Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khảo Cứu Về Tâm Thức (Annie Besant)

Lời nói đầu

Dụng ý của s{ch n|y l| giúp cho c{c đạo sinh nghiên cứu về sự tăng trưởng v| ph{t triển của t}m thức, đưa ra c{c gợi ý có thể giúp ích cho nhà nghiên cứu. S{ch n|y không có kỳ vọng l| một giải thích tỉ mỉ đầy đủ, m| đúng hơn, theo như tựa đề phụ của nó, chỉ l| một đóng góp thêm cho khoa

T}m Lý Học m| thôi.

Trong tầm với của tôi có biết bao t|i liệu cần thiết cho bất cứ một giải thích tỉ mỉ đầy đủ n|o d|nh cho một khoa học có tầm quan trọng lớn lao b|n về việc khai mở t}m thức. C{c t|i liệu n|y từ từ được tích lũy trong tay của c{c đạo sinh th|nh t}m v| cần mẫn, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một nỗ lực n|o để sắp xếp v| hệ thống hóa c{c t|i liệu đó th|nh một tổng thể có mạch lạc cả.

Trong quyển s{ch nhỏ n|y, tôi chỉ sắp xếp một phần nhỏ c{c t|i liệu đó với hy vọng rằng b}y giờ nó có thể hữu ích đối với một số người l|m việc cần cù trong lĩnh vực rộng lớn n|y của Công Cuộc Tiến Hóa T}m Thức, v| trong tương lai, có thể dùng như l| một viên đ{ trong việc x}y dựng ho|n hảo hơn. Tìm mua: Khảo Cứu Về Tâm Thức TiKi Lazada Shopee

Cần có được một đại kiến trúc sư để dựng nên đền đ|i tri thức đó, v| cần có được c{c tay thợ hồ kiệt xuất t|i ba để điều khiển việc x}y dựng. Hiện giờ, chúng ta chỉ đủ sức để l|m công việc tập sự v| chuẩn bị c{c hòn đ{ chưa được gọt dũa để cho những tay thợ th|nh thạo hơn nhiều sử dụng.

Annie Besant

4

Khảo cứu về T}m Thức

NỘI DUNG

LỜI NÓI ĐẦU.. 3

PHẦN I.. 9

Tâm Thức. 9

DẪN NHẬP. 9

1- Các cội nguồn.9

2- Cội nguồn của Chân Thần..18

CHƯƠNG I..21

Chuẩn bị lãnh vực. 21

1- Tạo thành nguyên tử...21

2- Tinh thần - Vật chất.24

3- Các Cõi Phụ (The sub-planes)..26

4- Năm cõi...29

CHƯƠNG II.32

Tâm Thức.. 32

1- Ý nghĩa của từ ngữ.32

2- Các Chân Thần.42

CHƯƠNG III..52

Cư dân thuộc lĩnh vực. 52

1- Chân Thần giáng hạ..52

2- Sự Đan Kết (weaving)..60

3- Bảy Luồng Thần Lực..65

4- Các Đấng Quang Minh.68

CHƯƠNG IV..72

Nguyên tử thường tồn... 72

1- Sự Gắn Kết của các nguyên tử.72

2- Lưới Sự Sống.76

3- Việc chọn lựa các nguyên tử thường tồn..78

4- Công dụng của các nguyên tử thường tồn...80

5- Tác động của Chân Thần trên vi tử thường tồn.89

CHƯƠNG V.94

Hồn - Khóm. 94

1- Định nghĩa danh từ...94

2- Sự Phân chia Hồn-Khóm.98

CHƯƠNG VI.. 108

Sự Đồng Nhất Của Tâm Thức... 108

1- Một đơn vị Tâm thức.108

2- Tính đồng nhất của tâm thức hồng trần..110

3- Ý nghĩa của tâm thức hồng trần..116

CHƯƠNG VII. 122

Cơ Cấu của Tâm Thức.. 122

1- Sự phát triển của cơ cấu..122

2- Thể cảm dục..129

3- Sự tương ứng trong các căn chủng (Root-Races)...133

CHƯƠNG VIII.. 135

Các bước đầu của nhân loại.. 135

1- Làn sóng sinh hoạt thứ ba..135

2- Sự phát triển của con người..138

6

Khảo cứu về T}m Thức

3- Những linh hồn và thể xác thiếu hài hòa.142

4- Hé mở tâm thức trên cõi cảm dục..145

CHƯƠNG IX... 152

Tâm thức và ngã thức.. 152

1- Tâm thức.152

2- Ngã thức..156

3- Chân và giả..159

CHƯƠNG X. 163

Các trạng thái tâm thức con người(). 163

1- Tiềm thức.163

2- Tâm thức tỉnh thức.166

3- Tâm thức siêu phàm..170

CHƯƠNG XI... 184

Chân thần hoạt động... 184

1- Kiến tạo các hiện thể.184

2- Người tiến hóa..191

3- Tuyến yên và tuyến tùng quả...193

4- Con đường của tâm thức.196

CHƯƠNG XII. 198

Bản chất của ký ức. 198

1- Đại ngã và các tiểu ngã.198

2 - Những thay đổi trong các hiện thể và trong tâm thức..202

3- Ký ức..204

4- Ký ức là gì?..206

5- Nhớ và quên..210

6- Sự chú ý...215

7- Tâm thức duy nhất.217

PHẦN II. 219

Ý Chí, Dục Vọng và Tình Cảm. 219

CHƯƠNG I.. 219

Ý muốn linh hoạt... 219

CHƯƠNG II. 224

Dục vọng. 224

1- Bản chất của dục vọng..224

2- Việc đánh thức Dục Vọng...228

3- Mối quan hệ của Dục Vọng với Tư Tưởng..230

4- Dục Vọng, Tư Tưởng, Hành Động...233

5- Bản chất ràng buộc của Dục Vọng..234

6- Cắt dứt những ràng buộc...236

CHƯƠNG III.. 240

Dục Vọng (tiếp theo). 240

1- Hiện thể của dục vọng..240

2- Mâu thuẫn giữa Dục Vọng với Tư Tưởng...245

3- Giá trị của một lý tưởng...248

4- Thanh luyện Dục Vọng..251

CHƯƠNG IV.. 255

Xúc động. 255

1- Nguồn gốc xúc động..255

2- Tác động của xúc động trong gia đình..259

3- Nguồn gốc đức tính...264

4- Điều Phải và Điều Quấy...266

5- Đức Hạnh và Chí Phúc..267

6- Chuyển hóa xúc động thành đức hạnh và tật xấu..269

7- Áp dụng lý thuyết này cho hạnh kiểm..272

8. Các công dụng của xúc cảm...273

CHƯƠNG V. 279

8

Khảo cứu về T}m Thức

Xúc cảm (tiếp theo)... 279

1- Huấn luyện xúc cảm...279

2. Sức mạnh lệch lạc của xúc cảm.283

3- Phương pháp chế ngự cảm xúc...285

4- Cách dùng xúc cảm.291

5- Giá trị của xúc cảm trong cơ tiến hóa...295

CHƯƠNG VI.. 299

Ý Chí.. 299

1- Ý Chí Giành Lại Sự Tự Do của Nó.299

2- Lý do có quá nhiều đấu tranh...309

3- Quyền năng của Ý Chí...314

4- Huyền linh thuật và Hắc thuật..321

3- Tiến vào cõi an bình...322Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Annie Besant":Giảng Lý Dưới Chân ThầyÁnh Sáng Trên Thánh ĐạoCác Tôn GiáoChơn Nhơn Và Các Hạ ThểĐời Sống Huyền Bí Của Con NgườiGiảng Luận Ánh Sáng Trên Thánh ĐạoGiảng Luận Tiếng Nói Vô ThinhHình Tư TưởngHóa Học Huyền BíKhải Huyền, Linh Hứng Và Quan SátKhảo Cứu Về Tâm ThứcMinh Triết Ngàn XưaKhảo Cứu Tâm ThứcBát Chánh ĐạoQuyền Năng Tư TưởngCon Người Và Các ThểMinh Triết Cổ Truyền - Quyển 1Minh Triết Cổ Truyền - Quyển 2TRƯỚC THỀM THÁNH ĐIỆN

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Khảo Cứu Về Tâm Thức PDF của tác giả Annie Besant nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Thờ Trời Tu Phật (1929) - Nguyễn Kim Muôn
Vì sao có quyển này ra đời? À! có hỏi vậy mới biết tại sao có quyển này ra đời, vì nó không phải là kinh sách chi, mà cũng không phải rút dịch bởi nơi kinh quyện nào, mà cũng không phải chính mình tôi viết ra nữa. Cúi xin nghe: Thuở nay tôi dư biết có câu chữ nói: Nhơn thân bất độ hà thân độ, thế cho nên từ ngày phát nguyện tu hành thì chỉ trong thanh tịnh mà tu cho mình, chớ kỳ thật là chưa tính là độ ai, hay là dìu dắc ai theo với. Sau khi cái ngày tầm được pháp môn Vô Vi rồi, thì trong trí đã lập nguyện sẵng, tính đoạn trần thế mà xuất gia. Thờ Trời Tu PhậtNXB Xưa Nay 1929Nguyễn Kim Muôn102 TrangFile PDF-SCAN
Bát Quái Đạo số 12 (1938) - Hải Bằng
Bát-Quái-Đạo càng về sau càng ly kỳ, sẽ có nhiều cuộc thử tài của các phái võ, phái Đại Thiếu-Lâm sẽ phái người xuống giúp bạn Nam Thiếu-Lâm để đối trội với nhân vật phái Ngũ – Long bên Tây - Tạng. Nghĩa là trong pho chuyện này có đủ hết mặt các tay anh-hùng về đời nhà Thanh. Tự số 3 trở đi sẽ giảng vũ-thuật, nếu tiện sẽ có những hình vẽ rất rõ ràng, để các bạn dễ hiểu hơn, nhưng công việc ấy rất khó, gia cố hết sức để làm vừa lòng các bạn. Bát Quái Đạo Số 12NXB Đông Quang Văn Đoàn 1938Hải Bằng16 TrangFile PDF-SCAN
Biết Lối Quy Y - Thiều Chửu (NXB Đuốc Tuệ 1940)
Quy, nói đủ là quy-y. Quy-y nghĩa là minh tự biết minh say đắm cảnh đời, làm nhiều tội lỗi, cũng như người con cứng đầu cứng cổ, không ăn lời cha mẹ dạy, bỏ nhà ra đi đua đòi bạn xấu, làm càn làm bậy, đến nỗi tấm thân bơ vơ đất khác, đói khát giãi dầu, cảnh khổ ê trề, bây giờ mới nhớ đến cha mẹ mà quay đầu về ngay, thì lại được yên ổn xung xướng ngay. Lại như người đang bị ngã xuống bể, ngoi ngóp sắp chết, thấy có thuyền đến, liền ngoi lại ngay, khi lên được trên thuyền, thay áo khỏi rét, ăn cơm khỏi đói, hết sự sợ lại khốn khổ, được hưởng cái phúc no ấm xênh sang, thế là quy y. Biết Lối Quy YNXB Đuốc Tuệ 1940Thiều Chửu (Nguyễn Hữu Kha)22 TrangFile PDF-SCAN
Đập vỡ vỏ hồ đào - Thích Nhất Hạnh
Lời tựaĐập vỡ vỏ hồ đào – Thiền sư Nhất Hạnh giảng Trung Quán LuậnNếu trong khoa học có những khối óc như Einstein thì trong Phật học cũng có những trái tim như Long Thọ. Bộ óc là để thấy và để hiểu, trái tim cũng là để thấy và để hiểu. Không phải chỉ có bộ óc mới biết lý luận. Trái tim cũng biết lý luận, và có khi trái tim có thể đi xa hơn bộ óc, bởi vì trong trái tim có nhiều trực giác hơn. Biện chứng pháp của Long Thọ là một loại lý luận siêu tuyệt có công năng phá vỡ mọi phạm trù khái niệm để thực tại có cơ hội hiển bày. Ngôn ngữ của biện chứng pháp có khả năng phá tung được màng lưới khái niệm. Ngôn ngữ của toán học chưa làm được như thế. Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng. Long Thọ thừa hưởng không gian khoáng đạt do các cánh cửa ấy cung cấp và vì vậy đã có khả năng khám phá trong kinh điển Phật giáo những viên bảo châu sáng ngời bị chôn lấp trong nền văn học Nikaya. Long Thọ nắm được cái tinh hoa của phương pháp học Phật giáo: loại bỏ được cái nhìn nhị nguyên để giúp tiếp xúc được với thực tại, một thứ thực tại bất khả đắc đối với những ai còn kẹt vào những phạm trù của khái niệm. Khoa học còn đang vùng vẫy để thoát ra khỏi cái nhìn nhị nguyên ấy: sinh-diệt, có-không, thành-hoại, tới-đi, trong-ngoài, chủ thể và đối tượng. Bụt Thích Ca nói: Có cái không sinh, không diệt, không có, không không, không thành, không hoại để làm chỗ quay về cho tất cả những cái có, không, sinh, diệt, thành, hoại. Mà cái không sinh không diệt ấy, cái không chủ thể không đối tượng ấy, mình chỉ có thể tiếp cận được khi mình vượt thoát màn lưới khái niệm nhị nguyên. Trung Quán là nhìn cho rõ để vượt ra được màn lưới nhị nguyên. Biện chứng pháp Trung Quán, theo Long Thọ, là chìa khóa của phương pháp học Phật giáo. Tác phẩm tiêu biểu nhất của bộ óc và trái tim Phật học này là Trung Quán Luận. Long Thọ không cần sử dụng tới bất cứ một kinh điển Đại thừa nào để thiết lập pháp môn của mình. Ông chỉ sử dụng các kinh điển truyền thống nguyên thỉ. Ông chỉ cần trích dẫn một vài kinh như kinh Kaccāyanagotta Sutta. Ông không cần viện dẫn bất cứ một kinh Đại thừa nào.Nếu Einstein có thuyết Tương Đối Luận thì Long Thọ có Tương Đãi Luận. Tương đãi có khác với tương đối. Trong tuệ giác của đạo Phật, cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái kia không có mặt thì cái này cũng không. Vì ngắn cho nên mới có dài, vì có cho nên mới có không, vì sinh cho nên mới có diệt, vì nhơ cho nên mới có sạch, nhờ sáng cho nên mới có tối. Ta có thể vượt thoát cái thế tương đãi ấy để đi tới cái thấy bất nhị. Biện chứng pháp Trung Quán giúp ta làm việc ấy. Theo tuệ giác Trung Quán, nếu khoa học không đi mau được là vì khoa học gia còn kẹt vào cái thấy nhị nguyên, nhất là về mặt chủ thể và đối tượng, tâm thức và đối tượng tâm thức. Kinh Kaccāyanagotta cho ta biết là người đời phần lớn đang bị kẹt vào hai ý niệm có và không. Kinh Bản Pháp (S.2, 149-150) và kinh tương đương Tạp A Hàm (Tạp 456) cho ta thấy cái sáng có là nhờ cái tối, cái sạch có là nhờ cái nhơ, cái không gian có là vì có cái vật thể, cái không có là nhờ cái có, cái diệt có là vì có cái sinh. Đó là những câu kinh làm nền tảng cho tuệ giác tương đãi. Niết bàn là cái thực tại không sinh, không diệt, không có, không không, không không gian cũng không vật thể… và Niết bàn có thể chứng đắc nhờ cái thấy bất nhị. Ban đầu ta có ý niệm tương duyên (pratītyasamutpāda), rồi ta có các ý niệm tương sinh, tương đãi. Sau đó ta lại có ý niệm tương tức và tương nhập. Tất cả cũng đều có một nội dung như nhau. Những ý niệm không, giả danh và trung đạo cũng đều có ý nghĩa đó.Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn. Những phẩm này đại diện được cho toàn bộ Trung Quán Luận.Thầy Long Thọ sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai trước Thiên chúa giáng sinh(B.C.), trong một gia đình Ấn Độ giáo. Lớn lên thầy đã học Phật và theo Phật giáo. Thầy đã sáng tác bằng tiếng Phạn thuần túy, thay vì bằng tiếng Pali hay bằng tiếng Phạn lai Phật giáo.Tác phẩm Trung Quán Luận của thầy có mục đích xiển dương Đệ Nhất Nghĩa Đế (Paramartha) của đạo Bụt. Đệ nhất nghĩa đế là sự thật tuyệt đối. Ngoài sự thật tuyệt đối còn sự thật tương đối, tức là Thế tục đế (Saṃvrti). Sự thật tương đối tuy không phải là sự thật tuyệt đối nhưng cũng có khả năng chỉ bày, chuyển hóa và trị liệu, do đó không phải là cái gì chống đối lại với sự thật tuyệt đối. Mục đích của Long Thọ, như thế không phải là để bài bác chống đối sự thật tương đối mà chỉ là để diễn bày sự thật tuyệt đối. Nếu không có sự thật tuyệt đối thì thiếu phương tiện hướng dẫn thể nhập thực tại tuyệt đối, tức chân như hay Niết bàn. Vì vậy trong khi đọc Trung Quán Luận, ta thấy có khi như Long Thọ đang phê bình các bộ phái Phật giáo đương thời như Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) hay Độc Tử Bộ (Pudgalavāda) hay Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika). Long Thọ không đứng về phía một bộ phái nào, không bênh vực một bộ phái nào, cũng không chỉ trích bài bác một bộ phái nào. Ông chỉ có ý nguyện trình bày Đệ Nhất Nghĩa Đế của đạo Bụt, thế thôi.