Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vinh Quang Và Quyền Năng - Graham Greene

Graham Greene, nhà văn Anh nổi tiếng được công chúng Việt Nam biết đến với tiểu thuyết The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) đã được dựng phim hai lần, ông được coi là người viết về chiến tranh Việt Nam ấn tượng nhất. Là người sống cuộc đời đầy phiêu lưu và mạo hiểm nên, Greene thích đưa các nhân vật người Anh dè dặt của mình vào những tình huống khắc nghiệt, ở những nơi chốn khác lạ. Trong thế kỷ 20, không nhà văn nào có được những nhìn nhận tinh tế hơn Graham Greene khi đưa ra sự so sánh giữa con người với con người. Khi mà ngày càng có ít các nhà văn cố gắng phân tích những đức tính tốt đẹp của con người rơi vào sự sa ngã, thì Greene là bậc thầy trong sự phân minh đầy tính phức tạp này. Nhân vật của ông tồn tại trong hệ thống phẩm hạnh được xác định rõ ràng… Với thành công đó, nhà văn nào cũng thèm muốn có được sức tưởng tượng chứa đầy sự đột phá vô cùng hấp dẫn như Greene - người không bao giờ thiếu chuyện để viết mà ngược lại, luôn ngập trong những áng văn không ngừng tuôn chảy trong mình. Greene từng nói rằng, thời niên thiếu không hạnh phúc là sự cân bằng vô cùng bổ ích cho ông. Tuổi thơ của ông là sự khổ cực ở trường học, những cuộc vật lộn với thầy hiệu trưởng lại là chính người cha của mình; tìm cách tự vẫn ở tuổi vị thành niên và rồi lại si tình đến mê muội người vợ của chuyên gia tâm thần học chữa bệnh cho mình; không đam mê thể thao và thường bỏ học để dành thời giờ đọc tiểu thuyết phiêu lưu của các nhà văn như Rider Haggard và R. M. Ballantyne… Chính những câu chuyện đó đã có ảnh hưởng sâu đậm tới Greene và giúp ông tạo được phong cách văn chương của mình. Graham Greene là người trầm lặng, kín đáo nhưng cuộc sống riêng tư của ông lại rối như tơ vò. Ông tự nhận mình là “một người chồng tồi và người yêu không kiên định” bởi có quan hệ với nhiều phụ nữ, chưa kể thú đam mê rượu đến mức trở thành huyền thoại. Năm 1925, khi mới 21 tuổi, Graham Greene phải lòng Vivienne Dayrell-Browning – một cô gái xinh đẹp theo đạo Công giáo. Nhà văn tương lai mất hai năm ròng với hàng trăm lá thư tình mùi mẫn mới chinh phục được người đẹp. Chưa hết, trước khi được Vivienne mở lời nói câu đồng ý trước bàn thờ Chúa, Greene còn phải cải đạo để vừa lòng ý trung nhân. Hai người kết hôn năm 1927. Họ đã có một thời gian khá mặn nồng, nhưng càng ngày, bất đồng giữa hai người càng lớn. Vivienne khá khắt khe và có cái nhìn cao đạo với vấn đề tình dục. Trong khi chồng cô lại là một người rất trần tục và luôn thẳng thắn thể hiện các nhu cầu bản năng. Họ có hai người con Lucy Caroline và Francis. Cuộc hôn nhân tan vỡ từ năm 1939 nhưng đến năm 1947, hai người mới chính thức chia tay. Cuốn “Vinh quang và quyền năng” có lẽ là một lời biện hộ muộn màng cho hôn nhân tan vỡ của mình. *** Là tài năng hiếm có trong thế giới văn chương ngày càng mang tính bản địa, một người theo chủ nghĩa quốc tế tài năng có nhận thức chính trị sắc bén, nhưng Graham Greene lại từ chối nhìn nhận mình là một nhà văn chính trị. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông, Thư viện Anh tổ chức một cuộc triển lãm các kỷ vật của Green; còn tại thành phố Berkhamstead quê bương ông thuộc Tây Bắc London diễn ra hội nghị kéo dài một tuần, trong đó bàn đến những đóng góp của Greene cho nền điện ảnh, món nợ văn chương của ông với Joseph Conrad và mối quan hệ với Vua hề Charlie Chaplin... Nếu còn sống, chắc chắn Graham Greene sẽ là người phản đối quyết liệt cuộc chiến của Mỹ ở Iraq, bởi ông từng lớn tiếng lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở VN: "Đây không chỉ là việc làm xấu xa mà là cuộc chiến xuẩn ngốc nhất...", Greene nói như vậy trong một cuộc phỏng vấn năm 1967. Ông còn chỉ trích về chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Greene từng nói rằng, nhiệm vụ của ông là mô tả "nỗi cam go của sự việc theo tâm lý, và đôi khi theo quan điểm chính trị". Đọc sách , độc giả nhận thấy phần lớn trong hơn hai chục tiểu thuyết của ông bộc lộ sự xung đột giữa lòng trung thành và khát vọng, sự giao thoa đầy khó khăn giữa chính trị và đạo đức. *** Tác phẩm của một tiểu thuyết gia công giáo người Anh, một người Anh giáo trở lại, như cuốn “Vinh Quang và Quyền Năng” trước hết mang lại cho tôi cảm giác bỡ ngỡ. Chắc chắn là tôi tìm được trong đó môi trường tâm linh quen thuộc, chính trong sâu thẳm của màu nhiệm quen thuộc mà Graham Greene đã đưa tôi vào. Nhưng mọi việc diễn ra cứ như thể tôi đi vào một khu nhà cổ qua một cánh cửa bị che khuất sau những dây leo, cành cây, mà tôi không biết, và bỗng chốc tôi nhận ra cái lối đi lớn trong vườn nơi ngày xưa tôi thường nô đùa, và tôi nhẩm đọc những chữ viết tắt mà tôi đã khắc lên thân cây sồi trong những kỳ nghỉ hè năm nào. Một người công giáo Pháp chỉ đi vào giáo hội qua cổng chính; họ bị chi phối bởi lịch sử chính thức của giáo hội Pháp; họ dự phần vào những cuộc tranh luận đã từng phân hoá giáo hội Pháp trong nhiều thế kỷ, người ta khám phá ra người nào đó thuộc phe Port Royal hay Dòng tên, họ về phe Bossuet chống lại Fenelon hay họ về phe với Lamenais và Lacordaire hay với Louis Veuillot. Không thể không liên tưởng đến tác phẩm của Bernanos khi đọc “Vinh quang và Quyền năng”. Những tranh luận của giới công giáo trong suốt bốn thế kỷ qua như được phác hoạ lại nơi đây. Sau cha xứ Donissan trong “Dưới ánh mặt trời của Satan” xuất hiện cha sở xứ Ars. Những vị thánh của Bernanos, những linh mục có khuynh hướng tự do, những giáo dân ngoan đạo mà ông mô tả với giọng điệu cay cú nói ngược lại sự tôn kính và sự gớm ghiếc của ông. Phần mình, Graham Greene đã lén lút đi vào vương quốc bí nhiệm, trong vương quốc của thiên nhiên và ân sủng. Không có thiên kiến nào làm vẩn đục cái nhìn của ông. Không có luồng tư tưởng nào làm ông rời xa phát hiện của ông, cái bí quyết mà ông đã đột nhiên tìm thấy. Ông không có một định kiến nào về cái mà chúng ta gọi là “linh mục tội lỗi”. Có thể nói rằng, ông không có trong đầu óc một mô hình đạo đức nào cả. Có bản tính tự nhiên hay hư nát và có Ân sủng quyền năng; có con người khốn khổ, không đáng giá gì sất, ngay cả để làm điều tội lỗi và cái tình yêu nhiệm màu bao trùm con người trong cái khốn nạn cũng như trong cái hổ nhục để biến họ thành thánh, một vị tử đạo. Vinh quang và quyền năng của Chúa Cha toả rạng nơi bản thân một linh mục Mexico nghiện rượu và đã có con với một nữ giáo dân của mình. Mô típ lố bịch, tầm thường và tội trọng của ông chỉ làm cho người ta cười nhạo hay nhún vai và ông linh mục tội lỗi nhận biết điều đó. Cái mà cuốn sách này muốn chứng minh cho chúng ta là, nếu tôi nói không quá, là việc thánh hoá tội lỗi nhờ ân sủng. Vị linh mục phản động, bị chính quyền kết án tử hình, đầu ông bị treo giá (cuốn truyện mượn khung cảnh một nước Mexico bị thao túng bởi những người cầm đầu chống đạo) đã tìm cách đi trốn, như những linh mục khác đã làm, ngay cả những vị thánh thiện nhất. Ông chạy trốn, đã vượt được qua biên giới, nhưng lại quay về khi có người hấp hối cần đến ông hay cả khi ông biết sự hiện diện của ông không mang lại gì hay cả khi ông biết đó là một cái bẫy, rằng người đến kêu cứu ông là người chỉ điểm. Vị linh mục nghiện rượu, tội lỗi, run sợ trước cái chết, đã hiến dâng mạng sống mình nhưng không bao giờ quên cái cảm giác hèn hạ, nhục nhã của mình. Ông ta sẽ cho là chuyện tiếu lâm nếu ai đó nói ông là Thánh. Ông được bảo vệ cách lạ lùng chống lại thói kiêu ngạo, sự tự mãn. Ông đi tử đạo nhưng luôn mang trong mình ý thức về sự sa đoạ, phạm thánh của một linh mục đang trong tình trạng tội trọng, đến nỗi ông hy sinh thân mình nhưng qui chiếu tất cả cho Thiên Chúa, cho quyền lực và vinh quang của Ngài nơi con người khốn nạn nhất trong những con người: chính bản thân ông ta. Và càng đi đến hồi kết, chúng ta càng thấy con người tội lỗi tầm thường này càng hoá thân nên giống Chúa Kitô để nên giống Ngài, nhưng chưa đủ: đến mức đồng hoá mình với Chúa của mình. Mầu nhiệm Thương khó tái hiện nơi tội nhân này, tội nhân được lựa chọn trong cặn bã của nhân loại và đã lặp lại điều Đức Kitô đã làm, không phải ở trên bàn thờ dưới hình bánh hình rượu và mình thì chẳng mất gì, nhưng là hiến tế chính máu và thịt mình trên Thánh giá. Ở nơi con người vị “linh mục tội lỗi” này, không phải là những nhân đức đã tỏ rạng để đối lập với tội lỗi, nhưng chính là đức tin - đức tin vào cái dấu ấn vô hình ông đã lãnh nhận ngày thụ phong, vào cái kho tàng mà chỉ có mình ông (bởi vì những linh mục khác đã bỏ trốn hay đã bị sát hại) còn mang trên đôi tay bất xứng nhưng đã được Thánh hiến. Vị linh mục cuối cùng còn lại trong vùng, ông không thể tin được rằng sau ông sẽ còn linh mục để cử hành thánh lễ, để giải tội, để giúp kẻ liệt trước ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu. Và dù sao đức tin của ông đã không lay chuyển dù ông không biết rằng, ngay khi ông vừa gục ngã dưới làn đạn, một linh mục khác đã đột ngột xuất hiện. Qua đó, chúng ta cảm nhận sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa trong một xã hội vô thần, cái giòng chảy ngầm của ân sủng đã làm Graham Greene choáng ngợp hơn là cái mặt tiền hoành tráng mà giáo hội trần thế trình ra trước mặt các dân tộc. Nếu có một ki tô hữu nào đó mà sự sụp đổ của giáo hội hữu hình không làm cho xao xuyến, chính là Graham Greene mà tôi nghe nói ở Bruxelles, trước mặt hàng ngàn tín hữu và sứ thần toà thánh, đã gợi lên hình ảnh vị giáo hoàng cuối cùng trong một Âu châu hoàn toàn mất đức tin, đứng xếp hàng trước quầy vé, mặc chiếc quần tây xoàng xĩnh, cầm trên tay, còn lấp lánh chiếc nhẫn của “người đánh cá”, cái cặp giấy carton. Có thể nói rằng, cuốn sách này là một thông điệp gởi đến thế hệ trong đó mọi cái đều bị xem là phi lý. Những người trẻ thời đại Jean Paul Sartre, Camus, những con mồi tuyệt vọng của cái tự do phù phiếm. Graham Greene hé lộ rằng, có thể, sự phi lý này thực ra chỉ là một tình yêu không bờ bến. Ông cũng gởi thông điệp cho những người ngoan đạo, những người chưa bao giờ nghi ngờ về những giá trị của chính mình và luôn mang trong đầu những mô thức thánh thiện, với những phương thế chuyên biệt để đạt được những mức độ đạo đức khác nhau. Ông đặc biệt nhắm tới những kitô hữu, linh mục và giáo dân, các tiểu thuyết gia đang rao giảng con đường thập giá nhưng phải nói là họ chưa chịu “đóng đinh” đủ. Bài học lớn cho những người bị ám ảnh bởi sự toàn thiện, những con người khốn khổ săm soi những khiếm khuyết của mình mà quên rằng ngày phán xét sau cùng, theo thánh Gioan Thánh giá, chính tiêu chuẩn tình yêu là tiêu chí phán xét. Cái đất nước ông mô tả truy lùng các linh mục và giết hại các ngài, đúng là cái đất nước mà chúng ta đang thấy hình thành trước mắt. Đây là giờ của “hoàng tử thế gian”, nhưng ông mô tả họ không chút hận thù: ngay với tên đao phủ, ông cảnh sát trưởng đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Họ tìm kiếm chân lý; họ tin đã tìm thấy chân lý và đang phục vụ chân lý, cái chân lý đòi phải hy sinh một số đồng loại. Bóng tối bao trùm vùng đất mà ông mô tả, nhưng có một tia sáng nào đó đang xuyên qua. Dù gì đi nữa, chúng ta không nên sợ hãi, tác giả đã nhắc cho chúng ta rằng điều bí ẩn sẽ được nhận biết, cũng còn những giá trị cho thế giới phi lý này. Cái tự do mà Sartre đề nghị cho con người có những giới hạn: chúng ta biết rằng, những tạo vật được yêu thương như chúng ta không có tự do nào khác ngoài cái tự do từ chối tình yêu đó… Francois Mauriac. Mời các bạn đón đọc Vinh Quang Và Quyền Năng của tác giả Graham Greene.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Học Giả Herzog
Tiểu thuyết Herzog của tác giả Saul Bellow cho đến nay vẫn được coi là một trong những tiểu thuyết văn học vĩ đại nhất của nước Mỹ thời hậu chiến. HERZOG, một học giả về chủ nghĩa lãng mạn, một người hầu như chỉ sống cùng các ý tưởng của mình, một người chồng tồi bị vợ bỏ, một người cha nghèo khổ, một đứa trẻ vô ơn, một người anh em xa cách, một người bạn ích kỷ, một công dân lãnh đạm và ở tuổi bốn mươi bảy, hôn nhân tan vỡ, công việc tan vỡ, anh mang nỗi u sầu đi tìm kiếm miền đất hứa, tìm lại sự cân bằng, và cứu rỗi. Cùng với kỹ thuật viết sáng tạo, Saul Bellow đã kể một câu chuyện đậm chất dí dỏm của người Do Thái, tính hài hước, cái bệnh hoạn, niềm đam mê tri thức cùng các giá trị đạo đức, và sự hăng hái với những tư tưởng tiến bộ. Ngày nay Herzog vẫn được coi là một trong những tiểu thuyết văn học vĩ đại nhất của nước Mỹ thời hậu chiến. Tiểu thuyết Herzog được dịch giả Thiếu Khanh chuyển ngữ và được Tao Đàn xuất bản tháng 1/2019.  *** “Herzog” là cuốn sách đã làm nên danh tiếng của Saul Bellow. Cuốn sách xuất bản năm 1964, khi ấy ông 49 tuổi. Ông đã được giới phê bình đánh giá cao từ cuốn tiểu thuyết đầu tay “Dangling Man” (1944) và vào năm 1954 đã giành giải National Book Award cho “The Adventures of Augie March”. Nhưng “Herzog” mới thực sự đưa ông trở thành một nhân vật của công chúng, một cây bút được cả ngoài giới mộ điệu văn chương biết đến – một “tác gia”. Theo như lời Greg, con trai của Bellow, “Herzog” đánh dấu thời điểm mà “Saul trẻ” hóa “Saul già”. Mang danh tác gia – nghĩa là thành một gười truyền cảm hứng, đôi khi được thần tượng, đôi khi bị ghen tị, hoặc cả hai. Tên tuổi lọt vào các danh sách đề cử, quan điểm được trích dẫn. Với trường hợp của Bellow, ông lên đến đỉnh cao danh vọng trong lớp tác gia đương thời với 3 lần nhận giải National Book Awards, 1 giải Pulitzer và cuối cùng là Nobel Văn chương. Ông cũng bị lôi kéo vào các tranh cãi về chính trị, khác biệt thế hệ và chiến-tranh-văn-hóa mà khi còn trẻ, ông đã luôn cẩn thận né tránh. Bellow là người sắc bén, đọc nhiều, có óc quan sát và ông cũng tự nhận mình là người sỏi đời. Nhưng sau rốt ông vẫn là một tiểu thuyết gia, không phải một nhà báo xã luận – hay như ông nói, một chú chim chứ không phải một nhà điểu học. *** Saul Bellow từng tự nhận, mình là một con mèo độc lai độc vãng (I was the cat who walked by himself). Nhưng sự thực phải nói đầy đủ hơn thì: ông là một con mèo thường xuyên ở trong thời kỳ động dục. Ông chỉ có 5 bà vợ chính thức, và hàng tá người tình. Người ta nhận xét về ông như sau: đẹp trai, quyến rũ, tài giỏi, khéo ăn nói, và nhiều bạn tình, quan trọng là các bạn tình của ông đều trẻ và đẹp. 74 tuổi ông còn cưới được cô vợ mới 31 tuổi là biết rồi đó. Saul Bellow bị bạn thân cướp mất vợ, nhưng bù lại ông cũng cướp bạn gái của bạn thân. Bạn thân ông chính là Nhà văn nổi tiếng Philip Roth. Vâng, các bạn đang nghĩ đúng rồi đó. Saul Bellow cướp bạn gái của Philip Roth. Chuyện vợ con gái gú của Saul Bellow không biết nói sao cho hết được. Kể các bạn nghe chơi vài cố sự trong cuộc đời ông mà thôi. Chúng ta hãy bắt đầu bằng Herzog nha. Herzog được viết dựa trên nhiều tình tiết có thật đã xảy ra trong đời của Saul Bellow. Nhân tiện sách Herzog của Tao Đàn đã xuất bản và có bán tại đây https://goo.gl/CwSLJ4 nha. Năm 1953, Saul Bellow nhận một công việc mới ở Bard College. Lúc này Saul Bellow đã ly thân với với người vợ đầu - Anita, và ngay anh đã cặp kè với một người bạn gái mới có cái tên Nga ngố đọc muốn trẹo lưỡi Sondra Tschacbasov, nên cô thường được gọi thân mật là Sasha. Sasha làm thư ký ở Partisan Review, và quan trọng là Sasha đẹp và cực kỳ hấp dẫn, đã thế lại còn trẻ hơn Saul Bellow 16 tuổi. (hi hi bạn nào đọc Herzog rồi hẳn đã mường tượng ra cô vợ Madeleine rồi đúng không?) Tại Bard College, Saul Bellow chơi thân với một giáo sư văn học có tên là Jack Ludwig, người cũng đã có vợ rồi. Tay GS Ludwing này có mọi tính xấu của người Do Thái. Nhưng lại rất thần tượng Saul Bellow. Ludwing thường xuyên đi bách bộ cùng Saul Bellow, rồi khen ngợi, rồi ca ngợi các tác phẩm của Saul Bellow hết lời, nói chung thân thiết đến độ không bút nào tả xiết. (đến đây các bạn đã thấy nhân vật Valentine Gersbach xuất hiện rồi đúng không?) Năm 1956, Saul Bellow kết hôn với Sasha, sau khi li dị xong người vợ đầu. Sasha sanh cho Saul Bellow một bé trai đặt tên là Adam. (đoạn này hơi khác trong truyện chút xíu nhỉ?) Và Saul Bellow nói với Sasha rằng: đứa bé là trách nhiệm của cô, ông đã quá già để chăm bẵm cho một đứa trẻ. Quả thật không oan khi sau này con trai của ông (ko phải Adam) viết một cuốn sách về bố mình chỉ để kể rằng: Saul Bellow, một nhà văn vĩ đại, nhưng là một ông bố tệ hại (Great author, terrible father). Đến năm 1958 Saul Bellow được mời đến dạy ở ĐH Minnesota. (Chuyện diễn biến gần giống với Herzog rồi nè.) Saul Bellow khăng khăng một mực bảo nhà trường, đã nhận ổng rồi, phải nhận luôn cả anh bạn thân, GS văn chương, Jack Ludwig. Hoặc là nhận cả hai, hoặc là không ai cả. Mọi chuyện được thu xếp ổn thỏa, cả 2 cặp gia đình rồng rắn kéo nhau chuyển nhà lên Minneapolis. Và giờ đây mẫu thuẫn giữa Saul Bellow và cô vợ hai Sasha bắt đầu lên cực điểm. Lý do là bởi không thỏa mãn được nhu cầu tình dục của nhau. (hi hi chuyện này Saul Bellow cũng có nói trong Herzog đó, ông có thổ lộ là nếu tuổi 40 mà mỗi tháng còn make love được 1 lần thì đó là thành công rồi, và chuyện “chưa đến chợ đã hết tiền” cũng được ông viết rất kỹ càng trong Herzog đó.) Lúc này anh bạn thân Jack Ludwing đóng vai trò hòa giải cho vợ chồng nhà Bellow, lắng nghe an ủi cả hai bên. Nhưng mọi việc có vẻ không thành công. Một ngày mùa thu năm 1959, Sasha nói với Saul Bellow rằng cô sẽ rời xa ông. Không phải vì người thứ ba mà là bởi cô không yêu ông. Mọi thủ tục cho vụ li dị được tiến hành vào tháng 6/1960. (Vụ này cũng kha khá giống như trong Herzog, tình tiết cả hai bên cùng có một luật sư, rồi trong thời gian li dị, Saul Bellow bỏ đi châu Âu chơi, nói chung là y hệt nha.) Tháng 11 năm 1960, Saul Bellow được một cô trông trẻ rất có lương tâm không nỡ nhìn cái sừng trên đầu ông mãi, nên bèn kể cho ông nghe việc anh bạn thân Ludwig đang ngủ với cô vợ Sasha của ông. Đất trời như sụp đổ, Saul Bellow đứng không vững vì cái sừng nó quá lớn. Hai sự phản bội đến trong phút chốc đã làm ông phát điên. Người ta kể lại, ông cũng về nhà vớ lấy khẩu súng giống y như nhân vật Herzog luôn. Cũng đúng thôi, hãy thử đặt mình vào hoàn cảnh: vợ mình ngoại tình cùng bạn thân mình, trong khi mình xin việc cho bạn thân mình, tìm cho nó chỗ làm, đưa danh vọng đến cho nó, thì nó ngủ với vợ của mình, trong khi mình vẫn lải nhải tâm sự với nó về vấn đề “sinh lý nam”. Còn biết giấu cái sừng vào đâu nữa cơ chứ? Saul Bellow trong cơn tuyệt vọng đã biến nó thành tiểu thuyết. và Herzog ra đời. Herzog giống như một cuốn tiểu thuyết báo thù bạn thân với vợ cũ. Nhưng may cũng được trời thương, sách Herzog vừa ra đời lập tức bán hết cả trăm ngàn bản ngay trong tuần đầu ra mắt. (chắc cũng nhiều đàn ông đồng cảm chịu chung cảnh ngộ đội nón xanh chăng?) Đến đây anh bạn thân – giáo sư văn chương - Jack Ludwig lên tiếng bảo: “Ôi, Herzog là một cuốn sách rất được đấy bà con, nhưng đừng đọc nó như một cuốn tự truyện. Herzog là một bước đột phát lớn của anh chàng bị tôi cắm sừng, nhưng đằng sau nó là tâm thế của một gã đàn ông đang bước vào khủng hoảng tuổi trung niên, cùng sự phi lý của thân phận đàn ông.” Lời kêu gọi của anh bạn thân của Saul Bellow đã thành công, không ai đề cập đến cơ sở tự truyện của cuốn sách Herzog cả. Và câu chuyện của Herzog bịa đặt hay một phần sự thật đã không còn ai quan tâm nữa, vì giá trị văn chương và sự khổng lồ của nó. *** saul bellow(1915-2005) Saul Bellow là nhà văn người Mỹ gốc Do Thái. Từ nhỏ ông đã đọc Shakespeare và các nhà văn thế kỉ XIX, nói thạo bốn ngoại ngữ và được dạy dỗ theo những truyền thống được ghi trong Kinh Cựu Ước. Saul Bellow là nhà văn được trao rất nhiều giải thưởng: giải Guggenheim năm 1948 cho tiểu thuyết The Victim; giải Pulitzer năm 1976 cho tiểu thuyết Humbold’s Gift, là người duy nhất ba lần giành Giải thưởng Quốc gia năm 1954 cho The Adventures of Augie March,cho Herzog năm 1964, Mr. Sammler’s Planet năm 1971. Năm 1976, Saul Bellow được trao giải Nobel Văn Chương vì những đóng góp lớn lao cho sự phát triển văn học Mỹ và thế giói bằng những tác phẩm mang tính nhân đạo sâu sắc có ngôn ngữ và văn phong bậc thầy. *** herzog Dù mình có hóa rồ đi nữa thì mình cũng vẫn ổn thôi, Moses Herzog nghĩ. Có người cho là anh bị hâm, có lúc chính anh cũng không biết mình có tỉnh táo hay không nữa. Nhưng lúc này, tuy vẫn còn hành xử khá kỳ quặc, anh cảm thấy tự tin, vui vẻ, minh mẫn, và khỏe mạnh. Trước đó anh như bị bỏ bùa, dở chứng viết thư cho tất thảy mọi người. Những lá thư ấy khuấy động anh đến nỗi từ hồi cuối tháng Sáu, anh mang theo chiếc va li đầy ắp giấy đi hết chỗ này sang chỗ khác. Anh đã mang chiếc va li này từ New York đến Martha’s Vineyard§, rồi lại rời bỏ nơi này để quay lại ngay tức khắc; hai ngày sau anh bay sang Chicago, rồi từ Chicago anh đến một ngôi làng ở phía tây Massachusetts. Ẩn mình ở vùng quê, anh viết liên miên bất tận, viết một cách cuồng nhiệt, cho các nhật báo, cho những nhân vật của công chúng, cho bạn bè người thân, sau đó là cho những người đã chết, cho những người chết vô danh mà anh biết, và cuối cùng là cho những người chết có tiếng tăm. Bây giờ đang vào giữa mùa hè ở Berkshires. Herzog đơn độc trong ngôi nhà cũ rộng lớn. Vốn có thói quen ăn uống đặc biệt, giờ đây anh ăn bánh mì hiệu Silvercup đựng trong bao giấy, đậu đóng hộp, và phô mai Mỹ. Thỉnh thoảng, anh hái trái mâm xôi trong khu vườn cây cối um tùm, lơ đễnh nhấc những cành song mây đầy gai. Còn chuyện ngủ nghê thì anh nằm trên tấm nệm mà chẳng cần trải ga - đó là chiếc giường tân hôn của anh bị bỏ bê - hay ngủ trên võng, lấy áo khoác đắp lên. Cỏ đuôi chồn, châu chấu và những cây thích con trong vườn vây lấy anh. Khi anh mở mắt trong đêm, những ngôi sao gần gũi như những thực thể linh thiêng. Lửa cháy, dĩ nhiên, khí ga - khoáng chất, hơi nóng, nguyên tử, chỉ lên tiếng hùng hồn lúc 5 giờ sáng với người đàn ông nằm cuộn mình trong chiếc áo khoác trên võng. Khi một ý mới nào đó nảy ra trong tâm trí, anh đi vào bếp, tổng hành dinh của anh, để ghi chép lại. Sơn trắng bong ra từ những bức tường gạch, thỉnh thoảng Herzog dùng tay áo lau phân chuột trên bàn, thản nhiên nghĩ ngợi tại sao bọn chuột đồng mê sáp và parafin đến thế. Chúng khoét lỗ vào những hòm chứa đồ khằng kín bằng parafin, chúng gặm những cây nến sinh nhật đến nỗi chỉ còn lại cái bấc. Một chú chuột nhắt moi vào gói bánh mì, để lại cái lỗ hình dạng thân nó qua các lát bánh! Herzog ăn nửa ổ bánh mì còn lại cùng với mứt. Anh cũng có thể chia phần ăn với những con chuột nhà. Suốt thời gian đó anh vẫn dành một góc tâm trí mình mở ra với thế giới bên ngoài. Anh nghe tiếng quạ kêu vào buổi sáng. Giọng khàn khàn của chúng thật thú vị. Anh nghe chim hoét kêu vào lúc nhá nhem tối. Đêm thì có chim ụt. Khi anh đi dạo trong vườn, cao hứng với một lá thư trong đầu mình, anh nhìn hoa hồng quấn quanh ống máng hứng nước mưa, hay những trái dâu tằm - bầy chim đang làm tiệc trên cây dâu. Ban ngày thì nóng, buổi chiều tối thì bức bối và bụi bặm. Anh nhìn chăm chăm mọi thứ, nhưng cảm thấy mình mù dở. Bạn anh, người bạn cũ Valentine, và vợ anh, người vợ cũ Madeleine, đã loan truyền tin đồn tinh thần anh đã suy sụp. Có đúng vậy không? Anh đi vòng qua ngôi nhà trống trơn và nhìn thấy bóng khuôn mặt mình trên một khung cửa sổ mạng nhện giăng xám xịt. Trông anh thanh thản kỳ lạ. Một đường sáng chạy dài từ giữa trán qua chiếc mũi thẳng và đôi môi dày lặng lẽ. Mời các bạn đón đọc Học Giả Herzog của tác giả Saul Bellow & Thiếu Khanh (dịch).
Henderson, Ông Hoàng Mưa
Henderson ông hoàng mưa, một cuốn tiểu thuyết vừa kỳ thú vừa uyên áo, viết về hành trình gian khổ - qua những cuộc phiêu lưu nhiều bất trắc đến một vùng “đất lạ” - nhằm hướng tới sự thức tỉnh tinh thần, của một con người vốn dĩ đầy những sự bất toàn mà gốc rễ sâu xa nằm ở bản tính trì độn và dung tục của một thể chất quá ư sung mãn. Cuốn sách này, với “những ý tưởng tràn trề, sự mỉa mai rực sáng, cái hài vui nhộn và sức cảm thông thấu suốt… pha trộn giữa tiểu thuyết giang hồ phóng dật với sự phân tích tinh tế về nền văn hóa hiện đại của chúng ta, với thể loại truyện phiêu lưu mạo hiểm, với những đoạn quyết liệt và những đoạn bi thương liên tục nối tiếp nhau, điểm xuyết những đối thoại triết học, tất cả được triển khai bởi một giọng tường thuật có ngôn từ dí dỏm và khả năng nhìn thấu những sự phức tạp cả bên ngoài lẫn bên trong khiến ta hành động hoặc ngăn ta hành động” (theo Lời tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển), là một cuốn sách vừa đầy ắp đời sống thực tại vừa mông lung sâu thẳm, khó dò và thật khó quên. Saul Bellow (1915-2005) là nhà văn lớn người Mỹ, Nobel Văn chương 1976.  Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông gồm The Adventures of Augie March (1953), Seize the day (1956), Henderson the rain king (1959), Herzog (1964), Mr. Sammler’s planet (1970), Humboldt’s gift (1975), Ravelstein (2000)… Ngoài giải Nobel, ông còn được trao nhiều giải thưởng danh giá khác như Giải Pulitzer và Giải thưởng Sách Quốc gia của Hoa Kỳ. *** Đọc cuốn này vì quá yêu ca khúc "Both Sides Now" của Joni Mitchell.  Truyện có nhiều điểm trừ, ví dụ ông nhân vật chính thu thập những nét bựa nhất của Trump (và tuyệt vời về gia tài, hình thể), có thể hơi động chạm về quyền phụ nữ và sắc tộc, lối viết lại có tí hơi hướng anh hùng kiểu Mỹ mình rất ghét và lại giống kiểu du ký thám hiểm phiêu lưu mình cũng rất ghét luôn. Nhưng. Vâng, luôn là những sự "nhưng" ;)) đúng kiểu chọn thể loại dù có tầm thường, nhưng qua tay một nhà văn tầm cỡ, thì nó vẫn có vóc dáng đồ sộ. Đọc xong cảm thấy đúng kiểu ôi mình cũng thế =)) Lão Henderson này kiểu nhân vật luôn bức bí hiện sinh, luôn "tôi muốn tôi muốn" không ngừng, có những hành động bột phát không khả năng kiểm soát... Mình y chang =))) Về ý tưởng, truyện nêu ra hai nét thú vị đó là Grun-tu-molani, tức là muốn được sống cơ, và tâm sinh tướng. Rất thú vị.  Đại để phải sống nguy hiểm các bạn ạ. Đọc rất Nietzsche. Phải sống thật nguy hiểm và không có gì giúp tiến nhanh tốt hơn là đau khổ ;)) Nguyên Trang's Review *** Henderson, ông hoàng mưa. 1959. Của Saul Bellow. Bản Tiếng Việt do Thiếu Khanh Nguyễn Huỳnh Điệp dịch. Biết bắt đầu từ đâu, từ chi tiết nào, tình tiết nào, nhận định nào, trải nghiệm nào, băn khoăn nào, tương đồng nào, sáng rõ nào, lờ mờ nào, thích thú nào, nghi ngờ nào,….để viết về nó? Chưa biết. Mà cũng có thể là chưa nghĩ ra. Sự bắt đầu khó thật. Thôi thì bắt đầu từ sự hoài nghi của chính mình vậy, thế nghĩa là cũng bắt đầu từ một sự hi vọng đấy! Cũng có nghĩa là bắt đầu từ lời của một “kẻ khác”, vừa bác học, lại vừa mang tính PR, đính kèm chễm chệ trên bìa 4, để thể hiện giá trị, để trước tiên, khiến cho người ta mua nó, và đọc nó. Nguyên văn phần mở đóng ngoặc đơn là “theo Lời tuyên dương của Viện Hàn Lâm Thụy Điển”. Còn nguyên văn bộ phận đóng mở ngoặc kép: “những ý tưởng tràn trề, sự mỉa mai rực sáng, cái hài vui nhộn và sức cảm thông thấu suốt…pha trộn giữa tiểu thuyết giang hồ phóng dật với sự phấn khích về nền văn hóa hiện đại của chúng ta, với thể loại truyện phiêu lưu mạo hiểm, với những đoạn quyết liệt và những đoạn bi thương liên tục nối tiếp nhau, điểm xuyết vào những đối thoại triết học, tất cả được triển khai bằng một giọng tường thuật có ngôn từ dí dỏm và khả năng nhìn thấu những sự phức tạp cả bên ngoài lẫn bên trong khiến ta hành động hoặc ngăn ta hành động”. Chắc cũng có thể nhặt nốt một phần nhỏ không nằm trong ngoặc nào cả nhưng vào đây thì buộc phải thêm ngoặc nọ ngoặc kia: “một cuốn sách vừa đầy ắp đời sống thực tại vừa mông lung sâu thẳm, khó dò và thật khó quên”. Không phải là đang muốn cố lắp ghép các quãng tụng ca bóng bẩy vào bài viết để đạt đến kĩ thuật tự lăng-xê ngòi bút làm gì cả đâu. Chủ yếu là đang muốn một lần nữa gọi lại được rất nhiều tính từ tuyệt vời đã được dùng để nói về tác phẩm ấy. Tôi nghĩ Ông hoàng mưa thực sự xứng đáng với tất cả những tính từ mạnh nhất, cuồng nộ nhất. Đúng hơn, nó xứng đáng với những động tính từ của sự cực điểm. Có thể kể ra hàng loạt từ đoạn trích vừa rồi: tràn trề, mỉa mai, rực sáng, vui nhộn, thấu suốt, phóng dật, phấn khích, mạo hiểm, quyết liệt, bi thương, triết học, dí dỏm, thấu, phức tạp, mông lung, sâu thẳm, khó dò, khó quên,…Nhìn từ góc độ bình thường thì cuốn tiểu thuyết ấy, tôi nghĩ, không được…bình thường cho lắm. Nó viết về những nhân vật chẳng bình thường tẹo nào (mà Bakhtin gọi là “nghịch dị” thì phải), các nhân vật ấy lại toàn làm những điều kì vĩ nực cười, và chỉ có thể nói về nó bằng những ngôn từ hơi bị “phi thường” một chút (có lẽ nói “bất thường” sẽ hợp hơn “phi thường” ấy chứ, bởi lẽ nó hoàn toàn không phải là tính sử thi gì ở đây cả). Tác phẩm nhiều chất văn xuôi hơn là sử thi, và cũng nhiều chất trữ tình hơn. Nhưng cũng chẳng thể rút nó vào một hay vài bản chất. Là bởi đầy những tâm sự nhưng cũng chẳng xếp được vào tính trữ tình, thậm chí gọi nó bằng cụm “kể lể linh tinh” thì cũng đâu phải là không hợp lý? Và như đã nói, nhân vật toàn muốn làm, cần làm, sống vì, chết vì những điều kì vĩ, lại còn đầy những là gian khổ, khao khát, đau đớn nữa; chỉ tội “cái cười” vẫn cứ ẩn náu đâu đấy sau đó. Người ta đôi khi tưởng sẽ bắt gặp (và chính nhân vật cũng tưởng là mình như thế) một kẻ anh hùng. Không sai nhưng chưa đủ. Henderson là một anh hùng ngờ nghệch (dỡ bỏ motif anh hùng ca cũng như motif anh khờ truyện cười), một chàng ngốc lúc thì gặp may lúc không gặp may (dỡ motif chàng ngốc gặp may); một kẻ phương Tây, da trắng không còn là đang “đi khai hóa” mà chỉ định đi tìm sự bù trừ kết nối giữa các nền văn minh (tuy mục đích nghe có vẻ cao thượng hơn) nhưng cũng thất bại thảm hại,…Bằng tất cả những sự phá vỡ ấy, tôi muốn nhấn mạnh hơn cả về Henderson như một kẻ ở bất cứ nơi nào cũng cố vượt thoát khỏi cái “bình thường”, tất nhiên, cũng sẽ sai hoàn toàn nếu quy nó đơn giản vảo cái “phi thường” của mô hình lãng mạn. Tình trạng “bán hoang dã” có vẻ là một thứ tình trạng thực sự lí tưởng cần hướng đến. Nhưng tính nước đôi ấy không đảm bảo được cho hạnh phúc và sự yên ổn cá nhân. Để tiếp tục tồn tại giữa cộng đồng, Dahfu buộc phải tuân thủ những luật tắc cơ bản nhất của truyền thống. Sự tự do của ông phụ thuộc vào sự tuân thủ. Trong trận chiến đấu cuối cùng, Dahfu bị sư tử Glimo quật ngã. Nó gần như là sự thất bại đau đớn trước một thứ quá khứ, một thứ truyền thống còn hiện diện đầy hoang dại và tàn bạo trong hiện tại. Cái chết thảm hại và cô độc của Dahfu là sự sa thải tuyệt đối của cộng đồng với một cá nhân không tuân thủ quy tắc và thất bại trước những đòi hỏi của tiêu chuẩn chung. Henderson bỏ trốn Wariri, bỏ trốn khỏi chức phận Ông hoàng mưa, cũng là bỏ trốn sự điều khiển đáng sợ của một cộng đồng tàn bạo. Lần trước ra đi trong xấu hổ và nhục nhã. Lần này trốn chạy trong sợ hãi. Y trở về, ôm trên tay một con sư tử con. Nó hứa hẹn một tương lai của sự hòa trộn đa đặc tính, có ý nghĩa như một hành động mang tính biểu tượng: một nỗ lực mang tâm hồn sư tử về cái thế giới “văn minh” vốn được Henderson mô hình hóa bằng chuồng lợn. Nhân tính, như thế, không phải là một định nghĩa cố định, cũng không thể xuất hiện như một chuẩn mực mà xã hội nào cũng rêu rao hướng tới. Việc chửi mắng kẻ khác là thú vật vốn chỉ được nhìn như thiếu tôn trọng người khác, thực ra, phải nói thêm rằng nó hàm ẩn một sự thiếu tôn trọng cố hữu và vô thức với loài vật. Nói đúng hơn, loài người lẫn giữa những loài khác trong một đường viền nhân tính mềm lỏng và linh động. Điểm quan trọng không phải là việc chỉ ra con người khác con vật ở đâu, mà mỗi người có sự giao thoa như thế nào với các loài động vật. Và lựa chọn của Henderson là một thử nghiệm đáng kể, là sự đề xuất một giải pháp, có lẽ, nhiều hi vọng. *** Samuel Bellow (1915-2005), nhà văn Mỹ gốc Canada, được coi là một trong những tác gia lớn nhất, có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với văn chương thế kỷ hai mươi. Một số tác phẩm đáng kể nhất của ông là The Adventures of Augie March (1953), Seize the day (1956), Henderson the rain king (1959), Herzog (1964), Mr. Sammler’s planet (1970), Humboldt’s gift (1975), Ravelstein(2000)… Ông được trao nhiều giải thưởng danh giá như Giải Nobel Văn chương (1976), Giải Pulitzer, Huân chương Nghệ thuật Quốc gia (National Medal of Arts), và là nhà văn duy nhất từng ba lần đoạt Giải thưởng Sách Quốc gia (National Book Award) của Hoa Kỳ, cũng là người duy nhất được đề cử giải này tới sáu lần. Tác phẩm của Bellow có một chủ đề xuyên suốt là phê phán nền văn minh hiện đại, sự mất phương hướng của nó, những nhược điểm cố hữu và trầm kha của nó, chẳng hạn như xu hướng khiến con người sùng bái vật chất, xa rời tri kiến và sự sáng suốt đích thực. Các nhân vật chính của Bellow thường có tiềm năng tinh thần to lớn, cô độc đối đầu với những thế lực tiêu cực của xã hội hiện đại, và mang một ý chí ngoan cường muốn vượt thoát sự yếu đuối và vô minh của bản thân ngõ hầu vươn tới sự thức tỉnh tinh thần. Mặt khác, là người gốc Do Thái, nhà văn sáng tạo ra nhiều nhân vật người Do Thái, mang một cảm quan sâu sắc về tình cảnh mình là “người khác”, là “kẻ lạ” trong lòng thế giới văn minh của phương Tây. Mời các bạn đón đọc Henderson, Ông Hoàng Mưa của tác giả Saul Bellow.
Đừng Bao Giờ Buông Dao
Hỗn Mang #1 - Đừng Bao Giờ Buông Dao - Patrick Ness Chẳng có thị trấn nào giống như thị trấn Prentiss. Nơi không còn bóng dáng phụ nữ. Nơi mọi suy nghĩ trở thành Tiếng Ồn mà bất kỳ sinh vật nào cũng có thể nghe thấy.Dòng chảy Tiếng Ồn ầm ĩ không bao giờ dứt.Không tâm tư thầm kín nào còn là bí mật.Ngay cả trong giấc ngủ.Vậy mà khi sự im lặng không tưởng xuất hiện, vẫn có một bí mật tồi tệ đến mức khiến Todd, thằng nhóc chỉ còn một tháng nữa là trở thành đàn ông, thằng nhóc cuối cùng chưa trở thành đàn ông, phải bỏ chạy hòng giữ lấy mạng sống. Cùng con chó biết nói. Sự im lặng. Và con dao.Nhưng làm sao để chạy thoát khi những kẻ săn đuổi có thể nghe được mọi suy nghĩ trong đầu ta? *** Ý nghĩa tên sách Chaos Walking - Hỗn mang: tên toàn bộ series đến từ câu thoại the Noise is a man unfiltered, and without a filter, a man is just chaos walking. Tiếng Ồn là tổng hòa suy nghĩ, các bí mật thầm kín, ký ức phức tạp của đàn ông, vậy nên tác giả mới có sự so sánh rằng Tiếng Ồn là một người đàn ông không được sàng lọc, mà khi không được sàng lọc, đàn ông chỉ là một mớ hỗn độn biết đi. Bộ Sách Hỗn Mang gồm có: Đừng Bao Giờ Buông Dao Câu Hỏi Được Trả Lời Những Con Quỷ Người The Knife of Never Letting Go - Đừng bao giờ buông dao: đến từ câu thoại I'll never let go of the knife được lặp lại nhiều lần trong tập 1 của nhân vật chính, con dao cũng là một chi tiết then chốt, nắm vai trò đưa ra và thực hiện các lựa chọn (giết/không giết) nhằm định hình tính cách và nhân sinh quan của nhân vật chính trong tập này. Thậm chí có lần nhân vật còn tưởng tượng ra con dao đang nói never let go of me - đừng bao giờ buông tôi. Nhận xét “Hãy đọc nó một mình, hãy đọc nó thâu đêm.” - Chicago Tribune “Điên cuồng, kinh hãi, đầy phấn khích và làm tan vỡ con tim.” - Sunday Paragraph *** Patrick Ness - sinh năm 1971, là tác giả người Mỹ, hiện đang sống ở Los Angeles. Ngoài 12 cuốn sách đã xuất bản, anh còn là nhà báo và nhà biên kịch, đã tham gia chuyển thể tác phẩm Quái vật ghé thăm (A Monster Calls) của mình thành phim điện ảnh. Đừng bao giờ buông dao là tập đầu tiên trong bộ sách Hỗn mang (Chaos Walking), ra mắt từ năm 2008 đến 2010. Tập cuối trong bộ ba tác phẩm đã đem về cho anh Huân chương Carnegie năm 2011. Các tác phẩm khác của Patrick Ness được Nhã Nam xuất bản: - Quái vật ghé thăm (Huân chương Carnegie 2012) - Câu hỏi được trả lời (Hỗn mang #2) - Những con quỷ người (Hỗn mang #3 - Huân chương Carnegie năm 2011)   *** "ĐỪNG BAO GIỜ BUÔNG DAO" - PHẢI LÀM GÌ TRONG THẾ GIỚI KHÔNG-BAO-GIỜ IM LẶNG?  “Đừng Bao Giờ Buông Dao" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết mang tên “Hỗn Mang" của nhà văn Mỹ Patrick Ness. Bản... Sâu Sách - 2 tháng 6 2021      “Đừng Bao Giờ Buông Dao" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết mang tên “Hỗn Mang" của nhà văn Mỹ Patrick Ness. Bản tiếng Anh của cuốn sách - “The Knife Of Never Letting Go” được ra mắt độc giả từ tháng 5 năm 2008 và mới được Nhã Nam phát hành phiên bản Việt vào đầu năm 2021. Cuốn sách được viết theo thể loại "kỳ ảo, giả tưởng" nên sẽ khá phù hợp cho bạn nào thích cốt truyện phiêu lưu theo hành trình nhân vật.     “Đừng Bao Giờ Buông Dao" - ngay từ nhan đề, tác giả đã nhắc nhở người đọc về không khí căng thẳng, khẩn trương, cảnh giác cao độ của một hành trình đầy rẫy hiểm nguy. Quả vậy, gần 500 trang của cuốn sách, người đọc như hoà mình vào trong những bước chạy không ngừng của nhân vật tôi, Todd, một cậu nhóc "sắp trở thành đàn ông". Đồng hành cùng Todd là chú chó Manchee. Cứ như vậy, một người, một chó, một dao đã khám phá ra những bí mật cực kì đen tối trong thế giới mà họ đang tồn tại.     Điểm đặc biệt nhất của cuốn sách chính là thế giới mà tác giả đã xây dựng. Một thế giới gần như không có bóng dáng phụ nữ. Kỳ dị hơn, đó là thế giới mà mọi suy nghĩ đều trở thành Tiếng Ồn khiến bất kỳ sinh vật nào cũng có thể nghe thấy và nhìn thấy, kể cả trong giấc ngủ. Bạn có thể tưởng tượng được không khi mọi ý niệm của bản thân sẽ hiện lên ngay phía trên quầng đầu của mình, ai cũng thấy, ai cũng đoán biết được. Không tâm tư thầm kín nào còn là bí mật. Chúng ta phải lựa chọn xem ai đáng tin, ai dối trá. Chúng ta phải học cách giấu sự thật trong những suy nghĩ nguỵ tạo để tồn tại. Và giữa thế giới ấy, làm thế nào để chạy thoát khi những kẻ săn đuổi có thể nghe được mọi suy nghĩ và sẵn sàng đoạt mạng ta bất cứ lúc nào?     Được xây dựng theo trường phái "Dystopia", tạm dịch là “Phản Địa Đàng", có thể nói “Đừng Bao Giờ Buông Dao" đã tái hiện một cách chân thực nhất tất cả những hiện thực mà một thế giới “Phản Địa Đàng" có thể tồn tại: chính phủ bạo tàn, tư tưởng suy đồi, những giá trị về nhân tính bị đảo ngược... Chúng ta dễ dàng bắt gặp những hiện thực ấy trong những trang miêu tả của cuốn sách. Thị trấn khởi đầu của câu chuyện, Prentiss, lấy tên theo kẻ lãnh đạo, là một thị trấn bạo tàn đúng nghĩa. Prentiss sẵn sàng chà đạp lên tất cả để thực hiện lí tưởng vô nhân đạo của mình. Lí tưởng ấy được truyền lại cho cả thế hệ của “Prentiss-con". Và thậm chí khiến những kẻ truyền giáo như Aaron cũng sẵn sàng dùng nắm đấm để phán quyết những người yếu thế.      Thế nhưng, giữa ngục tù đen tối ấy của hiện thực, vẫn thực sự có những ánh sáng le lói của niềm tin, của tình yêu thương. Đó là sự chở che, sự hi sinh vô bờ bến của hai người chú của Todd: Ben và Cillian. Là lá thư để lại của mẹ Todd. Là những ân cần của sự “im lặng” đồng hành cùng Todd... Có thể nói, đó chính là những "kim chỉ nam" giúp Todd luôn đi đúng hướng, là "cán cân đạo đức" giúp Todd luôn chiến thắng tư tưởng bạo tàn trong thế giới của mình. Và đó cũng chính là "kim chỉ nam" mà tác giả Patrick Ness muốn nhắc nhở và cảnh tỉnh người đọc, rằng không có sự khủng hoảng nào thực sự đáng sợ bằng sự khủng hoảng của lương tri. Chúng ta phải thực sự sống bằng niềm tin để vượt qua bất cứ nghịch cảnh nào.     Để đánh giá chung về cuốn sách này, mình nghĩ mình sẽ dùng từ “gọn gàng". Tất cả những phần trần thuật về bối cảnh rất ngắn gọn. Cốt truyện chuyển biến logic và rất hợp tâm lí nhân vật, không rơi vào kể lể. Những “phản ứng hoá học" trong tình cảm của các nhân vật cũng xây dựng vừa đủ để người đọc nhận ra những nét tình ý nhưng không đi quá sâu để tạo cảm giác sến súa, sa đà. Truyện có những plot-twist đủ để người đọc cảm thấy hiểu hơn về bối cảnh đã mở ra lúc đầu. Những lời giải đáp sẽ được trải dài từ từ ở những trang phía cuối truyện. Tuy nhiên, đây cũng không phải là cuốn sách có plot-twist đến độ bất ngờ và ám ảnh như nhiều cuốn sách khác. Thậm chí, nếu ai tinh ý, hoàn toàn có thể đoán ra khi truyện đi được nửa chặng đường. Có lẽ, vì đây cũng là cuốn sách đầu tiên trong bộ sách gồm ba tập nên những tình tiết vừa đủ ấy sẽ là tiền đề hợp lí để mở ra thế giới của hai tập sau này.     Điểm đáng khen cũng là điểm hạn chế lớn nhất của cuốn sách đến từ ngôi trần thuật. Truyện được tái hiện dưới ngôi kể “tôi" của Todd, thế nên những tình tiết, những chuyển biến của câu chuyện hiện lên đầy chân thật và cảm xúc. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều cuốn truyện khác, vì ngôi kể là “tôi" nên có nhiều tình tiết, câu chuyện sẽ diễn ra hơi thiếu khách quan. Đồng thời, người đọc sẽ khá khó để theo dõi diễn biến tâm lí của nhiều nhân vật khác, những người mà mình tin sẽ có khá nhiều đất diễn để khắc hoạ sâu hơn hình tượng của mình nếu được xây dựng rõ hơn như Viola, chú Ben, thị trấn trưởng Prentiss… Bên cạnh đó, sự cố chấp và cứng đầu của Todd trong một vài tình huống sẽ khiến người đọc có đôi lần hơi tức giận. Điều này đặc biệt được thể hiện trong một chi tiết mà mình tin khi đọc xong, thậm chí đến lúc gấp cuốn sách lại, bạn sẽ thấy nhức nhối và buồn lòng về Todd mãi.     Nhưng tựu chung lại, “Đừng Bao Giờ Buông Dao" là một cuốn sách rất đáng đọc để giải toả căng thẳng. Mình biết đến cuốn sách này vì rạp chiếu phim thời điểm đó ra mắt bộ phim chuyển thể từ cuốn sách mang tên “Hành Tinh Hỗn Loạn". Tình cờ, Nhã Nam cũng phát hành đồng thời cuốn sách nên mình đã ra mua ngay. Và chỉ mất đúng ba ngày để mình hoàn thành xong cuốn sách này. Được biết, Nhã Nam đã mua bản quyền hai phần tiếp theo của cuốn sách mang tên: “Câu Hỏi Được Trả Lời" và “Những Con Quỷ Người", sẽ ra mắt trong năm nay nên chúng mình sẽ không sợ mạch truyện bị ngắt quãng đâu.      Ngay bây giờ, chúng mình hãy ra ngay hiệu sách gần nhất, tìm mua “Đừng Bao Giờ Buông Dao" và sẵn sàng cùng chuyến hành trình với cậu bé Todd nhé. Đảm bảo sẽ không phí hoài thời gian của các bạn đâu. *** LỖ HỔNG TRONG TIẾNG ỒN ĐIỀU ĐẦU TIÊN BẠN NHẬN RA khi chó của bạn biết nói là chó không có gì nhiều để nói. Về bất cứ điều gì. “Mót ị, Todd.” “Im đi, Manchee.” “Ị. Ị, Todd.” “Tao bảo im đi mà.” Chúng tôi đang đi qua những cánh đồng hoang ở phía Đông Nam thị trấn, những cánh đồng dốc chạy xuôi xuống sông và về phía đầm lầy. Ben sai tôi đi hái cho chú vài quả táo ở đầm lầy và bắt tôi phải dẫn Manchee theo, dù tất cả đều biết tỏng Cillian chỉ mua con chó này để lấy lòng thị trưởng Prentiss, nên bỗng nhiên nó trở thành món quà sinh nhật của tôi năm ngoái, dù tôi chưa bao giờ nói mình muốn có một con chó, trong khi tôi có nói tôi muốn Cillian sửa xe đạp cho để tôi không phải cuốc bộ tới mọi chốn đổ nát của cái thị trấn ngu ngốc này, nhưng ồ, không, chúc mừng sinh nhật, Todd, đây là con chó vừa dứt sữa, Todd, và dù mày không muốn nó, dù mày không đòi nó, thì cũng cứ đoán xem ai sẽ cho nó ăn, dạy dỗ nó, tắm cho nó, đưa nó đi dạo, và nghe nó lải nhải khi giờ đây nó đã đủ lớn để liến thoắng không ngừng? Đoán xem ai? “Ị,” Manchee lặng lẽ sủa với chính mình. “Ị, ị, ị.” “Thì cứ ị đi và thôi lải nhải ngay cho tao nhờ.” Tôi ngắt một nhánh cỏ ven đường và quất Manchee. Tôi không đánh trúng nó, tôi không định đánh trúng nó, nhưng nó chỉ phá lên cười ăng ẳng và chạy tiếp trên con đường mòn. Tôi đi theo, quạt nhánh cỏ của mình lên đám cỏ hai bên đường, nheo mắt vì nắng, cố để đầu óc trống rỗng. Thú thực, chúng tôi không cần táo ở đầm lầy. Ben có thể mua táo ở cửa hàng của ông Phelps nếu chú ấy thực sự muốn ăn. Cũng thú thực: đến đầm lầy hái vài quả táo không phải là việc của một người đàn ông, vì đàn ông không được phép an nhàn đến vậy. Tôi sẽ chính thức trở thành đàn ông sau ba mươi ngày nữa. Tôi đã sống mười hai năm, mỗi năm mười ba tháng, và thêm mười hai tháng nữa, cộng lại thì vẫn còn một tháng mới đến ngày sinh nhật trọng đại. Kế hoạch đang được lên, công cuộc chuẩn bị đang được tiến hành, tôi đoán sẽ có một bữa tiệc, dù tôi bắt đầu thấy được vài hình ảnh kỳ quái về nó, vừa u ám vừa quá đỗi xán lạn, nhưng dẫu sao tôi cũng sẽ trở thành đàn ông, và đi hái táo ở đầm lầy không phải là việc của đàn ông, hay của một thằng sắp-trở-thành-đàn-ông. Nhưng Ben biết chú ấy có thể sai tôi đi, và rằng tôi sẽ đồng ý, vì đầm lầy là nơi duy nhất gần thị trấn Prentiss ta có thể tạm thoát khỏi tất cả những Tiếng Ồn mà con người xả ra, tất cả những xôn xao và ầm ĩ không bao giờ dứt, ngay cả khi họ ngủ, con người và những suy nghĩ họ thậm chí không biết mình đang nghĩ, dù ai cũng có thể nghe thấy chúng. Con người và Tiếng Ồn của họ. Tôi không biết họ làm thế nào để chịu đựng được nhau. Con người là những sinh vật Ồn Ào. “Sóc!” Manchee sủa rồi chạy bắn đi, nhảy khỏi đường mòn, dù tôi đã hét lên gọi nó lại, rồi đến lượt tôi phải chạy theo, băng qua cánh đồng (tôi nhìn quanh để đảm bảo không có ai ở gần) chết tiệt, vì Cillian sẽ nổi khùng nếu Manchee ngã xuống một lỗ rắn chết tiệt nào đó và dĩ nhiên đây sẽ là lỗi chết tiệt của tôi dù ngay từ đầu tôi đã không muốn có con chó chết tiệt này. “Manchee! Quay lại ngay!” “Sóc!” Tôi phải lội qua đám cỏ, những con sâu bám vào giày tôi. Một con bẹp gí khi tôi đá nó ra, để lại vệt màu xanh dọc đôi giày thể thao, mà theo kinh nghiệm của tôi thì sẽ không thể giặt sạch. “Manchee!” tôi điên tiết gầm lên. “Sóc! Sóc! Sóc!” Nó sủa quanh một gốc cây và con sóc nhảy lóc chóc trên thân cây, chế giễu Manchee. Đến đây, chó ngu, Tiếng Ồn của nó vang lên. Đến đây, đến đây, đến đây mà bắt Ngu Ngu Ngu. “Sóc kìa, Todd! Sóc!” Chết tiệt; động vật thật ngu ngốc. Tôi chộp lấy vòng đeo cổ và tét mạnh vào chân sau của Manchee. “Ối, Todd? Ối?” Tôi lại đánh nó. Rồi lại đánh nó. “Ối? Todd?” “Đi nào,” tôi nạt, Tiếng Ồn của tôi rền vang đến nỗi tôi chẳng thể luận ra được mình đang nghĩ gì, một việc khiến tôi sắp phải hối hận, bạn cứ chờ xem sẽ biết. Thằng nhóc ngu, thằng nhóc ngu, con sóc nghĩ về tôi. Đến đây mà bắt, thằng nhóc ngu. “Mày cũng biến mịa đi,” tôi trả đũa, chỉ có điều tôi không nói “mịa” mà nói thẳng cái chữ tục tĩu hơn nhiều kia ra. Đáng lẽ tôi nên nhìn quanh trước khi nói. Vì Aaron đây rồi, ngay tại đây, bất thình lình nhào ra khỏi bãi cỏ, nhào ra và tát vào mặt tôi, chiếc nhẫn lớn của anh ta làm rách môi tôi, rồi anh ta vung tay thêm phát nữa, tay nắm lại thành đấm, trúng gò má tôi, nhưng ít nhất cũng không trúng mũi vì tôi đang ngã xuống cỏ, cố tránh cú đấm của anh ta, và vì thế phải buông dây buộc cổ Manchee ra, nó lại chạy đi tìm con sóc, sủa ầm ĩ, đồ phản bội, tôi ngã bò lăn bò càng xuống cỏ, trét vệt sâu xanh lên khắp người. Và tôi nằm đó, trên mặt đất, thở hổn hển. Aaron đứng trước mặt tôi, từng mảnh rời rạc của Tiếng Ồn và những lời giảng đạo từ anh ta lao tới, Cẩn thận lời ăn tiếng nói đó, nhóc Todd và phải biết hy sinh và vị thánh tự chọn con đường của mình và Chúa nghe thấy đấy và hàng loạt những hình ảnh có trong Tiếng Ồn của tất cả mọi người, những điều quen thuộc và những ký ức thoáng qua của… Cái gì? Cái quỷ quái gì…? Nhưng những đoạn ồn ào hơn trong bài giảng đạo của Aaron đã lao tới và che cái quỷ đó lại, tôi ngẩng lên nhìn vào mắt anh ta, rồi đột nhiên tôi không còn muốn biết nữa. Tôi đã nếm thấy vị máu từ vết nứt trên môi do chiếc nhẫn của Aaron gây ra và tôi không còn muốn biết nữa. Anh ta không bao giờ đến đây, đàn ông không bao giờ đến đây, họ có lý do của họ, đàn ông có lý do của đàn ông, nên ở đây lúc nào cũng chỉ có tôi và con chó của mình, nhưng giờ anh ta lại ở đây và tôi không, không, không muốn biết lý do. Anh ta mỉm cười nhìn xuống tôi, nụ cười ẩn sau bộ râu quai nón, mỉm cười khi tôi vẫn nằm trên cỏ. Nắm đấm mỉm cười. “Nhóc Todd, lời ăn tiếng nói,” anh ta lên tiếng, “trói buộc chúng ta như những tù nhân bị trói bởi cùng một sợi xích. Cậu không học được gì từ nhà thờ sao?” Rồi anh ta thốt lên những lời thuyết giảng quen thuộc nhất của mình. “Một người sa ngã, tất cả cùng sa ngã.” Vâng, Aaron, tôi nghĩ. “Dùng mồm mà nói, Todd.” “Vâng, Aaron,” tôi đáp. “Và những lời chửi thề ấy? Đừng nghĩ ta không nghe thấy chúng. Tiếng Ồn tiết lộ con người cậu. Tiết lộ con người tất cả chúng ta.” Không phải tất cả, tôi nghĩ, nhưng đồng thời vẫn nói, “Xin lỗi, Aaron.” Anh ta cúi xuống tôi, môi kề sát mặt, và tôi có thể ngửi thấy hơi thở đang phả ra từ miệng anh ta, ngửi thấy sức nặng của nó, như những ngón tay đang chộp lấy tôi. “Chúa nghe thấy,” anh ta thì thầm. “Chúa nghe thấy đấy.” Aaron lại giơ một bàn tay lên và tôi co rúm người, anh ta cười rồi biến mất, quay về thị trấn, mang theo Tiếng Ồn của mình. Tôi run rẩy, vì cảm giác rần rật do bị đánh, vì tức giận và ngạc nhiên, quá tức giận, quá chán ghét thị trấn này và những người đàn ông ở đây đến nỗi mất một lúc tôi mới có thể đứng dậy đi tìm con Manchee. Mà anh ta đang làm cái mịa gì ở đây? tôi điên tiết nghĩ, vẫn bừng bừng giận dữ và thù hằn (và sợ, phải, sợ, im đi) đến nỗi không thèm nhìn quanh để xem Aaron có nghe thấy Tiếng Ồn của tôi hay không. Tôi không nhìn. Tôi không nhìn. Rồi tôi cũng nhìn và thấy con Manchee. “Aaron, Todd? Aaron?” “Đừng có nhắc đến cái tên đó nữa, Manchee.” “Chảy máu, Todd. Todd? Todd? Todd? Chảy máu?” “Biết rồi. Im mồm đi.” “Ngu,” nó nói, như thể từ ấy chẳng có ý nghĩa gì, đầu nó cũng rỗng tuếch như bầu trời. Tôi tét mông nó. “Cũng không được nhắc đến từ đó.” “Ối? Todd?” Chúng tôi tiếp tục đi, giữ khoảng cách với con sông bên trái. Sông chảy qua một loạt những khe sâu phía Đông thị trấn, bắt nguồn từ tít phía Bắc nông trại nhà chúng tôi, xuôi về bên hông thị trấn cho đến khi trải rộng ra thành một đầm cỏ rồi cuối cùng trở thành đầm lầy. Bạn phải giữ khoảng cách với con sông, đặc biệt là vùng đầm cỏ trước những rặng cây ở đầm lầy, vì đó là nơi cá sấu trú ngụ, chúng đủ lớn để xơi tái một thằng sắp-trở-thành- đàn-ông và con chó của nó. Những cái vảy trên lưng chúng trông như những cụm lau, và nếu đến quá gần thì, BÙM! - chúng sẽ vọt khỏi mặt nước, phóng thẳng vào bạn với những vuốt sắc nhăm nhe và cái mõm cắn đớp, và khi đó bạn sẽ chẳng có cơ hội sống sót nào đâu. Chúng tôi đi qua vùng đầm cỏ và tôi đón nhận sự yên tĩnh của đầm lầy khi nó hiện ra. Chẳng còn gì để xem ở đây nữa, bởi vậy đàn ông không đến đây. Còn cả cái mùi nữa, tôi không vờ như không ngửi thấy, nhưng mùi không quá tệ như người ta nói. Họ ngửi mùi ký ức, thực vậy, họ không ngửi cái mùi có thực ở đây lúc này, họ ngửi mùi quá khứ. Tất cả những thứ đã chết. Xú và người có quan niệm khác nhau về mai táng. Xú chỉ cần đầm lầy, chỉ việc ném Xú chết xuống nước, để xác chìm, chẳng sao cả vì Xú phù hợp với kiểu mai táng đầm lầy, chắc vậy. Ben kể tôi thế. Nước, bùn dơ và da của Xú Vật hợp nhau, không làm ô uế, chỉ khiến đầm lầy màu mỡ hơn, như con người về với đất. Mời các bạn đón đọc Đừng Bao Giờ Buông Dao của tác giả Patrick Ness & Trần Nguyên (dịch).
Trái Tim Đau Khổ
Thanh tra Archie Sheridan theo dõi Mỹ nhân đoạt mạng - Gretchen Lowell suốt bao năm. Nhưng rồi chính anh lại bị ả bắt cóc, tra tấn một cách tàn nhẫn và dai dẳng. Cho đến khi ả ra tự thú và ngồi tù thì Archie vẫn phải chịu sự tra tấn trong một “nhà tù” khác bởi anh nghiện thuốc giảm đau, luôn bị ám ảnh về Gretchen và không thể quay về cuộc sống trước đây.  Bỗng nhiên xuất hiện hàng loạt vụ án bắt cóc và giết hại bé gái vị thành niên. Thanh tra Archie buộc phải trở lại với công việc, và cùng với Susan Ward - một phóng viên trẻ vào cuộc điều tra... Một cuộc truy đuổi vô cùng gay cấn giữa Archie, Susan, kẻ bắt cóc và Gretchen.  Kẻ sát nhân thực sự là ai? Thanh tra Archie có thoát khỏi “nhà tù” mang tên “Gretchen Lowell” hay không? *** Archie không chắc đó là ả cho đến tận phút giây đó. Một cảm giác ấm áp âm ỉ luồn trong xương sống, tầm nhìn mờ đi, và rồi anh nhận ra Gretchen Lowell chính là kẻ sát nhân. Anh nhận ra mình bị tiêm thuốc mê, nhưng đã quá muộn. Anh dò dẫm lấy khẩu súng, nhưng cánh tay gần như tê dại khiến anh chỉ có thể nhấc nó một cách vụng về khỏi thắt lưng của mình và đưa nó ra như thể đó là một món quà dành cho ả. Ả cầm lấy nó và mỉm cười, hôn nhẹ lên trán anh. Rồi ả thò tay vào áo khoác của anh và lấy ra chiếc điện thoại di động, tắt nó, sau đó nhét vào túi của mình. Bây giờ anh gần như bị tê liệt, ngồi trên chiếc ghế da trong căn phòng của ả. Nhưng tâm trí anh phủ đầy những cảm thức rõ ràng. Ả quỳ xuống bên cạnh anh, cẩn thận như đến gần một đứa trẻ và đặt môi mình thật gần môi anh, giống như hai người đang hôn nhau. Nhịp tim dồn dập như dồn ứ lên cổ họng anh. Anh không thể nén chúng xuống được. Người ả tỏa ra mùi hương như hương hoa cà. “Đến lúc phải đi rồi, anh yêu”, ả thì thầm. Ả đứng dậy và anh thấy mình được nhấc lên từ phía sau, khuỷu tay ả tì dưới nách anh. Một người đàn ông trước mặt, mặt đỏ và to con, nắm lấy chân anh, rồi anh được đưa vào ga-ra và được đặt phía sau chiếc Voyager màu xanh lá - chiếc xe mà Archie và đội đặc nhiệm đã mất nhiều tháng trời để tìm kiếm, ả bò qua người anh để lên xe. Lúc đó, anh nhận ra có người khác trong xe, ả không phải là người đứng sau anh, nhưng anh không có thời gian để suy tính việc này vì ả đang trườn qua người anh, đầu gối ấn vào hai bên eo anh. Anh không thể di chuyển mắt nữa, vì vậy ả thuật lại mọi chuyện đang diễn ra cho anh nghe. “Em sẽ xắn ống tay áo bên phải của anh lên. Em cần chích một mũi.” Rồi ả cầm một ống kim tiêm giơ cho anh xem. Thao tác y khoa chuyên nghiệp, anh nghĩ. Mười tám phần trăm số kẻ sát nhân hàng loạt là y tá. Anh nhím chằm chằm lên nóc xe tải. Kim loại xám. Vẫn còn tỉnh, anh nghĩ. Nhớ mọi thứ, mọi chi tiết, điều đó sẽ rất quan trọng. Nếu như mình còn sống - anh nghĩ. “Em sẽ để anh nghỉ một lát.” Ả cười rồi cúi sát khuôn mặt mỏng nhưng xinh xắn cho anh nhìn rõ, những lọn tóc vàng xòa xuống má anh, dù anh không cảm nhận rõ lắm. “Chúng ta còn nhiều thời gian vui vẻ sau này.” Anh không thể đáp lại, thậm chí không thể chớp mắt. Hơi thở của anh đến cùng với những cơn đau dài và nhẹ. Anh không thể nhìn thấy ả chích mũi kim vào cánh tay mình, nhưng có cảm nhận được nó vì sau đó anh chỉ còn thấy bóng tối. Anh tỉnh dậy thấy mình ngồi trên ghế. Anh vẫn còn lảo đảo và phải mất một lúc mới nhận ra rằng người đàn ông mặt đỏ đang đứng trước mình. Trong khoảnh khắc đó, khoảnh khắc đầu tiên mà Archie nhận thức được, đầu anh như muốn nổ tung. Archie giật mình khi máu của người đàn ông đó bị thổi bay về phía anh, bắn tung tóe vào mặt và ngực anh, một thứ chất lỏng ấm. Anh cố nhúc nhích, nhưng tay và chân đã bị trói chặt vào một cái bàn. Anh cảm thấy có thứ gì đó nóng ấm chảy xuống mặt mình rồi rớt xuống sàn, anh giật mạnh các dây buộc cho đến khi thấy rõ da mình bị trầy ra, nhưng anh không thể nhúc nhích được chúng. Miệng anh bị nhồi kín và bị băng dính dán chặt, khiến nước bọt bị đẩy trở vào cổ họng, càng làm cho anh tắc miệng. Mắt anh bỏng rát. Rồi anh nhìn thấy ả, đứng ngay sau người đàn ông vừa ngã xuống, trên tay là khẩu súng mà ả vừa dùng để xử anh ta. “Ngay bây giờ em chỉ muốn anh biết rằng em quan tâm tới anh như thế nào”, ả thốt ra. “Rằng anh là người duy nhất.” Rồi ả quay người bước đi. Anh chỉ còn lại một mình, để suy nghĩ về những gì vừa xảy ra. Anh nuốt nước bọt một cách khó nhọc, cố trấn an bản thân phải giữ bình tĩnh, để nhìn xung quanh. Chỉ có mình anh và người đàn ông đã chết trên sàn nhà. Gretchen đã rời đi. Không thấy người lái xe. Tim Archie đập dữ dội đến nỗi chỉ có cảm giác duy nhất là sự dồn nén trong các huyết mạch. Thời gian trôi qua. Lúc đầu, anh nghĩ mình đang ở trong một phòng phẫu thuật. Đó là một căn phòng rộng, được ốp bằng những viên gạch gốm trắng giống nhà ga tàu điện ngầm và được đèn huỳnh quang chiếu sáng. Anh quay đầu nhìn bên này, bên kia và thấy một số khay dụng cụ, trông giống như dụng cụ y tế, có một ống thoát nước trên sàn xi măng. Anh cố rướn người một lần nữa tới chỗ các nút buộc và nhận ra mình đang bị trói vào một cái cáng. Có mấy thứ dạng ống thò thụt trên cơ thể anh: một ống thông, một ống kim tiêm tĩnh mạch. Trong phòng không có cửa sổ, chỉ thấy thứ mùi đất phảng phất trong ý niệm của anh. Nấm mốc. Một tầng hầm. Giờ thì anh bắt đầu tư duy bằng giác quan của một cảnh sát. Những người khác đã bị tra tấn vài ngày trước khi bị ả vứt xác. Điều đó có nghĩa là anh sẽ có thời gian. Hai ngày. Có lẽ là ba ngày. Họ có thể tìm thấy anh trong khoảng thời gian đó. Anh đã nói với Henry rằng mình đi đâu, rằng anh có một buổi trao đổi với bác sĩ tâm lý về thi thể mới nhất. Anh đã muốn gặp cô bác sĩ này trước đó, để cô ta cho lời khuyên. Anh đã không chuẩn bị cho việc này. Nhưng họ sẽ kết nối những điều đó với nhau. Henry sẽ kết nối nó. Đó sẽ là nơi cuối cùng có thể lần ra dấu vết của anh. Anh đã gọi điện cho vợ mình trên đường đi. Đó sẽ là điểm liên lạc cuối cùng. Đã bao lâu kể từ khi anh bị bắt? Ả lại xuất hiện. Ở phía bên kia bàn, cái xác vẫn nằm đó, máu lênh láng, sẫm màu, thấm trên sàn nhà màu xám. Anh nhớ lại lần đầu tiên khi ả tự giới thiệu mình là bác sĩ tâm thần - một người đã từ bỏ công việc chuyên môn để viết sách. Ả đọc được các thông tin về đội đặc nhiệm và đã gọi cho anh để xem ả có thể giúp gì không. Đó là địa ngục đối với tất cả thành viên trong đội. Ả đề nghị được tham gia nhiệm vụ. Không phải tư vấn, ả nói. Chỉ là nói chuyện trao đổi. Đội đặc nhiệm đã điều tra vụ án này gần mười năm. Hai mươi ba thi thể ở ba tiểu bang. Đây là một vụ án rất lớn. Ả mời những người quan tâm đến tham dự một buổi thảo luận nhóm. Chỉ nói chuyện. Anh đã rất ngạc nhiên khi thấy nhiều thám tử xuất hiện. Có thể một phần lý do xuất phát từ thực tế là ả rất xinh đẹp. Điều đáng buồn cười là thực tế đó đã phát huy tác dụng. Ả khá tốt và có ích. Ả kéo tấm vải trắng che người anh xuống, để ngực anh lộ ra và anh nhận ra rằng mình đang trần truồng. Chẳng có sự tự ái nào gắn với việc đó cả. Nó chỉ đơn thuần là sự thật. Ả đặt một bàn tay lên xương ức của anh. Anh biết điều này có nghĩa là gì. Anh nhớ những bức ảnh của các vụ án trước, những vết trầy xước và vết bỏng trên người các nạn nhân. Đó là một phần hồ sơ, một trong những ký hiệu của ả. “Anh biết chuyện gì sẽ diễn ra tiếp chứ?” Ả hỏi và biết thừa rằng anh ý thức được điều đó. Anh cần nói chuyện với ả. Để hoãn binh. Anh cố tạo ra những tiếng ồn nhưng chúng bị ngắt quãng qua băng keo; và anh cử động đầu ra hiệu để ả tháo nó ra. Ả chạm ngón tay lên môi anh, lắc đầu. “Chưa đến lúc”, ả thì thầm. Ả hỏi lại lần nữa, giọng gắt hơn một chút. “Anh biết chuyện gì xảy ra tiếp theo chứ?” Anh gật đầu. Ả cười thỏa mãn. “Đó là lý do em chuẩn bị một thứ đặc biệt cho anh, cưng ạ.” Ả đặt khay dụng cụ bên cạnh mình, rồi ả quay sang rút ra thứ gì đó. Một cái đinh. Thú vị đây! Anh nghĩ, cảm thấy ngạc nhiên với khả năng thoát ly cảm xúc của chính mình, để giữ được tỉnh táo. Cho tới nay, những nạn nhân bị ả sát hại đều rất ngẫu nhiên, đàn ông, phụ nữ, già, trẻ nhưng tất cả đều có những tổn thương trên thân thể, mặc dù những tổn thương đó ngày càng ghê gớm hơn và giống nhau một cách đáng kể. Trước đây, ả chưa từng sử dụng đinh. Ả có vẻ hài lòng. “Em luôn nghĩ anh sẽ thích sự đa dạng.” Ả để đầu ngón tay nhảy nhót trên lồng ngực của anh cho đến khi tìm thấy cái xương sườn mà ả muốn. Ả đặt đầu đinh vào lớp da. Anh cảm thấy như xương sườn vỡ vụn và tắc thở một lần nữa. Ngực anh đau nhói. Anh vật vã và cố gắng thở. Mắt anh chảy nước. Ả lau nước mắt trên gò má đỏ ửng và vuốt tóc anh, sau đó tìm một chiếc xương sườn khác và lặp lại hành động. Khi ả ngừng tay, sáu xương sườn của anh như đã vỡ vụn. Chiếc đinh đẫm máu. Ả thả nó xuống khay dụng cụ với một cái nháy mắt vô cảm. Anh không thể cử động được cơ thể dù chỉ một mi-li-mét mà không bị đau buốt, giống như chưa ai từng phải trải qua. Lỗ mũi bị tắc đầy chất nhầy, anh không thể thở bằng miệng, anh phải chịu đựng đau đớn với mỗi nhịp thở, nhưng anh cũng không thể nén cho mình thở nhẹ được, không thể kìm hãm được những lá phổi hoảng loạn đang phát ra âm thanh nghe như tiếng nức nở. Hai ngày có lẽ là quá lạc quan - anh nghĩ. Có thể anh sẽ chết ngay bây giờ. Mời các bạn đón đọc Trái Tim Đau Khổ của tác giả Chelsea Cain & Xuân Nguyên (dịch).