Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Làng Nhô

Chuyện làng Nhô, kịch bản phim truyền hình (1995), là tác phẩm đầu tay ở thể loại này của nhà văn Phạm Ngọc Tiến khi anh đầu quân về Trung tâm sản xuất phim truyền hình thuộc Đài truyền hình Việt Nam. Cốt lõi của nó là từ cuôn tiểu thuyết Kẻ ám sát cánh đồng (Nxb Công An Nhân Dân, 1994) của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Một cuốn tiểu thuyết được viết ra từ chính một sự kiện có thật đã diễn ra ở vùng đồng chiêm Kim Bảng (Hà Nam). Những người nông dân nơi đó do có những mâu thuẫn với một số cán bộ chính quyền địa phương trong việc quản lý đất đai, cách thức làm ăn, đời sống sinh hoạt, đã kiến nghị, đã phản đối, và cuối cùng đã thành ra chống đối khi có kẻ xấu ở làng bày mưu xúi giục, tìm cách lái họ chệch hướng đấu tranh. Vụ việc bùng ra gây chấn động dư luận và cuối cùng đã được giải quyết, lập lại trật tự ở làng quê, để cho người nông dân được sống thực trên mảnh đất của mình. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã về tận nơi tìm hiểu sự việc, lấy tài liệu, gặp gỡ trò chuyện với những người thực trong biến cố đó, và anh soi chiếu nó bằng cái nhìn văn học. Tên sách Kẻ ám sát cánh đồng mang tính biểu tượng, đó không chỉ là một nhân vật cụ thể mà còn có thể là một cách làm sai, một cách nhìn chưa đúng gây ra nhũng loạn, hà hiếp ở nông thôn mới. Ý nghĩa này ở cuốn tiểu thuyết của người bạn văn chắc hẳn đã hấp dẫn Phạm Ngọc Tiến khi anh tìm kiếm một cốt truyện viết kịch bản phim truyền hình đầu tay. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Quang Thiều đã có những nhân vật rõ nét, có những biến cố kịch tính, có những cảnh huống căng thẳng, đủ chất liệu cho phim. Lên phim, Phạm Ngọc Tiến xoáy bật vào cái làng sinh chuyện - Chuyện làng Nhô. Chuyện làng nhưng cũng là chuyện nước, tác phẩm nghệ thuật phải chưng cất, khái quát hiện thực, không chỉ mô tả mà còn phản ánh, sau phản ánh còn là thể hiện, và thể hiện là để nghiền ngẫm. Tác phẩm Kẻ ám sát cánh đồng của Nguyễn Quang Thiều đã không đơn thuần chỉ là kể về một vụ việc, nó không phải là một báo cáo hình sự, nó là tiểu thuyết. Tác phẩm Chuyện làng Nhô của Phạm Ngọc Tiến chuyển thể từ tiểu thuyết thành phim, biến con chữ nằm im thành hình ảnh chuyển động, là cụ thể hóa rõ hơn, sâu hơn những số' phận người, đập thẳng vào giác quan và tâm trí người xem. Cố nhiên từ sách lên phim thông qua kịch bản là bằng sự đạo diễn và diễn xuất (dựng thành phim năm 1997). Nhưng "có bột mới gột nên hồ", một cuốn sách hay thành một kịch bản hay và được một bộ phim hay. *** Ngôi nhà thờ họ Trịnh nằm ở đầu làng (đó là dòng họ lớn nhất nhì vùng). Ngoài gian chính có điện thờ, còn có một nhà ngang 3 gian nơi ở của cụ Tín, người trông coi việc hương đèn. Nhà thờ họ được quây bằng bức tường đá xám. Lúc này trời đã chạng vạng tối, cụ Tín khóa cổng rồi cập quạng lên gian chính. Điện thờ âm u nhờ nhịt. Cụ Tín đứng trầm mặc trước bàn thờ. Đoạn cụ móc túi lấy bao diêm. Đôi tay già lẩy bẩy quẹt đến bốn năm lần que diêm mới bắt lửa. Cụ lập cập tháo thông phong chiếc đèn dầu nhỏ. Tiếng gió rít nhẹ rờn rợn. Lửa tắt. Lại lẩy bẩy quẹt diêm. Lần này lửa được châm vào đèn. Bập bùng thứ ánh sáng vàng vọt ma quái liếm nhòe nhoẹt các bức ảnh chân dung tiền nhân họ Trịnh. Cụ Tín châm hương, run rẩy cắm vào bát hương, chắp tay. Bên ngoài nhà thờ, làng Nhô lùm lùm thành khối trong màn đêm sầm sẫm. Lác đác những ngọn đèn điện đỏ tòng tọc. Chó sủa thành vệt dài đến nhà thờ họ thì tắt. Một bóng đen đứng tần ngần ở cổng. Tiếng khóa, xích xoeng xoẻng. Bóng đen khẽ gọi: - Cụ Tín… cụ Tín… Gọi thêm vài lượt, không thấy động tĩnh gì, bóng đen chặc lưỡi, đu mình qua tường tiến vào gian thờ. Trong gian thờ cụ Tín vẫn chắp tay không quay lại. Giọng cụ rành rọt. - Chào anh Khả! Bóng đen giật nảy mình: - Hả? - Anh Khả mới về? - Dạ! Nhưng bỗng dưng sao cụ lại biết là con? - Biết chứ. Mắt tôi bây giờ cập bà nhèm nhưng trời thương còn để cho đôi tai. Không phân biệt nổi tiếng chân người họ Trịnh, sao dám chường mặt ở chốn này. - Dạ, con chịu cụ. - Anh Khả về hẳn? Trịnh Khả run bắn người: - Ơ… cụ Tín… sao… . Một tràng cười của cụ Tín cất lên. Tiếng cười nhẹ, mảnh, lạnh, sắc: - Nghe tiếng chân của anh ta biết. Nó nặng nề lắm. Trịnh Khả hơi chồm lên bối rối: - Cụ Tín. Cụ là người hay là… - Ta là con cháu họ Trịnh. Mà thôi, về là phải, con cá chết một giờ ngửa bụng với nước. Con cáo chết ba năm quay đầu về núi. Huống hồ con người… Anh Khả vào thắp hương đi. Cụ Tín quay trở lui ra sân. 2 - Nhà thờ họ Trịnh, tối. Khả châm hương vái. Lần lượt hiện về những khuôn hình thờ. Tiếng gió rít. Các bức ảnh đảo chung chiêng. Mắt Khả đậu lại ở một bức ảnh. Khả thẫn thờ: - Cha ơi. Từ bức ảnh hiện dần lên một người đàn ông mặc áo dài khăn xếp. giọng người ảnh trầm trầm, âm âm: - Anh đã về đấy ư? - Con là Trịnh Khả. Giọt máu buồn, giọt máu lưu lạc của họ Trịnh. Con đã trở về. Người ảnh nhếch mép cười: - Về hẳn à? Hưu à? Làm gì đến tuổi, đúng không nhỉ? Trịnh Khả cung kính: - Con mới 52 tuổi nhưng ở lại làm gì nữa, buồn lắm. Cả đời chẳng đâu vào đâu, vài năm nữa ở lại làm gì. Người ảnh: - Về cũng được. Rút cục anh là người sướng nhất họ Trịnh. Được đi tận Liên Xô học. Gõ đầu người khác, lại ở bậc đại học, lớn lắm đấy. Chả bằng mấy làm quan ư? Trịnh Khả hằn học: - Nước non gì cái chức thầy đồ. Hơn nữa ai để ý gì đến con. Họ thù bố ngày xưa làm sao con ngóc đầu lên được. Xin tổ tiên đừng bỏ rơi con. Người ảnh cất tiếng cười ha ha: - Thù à, ha ha… Trịnh Khả, tuổi kia rồi phải biết phân biệt phải trái chứ, ha ha… Trịnh Khả lùi dần, lùi dần ra cổng, miệng lắp bắp: - Xin đừng bỏ rơi con. Khả lùi sát cổng, hoảng hốt. Tiếng cười vây bủa ghê rợn. Người ảnh lừ lừ trôi phía trước mặt. Thoắt cái, người ảnh biến thành ông cụ Tín, tay cầm đèn cao ngang mặt: - Kìa anh Khả, về nhà đấy à? Còn túi hành lý kia nữa. Khả trân mắt nhìn cụ Tín. Đoạn Khả cầm túi hành lý rút vào bóng đêm. Chó lại sủa rộ thành vệt. 3 - Nhà Trịnh Khả, tối. Khả lùi lũi đi vào ngõ nhà mình. Con chó vàng nhảy chồm chồm ném từng tiếng sủa vào mặt Khả. Khả lậm lừ tiến. Con chó vừa sủa, vừa lùi. Khả lẩm bẩm chửi: - Tiên sư, toàn chó là chó. Trong căn nhà tối om, vẳng ra tiếng đàn bà tru tréo: - Tiên nhân đứa nào trêu chó nhà bà đấy. Khả dằn giọng: - Khả đây! Đèn nhà bật tách sáng. Vợ Khả mừng rỡ: - Ôi thầy nó. Tôi cứ tưởng đứa nào trêu chọc. - Con đâu? - Con Lụa, thằng Khảm lớn rồi, tởn lắm. Chưa cơm nước xong đã tấp tểnh. Kệ xác chúng nó. À chết, bố nó ăn uống gì chưa? - Ăn rồi! - Vậy để tôi pha ấm nước. Vợ Khả đi xuống bếp. Khả ngồi xuống chiếc ghế cũ chợt nhổm người nhăn nhó: - Mẹ kiếp, nhà cửa bẩn thỉu, hôi hám quá. Vợ Khả xách phích nước lên, vừa lúi húi pha trà, vừa lẩm bẩm khẽ: - Nhà không chủ nó thế đấy. Có đàn ông, đàn ang đâu… . Khả vằn mắt: - Cô nói cái gì? Vợ Khả không đáp đi vào buồng. Một lát sau bước ra, tóc tai đã chải gọn gàng, chiếc áo gụ nhàu nát đã được thay bằng chiếc áo cộc tay màu mỡ gà còn mới. Bây giờ vợ Khả mới đáp: - Anh cứ đi biền biệt, có bao giờ ngó ngàng gì đến nhà với cửa. Vợ Khả nấc lên tức tưởi: - Mấy tháng trước con Lụa bị bệnh mắt, suýt mù phải đi Hà Nội chữa. Tìm đến bố, nào có thấy… Khả, giọng đã dịu: - Tôi phải đi công tác liên miên. Thôi, Liên này, tôi sẽ ở nhà. Ở hẳn! - Già rồi còn gì. Ở nhà với vợ, với con lại chả chán vạn lần hơn. Khả nhìn kỹ vợ: - Cô dạo này thay đổi nhiều nhỉ. Nói năng cũng khác. Ai dám bảo tôi già. Sự nghiệp của tôi còn dài. Liên lau nước mắt, chợt bật cười: - Đi cả đời chẳng thấy sự nghiệp đâu. Giờ về dưỡng già lại sự với nghiệp. Đâu, đồ đạc anh để đâu hết. Khả nhăn mặt: - Chỉ có cái túi ấy chứ còn gì nữa. Liên lôi ra bộ quần áo, vài thứ đồ lặt vặt: - Khốn nạn, cả đời công tác, giờ chỉ có ngần này thứ. Sự nghiệp ở đây chắc. Khả rít liên: - Im mồm. Đàn bà biết gì mà nói. Liên khóc: - Tôi thật khổ cả đời! Khả như nhận thấy mình vô lý, đặt tay lên vai vợ: - Thôi, đừng trẻ con, tôi đã về, không phải lo nữa. Rồi cô xem, còn lâu Khả mới già. Khả đẩy Liên vào buồng. Đèn tắt. Tiếng dế rúc. 4 - Làng Nhô buổi sáng. Nhà gạch, mái ngói san sát. Một vài ngôi nhà mái bằng. Đường làng lát gạch nghiêng. Khả, quần áo chỉnh tề, gặp ai cũng sởi lởi chào. Đến cuối làng, hết con đường độc đạo, Khả nhìn ra cánh đồng. Lúa đang trổ. Mắt Khả mông lung. Mời các bạn đón đọc Chuyện Làng Nhô của tác giả Phan Ngọc Tiến & Nguyễn Quang Thiều.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tội Công Thành - Arthur Koestler
Đây là bản dịch tác phẩm Darkness at Noon, một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Arthur Koestler, đã được nhà xuất bản Random House xếp thứ 8 trong 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất trong thế kỷ XX. Người dịch cho rằng sẽ rất hợp lý nếu chuyển ngữ tên tác phẩm này thành Đêm giữa ban ngày nếu như trước đó chưa có một tác phẩm đã rất nổi tiếng cùng tên của nhà văn Vũ Thư Hiên.+ Sonnenfinsternis (Nhật thực) là tên bản gốc tiếng Đức tác phẩm quan trọng nhất của Arthur Koestler. Với việc xuất bản Nhật thực trong bản dịch tiếng Anh Darkness at Noon, tác giả đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa cộng sản. Bản dịch tiếng Pháp Le Zéro et l’Infini năm 1946 với 400.000 bản gây tiếng vang lớn và khiến Đảng Cộng sản Pháp phải ra những biện pháp đối phó. Từ đó đến nay, Nhật thực trở thành một tác phẩm kinh điển của văn học thế giới thế kỉ 20, thường được nhắc chung với Trại súc vật và 1984 của George Orwell. Tại miền Nam trước 1975, Nhật thực được Nhà xuất bản Đen Trắng xuất bản năm 1973 với nhan đề Tội công thành, qua bản dịch từ tiếng Pháp của Quốc Ấn [0] . Tại miền Bắc trước 1975 và tại Việt Nam từ 1975 đến nay, tác phẩm này chưa bao giờ được ra mắt độc giả trong bản tiếng Việt.  Tội Công Thành còn có tựa đề Vòng tròn ma thuật, được dịch từ bản tiếng Anh của dịch giả Phạm Minh Ngọc. Chúng tôi mong muốn gửi đến độc giả Việt Nam hi vọng về một tương lai trong đó chúng ta vĩnh viễn không bao giờ phải trải qua những kinh nghiệm như được miêu tả trong tác phẩm cay đắng này nữa. *** Tác giả A. Koestler là người gốc Do Thái, sinh năm 1905 tại Budapest, thời thanh thiếu niên ông sống và học tập ở Hung, Áo và Đức. A. Koestler tham gia tích cực vào những cuộc xung đột xã hội và tư tưởng chủ yếu của thời đại mình. Trở thành đảng viên cộng sản trong những năm 1930 và đã đi thăm Liên Xô một thời gian, thất vọng và ra khỏi Đảng vào năm 1938. Cuối năm đó ông bị lực lượng phát-xít Tây Ban Nha bắt và bị kết án tử hình. Được tha vào phút chót nhờ sự can thiệp của chính phủ Anh, ông đến Pháp và năm sau thì lại bị bắt vì quan điểm chính trị. Sau khi được tha vào năm 1940 ông đến Anh và sống ở đây đến cuối đời. Những cuốn tiểu thuyết, những bài phóng sự cũng như các tác phẩm viết về văn hoá và chính trị đã đưa tên tuổi ông thành một trong những nhà bình luận quan trọng nhất về những nan đề của thế kỷ XX. Ông mất năm 1983. Mời các bạn đón đọc Tội Công Thành của tác giả Arthur Koestler.
Ngược Đường Trường Thi - Nguyễn Triệu Luật
Nguyễn văn Canh Viện Nghiên Cứu Hoover, Đại Học Stanford S au khi cướp ngôi nhà Lý, nhà Trần lo củng cố quyền lực. Một trong công việc này là tìm mọi cách tiêu diệt hết những người lãnh đạo của triều đại cũ, và đồng thời tê liệt hóa hoạt động của tông thuộc hay các bầy tôi của triều đại này. Công tác ấy có hy vọng giúp tránh được hậu họa mất ngôi báu về tay triều đại cũ. Nhà Trần làm những gì để ngăn ngừa hậu họa đó? Lật lại các trang sử cũ, ta thấy có 3 phương cách nhà Trần áp dụng: a)Tiêu diệt những người lãnh đạo. b) Đày ải một số ở những nơi xa xôi. c) Xóa tông tích lý lịch để những kẻ chống đối tiềm thế không còn nhớ tới nguồn gốc của mình. Cuốn Ngược đường trường thi của Nguyễn Triệu Luật đã mô tả khá đủ về vấn đề này. a) Tiêu diệt những người được xếp vào hàng lãnh đạo của Triều đình họ Lý. Nhà Trần chiếm ngôi của nhà Lý không bằng võ lực. Thái sư Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Công chúa thứ hai là Lý Chiêu Hoàng, và cho Trần Cảnh kết hôn với Lý Chiêu Hoàng. Kế đó Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho Trần Cảnh. Còn Lý Huệ Tông bị buộc phải đi tu, và sau tự tử chết. Vì vậy, việc tàn sát không xảy ra như thường thấy. Triều đại mới vẫn cho phép tông thuộc họ Lý sinh hoạt bình thường. Vào năm 1232, nhân ngày lễ tiên hậu hàng năm, Thái sư Trần Thủ Độ cho mời tất cả những người vào hàng lãnh dạo họ nhà Lý đến cử hành tế lễ tại lăng miếu như thường lệ. Lăng miêu ấy thuộc làng Du Lâm, tổng Hội Giang, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Thường thì, mỗi khi tế lễ xong, mọi người được mời xuống một căn phòng xây dưới đất gọi là cung, để dự tiệc. Lần này, sau khi tông thất nhà Lý xuống cung hết, Trần Thủ Đô cho giật sập sàn xây phía trên, rồi đổ đất chôn sống hơn 70 tông thất nhà Lý. b) Đày ải một số người di nơi xa xôi hẻo lánh. Trần Thủ Độ cho lập hai làng ở giáp biên giới Hoa Việt. Đó là làng Băng Hà ỏ cửa ải Kỳ Cấp, và làng Ba Điểm tại đèo Lai, thuộc châu Hữu Lũng. Những người này là cận thần nhà Lý, và những kẻ chống nhà Trần được đưa lên lập nghiệp tại đây. Họ chỉ được làm lính, không được thi cử, không được làm quan. Mục đích việc đầy ải những người này là để họ sẽ gặp nguy cơ khi Bắc quân sang xâm lăng, và chắc rằng họ sẽ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, khi quân Mông Cổ sang xâm chiếm nước ta, cả dân cư hai làng ấy đẽ theo giặc. Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng, nhà Trần di cư những người này vào Nam. c) Bắt những tông thuộc nhà Lý đổi ra họ Nguyễn và không được đi thi, không được làm quan. Vì bị đe dọa nhiều người phải thiên cư đi nơi khác và sống cuộc đời nông dân trong nhiều thế hệ. Nhờ mưu chước này, Trần Cảnh đã lập ra nhà Trần vào năm 1225. Vì thấy được tâm tàn sát của Trần Thủ Độ, hoàng tử thứ hai của vua Lý Anh Tông là Lý Long Tường vào năm đó đã bỏ trốn. Ông đem đề tế khí vượt biển trốn sang Triều Tiên để tị nạn. Vì vậy ông không bị chôn sống vào dịp lễ tiên hậu kể trên. Sau khi sinh sống ở Triều Tiên được 27 năm tức là vào năm 1253, nhân khi quân “bách chiến bách thắng” Mông Cổ sang xâm lăng, ông được vua Triều Tiên triệu dụng. Ông tuyển mộ nghĩa dũng quân và giúp đánh bại quân xâm lăng. Vì có công đánh giặc, vua Triều Tiên ban cho ông họ Lý (lúc sang tị nạn, ông phải dùng họ Nguyễn) và tước vị Hoa Sơn tướng quân. Nay còn di tích là Việt Thanh Nham và có bia ghi công của ông là Thụ Hàng Môn Bi Các. Con cháu ông cùng với những gia nhân theo ông đi tị nạn lúc đó hiện lập nghiệp thành làng tại quận Khang Linh, đạo (tỉnh) Hoàng Hải. Hồi 1988 khi ghé qua Hán Thành, tôi có nhờ một Khoa Trưởng Phân Khoa Cao Học thuộc trường Đại học Hàn Quốc đưa đi thăm các làng người Việt ấy mà tôi được biết họ hành nghề đánh cá và được trả lời rằng các làng ấy thuộc địa phận Bắc Hàn. Ở phía bên kia khu phi quân sự. Một số hậu duệ Hoa Sơn tướng quân hiện ở Hán Thành và đã có liên lạc tìm về nơi đất tổ tại Du Lâm, Bắc Ninh. Tại Hoa Kỳ, sau biến cố 1975, một số hậu duệ nhà Lý vượt thoát được nạn cộng sản và đang sinh sống ở đây. Ông Nguyễn Tư Cự hiện ở California là một người trong số đó. Là trưởng chi thuộc dòng dõi đời thứ năm của Thượng thư Nguyễn Tư Giản (Bộ Lại, đời Tự Đức) và cháu ba đời của nhà giáo dục, nhà văn hóa và cũng là nhà cách mạng Nguyễn Triệu Luật, tác giả cuốn truyện này, ông Cự đã được dòng họ Nguyễn giao phó công việc liên lạc với Hán Thành để tìm tin tức và tài liệu cũng như tiếp xúc với hậu duệ của Hoa Sơn tướng quân. Tôi biết rằng đã có nhiều tài liệu rất đặc sắc về hậu duệ họ nhà Lý, ở hải ngoại và cả ở trong nước. Và trong một ngày không xa, sẽ có một cuốn sách đầy đủ về trường hợp hi hữu, có một không hai trong lịch sử Việt Nam này. Ngày 10 tháng 12 năm 1994 Mời các bạn đón đọc Ngược Đường Trường Thi của tác giả Nguyễn Triệu Luật.
Kết Thúc Vòng Thiêng - Rostislav Kinjalov
Cho đến ngày nay nền văn minh Olmec cổ ít được người biết đến, nhất là ở Việt Nam. Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử “Kết thúc vòng thiêng” giáo sư dân tộc học người Nga R. Kinjalov đã vẽ lại bức tranh cổ xưa sinh động của người Olmec huyền bí, một dân tộc da đỏ đã sống ở Mexico cách đây hơn 3.200 năm. Dựa vào những chứng cứ lịch sử-khảo cổ, Kinjalov giới thiệu với chúng ta cuộc sống của một dân tộc vào loại cổ xưa nhất của hành tinh. Trong cuốn sách này bạn đọc sẽ thấy được sinh hoạt của người Olmec cổ: điều kiện thiên nhiên, tổ chức xã hội, tình yêu, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, quyền lực và tham vọng của những người cầm quyền. Sức mạnh của thiên nhiên huyền bí luôn làm người Olmec kinh sợ, họ thờ đủ các thần: thần Độc cước – vị thần của bão tố; Thần Tâm đất – chủ nhân khủng khiếp của Âm phủ, động đất và núi lửa; Thần Cóc Vĩ đại – Đức Mẹ của các vị thần; Thần Mặt trời; Thần Nước; Thần Ngô trẻ – người cung cấp lương thực cho dân tộc Olmec v.v… Cũng như nhiều dân tộc da đỏ khác ở châu Mỹ, dân tộc Olmec dùng người sống để tế thần, một phong tục dã man mà chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Trong cuốn tiểu thuyết “Kết thúc vòng thiêng” chúng ta thấy hệ thống xã hội của người Olmec cổ phân cấp khá chặt chẽ với những đẳng cấp rõ ràng. Bên cạnh hệ thống chính quyền (Vua, các quan lại…) còn có hệ thống tín ngưỡng (các thầy Tư tế) giữ vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống của dân tộc. Theo quan niệm của người Olmec cổ, thế giới tồn tại theo chu kỳ 104 năm, gọi là vòng thiêng. Hết 104 năm các vị thần sẽ phán quyết hủy diệt hay kéo dài sự tồn tại của thế giới, và bắt đầu một vòng thiêng mới. Đồng thời tác giả cũng đưa bạn đọc vào cuộc hải hành hư cấu của một vị quan Ai Cập cổ đến vùng đất đỏ xa xôi bên kia đại dương để so sánh sự phát triển không đồng đều giữa các nền văn minh lúc bấy giờ, trong khi Ai Cập đang ở thời kỳ đồ đồng và đã chuyển sang thời kỳ đồ sắt thì dân tộc Olmec ở Mexico đang ở thời kỳ đồ đá. Với những chứng cứ khoa học xác thực, từ đầu đến cuối cuốn tiểu thuyết, tác giả dẫn bạn đọc đi hết cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác, để dần dần giải mã những bí ẩn của dân tộc Olmec cổ huyền bí. Nhà Xuất bản Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói về dân tộc Olmec ở đất nước Mexico xinh đẹp, để các bạn có điều kiện tìm hiểu thêm về một nền văn minh cổ xưa. *** Sao-Lorenso. Mexico. Tình yêu không có tuổi, không ranh giới và bất tử! • D. Golsuorsi. “Mùa hè cuối cùng của Forsait.” Nhiều năm trôi qua từ khi vòng thiêng mới bắt đầu. Trong làng Tahcum-Tracang không ai dám gọi đến tên của người phụ nữ quái gở này, bà ta đi hết nhà này qua nhà khác tìm kiếm thứ gì đó không rõ. Người ta gọi bà là lão bà, còn những kẻ bất kính trong đám thanh niên cũng chỉ dám thì thầm “bà điên”. Dân làng cho rằng bà bị thần ác ám và họ sợ hãi một cách sùng tín khi bà xuất hiện, họ mời bà ngồi cạnh bếp lò, mời ăn, uống. Đôi khi bà nhận thức ăn, đôi khi không nhận và bà chỉ gạt những cánh tay nhiệt tình ra. Bà rất ít nói, không để ý đến ai, không nhìn thẳng vào mặt người đối thoại mà nhìn vào khoảng không, lời của bà thường đứt đoạn và khó hiểu. Bà lão mất trí vì đau khổ và thời gian, đó là bà Tiang thuộc tộc họ Socan. Bà không có nhà, không có người thân. Các con của ông chú do bà chăm sóc đã đi theo tiên tổ từ lâu, con của họ cũng đã mất. Cháu của họ thì xem bà như người xa lạ. Thực ra chúng không hiểu bà lão này là họ hàng thế nào với chúng. Đám con cháu của Tug-Anseng và Nam-Suc, vô số con trai và con gái của Cangah, không biết tên thật và số phận của bà. Mỗi tháng một lần bà lão bị nỗi lo xâm chiếm. Bà như thoát khỏi cơn mê, động tác trở nên rõ hơn và mạnh hơn, đôi mắt mờ đục rực sáng. Bà ra khỏi làng, và theo đường vòng để không gặp ai trên đường, đi đến hẻm núi mọc đầy cây non ăn sâu vào khu đồi của thành phố, nơi ngày xưa người ta đã thực hiện những nghi lễ của vòng thiêng và chôn chiếc đầu đá của Shang. Khối đá khổng lồ quá lớn nên không thể chôn kỹ, chiếc hố quá cạn và lớp đất lấp trên bức tượng không đủ dày nên nước mưa từ sườn đồi dần dần cuốn trôi lớp đất đắp, để lộ ra khuôn mặt của bức tượng với đôi mắt bất động nhìn lên bầu trời. Tiang cẩn thận dọn sạch cành khô, lá cây và dây leo tươi phủ trên khuôn mặt thân yêu và ngồi xuống cạnh đó. Trong những ngày này bà trò chuyện hàng giờ với bức tượng y như với người sống. “Hôm nay em ăn ngon lắm Shang à, – bà nói, – một cô gái mời em bánh ngô…, cô gái này giống em khi còn trẻ…, chàng nhớ không, chàng khen bánh ngô của em lắm mà, lúc đó chàng đã cười như bây giờ vậy… Xem này, đây là mảnh vỏ từ thân cây mà chúng ta đã ngồi lúc đó… Em giữ nó mãi mãi, em nhớ hết…, chúng ta yêu nhau biết chừng nào! Chỉ tiếc rằng chúng ta không có con; vì nếu có nó, anh đã có thể hãnh diện vì con trai của mình, em xin thề đó! Tất cả cũng chỉ vì lão Anaib-Ungir đáng nguyền rủa. Nhưng lão đã bị kiến ăn từ lâu rồi, ngay cả đống xương dơ bẩn của lão cũng đã mục trong rừng. Chỉ còn em ngồi đây tâm sự cùng anh, mặt trời vẫn chiếu sáng chúng ta…, chàng vẫn còn yêu em như ngày xưa chứ?”. Và cũng trong một buổi gặp như thế, trái tim chung thủy, cháy bỏng yêu thương của Tiang đã ngừng đập – để mãi mãi hòa nhịp cùng tượng đá ngàn năm. • Leningrad – Gumolosar, 1974 – 1977 Mời các bạn đón đọc Kết Thúc Vòng Thiêng của tác giả Rostislav Kinjalov.
Đường Chân Trời Đã Mất - James Hilton
Một câu chuyện đọc xong người đọc phải phân vân suy nghĩ. Một câu chuyện về một chiếc máy bay di tản bị cướp đi đưa bốn người về một tu viện Lama ở vùng núi cao Tây Tạng. Hay đúng hơn câu chuyện về một con người Conway, ba mươi tư tuổi, công tác tại lãnh sự quán Anh ở Baskul (Ấn Độ), một người có sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai đã gặp anh một lần cũng phải nhớ mãi. Anh có một thời sinh viên sôi động, đại diện thể thao của Trường Đại học Oxford, đã giành hầu hết các giải của Nhà trường, khiến một giáo sư giàu tình cảm đã tặng anh danh hiệu Vinh quang: Conway Vinh quang. Cuộc chiến tranh 1914-1918 đã chen ngang vào cuộc đời anh. Cũng như hàng triệu người khác, anh bị nó lôi cuốn vào cuộc bắn giết, sợ hãi, điên dại phóng đãng... Anh ra khỏi cuộc chiến tranh không thương tật, nhưng thực tế thương tật ở bên trong. Sau chiến tranh anh trở về giảng dạy ở Trường Đại học Oxford hai năm, rồi đi làm công tác ở Bộ Ngoại giao vì anh biết nhiều ngôn ngữ Đông Phương. Anh là một con người thấy việc cần làm thì đem hết sức mình ra làm, chứ không vì cái tiếng anh hùng. Một con người không chuộng hình thức, người ta thường nghĩ anh biếng nhác, thực ra chỉ vì anh không muốn ganh đua, không muốn xô đẩy người khác để mình tiến lên. Do vậy, trên đường đời không bao giờ anh được món bở mà thường chỉ bị đẩy đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, anh vẫn không thấy buồn, trái lại còn có phần vui vì như vậy đã tránh được cuộc sống đầy cạnh tranh, chen lấn của xã hội đương thời. Chính với tâm trạng trên, khi bị bắt cóc đưa lên một tu viện Lama xây dựng ở lưng chừng trời, bên mép một dãy núi hoang vu ở Tây Tạng, anh đã gặp Lama tu viện trưởng và đã bị ông thuyết phục đến mức muốn ở lại đây để làm tu sĩ. Và chỉ ít lâu sau anh được tu viện trưởng trước khi chết đã cho anh kế vị. Nhưng vì bổn phận đối với Mallinson, viên phó lãnh sự cùng đi, một thanh niên có gia đình thân thuộc, có người yêu ở London, nên anh này nhất thiết đòi về. Và có lẽ còn vì Lo-Tsen, một nữ tu sĩ đã nhiều tuổi lắm rồi, song trông cô vẫn còn trẻ, coi như mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi, như lúc cô mới đến tu viện Lama. Conway đã yêu cô, một tình yêu không đòi hỏi được đáp lại, yêu cái thanh tú mảnh mai, và anh không ngờ Mallinson đã thuyết phục được Lo-Tsen thu xếp cùng trở về. Hai người cần có Conway là người có thể giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn đầy rẫy trên đường. Vì bổn phận và vì yêu hai người, nên anh đã nhận lời đưa họ trở về… Conway không hề kể lại cho bạn bè nghe về câu chuyện trở về này, nên chỉ biết do ngẫu nhiên mà một người bạn anh đã gặp được anh đang nằm tại một bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh: Lúc này anh đã mất hết trí nhớ. Bạn anh đã ở lại chăm sóc cho anh hồi phục được trí nhớ rồi đưa anh về London. Nhưng giữa đường, anh đã lẩn đi, dường như để tìm đường trở lại tu viện Lama, khiến bạn anh đã mất bao công sức đi hàng ngàn dặm đường, đi khắp nơi để tìm anh. Liệu anh có tìm được đường trở về tu viện Shangri-La ở Tây Tạng không? Đó là điều khó hiểu. ***  James Hilton là một tiểu thuyết gia người Anh đã viết một số tiểu thuyết bán chạy nhất, bao gồm Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), Random Harvest (1941). Trong tác phẩm Lost Horizon, ông hư cấu ra Shangri-La. Sinh ra tại Leigh, James Hilton là con trai của John Hilton, hiệu trưởng của Trường Chapel End ở Walthamstow. Ông được đào tạo tại Leys School, Cambridge. Hilton đã viết hai cuốn sách nổi tiếng nhất của mình, Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), trong khi sống trong một ngôi nhà liền kề khá bình thường trên Oak Hill Gardens, Woodford Green. Ngôi nhà nay vẫn còn, với một tấm bảng màu xanh đánh dấu cư trú của Hilton. Ông đã kết hôn hai lần, lần đầu tiên đến Alice Brown và sau đó đến Galina Kopineck. Cả hai cuộc hôn nhân đã kết thúc bằng ly hôn. Ông qua đời tại Long Beach, California do ung thư gan. Tác phẩm: Catherine Herself, 1920 Storm Passage, 1922 The Passionate Year, 1924 Dawn Of Reckoning (Rage In Heaven), 1925 Meadows Of The Moon, 1926 Terry, 1927 The Silver Flame (Three Loves Had Margaret), 1928 Murder at School (U.S. title: Was It Murder?), xuất bản với bút danh Glen Trevor, 1931 And Now Goodbye, 1931 Contango (Ill Wind), 1932 Knight Without Armour (Without Armor), 1933 Lost Horizon, 1933 Goodbye, Mr. Chips, 1934 We Are Not Alone, 1937 To You, Mr Chips, 1938 Random Harvest, 1941 The Story Of Dr. Wassell, 1944 So Well Remembered, 1945 Nothing So Strange, 1947 Twilight Of The Wise, 1949 Morning Journey, 1951 Time And Time Again, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Chân Trời Đã Mất của tác giả James Hilton.