nhưng thời gian dường như trôi ngày càng nhanh, Jeremy thấy mọi việc diễn ra trong những lần tỉnh dậy của mình ngày càng hỗn loạn. Những giây phút thức tỉnh hiếm hoi, anh dành để cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy với mình... Và rồi đến sáng ngày 8/5/2010, khi anh mở mắt ra, Victoria đã bỏ đi. Cô đã bỏ anh và kết tội anh là một kẻ độc ác, ích kỷ, tồi tệ, không thể chịu đựng nổi. Dần dần, anh phát hiện ra mình đã gieo rắc nỗi sợ hãi cho những người xung quanh. Trong cái cuộc sống mà anh đã cố rời bỏ ấy, anh trở thành một con người hoàn toàn khác và cư xử như một tên khốn nạn với tất cả những người mà anh yêu quý. Cho tới khi anh thấy mình chỉ còn lại một mình trên thế giới này. Liệu anh có thể thoát ra khỏi chốn địa ngục này? Ai là kẻ đã đóng giả anh và phá hoại cuộc đời anh? Jeremy đã chết? Hay anh đã phát điên? Hay mất trí nhớ? Hay anh bị trừng phạt vì đã dám thách thức Chúa? Thierry Cohen, tác giả của Cuộc đời chín ngày, dẫn dắt người đọc vào một câu chuyện tình kỳ lạ bắt đầu bằng... một vụ tự tử, một câu chuyện tình diễn ra nơi hành lang thời gian, giữa sự sống và cái chết, nơi thực và ảo đan xen... Câu chuyện của Jeremy bắt đầu khi tất cả đã kết thúc. Khi tự tử, anh đã bước vào một thế giới khác, trong đó anh phải đối diện với những hậu quả do hành động điên rồ của mình gây ra. Chính với tác phẩm đầu tay Cuộc đời chín ngày, Thierry Cohen được trao giải Grand Prix d'Ormesson của Pháp năm 2007. Cuốn sách đã được dịch ra 10 thứ tiếng và chuyển thể thành kịch bản phim. Bắt nguồn từ việc một người bạn thân của mình tự tử, Thierry Cohen tự hỏi liệu ông có thể kể câu chuyện gì để bạn từ bỏ quyết định kia, phải nói gì để bạn hiểu rằng anh ta không cô độc giữa thế giới này và vẫn còn rất quan trọng đối với nhiều người khác. *** Thuốc ngủ, rượu whisky, cần sa. Nằm xuống. Mình biết mình làm gì. Chỉ nghĩ đến phương pháp. Chỉ nghĩ đến những động tác. Chỉ nghĩ đến bản thân, ở đây, trong phòng khách này, đến chai rượu, đến những viên thuốc. Chỉ mình mình thôi. Cái nút. Ống thuốc. Há miệng, để thuốc lên lưỡi, đưa chai lên môi. Nuốt. Nghĩ đến phương pháp. Không gì khác. Không nghĩ đến bố, không nghĩ đến mẹ. Nhất định không. Nghĩ đến nỗi nhục nhã của mình. Chỉ một mình, ở đây. Mình và nỗi nhục của mình. Mình biết mình đang làm gì. Rồi bố mẹ sẽ hiểu. Có thể. Mà mình đâu thèm quan tâm đến việc họ có hiểu hay không! Không… Không nghĩ đến điều ấy. Không nghĩ đến ai hết. Hôm nay, mình là người quyết định! Mình không thiết gì cuộc sống này nữa. Nó là một cuộc tra tấn, một sự sỉ nhục. Mình là người quyết định. Và mình quyết định sẽ vứt quách nó đi. Mình hoàn toàn làm chủ được tình thế! Và nếu không đủ can đảm, nếu có ý định đứng dậy hay dừng tất cả những việc này lại, mình sẽ nghĩ đến nàng. Đến nàng, cuộc sống của mình và là người đã từ chối mình. Không nghĩ đến ai khác, những người yêu thương mình, mà nghĩ đến nàng, người không hề yêu mình, không muốn yêu mình. Thậm chí không hề muốn thử yêu mình. Làn da mịn màng, đôi mắt xanh biếc, nụ cười của nàng. Nụ cười của nàng! Đó chính là sự ve vuốt mà vẻ đẹp của nàng trao tặng cho những ai đến gần. Giờ nó đã trở thành một nỗi đau. Không, tất cả những gì thuộc về nàng đã khiến mình lạc lối, đã xô mình đến vực thẳm này. Vực thẳm của cái chết đối lại với nỗi trống rỗng của cuộc đời mình. Nào có khác gì nhau đâu? Chúa ơi, sao đầu óc con quay như chong chóng thế này. Chúa ơi… Tại sao con lại kêu tên Người? Người có ở đó không? Có từng ở đó không? Người có thấu được những lời cầu nguyện của con? Thôi nào Chúa ơi, chúng ta hãy thanh toán nợ nần nhé! Làm sao Chúa trời nhân từ thế lại tạo ra một con người tuyệt vời như nàng ở cận kề con rồi lại chối từ không trao nàng cho con? Vì mục đích gì vậy? Để con phải đau khổ ư? Người đã thành công rồi đấy! Con đang đau khổ đây. Đến mức không thiết sống nữa. Thế nào, Người tự hào về mình ư? Con trả lại Người tương lai của con đấy. Hãy đem nó cho kẻ khác đi. Người chỉ mách con vực thẳm thì con xuống đó đây. Mình không sợ. Chỉ nghĩ đến phương pháp. Mẩu giấy vẫn còn bốc khói. Phê thêm một chút nữa. Đưa mình ra khỏi chính mình để tách khỏi nàng. Này đây tâm hồn mình bay bổng, được ru đưa bởi khói và rượu. Tiếp đến là thuốc ngủ. Đó là phương pháp. Mình đang vã mồ hôi. Không sợ. Chỉ vài giây nữa thôi. Nghĩ đến nàng. Mình đã quyết định nói hết với nàng. Ngày hôm nay, ngày mình tròn hai mươi tuổi. Để tự mình giải thoát khỏi những mối ngờ vực. Và cuối cùng là để biết. Mình đã chuẩn bị thật kỹ… Nhưng liệu có cần phải chuẩn bị không nhỉ? Mình có biết bao nhiêu điều muốn nói với nàng. Nhưng nào nàng có muốn nghe, muốn hiểu. Mình đã nói với nàng tình yêu thời thơ ấu. Phần đầu của câu chuyện. - Nhưng hồi đó bọn mình mới có chín tuổi mà, Jeremy! nàng vừa cười vừa nói. Mười tuổi. Không trẻ con lắm đâu khi đã lên mười. Mình yêu nàng đến phát điên, còn nàng thì rất quý mình. Với nàng, tất cả chỉ là một trò chơi con nít, một vài nụ hôn trong sáng, một tình cảm thân tình trìu mến, một giai điệu yêu kiều. Một kỷ niệm xa vời nhuốm màu dĩ vãng. Còn với mình, đó lại là khởi đầu của cuộc sống. Một thứ ánh sáng nóng bỏng đến trước ánh sáng mùa hè và chia rẽ hai đứa. - Chúng mình đã trở thành bạn. Thậm chí cậu từng là người bạn tâm tình của mình! ... Mời các bạn đón đọc ​Cuộc Đời Chín Ngày của tác giả Thierry Cohen.
Cuộc Hội Thảo - Milan Kundera
Trong Lời cuối sách của bản tiếng Pháp, François Ricard đề nghị coi kết cấu của bảy truyện trong Những mối tình nực cười là kết cấu đối xứng, trong đó sáu truyện ngắn đối xứng nhau qua tâm điểm truyện thứ tư, thành những đường tròn đồng tâm, những cặp tương ứng 1-7 (Sẽ không ai cười và Edouard và Chúa), 2-6 (Quả táo vàng của ham muốn vĩnh cửu và Bác sĩ Havel hai mươi năm sau), 3-5 (Trò chơi xin quá giang và Người chết cũ phải nhường chỗ cho người chết mới) ; các cặp đó tương đồng cả về hình thức (độ ngắn dài) lẫn các ý tưởng, chủ đề. Đứng ở vị trí trung tâm, Cuộc hội thảo dĩ nhiên có tầm vai trọng đặc biệt và khác với sáu truyện còn lại. Xét về dung lượng, Cuộc hội thảo có độ dài lớn nhất, đó cũng là truyện duy nhất có kết cấu theo lối kịch 5 màn. Đó là một khảo sát đầy tính châm biếm về tình thế của Don Juan trong thế giới hiện đại, cái chết của một biểu tượng “cao quý” ; trong thế giới hiện đại Don Juan không còn đất sống, bị rút gọn thành một hình ảnh hài hước và mơ hồ đến thảm hại, từ chỗ Nhà Chinh Phục trở thành Nhà Sưu Tập. Khái niệm tự do cũng được Kundera khai thác, một tự do khác với cách hiểu của Sartre, không phải là điều kiện sẵn có, bị áp đặt từ bên ngoài, mà là một chút không gian để cựa quậy theo ý mình, cái sẽ dần dà bị thu hẹp đến mức khó thở. Nhưng quan trọng hơn cả là Cuộc hội thảo trình bày một suy tư về thân phận con người, về những sự thật nhiều mặt của con người, trong đó nhìn từ khía cạnh nào những sự thật đó cũng đúng đắn, và cùng lúc cũng sai lầm, mất giá một cách trầm trọng. *** Mời các bạn đón đọc Cuộc Hội Thảo của tác giả Milan Kundera.
Con Đường Cách Mạng - Richard Yates
“Còn hơn cả lối viết đẹp, đó là tất cả những gì làm cho cuốn sách này trở thành sống động một cách mạnh mẽ, rực sáng và ngay lập tức là một tuyệt tác” Tennessee Williams “Được đón nhận như một tuyệt tác ngay từ lần xuất bản đầu tiên, Con đường Cách mạng là câu chuyện kể về Frank và April Wheeler, một đôi vợ chồng trẻ nhàm chán với cuộc sống tầm thường, vô vị ở ngoại ô và luôn mong mỏi được trở thành đặc biệt. Richard Yates đã để lại cho người đọc một sự hoài nghi về quyết định thay đổi nhằm đạt được những điều tốt hơn trong cuộc sống của Frank và April Đơn giản đây là cuốn tiểu thuyết hay nhất trong năm mà tôi đã được đọc” Nick Hornby *** Những âm thanh kết thúc cuối cùng của buổi diễn tập thử trang phục đã làm cho nhóm Laurel không còn việc gì để làm ngoài việc đứng đó, im lặng và đầy tự tin, lung linh qua ánh đèn chiếu của khán phòng trống không. Họ hầu như không thở được khi diện mạo nghiêm nghị và thấp tè của người quản lý xuất hiện từ hàng ghế trống gọi họ nhóm họp lại trên sân khấu, và khi ông kéo chiếc thang cọt kẹt từ phía cánh gà, leo lên đó và nói với họ rằng, bằng tất cả nhiệt huyết của mình, họ là những diễn viên thật tài năng và ông thấy thật tuyệt vời khi được làm việc với họ. “Đây quả thật không phải là công việc đơn giản”, ông nói, với cặp kính lấp lánh trang nhã nhìn quanh sân khấu. “Chúng ta đã có rất nhiều vấn đề, và thật sự, đã đôi lúc tôi phải bắt mình không được mong chờ quá nhiều. Nghe như là ủy mị, nhưng thật sự tối nay chúng ta đã làm được. Ngồi ở dưới kia, đột nhiên tối nay, tận sau trong đáy lòng, tôi nhận thấy lần đầu tiên các bạn đã làm việc bằng cả trái tim mình”. Một tay ông đặt lên ngực để chỉ rằng đường đi đến trái tim thật đơn giản và tự nhiên; rồi tay kia ông nắm lại, không lời, đưa qua đưa lại thật chậm, gây ấn tượng thật sâu sắc, một bên mắt nhắm lại với môi dưới cong lên thể hiện niềm vui hân hoan và đầy vẻ tự hào. “Tối mai hãy biểu diễn như thế này nhé”, ông nói “và chúng ta sẽ có một đêm diễn hoàn hảo”. Họ đã có thể khóc trong sự nhẹ nhõm. Nhưng, trong sự rung động, họ đã cười, nói, bắt tay và hôn nhau. Ai đó ở tình huống như họ sẽ đi uống bia, còn họ lại cùng nhau hát quanh chiếc đàn piano ở khán phòng cho đến tận khi cùng thống nhất ra về và chúc nhau có một giấc ngủ ngon. “Hẹn gặp nhau ngày mai nhé!”, họ nói với nhau, hạnh phúc như những đứa trẻ, và dưới ánh trăng trên đường về nhà họ chợt nhận thấy họ nên kéo cửa xe ô tô xuống để tận hưởng khí trời, mùi thơm của đất và hoa. Đây là lần đầu tiên nhóm Laurel cho phép họ được cảm nhận sự đến gần của mùa xuân. ... Mời các bạn đón đọc Con Đường Cách Mạng của tác giả Richard Yates.