Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiếc Thang Cao Màu Xanh

Chiếc thang cao màu xanh là câu chuyện về sự trưởng thành, về tình yêu của một chàng trai - một tu sĩ. Tác giả Gong Ji Young đã vẽ nên câu chuyện tình yêu xen lẫn sự bàng hoàng của Yo-Han – một chàng trai sống và làm việc trong tu viện. Đó là quá trình mà Yo-Han gặp gỡ, yêu và trưởng thành, từ đó đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là cái gì?”… Thời gian dần qua đi, khi tất cả những sôi nổi yêu thương ngày nào đã trở thành dĩ vãng, Yo-Han của ngày hôm nay đã có thể bình tâm nhìn lại quá khứ:  “Ai sống trên đời cũng có những khoảng thời gian không thể nào quên. Đau khổ… Tươi đẹp… Cả những vết sẹo đã mờ nhưng vẫn còn nhức nhối... Mỗi khi nghĩ về quãng thời gian ấy, trái tim đang đập của tôi dường như nguội lạnh và phủ đầy rêu phong... Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng: “Tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây”. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời…” Câu chuyện bắt đầu từ một ngày nọ, Yo-Han nhận được tin của Soo-Hee và những ký ức về thời tuổi trẻ của ông trỗi dậy. Ngày ấy, Yo-Han trong khi giúp đỡ cô gái trẻ Soo-Hee làm luận văn đã nảy sinh một thứ tình cảm khác lạ, chưa từng biết đến, thôi thúc anh nghe theo tiếng nói nhân từ vang lên từ trái tim: “Ta đã mang cô ấy đến cho con. Hãy yêu đi, Yo Han”. Nhưng rồi sóng gió cuộc đời ập đến làm cho cuộc sống trong tu viện vốn đang trôi qua một cách bình lặng đột nhiên dậy sóng, nhấn chìm tất cả mọi bình yên đang có, và cuộc đời mỗi nhân vật rẽ sang những hướng khác nhau. Đó là một đêm mưa tầm tã, hai người bạn thân của Yo-Han là Micheal và Angelo chết vì tai nạn giao thông trong một cuộc tìm kiếm những chính kiến và niềm tin của riêng mình. Quá khủng hoảng, Yo-Han đã quay lại nhà thờ để cầu xin được gặp Soo-Hee một lần cuối cùng, nhưng cô đã không đến... Xuyên suốt cuốn sách là cách kể đan xen giữa những câu chuyện về thời kì Chiến tranh thế giới thứ 2 của một cha xứ người Đức, câu chuyện về cuộc loạn lạc trong nội chiến Nam - Bắc Hàn... và hơn hết là câu chuyện thấm đẫm tình yêu và sự hi sinh. Hóa ra, tình yêu thực sự không phải là cố công giữ lấy, mà là biết buông tay và quay đi để người kia bước tiếp mới thực là tình yêu cao cả. Câu chuyện đến cuối cùng mới để người đọc hiểu ra rằng, hóa ra tình yêu của cô gái trẻ Soo-Hee với Yo-Han lớn lao đến thế. Nội dung cuốn sách chứa đựng nhiều thông tin thực tế về xã hội Hàn Quốc, có một số chi tiết đề cao tính nhân văn cao cả của tình yêu con người, sự hi sinh giữa cái sống và cái chết, giữa sự lựa chọn mất còn. Những chuỗi hồi tưởng nối tiếp nhau như ngàn con sóng vỗ bờ, kí ức với những cảm xúc sống động một thời tuổi trẻ sôi nổi và yêu thương của lớp người sinh ra sau chiến tranh, hưởng thụ cuộc sống đầy đủ về vật chất nhưng không vì thế mà không có lí tưởng về sự công bằng, về những điều đúng - sai, phải - trái, hoặc những bất công trong xã hội. Câu chuyện tình yêu của nhân vật chính được vẽ nên bằng thủ pháp hồi tưởng, vì vậy  càng khiến nó rung lên như những giai điệu trữ tình, sâu lắng nhất mà cũng ám ảnh nhất: “Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ, chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy, vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng”. Có thể nói, toàn bức tranh trong câu chuyện Chiếc thang cao màu xanh khiến người đọc cảm thấy thỏa mãn cả về thông tin cũng như về tiết tấu cảm xúc của nhân vật trong truyện. Nhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn tiểu thuyết này, hi vọng mỗi độc giả sau khi đọc xong sẽ tự tìm được câu trả lời cho câu hỏi luôn ám ảnh chúng ta suốt cuộc đời: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là gì?” Tác giả GONG JI YOUNG  Sinh năm 1963 ở Seoul, tốt nghiệp khoa tiếng Anh trường Đại học Yonsei – một trong những trường đại học nổi tiếng nhất của Hàn Quốc. Bà là một trong bốn nữ nhà văn đương đại có sức ảnh hưởng lớn trên văn đàn Hàn Quốc, tác giả của nhiều cuốn sách bestseller. Tác phẩm của bà được dịch sang nhiều thứ tiếng, trong đó có một số đã được dịch sang tiếng Việt như Cá Thu, Dù con sống thế nào mẹ cũng luôn ủng hộ, Yêu người tử tù...  Bà được nhận nhiều giải thưởng văn học có uy tín: - 2001: Giải Văn học Hàn Quốc thế kỉ 21 lần thứ 7 và giải Văn học Tiểu thuyết lần thứ 27 của Hiệp hội Nhà văn Hàn Quốc. - 2004: Giải Văn học Oh Young Soo lần thứ 12. - 2011: Giải Văn học Yi Sang. Dịch giả: NGHIÊM THỊ THU HƯƠNG  Sinh năm 1979, Tốt nghiệp đại học chính quy ngành Tiếng Hàn, nhận học vị Tiến sĩ ngành Ngôn ngữ học, từng được giải thưởng Sinh viên nước ngoài có thành tích học tập xuất sắc nhất năm 2005 của Bộ trưởng Bộ tri thức Kinh tế Hàn Quốc. Hiện đang giảng dạy tại khoa Tiếng Hàn Quốc, Đại học Hà Nội. Các tác phẩm đã xuất bản:  Cẩm nang cho con gái đi lấy chồng (dịch chung), NXB Thanh niên, 2001 100 mẫu câu tiếng Hàn dành cho giáo viên và học sinh (Lee Yun Jin), NXB Giáo dục, 2004 Ngữ pháp tiếng Hàn đơn giản cho người nước ngoài (viết chung với tác giả Doo Won Sook), NXB Language Plus (Hàn Quốc), 2006 Hướng dẫn học và thi KLPT, NXB Giáo dục, 2008 Nâng cao năng lực dịch Hàn – Việt (viết chung với tác giả Lee Kye Sun), NXB Moon Erim (Hàn Quốc), 2015 Cá thu (Gong Ji Young), NXB Hội Nhà văn, 2015 Mây họa ánh trăng – Tập 5 (Yoon Isu), NXB Phụ nữ, 2018. Một số trích đoạn trong tác phẩm: 1. [...] Nói về cuộc sống trong tu viện, điều đầu tiên phải nhắc đến có lẽ là sự im lặng. Sống ở nơi này, tôi ngộ ra rằng sự im lặng không đơn giản là sự thanh vắng hay là trạng thái không có tiếng động, cũng không phải là khoảng lặng giữa những thanh âm. Ngược lại, có thể gọi nó là trạng thái của sự lắng nghe tích cực. Để tiếng ồn át tiếng ồn, cảm xúc vượt lên cảm xúc thì im lặng là lẽ tất nhiên.    Lần đầu tiên đến nơi này, tôi đang dạo bước bỗng dừng lại bởi nghe thấy tiếng chân mình – thứ âm thanh tôi chưa từng nghe thấy. Phần đế dép của tôi lúc đó bằng cao su, hầu như không phát ra tiếng động. Vậy mà có vô số tiếng động ẩn sau tiếng dép khe khẽ ấy vọng đến tai tôi. Tiếng của những bông hoa tuyết phủ trên cành thông rơi rơi, tiếng những cành cây trơ trụi lặng lẽ rung rung trong gió, tiếng côn trùng trở mình trong lòng đất, tiếng rễ cây từ từ vươn những nhánh rễ nhỏ đâm sâu vào đất mẹ. Tiếng gió nhẹ thoảng qua bên tai tôi lúc đó, phải chăng là tiếng ma sát của trái đất tự quay quanh trục? Dù vũ trụ, thần hay là người, khoảnh khắc dường như hé lộ về bản thân một cách ít ỏi, chính là những lúc như vậy. Thi thoảng những lúc ấy, bầu trời bất chợt mở ra với tôi, và có cái gì đó như sự bình yên không thể diễn tả được cứ lan ra trong lồng ngực.[...] 2. [...] Bi kịch của cuộc sống là khi ta giải mã được những tín hiệu đó thì sự việc đã kết thúc, hoặc không thể quay lại được nữa. Khi tất cả mọi sự đã chấm dứt rồi, ta nhìn lại, ta cứ tin rằng cuộc sống sẽ cho ta thấy những điểm sáng, nhưng cuộc sống lại phản chiếu cho ta những khung cảnh lộn xộn. Thế nên, tôi biết bắt đầu câu chuyện năm đó từ đâu nhỉ? Phải nói về ai trước nhỉ? Núi Bulamsan, tu viện Joseph, hoa lê trắng... Phải rồi, tên của cô gái ấy, tôi sẽ viết ra tên của cô ấy lần đầu tiên ở đây. Kim So Hee, So Hwa Teresa. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, cô ấy mặc chiếc áo len chui đầu màu đậu đỏ rộng thùng thình, đôi tất trắng cao đến đầu gối, đôi giầy thấp màu xanh nhạt diêm dúa. Khi tôi lần đầu tiên ngắm nhìn từ xa bóng dáng nhẹ nhàng ấy, cô gái ấy đang bước cùng một tu sĩ khác dưới những cành hoa lê. Cô vuốt ve mái tóc dài xõa ngang vai và nói gì đó với tu sĩ đang đi bên cạnh rồi nghiêng đầu về phía sau cười khúc khích. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, dáng vẻ của cô ấy là như thế đó. Lúc đó, tuy ở khoảng cách rất xa nhưng tôi vẫn như thấy rõ cô ấy đưa những ngón tay trắng ngần lên vuốt mái tóc. Những ngón tay mảnh mai. Và tôi giấu bức tranh chớp nhoáng của kí ức lần đầu gặp mặt người con gái ấy xuống tận đáy sâu của vô thức. Có lẽ là tôi đã xúc động mãnh liệt. Nếu lần đầu gặp mặt không bị uy hiếp thì chắc chắn tôi đã không cần thiết phải như vậy. Một thời gian sau, phải đến khi nhận được câu hỏi đầy thách thức của người con gái ấy ở thành phố W, kí ức cũ kĩ được lưu giữ trong vô thức kia mới hắt lên hóa thành ý thức của tôi. Đến lúc đó và một thời gian từ sau đó, cô ấy đã không hề có ý nghĩa gì đối với tôi.  “Cháu gái của Đức Giám mục, đã hoàn thành khóa học thạc sĩ ở Mỹ và về nước viết luận văn. Hình như là viết về sự áp lực của người theo tôn giáo. Thấy bảo là nhất định phải đến thành phố W”.[...] 3. [...] Đêm hôm đó, dường như tôi đã mang về phòng mình hình ảnh em bước đi giữa những bông hoa lê trắng, bộ váy trắng ngang đầu gối bay phất phơ, đôi chân nhỏ khi cánh cửa tàu bật mở, dáng ngồi nghiêng nhìn đăm chiêu qua khung cửa sổ, và tiếng em nghiêng đầu cười khúc khích.    Khác với cảm xúc hân hoan trong lòng, người tôi mệt lử, tôi không buồn nghĩ đến việc tắm rửa, mà đổ ập xuống giường và tắt đèn. Đúng khoảnh khắc đèn tắt, có luồng ánh sáng vụt qua. Tâm thức mệt ngoài của tôi tự hỏi, hay là tôi chưa tắt đèn? Chính giây phút tưởng lầm ấy, tôi hiểu ra ánh sáng đó chính là gương mặt em. Tôi chẳng ý thức được hết tất cả, gương mặt trắng mịn của em làm giãn các đốt xương tôi, ùa vào trái tim tôi. Ngẫm lại, có lẽ điều đó đi kèm với một chút đau đớn. Tôi hiểu đây là tình yêu. Dù tôi đã nhìn thấy mũi tên em bắn vào trái tim tôi, tôi nhìn thấy khoảnh khắc mũi tên lao đến, tôi đổ gục, nhưng tôi biết mình chẳng thể làm gì được. Nỗi đau của cảm giác ngọt ngào cực độ, nỗi đau của cảm giác cay đắng nghiệt ngã... “Như vậy không được đâu!” Tôi từ chối bằng một giọng rất nhỏ và cảm thấy thanh thản hơn. “Tại sao bạn yêu người ấy?” là một câu đúng về ngữ pháp. “Làm thế nào mà bạn được người ấy yêu?” cũng là một câu đúng về ngữ pháp. Thế nhưng thực tế, những câu đó không thể trả lời được. Nếu có thể nói rõ ràng lí do tại sao yêu thì là bởi vì trước đó không phải là tình yêu. Mãi sau này, một người đồng môn của tôi đã yêu một người con gái và rời tu viện để cưới cô ấy. Khi được hỏi tại sao cậu thấy yêu cô ấy, cậu ta đã trả lời thế này: “ Khoảnh khắc tớ nhìn thấy đôi tay cô ấy lúc đưa cho tớ tờ giấy A4, tớ đã phải lòng cô ấy rồi.” Thế thì là vì tờ giấy A4, hay là vì đôi tay của cô ấy? Câu trả lời là vì tình yêu, vậy thôi! [...] 4. [...] Đêm đó, tôi mang về phòng mình gương mặt em sau khi xóa lớp trang điểm có vết tàn nhang mờ mờ dưới mắt, tôi mang về đôi tay em mềm mại như cục bột mì mới nhào và giọng nói pha chút nũng nịu của em nữa. Lần này, trước khi tắt đèn, tôi thấy hình ảnh em vội nắm lấy và kéo tay tôi lại. Tôi không nhớ đã nhìn tay mình từ lúc nào. Tay trái tôi là tay So Hee, tay trái ấy nắm lấy tay phải. Bàn tay đã sần sùi nhiều. Tôi ngượng nghịu xoa xoa bàn tay thô ráp lên mu bàn tay khô. Rồi tôi ngả lưng, tôi trông thấy gương mặt em với đôi mắt mở to, chớp chớp và cứ thế tôi gọi tên em. “So” nghĩa là Hy vọng, “Hee” nghĩa là Màu trắng. Tên em nghĩa là HY VỌNG MÀU TRẮNG. Tôi gọi tên em mà thấy như từ đâu những bông hoa trắng đang rơi rơi.  Tôi không kể với ai chuyện có hình bóng em trong trái tim tôi. Mỗi ngày, tôi cầu nguyện vì em. Tôi tin những lời cầu nguyện của tôi là chân thành, và tôi hạnh phúc. Tiếng chuông sáng sớm vừa reo, tôi cất gương mặt trắng mịn ấy trong lồng ngực và dự giờ cầu nguyện sáng. Cả thế giới đang là mùa xuân, khắp đất trời đang ngập tràn hương hoa.[...] 5. [...] Chúng tôi đi vào con đường hướng ra phía bờ sông. Thành phố W rất yên tĩnh. Thỉnh thoảng có chiếc xe chạy ngang qua rất nhanh như cắt mặt đường nhựa nhợt nhạt, gió thổi mạnh làm mái tóc của So Hee tung bay, và mỗi lần như thế, tôi lại nghe như có một mùi hương tựa hương hoa thần bí lãng đãng đâu đây. Mặt trăng đang chiếu soi mọi con đường của thành phố W. Con đường hắt lên thứ ánh sáng bàng bạc, và những cột đèn đường màu vàng đứng sừng sững như những cây hoa cao lớn ở thành phố W lúc về đêm. Bóng của chúng tôi đổ xuống lắc lư, dài ngoằng. Lúc đầu, khoảng cách giữa cô ấy và tôi rộng đủ để gập cả khuỷu tay, nhưng rồi theo bước chân và hình dáng của con đường mà khoảng cách ấy dần dần thu hẹp lại, và cứ mỗi lần bờ vai của hai chúng tôi va vào nhau, chúng tôi lại cúi đầu và tiếp tục bước đều, xen lẫn chút căng thẳng. Mỗi người cầm một lon bia trên tay, và chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế băng bên bờ sông. Dường như thứ bột ánh sáng bạc từ mặt trăng rắc xuống đang bao phủ cả thế gian này. Dường như khi chúng ta ngủ, bằng một mùi hương khác, thế gian như bị ủ lại, muối và lên men. Việc tôi ngồi cùng cô ấy ở bờ sông đêm nay chỉ như một giấc mơ. So Hee ngồi trên băng ghế, chân đung đưa, chắp hai tay lại ngay ngắn và nhìn ngắm nước sông. Chiếc bóng của vầng trán trắng, của sống mũi  thật sự rất đẹp. “Em đã đọc một bài viết của tác giả nào đó. Trong đó có nói là thế giới này có hai loại người. Một là bỗng dưng vào một đêm nào đó muốn nắm tay ai thật chặt và bỏ chạy, một là chưa từng có suy nghĩ như vậy. Vấn đề là ở chỗ phải nắm tay thật chặt”. So Hee nhìn dòng sông và lẩm nhẩm như đang nói một mình, vừa dứt lời liền quay đầu nhìn tôi chăm chú. Tôi không nhớ rõ ai là người đã tiến đến gần với người kia trước. Và rồi đêm hôm ấy, hai cặp môi, một thì lạnh như đá khô và một thì nóng bỏng như lò luyện, một nét đẹp như cánh hoa hồng và sắc ngọt như một vết thương của lưỡi dao lam đã khắc sâu vào trái tim tôi. Khoảnh khắc môi chạm vào bờ môi, toàn bộ cơ thể tôi như tan vụn xuống giống những hạt vụn bạc, và toàn bộ cơ thể tôi lại đột ngột trong tích tắc như muốn bay vút lên đỉnh núi. Máu trong huyết quản dồn ứ như nước sông xoay vần, và một dòng điện hàng vạn vôn khiến tôi không còn chút sức lực nào, tôi thấy mình rộng thênh thang như những bình nguyên lộng gió. Chúng tôi ngồi trên băng ghế, hai tay của mỗi người vẫn giữ những lon bia, đôi môi vừa chạm nhẹ, So Hee liền vừa vòng tay ôm lấy cổ tôi, vừa nép sát vào người tôi. “Chúng mình nắm thật chặt tay, rồi... bỏ chạy nhé?” Tôi hỏi. “Ừ, chúng mình nắm thật chặt tay rồi...” Cô ấy đã trả lời. Chúng tôi đã nắm tay thật chặt và ngồi ở đó cho đến khi mặt trăng gần như lặn mất ở phía bên kia sông. Ngày hôm ấy, dòng sông, ánh trăng, băng ghế, con đường và những thân cây đã hiện diện cùng chúng tôi hết sức bình yên. Đến khi giây phút mà tôi đã ước gì thời gian ngưng lại được ấy, cái đêm mà tôi đã nghĩ muốn buộc chặt trăng vào bầu trời trên kia, giữ lại nước sông và làm cho những thân cây với màu xanh mơn mởn sẽ mãi mãi đung đưa trên đầu chúng tôi ấy tàn đi, chúng tôi lại bước về hướng tu viện. Tu viện đang chìm trong giấc ngủ. Thế nhưng tu viện đang ngủ như bao ngày khác đó, đối với tôi đã không còn là tu viện ấy nữa. [...] 6. [...] “Bà chỉ sống chung được với ông khoảng một năm sáu tháng. Nhưng năm mươi năm trôi qua, chưa một lần tình yêu của bà với ông thay đổi. Thật đấy! Dù chỉ là một lần… Như cháu đã biết, sau này bà cũng có những người bạn mới. Nếu nói bà không có người bạn khác là không đúng. Nhưng bà không thể tiến xa hơn với họ được bởi không thể hứa hẹn được điều gì. Vì trong lòng bà, ông ấy vẫn còn hiện hữu. Đừng có mang cái nét mặt như thế, Yo Han! Điều đó không có gì phải buồn! Không phải là vì sau này bà yêu những người đó ít hơn, mà là vì dù cho họ có là ai đi nữa thì tình yêu của bà với họ cũng không thể nào sống động, mạnh mẽ như tình yêu của bà với ông cháu được. Và bà cũng không cảm thấy được ở họ cảm xúc như của ông khi yêu bà. Sau một thời gian dài, thỉnh thoảng bà lại nghĩ, liệu mình có phải là một người phụ nữ hạnh phúc ở tuổi này hay không?” Hồi tưởng lại những việc đã qua hơn năm mươi năm, sức mạnh tình yêu có thể khóc lên như vậy gọi là gì? Là sức mạnh có thể nói rằng: Hạnh phúc khi trải qua nỗi đau? Hay sức mạnh tình yêu ngắn ngủi mãnh liệt hơn tất cả? Người ta cho rằng thời gian là liều thuốc chữa lành vết thương, thời gian trôi đi ta có thể quên tất cả, tôi tin những người lớn tuổi sẽ nói như vậy. Thế chẳng phải thời gian có thể xoa dịu nỗi đau hay sao? Sau đó rất lâu tôi vẫn cứ nghĩ mãi về điều ấy. Và sau rồi tôi nhận ra, sự mài mòn của thời gian chẳng có ý nghĩa gì. Tình yêu chân chính dường như là thứ không thể nào mòn được, nỗi đau chân chính, nỗi buồn chân chính và cả niềm vui chân chính, thời gian có thể làm tiêu tan, làm biến mất mọi thứ giả dối nhưng để lại tất cả những chân tình, đích thực. Như vậy, có thể nói cái mà thời gian có thể khiến ta quên đi được không phải là những chân tình. [...] 7. [...] Một hôm, sau lễ Misa, tôi quỳ lạy ở bục xưng tội và lại ngước nhìn lên cây thánh giá. “Ta gửi cô ấy đến bên con. Hãy yêu đi! Hãy yêu nhiều hơn nữa”. Dường như giọng nói ấy lại vang lên. Sự tức giận vẫn chưa hoàn toàn nguôi ngoai. Rốt cuộc Người bảo tôi hãy yêu nhiều hơn nữa, yêu hết mình rồi lại bảo “cái gọi là tình yêu nghĩa là tình yêu không báo đáp”, rốt cuộc thì Người đang chế giễu tôi. Vào một đêm mất ngủ, tôi nghe thấy tiếng những con rệp kêu dai dẳng. Tôi chợt nhận ra mùa thu đã tràn ngập khắp nơi, vào giây phút vũ trụ vẫn đang chuyển mình như thế, tôi thậm chí còn cảm nhận được những chuyển động rất nhỏ. Đó là bởi từ nơi sâu thẳm bên trong tôi có điều gì đó đang thay đổi và đang muốn thay đổi. Bên trong tôi, những điều không muốn thay đổi và những điều muốn thay đổi đang cọ xát và tranh đấu với nhau. Những vết thương lại đau đớn và nhức nhối. Tôi cảm nhận được linh hồn mình sốt cao. Dù không biết điều gì sẽ đến, nhưng tôi dự cảm được rằng qua đêm nay sẽ có điều quan trọng nào đó đến. Dù sao, đêm nay giống như một tiết giao mùa của cuộc đời.  Tôi đứng dậy và đi đến gần cửa sổ. Lâu lắm rồi tôi mới ngước nhìn bầu trời đêm. Mặt trăng tròn viên mãn, phía nửa kia là những vì sao đang tỏa sáng hòng đua tranh. Tôi bỗng lại nhớ về một đêm trong thời gian tu tập ở tu viện. Tôi nhớ đến cây thánh giá của tu viện sáng lấp lánh nhờ luồng sáng kì lạ do những chòm sao gắn với nhau tỏa ra. Sự khoan khoái mỗi khi ngắm nhìn cây thánh giá của tu viện, tấm chân tình của tuổi thanh xuân nồng nhiệt hướng đến thánh thần của tôi đã đi đâu mất rồi? “Bởi tình yêu không biết đi”. Câu nói của tu sĩ Thomas lại vang lên. Tôi cũng nhớ đến câu nói của vị linh mục người Đức: “Đối với chúng ta, cho dù không có niềm tin đủ để xê dịch núi sông, cho dù không thể nói được thứ ngôn ngữ kì lạ, dù không chết vì người khác, nhưng nếu có tình yêu thì chúng ta cũng không vì những điều đó mà trở nên vô nghĩa”. Nghĩ đến việc trong muôn vàn tình yêu thương mà tôi được nhận từ khi sinh ra mà không có thứ gì đọng lại làm trái tim tôi thấy xót xa. Tôi cảm thấy thật bi thảm, cảm thấy mình có lỗi và một chút gì đó như bi quan khiến tôi không thể hiên ngang được. Kể từ sau khi Michael và Angelo chết, tôi còn lại có một mình. Sự cô độc đã kéo tôi chìm sâu hơn nữa vào trong nỗi cô đơn. Sự trầm mặc thì luôn nặng nề mà sự cô đơn thì luôn yếu đuối. Tôi mang tâm trạng hoang mang của một người không biết phải đi đâu, mà con đường trước mắt thì mờ mịt như sương phủ kín. Giống như lời của một nhà thơ nào đó đã nói, “đến cả một chỗ để đặt chân” cũng không thấy. Hàn Quốc trong trái tim tu sĩ Thomas cũng vậy, ông nội tôi trong trái tim bà tôi cũng vậy, Michael trong trái tim cô gái ấy, tôi trong trái tim của người mẹ đơn thân Monica kia, đâu đó luôn ngự trị một tình yêu. Nhưng trong trái tim tôi chẳng có gì. Tự nhiên, lúc đó trong lòng tôi lại vang vang những lời như ai đó đang thủ thỉ vỗ về:  “Không sao đâu Yo Han! Thế cũng được mà”. Trong phút chốc tôi bỗng thấy bàng hoàng, tôi do dự hỏi lại chính mình “có thực sự là không sao không?” và bật khóc. [...]      8. [...] Tôi đã rời khỏi tu viện. Bỗng nhiên đập vào mắt tôi là hình ảnh cây mộc liên mà tôi đã từng treo bộ lễ phục tôi cởi ra để đi dạo đêm với So Hee. Trong mười năm vừa qua, cây đã lan ra thành rất nhiều tán và cao lên nhiều. Dưới bóng râm của tán cây ấy, Angelo trẻ tuổi đang đứng chất những hộp nến sáp ong mới làm xong lên. Michael đang từ từ lần chuỗi hạt và treo hình ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh lên. So Hee mặc áo len trắng, tai đang đeo tai nghe và vẫy tôi từ đằng xa. Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ. Chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy. Vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng. Tu sĩ Thomas, người đã lên thiên đàng năm ngoái, đã từng nói với tôi như thế này: “Tình yêu là thứ không thể mất đi được. Vì tình yêu là thứ không biết đến sự ra đi”.  Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng sẽ không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời.[...] Mời các bạn đón đọc Chiếc Thang Cao Màu Xanh của tác giả Gong Ji Young & Nghiêm Thu Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hai Trăm Năm Cũ - Anthony Grey
V iệc quyết định tán thành và ủng hộ công cuộc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Tổng Thống Kennedy đã ứng nghiệm thành một khúc quanh định mệnh cho sự can thiệp vào Việt Nam của Hoa Kỳ. Tổng Thống Kennedy bị mưu sát cách đó ba tuần lễ sau khi lật đổ nhà Ngô, nhưng guồng máy hành chánh mà Trung Tướng Dương Văn Minh đã tung hết mọi hy vọng vào đó đã chỉ sống được vỏn vẹn có ba tháng lại bị một nhóm Quân Đội khác lật đổ. Sau đó thì các cuộc đảo chánh khác tiếp tục tái diễn liên hồi kỳ trận, nhưng các cuộc đảo chánh và chỉnh lý này vẫn không đưa dân chúng miền Nam ra khỏi cảnh nghèo đói hơn thời ông Diệm chút nào. Nhóm Phật Giáo đã thành công trong việc hòa hợp và cũng cố lại để lật đổ chế độ Ngô Đình bây giờ mở rộng phạm vi hoạt động khá lớn trong việc chống đối chính quyền, chống đối cả Hoa Kỳ tại các thành phố lớn, và các cuộc xáo trộn như thế này càng ngày càng quá quen thuộc với dân chúng. Phật giáo và Công giáo đánh nhau chết người ngoài đường phố. Sinh viên liên tục gây xáo trộn. Tất cả mọi Chính quyền mới tại Sài Gòn lúc này đều khôn khéo tránh tái diễn cảnh đàn áp tàn bạo của Cảnh Sát như thời Ngô Đình Nhu, nên các cuộc hỗn loạn đều được dàn xếp với cung cách thí nghiệm mà thôi. Ngược chiều với đà hỗn loạn gia tăng này, kế hoạch Ấp Chiến Lược tại thôn quê hoàn toàn bị sụp đổ và từ đó Việt Cộng gia tăng củng cố lại lực lượng của mình. Hồ Chí Minh và các cấp lãnh đạo tại Hà Nội không ngừng tìm kiếm cơ hội để lợi dụng tình hình xáo trộn này. Lần đầu tiên họ chỉ cho xâm nhập một số lớn các đơn vị chiến thuật Bắc Việt vào Nam qua ngã Cao Miên và Ai Lao. Trong tình cảnh này, hy vọng rút quân của Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam đã trở nên không làm sao thực hiện được, trái lại Tổng Thống Johnson lại cho gia tăng quân số cố vấn tại Việt Nam lên tới ba mươi ngàn người. Tới năm 1965 thì người ta thấy rõ rằng Cộng Sản tại đây đang trên đà thắng trận, và chính cũng ngay lúc này Tổng Thống Johnson bắt đầu thay đổi tình trạng liên hệ của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Tháng giêng năm 1965 Tổng Thống Johnson lần đầu tiên ra lệnh cho các phi cơ Hoa Kỳ thường xuyên dội bom vào các mục tiêu của Cộng sản tại cả hai miền Nam lẫn miền Bắc, và tháng Bảy năm đó, Tổng Thống Johnson cho gửi thêm năm chục ngàn quân chiến đấu Hoa Kỳ vào Việt Nam để chiến đấu cho sự độc lập của Miền Nam. Với các chuyến bay từ Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi Thái Bình Dương, Lục Quân, Không Quân và Hải Quân Hoa kỳ đã thật sự được ký thác vào cuộc chiến tranh tại đây. Mặc dù sự ký thác này được lồng trong từ ngữ giới hạn và qua mặt dân chúng Hoa Kỳ bằng cách gây nên một cuộc chiến tranh mà không có lời tuyên chiến chính thức nào. Việc nhảy vào can thiệp bằng võ trang của Hoa Kỳ được ngụy tạo bằng một biến cố xảy ra tại vịnh Bắc Việt vào tháng tám năm 1964. Theo lời tuyên bố của chính Tổng Thống Hoa Kỳ thì các tuần tiễu đỉnh của Bắc Việt đã tấn công hai diệt lôi đỉnh của Hoa Kỳ để khiêu khích. Đề đối phó với sự xâm lăng của Cộng sản, Tổng Thống Hoa Kỳ đã ra lệnh cho phi cơ oanh tạc vào các căn cứ Hải Quân và các kho nhiên liệu của Bắc Việt. Lời tuyên bố này được Tống Thống Hoa Kỳ thông báo cho báo chí vào giữa đêm ngày 4 tháng 8 năm 1964, và ba ngày sau đó với một bầu không khí đầy xúc động, Quốc Hội Hoa Kỳ đã thông qua sắc luật Động Viên của Tòa Bạch Ốc, theo đó Quốc Hội ủy cho Tổng Thống có toàn quyền áp dụng mọi biện pháp cần thiết để phòng ngừa sự tấn công sau này của Cộng Sản. Các nhà lập pháp Hoa Kỳ đã đồng thanh coi Việt Nam là một nơi rất quan trọng cho nền Hòa Bình của Hoa Kỳ và Thế Giới qua giải pháp vịnh Bắc Việt. Từ đó, chỉ trong vòng vài tháng sau, Tổng Thống Johnson bắt đầu cho dội bom và đưa một lực lượng quân đội với quân số lên đến nửa triệu người qua Việt Nam mà không cần phải thông qua một sự biểu quyết nào của Quốc Hội hay dân chúng hết cả. Sau này, sự phanh phui ra ánh sáng về sự thật của các chiếc lôi đỉnh của Hoa Kỳ không phải bị Bắc Việt tấn công chi cả mà chỉ là một sự dàn cảnh mà thôi, nhưng sắc luật Vịnh Bắc Việt vẫn có hiệu lực cho mãi đến sáu năm sau, khi việc chống đối chiến tranh Việt Nam của quần chúng Hoa Kỳ ngẫu nhiên bắt buộc Hoa Kỳ phải hủy bỏ sắc luật đó. Tại Việt Nam các binh sĩ Hoa Kỳ khám phá ra là họ không thể nào tìm cách tiêu diệt được quân thù hơn cách mà người Pháp và Quân Đội Việt Nam đã từng làm trước họ. Mặc dù được Bắc Việt yểm trợ với nhiều tiểu đoàn chính quy, nhưng Việt Cộng tại miền Nam vẫn tiếp tục áp dụng chiến thuật du kích, cho nên một phần ba số thương vong của Hoa Kỳ đều do các mìn bẫy của Việt Cộng. Tổng Thống Johnson đưa quân vào miền Nam càng nhiều thì số tiền viện trợ cho miền Nam cũng càng gia tăng thêm, nằm trong các chương trình phát triển nông thôn, chương trình bình định hay một chương trình cho một cuộc chiến tranh khác. Tất cả các nỗ lực này đều không đủ sức quyến rũ nông dân Việt Nam để họ khỏi ngả theo Việt Cộng chút nào. Thay vì thay đổi nếp sống của nông dân tại đây, các chính sách của Johnson lại làm ung thối thêm đờỉ sống của họ. Đầu năm 1968, tổng hợp các ảnh hưởng về các cuộc hành quân lùng và diệt địch, các chương trình khai hoang bằng hóa chất tại các vùng rừng rậm ở Việt Nam cũng như các cuộc không tập tại các nơi này cho thấy có hàng triệu người dân phải đi tị nạn. Họ đổ dồn về các thành phố đã quá đông người để sinh sống. Tại các nơi này, họ lại phải đương đầu với mọi khó khăn để sinh tồn trước sự có mặt của quá nhiều người Hoa Kỳ, mà các chương trình viện trợ rộng rãi của họ đã làm cho nạn lạm phát kinh tế tăng gia trầm trọng hơn bao giờ hết. Trong lúc đó thì sự lãnh đạo tại Miền Nam đã trở nên ổn định hơn. Trước tiên dưới quyền lãnh đạo của Tướng Nguyễn Cao Kỳ, rồi sau đó là Nguyễn Văn Thiệu. Cả hai chính phủ này vẫn không được quần chúng ủng hộ và nạn thối nát cũng không thua thời ông Diệm lại xảy ra. Nói chung thì cả hai chính phủ này đều không được sự ủng hộ của mọi tầng lớp dân chúng. Chiến tranh vẫn tiếp diễn không ngừng. Giữa thập niên 1960 thì Hoa Kỳ gia tăng các cuộc oanh tạc trên lãnh thổ Bắc Việt với mục đích làm cho các nhà lãnh đạo tại Hà Nội biết là Hoa Kỳ vẫn quyết tâm đánh gục họ, nhưng trên thực tế thì các cuộc dội bom này đã làm cho dân chúng Bắc Việt càng đoàn kết lại thêm hơn và cùng quyết tâm chống lại cuộc ngoại xâm - một thứ giặc đã từng đè nặng lên suốt hành trình lịch sử của họ - Cũng trong thời gian này, phi cơ của Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ bị bắn rơi tại miền Bắc càng lúc càng thêm nhiều, và một số phi công bị bắt làm tù binh. Tin đức đồn ra là các phi công này bị quân thù hành hạ và tra tấn tàn bạo phù hợp với hình thức tẩy não của Cộng Sản, và kết quả là số tù binh này bỗng nhiên trở thành một mối quan tâm làm động lòng tất cả mọi tầng lớp dân chúng tại Hoa Kỳ. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Hai Trăm Năm Cũ của tác giả Anthony Grey.
Một Nơi Để Nhớ - Anthony Grey
D ưới ách thống trị của người Pháp, năm 1925 Việt Nam bị chia làm ba phần. Nam phần gồm cả Sài Gòn và vùng đồng bằng sông Cửu Long được gọi là Nam kỳ. Trung phần kể cả kinh đô của nhà vua ở Huế cùng các vùng phía Bắc khu vực này dưới quyền bảo hộ của người Pháp là Annam hay Trung Kỳ. Bắc phần cũng thuộc quyền bảo hộ của Pháp với thủ phủ Hà Nội là Bắc Kỳ. Hoàng Đế đang thời của Việt Nam là vua Khải Định. Trên lý thuyết hoàng đế Annam cai trị hai vùng Bắc và Trung Kỳ dưới sự bảo hộ của người Pháp, trong khi đó Nam Kỳ bị chi phối bởi các luật lệ trực tiếp từ Paris, nhưng trên thực tế thì cả ba kỳ đều là thuộc địa của người Pháp. Ngoài các bộ lạc người thiểu số sống rải rác tại các miền rừng núi xa xôi, hẻo lánh, đại đa số dân chúng Việt Nam đều có cùng chung một chủng tộc. Ngày nay họ là người Việt Nam, nhưng thời bấy giờ, thế giới bên ngoài chỉ biết đến họ là người Annam hay Annamites mà thôi. Theo tài liệu lịch sử cho biết thì người Việt Nam trước kia là người Trung Hoa bỏ nước ra đi, di cư tới các quần đảo thuộc vùng ven biển Thái Bình Dương và họ tự gọi mình là Nam Việt. Sau này, khi người Tàu đem quân sang xâm lăng và chiếm cứ vùng đất này suốt mười thế kỷ dài, người Trung Hoa cũng gọi dân bản xứ là người Annam. Trong suốt thời gian bị người Trung Hoa đô hộ, dân chúng ở đây đã hấp thụ sâu đậm nền văn minh và văn hóa của người Tàu trong đó các thể chế vua chúa cũng như các triết thuyết Khổng, Mạnh được dân chúng địa phương áp dụng mãi về sau này. Khi nhà Tần bên Trung Hoa suy sụp thì tại đây người Annam cũng dành lại được sự Tự Do cho đất nước của họ. Họ sửa đồi quốc hiệu của mình nhiều lần bằng nhiều niên hiệu khác nhau. Đại Nam, Đại Việt... Họ đã đẩy lui được quân Mông Cổ và nhiều lần đập tan mọi âm mưu xâm lược của các triều đại nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh của Trung Hoa. Đến thế kỷ thứ XIX, họ không có đủ sức mạnh để chống lại với quân đội Âu Châu. Thời bấy giờ, người Pháp sau ròng rã hai thế kỷ dài liên tục đưa các giáo sĩ và các thương nhân đến đây giao dịch, cuối cùng họ quyết định cho áp đặt một chính sách cai trị lên phần đất này chung với hai quốc gia láng giềng là Ai Lao vào Cao Miên bằng võ lực và đặt ba quốc gia này thành một liên bang Đông Pháp. Pháp đã dùng mười sáu ngàn binh sĩ của họ để đàn áp mười lăm triệu dân bản xứ một cách vô cùng dã man, và chính quyền Annam phải đành chấp nhận thua thiệt. Pháp cho bổ nhiệm các viên chức cai trị của họ tới cấp thấp nhất trong guồng máy xã hội khiến cho người dân nơi đây không còn một chút quyền hành nào cho chính họ, và đây là một điều sỉ nhục mà người dân Annam phải gánh chịu ngay trên phần đất của mình. Gạo, than đá và cao su được đem bán ra nước ngoài để đem lợi tức về cho các tay có cổ phần ở Âu Châu trong khỉ đó người dân bản xứ bị đày ải đi làm việc tại các hầm mỏ cũng như tại các đồn điền với đồng lương không đủ sống. Đối với tầng lớp nông dân cũng vậy, họ bị tước đoạt hểt đất đai, ruộng vườn mà không có được một lý do nào cả để đem chia cho các kiều dân Pháp cùng một số ít người bản xứ chịu đứng ra hợp tác với người Pháp. Trong khi một mặt thẳng tay chiếm đoạt đất đai và tài sản của dân chúng, mặt khác người Pháp lúc nào cũng rêu rao, tuyên bố với công luận là họ đến Đông Dương này với nhiệm vụ “Khai Hóa Văn Minh” nhằm giúp đỡ các quốc gia nhược tiễu bước vào ánh sáng văn minh của thế kỷ XX. Các học giả thức thời, các quan chức cao cấp người Annam biết rõ âm mưu giả nhân, giả nghĩa này của ngưởỉ Pháp ngay từ lúc đầu. Họ từ chối không chịu hợp tác với những chủ nhân ông, người ngoại lai này, họ cổ động dân chúng bày tỏ sự bất đồng của mình trước thái độ xâm lăng của người Pháp. Một số người yêu nước đứng ra tổ chức các nhóm chống đối, nhưng không mang lại một kết quả nào. Cũng như tại các thuộc địa khác của mình trên khắp thế giới, người Pháp cho rằng dân chúng người Annam là những người thuộc giai cấp thấp hèn so với người Âu Châu, và vào năm 1925 này, người Pháp đã biểu lộ rõ ràng thái độ và hành động của mình theo quan niệm trên đối với dân chúng tại quốc gia này hàng ngày trên mọi bình diện từ kinh tế đến chính trị, từ xã hội cho đến ngay cả vấn đề luyến ái nữa. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Một Nơi Để Nhớ của tác giả Anthony Grey.
Ăn Mày Dĩ Vãng - Chu Lai
'Ăn mày dĩ vãng' của Chu Lai là một tiểu thuyết chiến tranh nhưng kỳ thực nó phô bày hết mọi mặt của cuộc sống. Từ cuộc chiến tranh đẫm máu giữa hai phe: ta và kẻ thù đến tâm sinh lý con người, đến tình yêu lãng mạn trong thời kỳ dã man và khốc liệt, rồi cả những mặt trái trong thời chiến lẫn thời bình đều được lôi ra tuồn tuột trưng bày cho độc giả nhấm nháp và chiêm nghiệm suy tư. Hải Giang (Cuốn sách của tôi) Tôi - một con nhỏ 21 tuổi, sinh ra, lớn lên và đang sống trong bình, hiếm khi để mắt, hứng thú với đề tài chiến tranh và những cái thuộc về quá khứ. Nhưng không biết một sự đẩy đưa vô duyên cớ nào mà tôi đã tập trung hết sức lực của đầu óc và tim gan một cách cao độ để đọc hết quyển Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Về chiến tranh. Phải, ngòi bút chu Lai đã vẽ ra, không, phải nói là đã tạc vào không gian trước mắt người đọc toàn bộ cảnh tượng hãi hùng, đầy mất mát thương đau đến độ cái buồn dai dẳng mà không biểu lộ ra bằng nước mắt, chỉ bằng tiếng kêu inh ỏi trong tim gan, trong óc. Tôi thật sững sờ, ngóng theo từng trang viết và cái tâm hồn yếu đuối, ủy mị thiếu rèn luyện của va chạm cuộc đời, của những vất vả khổ đau, của bất hạnh hay chông gai trở ngại đã bị thay đổi hoàn toàn. Tôi nhận ra quá khứ bị bỏ quên một cách phũ phàng. Đành rằng con người ta sống trên đời cần phải sống cho hiện tại thật tốt và hướng đến tương lai. Nhưng không vì vậy mà phủi sạch mọi thứ của quá khứ, của dĩ vãng kinh người khiến bao nhiêu số phận trở nên lao đao lận đận. Họ lận đận là vì ai, vì họ, không, vì tất cả, vì lẽ sống cho nhân loại, vì yên bình cho mọi người, cho tất cả chúng ta. Tiểu thuyết không vênh vang ca ngợi bằng những lời lẽ khô khốc khuôn sáo, mà chính từ những gì đã xảy ra theo một diễn biến tự nhiên sinh động, thực, rất thực đã tự cho ta thấy được giá trị của những đức hy sinh chân chính. Không hoàn toàn hoàn hảo như thiên thần, họ, những con người vì quê hương bán mạng bám lấy từng mảnh rừng, quyết giữ gìn từng tấc đất, không nề hà sống trong những chốn hiểm nguy, cốt mơ ước khát khao thực thi cho được sứ mệnh cứu nước vĩ đại, cũng đôi lúc "phàm tục". Đó là khi đói quá họ phải ăn trộm hộp sữa trong bồng của đồng đội ăn, hay như cái ông Tám Tính đi vồ con gái người ta để thỏa mãn nhục dục đang lên đến mức cuồng tính, hay để cướp cò B41 làm chết người bạn đồng chí, đồng hương của mình... Họ hết sức bình thường, bình dị giản đơn, những con người chứa đựng cả hai mặt ưu và khuyết điểm. Chỉ những người trong cuộc, từng sống chung và trải qua mới kể lại một cách rành rọt chi tiết, tỉ mỉ và y như thật như thế. Nếu không thì Chu Lai quả là một ngòi bút thiện xạ, có một đôi mắt và óc nhìn khuất lấp, ít nhất là với tôi, ông ấy đã để lại một ấn tượng không phai nhòa về một thời ở một vùng khói lửa chiến chinh với muôn mặt người tốt xấu. Đọc tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, người ta thấy dù trong thời chiến hay thời bình đều có những nhân vật thừa nước đục thả câu, đục nước béo cò, mà sự thật của những bộ mặt ấy thật đáng nguy hại cho xã hội loài người. Thằng Địch là đồ khốn, nó đáng phải bị bắn nổ sọ vì những trò gian manh ác ôn của nó, của thằng bán nước. Và tôi yêu mến cô Sương từ đoạn đầu tiểu thuyết cho tới lúc cô bị đạn bắn chi chít lên người, "óc phòi ra" khi từ dưới hầm chạy lên, không vì cái ống quần ác nghiệt trong giây phút nghiệt ngã vô thường này, đã chạy đến được với tình yêu đang đợi ở bên suối, sau lưng là sự truy đuổi ráo riết. Tôi sẽ yêu mến cô đến cuối cùng nếu như cô chết ngay lúc đó. Về sau sự yếu đuối và dung dưỡng của cô, và cả cái tình yêu "dần dần mà ra" với tên địch khốn kiếp thiệt đáng trách, đáng ghét, đáng bực mình làm sao. Cô Ba Sương đáng yêu nồng hậu và quyết đoán lại xử sự như thế trước một tên ác ôn quả là đáng lên án, không chịu được, tôi đọc mải miết và cảm thấy bức xúc vô cùng, lần theo từng trang sách tôi vừa hồi hộp vừa run run, tiếc nuối một Ba Sương với bờ vai chim sẻ, thật đáng yêu và đáng trân trọng... Giờ đây, cái tên Tư Lan lạ lẫm, cô ta không xứng với tình yêu của hai Hùng. Anh hai Hùng! Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu vẫn đẹp và lãng mạn, dường như đó là một đặc tính, là bản chất muôn thuở của tình yê. Lối viết của Chu Lai khiến độc giả hồi hộp, tập trung, thần kinh như bị căng ra đến độ muốn đứt nhưng không đứt được, cứ lằn nhằn, khó chịu, bứt rứt, rồi đứng im, rồi hụt hẫng, chao đảo, buồn thương, tiếc nhớ. Xen lẫn một chương hiện tại với một chương quá khứ, Ăn mày dĩ vãng đúng thực là ăn mày dĩ vãng, gã ăn mày không cần tiền vàng chức tước mà chỉ cần một cái quá khứ bị đánh cắp, một cái sự thật rõ ràng, không ngại khó mà lội ngược dòng tìm người thương và những bối rối cả đời cần được tháo gỡ, cần được giải đáp. Thương lắm, cảm động lắm, tình yêu ấy đẹp lung linh và tỏa ra một thứ ánh sáng muôn vẻ... Tôi thầm lặng nhìn lại, chao, tôi đang phí hoài quá một tuổi trẻ, một tình yêu nông cạn và lầm lỗi của chính mình. Cái cách đan xen giữa quá khứ và thực tại như thế làm cuốn hút người đọc, đồng thời nó tạo bố cục hợp lý chặt chẽ giữa các tình tiết một cách tự nhiên, không gượng ép, như cái chương hai Hùng và Ba Sương yêu nhau trong căn hầm, nhờ lần đó mà hai Hùng phát hiện ra nốt rùi nhỏ phía ngực trái như "mắt đôi chim câu" của Sương, sang chương sau - chương hiện tại - đó lại là chi tiết để hai Hùng nhận ra Ba Sương một cách rõ ràng nhất... dù đau khổ và tê tái hay trong tình huống nguy nan kịch liệt, hoặc là dở khóc dở cười, giọng văn của Chu Lai vẫn hóm hỉnh, lạnh nhưng vẫn ấm. Bút pháp mạnh mẽ đến kỳ lạ, cách dùng từ lạ lẫm có sức hút người đọc độc đáo. Tôi còn nhớ mãi cái búi lãi trong bọc nước ở cái bụng mở tang hoác của Bảo khi bị B41 cướp cò từ tay Tuấn, cái họng đầy những đất cát, cỏ cây, đờm dãi và máu của một anh lính mắc ho khi đứng sát chân thằng địch, chỉ vì - cái cách tác giả giải thích cho những điều ông ấy viết ra luôn tự nhiên, tự nhiên đến đau lòng – "lôi được cậu ta ra ngoài hàng rào thì mặt mày đã tím bầm, sưng tấy, mồm miệng nhoe nhoét những dãi dớt trộn máu, trộn đất... Ở cái giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!" Những con người hy sinh nhiều nhất là những con người sau hòa bình lập lại sẽ ẩn sâu vào cuộc sống bình dị đời thường hay ẩn náu nơi chốn nào đó thư thái tâm hồn mà nhớ chuyện ngày xưa, họ sống như một công dân bình thường... Họ không huênh hoang chiến công này, chiến tích nọ, họ luôn im lặng để mặc cho năm tháng chiến tranh, năm tháng mà họ phải chiến đấu gian khổ cực nhọc bào mòn đi tuổi trẻ và hạnh phúc của họ, để lại trên thân thể họ những vết thương đau âm ỉ. Mặc kệ luôn cả những thói đời đang từng ngày làm tổn thương họ thêm lần thứ hai, lần này là về mặt tinh thần, những sự thật méo mó, giả dối tràn ngập giữa dòng đời đang chảy dữ dội, sức người khó lội ngược, vượt qua, nếu cứ lội ngược thì không bèo nhèo thì cũng dễ chết lắm. Mà họ thì không lội ngược không được, thấy nghịch lòng trái lương tâm lắm! Ăn mày dĩ vãng có một cái kết thúc vừa có hậu vừa không có hậu. Nó hợp lý, hợp lẽ, hợp tình. Chỉ tội cái mảnh tình thủy chung của hai Hùng không ráp lại được với Ba Sương ngày gặp mặt sau 20 năm. Nhưng tâm hồn anh hai Hùng giờ đã nhẹ ra và bên anh còn những ông bạn chí cốt, thế là lẽ sống đã không tuyệt đường, vẫn đâu đó niềm hy vọng, một cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc, mãi mãi! Cần Thơ ngày 13 tháng 04 năm 2010 *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển Mời các bạn đón đọc Ăn Mày Dĩ Vãng của tác giả Chu Lai.
Nắng Đồng Bằng - Chu Lai
Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Rừng miền Đông không thấy tiết xuân. Sáng ra có gió lạnh se se. Trưa đến, nắng lại bừng lên oi ả. Chiều có cái mát mẻ của thu sang. Và khi đêm xuống thì rét thực sự. Mắc võng giữa rừng đã phải đốt củi sưởi. Nhưng vẫn chưa phải là xuân. Rừng vẫn xanh tươi một màu của cây lá Tịnh không có một ngày mưa dầm rả rích. Xuân về nơi đây chỉ là dấu hiệu chấm dứt những trận mưa dầm và bắt đầu vào mùa khô dằng dặc. Thượng nguồn sông Sài Gòn vẫn chở nặng trong lòng nguồn nước của sáu tháng mưa tích tụ lại. Sông đỏ đắn hồng hào, nhưng hai bên bờ không tìm thấy một vạt phù sa. Gió vẫn mang theo cái vị nồng nồng tanh tanh của dòng sông lắm tôm nhiều cá. Mùa khô này, chiến sự đã giạt về phía dông bằng. Rừng đã yên tĩnh trở lại. Đang vào mùa rừng dầu trút lá. Tàu lá dầu liệng xuống như cánh diều phủ vàng mặt đất. Mỗi khi có con hoẵng chạy qua, thảm lá khô vang động như có ai đang bẻ chiếc bánh đa. Những cây dầu con mới lớn, phiến lá đã to gần bằng lá già rụng xuống. Lá như cái quạt nan che lấp cả thân cây Đang giữa trưa nắng, gặp rừng dầu non, mắt bỗng dịu lại như đang lạc vào một vùng rau xanh trù phú. Hết rừng dầu lại tới rừng cao su. Màu xanh lá dầu chỉ có thể so sánh với màu cao su vừa thay lá. Những cánh rừng cao su thăm thẳm, huyền bí như những cái hang động màu ngọc bích. Sắc lá càng xanh biếc trong màu đất ba dan đỏ tươi. Măng lồ ô đã lớn vượt lên thành những thân non màu hồng mượt mà. Rừng sạch sẽ và thoáng đãng đến nỗi muốn ngả lưng nằm xuống thảm lá ngủ một giấc. Thỉnh thoảng lại gặp một, hố bom dầy ắp nước, trong vắt. Xung quanh bờ mơn mởn những vạt mắc cỡ, rau tàu bay, lá giang chua... Chiều xuống hay những buổi sớm tinh mơ đã nghe tiếng dọc, vượn hú gọi nhau. Rừng yên ổn, chúng kéo nhau trở về từng bầy, chuyền thoăn thoắt trên những ngọn cây cao. Trên con đường đất rộng bò ngoằn ngèo trong rừng, có một đoàn người đang lặng lẽ cất bước. Con đường còn hằn lại những vết bánh xe ô tô trũng sâu, nước đã cạn khô. Nhìn hai bên đường còn vương lại những đoạn phên tre mục nát mới chợt nhớ rằng con đường thồ bùn nước lép nhép năm nào đã chạy qua đây. Đoàn người đi chậm rãi, thong thả qua những cánh rừng già. Cứ trông cách ăn mặc, đồ đoàn trang bị, người ta đoán ngay đó là một đơn vị mới ở vùng sâu lên. Chân họ đi dép mềm, dép lỗ, thảng hoặc mới gặp một đôi dép râu. những ống quần buông chùng vẫn còn những đường ly thẳng băng. Thắt lưng người nào cũng đeo toòng teng một cây đèn pin ngoéo đen bóng. Họ hầu như không có súng, trừ một vài cây tiểu liên cực nhanh và M.79. Đầu họ để trần hoặc đội mũ vải rộng vành. Thoạt trông, đoàn người giống như những chàng trai thành thị hiếu kỳ lên rừng đi săn, nếu như trên nét mặt trầm mặc của họ không có những con mắt ánh lên vẻ khắc khổ, dạn dày. Người đi đầu khoảng gần ba mươi tuổi, dáng người chắc lẳn, khuôn mặt cân đối, đẹp trai, có mái tóc mềm vươn xuống trán. Anh như đang mê mải suy nghĩ điều gì, mắt dõi ra xa nhưng vẫn không giấu được vẻ bồn chồn, sốt ruột. Ở đó, phía đoàn người đang đi tới, đang vẳng đến tiếng rì rầm của một dòng sông. Một chiến si trẻ, to lớn, nước da dỏ hồng, xăm xăm chạy lên đầu: - Sắp tới rồi phải không anh? Người có mái tóc xoã gật đầu. - Cho nghỉ một chút anh nhé! Người ấy cũng chỉ gật đầu không nói, rồi lặng lẽ cầm lấy tay người chiến sĩ trẻ bước gấp lên. Con đường đang ngược lên một dình dốc. Rừng thấp dần xuống. Đột ngột, trước mắt đoàn người hiện ra một khoảng trống trải, bao la. Cái bao la của một khúc sông thượng nguồn. Sau ngày ký kết hiệp định Pa-ri, cuộc chiến đấu ở vùng sâu càng diễn ra gay gắt, ác liệt. Kẻ thù lật lọng điên cuồng phá hoại thành quả Cách mạng. Những người bám đất, bám dân hàng chục năm đang khao khát đón đợi một ngày hoà bình, lại tiếp tục cầm lấy cây súng. Khói lửa lại ngày đêm bao phủ lên khắp các bưng biền, sông rạch. Theo chỉ thị của Bộ, để giữ truyền thống của một đơn vị binh chủng, tiểu đoàn đặc công tập trung trở lại. Các chiến sĩ trinh sát rải rác từ khắp các địa bàn hóc hiểm kéo về. Họ nhìn nhau trào nước mắt. Ngày nào xuống hai trăm người mà bây giờ chỉ còn lại gần ba chục anh em... Linh đã được chỉ thị thay Sáu Hoá làm tiểu đoàn trưởng. Và hôm nay, anh dẫn tiểu đoàn đặc công của mình, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ bám giữ địa bàn, hành quân trở về hậu cứ. Họ sẽ được nghỉ ngơi, bổ sung quân số một thời gian để chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Linh ngồi trên đỉnh ngọn bằng lăng cao nhất đang nở xòe những cánh hoa màu tím nhạt. Sau lưng anh là dòng sông. Bên cạnh anh là trung đội trưởng Ma Hồ Lang. Hai anh em đang đau đáu nhìn về một vùng nắng xa xa. Dưới ấy là dông bằng. là vùng ven thành phố. Trên cao nhìn xuống, chỉ thấy một màu xanh thoai thoải và một vệt nắng dài lấp loáng như sông. Không hiểu sao. Linh tin chắc rằng đó là dòng sông Sài Gòn. - Anh Linh ơi! Quê chị Năm đó phải không? Mảng sáng phía bên kia sông Sài Gòn đó? - Lang bỗng rối rít hỏi. Linh nhìn theo hướng tay Lang chỉ, không trả lời. Mắt anh mờ đi như có nước. Anh nhớ lại những ngày tháng đã qua với những căn cứ nhỏ bên sông, những dải rừng chồi lá thấp, những trận đánh ban đêm, những khóm lục bình trôi theo tiếng chim bìm bịp kêu...Nhiều đồng đội của anh dã không cùng trở lại hôm nay. Anh nhớ tiếng cười rộng rãi, phóng khoáng của anh Sáu Hoá. Nhớ cả ánh mắt hằn học, lạnh lùng của thằng Kiêu. Kẻ thù vẫn tồn tại dưới đó. Và những người còn ở lại bám trụ địa bàn như Phận, Hải, anh Út "Cò ngẳng", Rổn… đang đón đợi anh trở về. Thế rồi, trên cái vệt dài lấp loáng nắng kia, anh như nhìn thấy Thúy đang mềm mại đưa đẩy mái chèo, tà áo bà ba bay là là mặt nước, một bên mái tóc xõa ra, kín đáo che đi vết sẹo màu hồng nhạt... - Thúy ơi! Anh sẽ trở lại. Nhất định anh sẽ trở lại dòng sông quê hương em! Lúc ấy, sau lưng anh, bên kia sông xuất hiện những toán bộ đội đầu tiên. Trong chốc lát, cả cánh rừng rộn rịch tiếng những bước chân, những chiếc mũ cối trùng điệp nhấp nhô. Họ là những binh đoàn chủ lực đang chuẩn bị vượt sông tiến về đồng bằng... Sông Sài Gòn - Hè 1978 CHU LAI Mời các bạn đón đọc Nắng Đồng Bằng của tác giả Chu Lai.