Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đoạn Đầu Đài - Tchinguiz Aitmatov

Tiểu thuyết gia Kyrgyz - người khiến cả thế giới biết đến đất nước Trung Á nhỏ bé, lắm núi nhiều đồi của mình qua những tác phẩm về cuộc sống thường nhật dưới thời Xô viết. Aitmatov bắt đầu nổi tiếng từ năm 1958 với cuốn tiểu thuyết Jamilya. Lấy bối cảnh Thế chiến II, tác phẩm là câu chuyện về một phụ nữ trẻ người Kyrgyz dám bỏ chồng để chạy theo một cựu quân nhân. Jamilya từng làm dấy lên những cuộc tranh luận tại cộng đồng Hồi giáo cũng như ở các nước tồn tại nam quyền về việc liệu một phụ nữ có nên bỏ chồng vì một người đàn ông khác. Tuy nhiên, nhà thơ Pháp nổi tiếng Louis Aragon ca ngợi, Jamilya là “thiên tình sử hay nhất mọi thời đại”. Trong những sáng tác khác, Aitmatov miêu tả cuộc sống con người dưới thời Xô viết. Ông đặc biệt chú trọng đến những thân phận từng bước bị biến thành nô lệ, bị nô dịch hóa. Aitmatov là nhà văn quyết liệt bảo vệ sự tồn tại và phát triển độc lập của nền văn hóa và ngôn ngữ ở những quốc gia không nói tiếng Nga trong khối Xô viết. Trong cuốn Một ngày dài hơn thế kỷ, nhà văn xây dựng một nhân vật giết chết mẹ mình vì không còn nhớ ra bà. Nhiều sáng tác của Aitmatov đã được dựng thành phim. Trong đó Người thầy đầu tiên - bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của ông, dưới bàn tay của đạo diễn Nga nổi tiếng Andrei Konchalovski - đã trở thành một tác phẩm điện ảnh lay động lòng người tại nhiều quốc gia trên thế giới. Sau năm 1991, tiểu thuyết của Aitmatov được dịch và phổ biến rộng rãi tại phương Tây. Nhà văn có thêm hàng triệu độc giả, đặc biệt là tại Đức. Là một trong số hiếm hoi những người Kyrgyz có danh tiếng vượt ra khỏi biên giới quốc gia 5 triệu dân của mình, Aitmatov là nhân vật có ảnh hưởng đặc biệt trong đời sống chính trị Kyrgyzstan. Sự ủng hộ của nhà văn dành cho Askar Akayev đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Akayev trở thành Tổng thống Kyrgyzstan nhiệm kỳ 1990-2005. Chingiz Torekulovich Aitmatov sinh ngày 12/12/1928 tại làng Sheker, vùng tây bắc Kyrgyzstan. Năm 1935, gia đình ông chuyển đến Matxcơva, Nga. 3 năm sau, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Trong văn nghiệp của mình, Aitmatov từng đoạt giải thưởng Lênin (1963) và 3 giải thưởng Nhà nước (1968, 1977, 1983). Tuy đoạt rất nhiều giải thưởng và những vinh quang văn học nhưng trước sau, Aitmatov, theo đánh giá của nhà văn Nga Viktor Yerofeyev, vẫn là một con người “trung thực, khiêm nhường và liêm khiết”. *** Khi Chinghiz 10 tuổi, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Tiểu thuyết Đoạn đầu đài là tác phẩm lớn cuối cùng, cũng là tác phẩm tổng kết kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật của Aitmatov. Đoạn đầu đài chứa đựng những nét đặc biệt trong tư duy sáng tạo của nhà văn. Nổi bật lên trong tác phẩm là kiểu tư duy huyền thoại, kiểu cốt truyện huyền thoại tạo nên tính chất đa nghĩa, mơ hồ cho tác phẩm. Thực ra, cốt truyện huyền thoại, kiểu tư duy huyền thoại, sự đậm đặc yếu tố huyền thoại đã thể hiện ngay trong những tìm tòi, sáng tạo không ngừng nghỉ của ông trước đó như ở Cánh đồng mẹ, Con chó khoang chạy ven bờ biển, Vĩnh biệt Gunxarư, Và một ngày dài hơn thế kỉ. Tuy nhiên, ở Đoạn đầu đài, có sự hội tụ, tập trung cao không chỉ của tài năng và kinh nghiệm sáng tạo, mà còn của tư tưởng, trí tuệ của nhà văn. Vấn đề huyền thoại, do đó, cũng được kết tinh lại trong cuốn tiểu thuyết này. *** Sau một ngày ấm áp ngắn ngủi, nhẹ nhàng như hơi thở trẻ em, thời tiết trên những sườn núi quay về phía mặt trời chẳng mấy chốc đã thay đổi lúc nào không biết. Gió bắt đầu nổi lên từ các tảng băng trôi và bóng tối sớm sủa, dày đặc, thấm sâu vào khắp nơi, đã bắt đầu len lỏi vào các khe hẻm, đem theo màu xám lạnh lẽo của đêm tuyết sắp đến. Tuyết thật nhiều khắp xung quanh, trên suốt dãy núi vùng ven hồ Ixức-Cun, ngọn núi nào cũng phủ đầy những tuyết. Mới hai ngày trước đây, một trận bão tuyết đã tràn qua những nơi này chẳng khác gì một đám cháy bỗng bùng lên dữ dội do sự đỏng đảnh của những lực lượng thiên nhiên muốn gì làm nấy. Quang cảnh diễn ra thật khủng khiếp. Núi non biến mất, bầu trời biến mất, toàn bộ thế giới nhìn thấy được trước đây cũng biến mất trong cảnh bão tuyết mù mịt. Sau đó mọi vật lặng đi và trời trở nên quang đãng. Từ khi ấy, cùng với trận bão tuyết đã dịu đi, những ngọn núi bị các khối tuyết khổng lồ làm tê liệt, đứng sừng sững trong không khí tĩnh mịch lạnh cóng, tê buốt và tách khỏi mọi vật trên đời. Chỉ có tiếng ầm ầm của chiếc máy bay lên thẳng cỡ lớn là vang lên diết dóng mỗi lúc một to, mỗi lúc một mạnh. Vào giờ phút hoàng hôn ấy, chiếc máy bay lên thẳng này bay lần theo lũng sâu Udun-Sát về phía đèo Ala-Mônguy phủ kín băng, bị những đám mây xoắn ốc che mờ mờ như khói tỏa trên chốn trời cao lộng gió. Tiếng ầm ầm mỗi phút một vang to hơn cứ lớn lên, cứ tiến lại gần, và cuối cùng thì vang lên đầy đắc thắng. Nó đã hoàn toàn chế ngự được khoảng không và vang động mãnh liệt, đầy uy lực, bên trên những dãy núi, những đỉnh cao, những khối băng cao tít mà không một thứ gì với tới nổi, ngoài âm thanh và ánh sáng. Được tăng cường thêm bởi vô số tiếng vọng nối tiếp nhau giữa các núi đó và các khe hẻm, tiếng ầm ầm trên đầu ấy cứ tràn đến mãi với một sức mạnh ghê gớm, dữ dội, hình như chỉ một chút nữa thôi là sẽ xảy ra một cái gì đó khủng khiếp như lúc động đất. Vào một thời điểm kịch liệt nào đó quả có xảy ra như vậy thật. Tại một sườn dốc đá dựng đứng phơi mình ra trước gió và nằm trên hướng bay của chiếc máy bay lên thẳng kia, một khối đá không lớn lắm bị sóng âm thanh mãnh liệt làm lung lay, trượt đi và bỗng dừng sững lại như dòng máu đang chảy chợt đông lại bởi những câu phù chú. Nhưng nền đất không chắc chắn chỉ cần cái hích đó thôi là đủ. Một vài tảng đá nặng trịch rời khỏi triền dốc, lăn xuống dưới, mỗi lúc một chạy tứ tung, cuốn theo sỏi đá, làm bụi bay mù lên, và khi đến chân dốc thì băng như đạn pháo qua những bụi craxnôtan và hoàng liên gai, đã xuyên thẳng các đống tuyết, lan đến tận hang sói của một gia đình sói xám nằm ở đây, dưới chân núi đá, trong khe hẻm ẩn sau các bụi cây rậm rạp, cạnh một con suối nhỏ ấm áp nay đã đóng băng tới một nửa. Con sói cái Acbara nhảy phắt sang bên để tránh sỏi đá lăn từ trên xuống và tuyết rơi lả tả, rồi lùi vào bóng tối của khe, co mình lại như lò xo, dựng bờm lên và nhìn phía trước bằng cặp mắt sáng quắc, đỏ rực một cách man rợ trong bóng tối mờ mờ, sẵn sàng giao chiến vào bất kì lúc nào. Nhưng nỗi lo sợ của nó là thừa. Ngoài kia, ngoài thảo nguyên lồ lộ thì đáng sợ thật, khi chẳng biết trốn đâu cho thoát chiếc máy bay lên thẳng cứ bám riết lấy mà săn đuổi, mà theo sát gót, với tiếng cánh quạt rú rít làm inh tai nhức óc, với những loạt đạt tiểu liên làm kinh hoàng; khi trên khắp thế giới không có một cách gì tránh nổi chiếc máy bay lên thẳng; khi không có một khe hẻm nào có thể giấu đi chiếc đầu sói hoảng loạn – mặt đất đâu có chịu nứt ra để tạo nơi trú ẩn cho những kẻ bị săn đuổi. Còn trong núi thì khác. Ở đây bao giờ cũng có thể chạy trốn, bao giờ cũng tìm được chỗ ẩn náu để chờ cho mối đe dọa qua đi. Ở đây, chiếc máy bay lên thẳng không đáng sợ, núi non mới đáng sợ cho máy bay lên thẳng. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi là phi lý, nhất là nỗi sợ hãi đã quen thuộc, đã nếm trải. Khi chiếc máy bay lên thẳng lại gần, con sói kêu lên ăng ẳng, thu tròn lại, rụt đầu vào, vậy mà thần kinh của nó vẫn không chịu nổi, vẫn như bị đứt phựt. Nó rú lên dữ dội, bị nỗi sợ hãi bất lực, mù quáng xâm chiếm lấy, nó quằn quại bò sát bụng ra cửa hang, răng lập cập va vào nhau đầy giận dữ và tuyệt vọng, sẵn sàng giao chiến ngay tại đây, dường như hy vọng là sẽ tống cổ được con quái vật bằng sắt đang bay ầm ầm bên trên khe hẻm, con quái vật mà khi xuất hiện đã làm sỏi đá cũng phải lăn rào rào từ trên xuống như khi động đất.. Nghe thấy tiếng gào rú kinh hoàng của Acbara, con sói đực là Tastrainar thò đầu vào hang. Tastrainar nghĩa là ‘máy nghiền đá’, biệt danh đó là do những người chăn cừu địa phương đặt cho nó vì nó có đôi hàm cực khỏe. Từ khi vợ nó trở nên nặng nề, nó phần lớn không ở trong hang mà ở một nơi hẻo lánh giữa các bụi cây. Nhưng nay nó bò vào chỗ sói vợ nằm và gừ gừ dịu dàng như muốn lấy thân mình che chở cho vợ khỏi cơn nguy hiểm. Nép vào sói chồng mỗi lúc một sát hơn, con sói cái vẫn tiếp tục kêu ăng ẳng, ai oán kêu gọi hoặc là ông Trời bất công, hoặc là một kẻ nào đó không biết là ai, hoặc là số phận bất hạnh của mình. Toàn thân nó còn run rẩy một hồi lâu nữa. Nó không thể tự chủ lại được ngay cả khi chiếc máy bay lên thẳng đã biến mất sau băng hà Ala-Mônguy đồ sộ và tiếng ầm ầm đã tắt hẳn sau các đám mây dày. Và trong không khí lặng lẽ đột nhiên tràn ngập vùng núi non này, một không khí vắng lặng tựa như sụp đổ của cảnh tịch mịch trong vũ trụ, con sói cái bỗng cảm thấy rõ hơn trong bụng nó. Hiện tượng tương tự cũng đã xả ra trong thời kì đầu cuộc đời săn bắt của Acbara, khi nó nhảy xổ ra giết chết một con thỏ cái lớn. Trong bụng con thỏ cái này, nó cũng cảm thấy những cựa quậy như vậy của những sinh vật vô hình nào đó mà mắt không thấy được. Điều lạ lùng ấy khiến con sói cái non trẻ và hiếu kỳ vừa ngạc nhiên lại vừa tò mò. Nó kinh ngạc dỏng tai lên, ngờ vực nhìn con mồi đã chết. Và nó thấy kỳ lạ và khó hiểu đến nỗi thậm chí, nó định đùa nghịch với những sinh vật vô hình kia, hệt như mèo chơi trò vờn nghịch với con chuột đã dở sống dở chết. Giờ đây, chính nó cũng cảm thấy trong bụng mình một thứ gì đó nằng nặng và sống động hệt như thế. Đó là dấu hiệu của những sinh vật sẽ chào đời khoảng gần hai tuần nữa, nếu các hoàn cảnh trùng hợp một cách thuận lợi. Nhưng hiện nay thì những con vật non nớt chưa ra đời ấy vẫn gắn bó khăng khít với lòng mẹ, vẫn là một phần của cơ thể sói mẹ, và bởi vậy, trong tiềm thức mơ hồ đang hình thành của chúng, chúng cũng trải qua cơn kinh hoàng và tuyệt vọng như chính sói mẹ. Đó là sự tiếp xúc gián tiếp đầu tiên của chúng với thế giới bên ngoài, với hiện thực thù nghịch đang chờ đợi chúng. Do đó, chúng bắt đầu cựa quậy trong bụng mẹ để đáp lại những nỗi đau khổ của mẹ chúng. Chúng cũng cảm thấy khiếp sợ và sự khiếp sợ này là do máu mẹ truyền sang chúng. Trong cặp sói này thì Acbara quyết định mọi việc. Nó có quyền đề xướng các cuộc săn bắt, còn Tastrainar là kẻ thừa hành trung thành, tin cậy, thực thi không mệt mỏi và không điều kiện mọi ý muốn của sói vợ. Mối quan hệ đó không bao giờ bị vi phạm. Chỉ có một lần đã xảy ra một trường hợp bất ngờ, lạ lùng, khi sói đực biến mất tới tận rạng sáng và trở về với mùi lạ của một con sói cái khác, thứ mùi ghê tởm của thời kỳ động đực trơ trẽn luôn khêu gợi và vẫy gọi con đực từ một nơi cách xa hàng chục dặm. Thứ mùi đó khiến Acbara giận điên lên. Nó lập tức xua đuổi sói chồng đi và bất ngờ cắm phập răng nanh sâu vào vai sói chồng, buộc sói chồng phải đi khập khiễng mấy ngày liền để trừng phạt. Nó không cho sói chồng lại gần và dù con sói đực ngốc nghếch kia có tru lên thế nào chăng nữa cũng không một lần đáp lại, không một lần chịu dung hòa, dường như Tastrainar không còn là chồng nó nữa, không còn tồn tại đối với nó nữa. Nếu như Tastrainar lại dám mon men đến gần để mua chuộc và lấy lòng nó thì chắc hẳn nó sẽ đọ sức thật sự. Không phải ngẫu nhiên mà nó là cái đầu, còn Tastrainar chỉ là tay chân trong cặp sói xám từ nơi khác đến này. Cái ngày xáo động khủng khiếp với con sói cái Acbara đang tàn dần như vậy. Do bản năng không thể tiêu diệt nổi của tình mẹ, nó không lo lắng cho bản thân nó bao nhiêu mà chủ yếu là lo lắng cho đàn con sắp sửa ra đời tại hang này. Cũng chính vì đàn con tương lai ấy, hai vợ chồng nó đã mất công tìm kiếm và xây dựng ở đây, trong khe sâu dưới vòm ngọn núi đá um tùm cây cối và phủ đầy những cây đổ cùng sỏi đá tràn xuống, một tổ ấm của gia đình sói để có chỗ sinh nở và trú ẩn. Mới một năm trước đây, vùng này không hề hay biết gì về loại sói bờm xám. Một lần chúng có xuất hiện, nhưng chúng vẫn tiếp tục sống biệt lập. Lúc đầu, giống sói đến từ nơi khác đến này tránh va chạm với giống sói địa phương, chúng lang thang phần lớn là tại các khu vực trung lập của các lãnh địa do giống sói địa phương cai quản. Chúng sống vất vưởng, kiếm gì ăn nấy, và trong khi tìm mồi, chúng thậm chí lấn ra các cánh đồng, tới những vùng đất thấp có người ở, nhưng vẫn không chịu quan hệ với các bầy sói trong vùng. Tính cách quá độc lập của con sói cái mắt xanh Acbara không cho phép nó gia nhập các bầy khác để rơi vào tình trạng phụ thuộc. Hơn nữa, Acbara và Tastrainar lại từ những nơi khác đến đây. Đối với con mắt giàu kinh nghiệm thì ngay cả về vẻ ngoài chúng cũng khác với giống sói địa phương. Trước hết là lớp lông cổ rậm rạp khuôn chặt lấy hai vai tựa như chiếc áo choàng lộng lẫy màu xám bạc, chạy suốt từ dưới ngực cho đến u vai. Lớp lông này của chúng thì sáng màu, đặc trưng cho lũ sói vùng thảo nguyên. Cả về tầm vóc cũng vậy, giống sói Ăcgiala, tức là giống sói bờm xám, bao giờ cũng to lớn hơn giống sói bình thường ở cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun. Còn nếu như một người nào đó trông thấy con sói Acbara ở gần thì nhất định phải sửng sốt trước đôi mắt xanh trong veo của nó – một trường hợp hiếm hoi và có thể độc đáo duy nhất. Nó được những người chăn cừu địa phương đặt cho biệt danh là Acđalư, có nghĩa là ‘u vai trắng’, nhưng chẳng bao lâu sau, do những qui luật biến đổi của ngôn ngữ, nó biến thành Abarư rồi Acbara, có nghĩa là ‘vĩ đại’, tuy nhiên không một ai biết rằng trong việc đó có dấu hiệu của thiên mệnh. Giờ đây, sau khi Acbara đã yên tâm ít nhiều và sưởi ấm bên thân hình to lớn của Tastrainar, nó cảm thấy biết ơn sói chồng vì đã chia sẻ nỗi sợ hãi của nó và do đó đã khiến nó thấy tự tin trở lại, vì vậy nó không cưỡng lại những cử chỉ vuốt ve kiên nhẫn của sói chồng. Hơn nữa, để đáp lại những cử chỉ ấy, nó hai lần liếm vào môi sói chồng và trong khi cố chế ngự nỗi kinh hoàng vẫn còn thỉnh thoảng vẫn làm nó run bần bật, nó hướng mọi ý nghĩ vào bản thân. Nó lắng nghe lũ sói nhỏ trong thai động đậy một cách khó hiểu và lo ngại. Nó bằng lòng với những gì hiện có. Nó bằng lòng với cả hang sói, cả với mùa đông giá lạnh trong núi, cả với ban đêm rét cóng đang từ từ đến gần. Khi lắng nghe những biến chuyển xảy ra ngoai ý muốn trong phần bụng đã sống động của nó, con sói cái Acbara cảm thấy xúc động. Tim nó đập nhanh hơn và tràn dâng lên lòng dũng cảm, tràn dâng mối quyết tâm nhất định sẽ bảo vệ, sẽ che chở những sinh vật nhỏ nhoi mà nó đang ấp ủ trong bụng. Giờ đây, nó sẽ không do dự giao chiến với bất kỳ kẻ nào. Trong người nó, bản năng duy trì nòi giống – một bản năng vĩ đại của tự nhiên – bắt đầu lên tiếng. Và ngay lúc đó, một cảm giác thương mến trào lên trong lòng nó như một làn sóng ấm nóng, nó cảm thấy nhu cầu được vuốt ve, được sưởi ấm những đứa con tương lai, truyền cho chúng dòng sữa của mình y hệt như chúng đã nằm bên cạnh. Đó chính là mối tiên cảm hạnh phúc. Nó lim dim mắt, rên rỉ vì sung sướng, vì chờ đợi sữa dồn lên hai hàng vú phồng căng đến mức đỏ lên. Nó mệt mỏi và chậm rãi duỗi thẳng người ra trong chừng mực khuôn khổ hang cho phép. Cảm thấy đã yên tâm hẳn, nó lại định đến cạnh con sói chồng Tastrainar bờm xám của nó. Tastrainar lực lưỡng, bộ lông ấm áp, đàn hồi và rộng. Tuy luôn luôn cau có, Tastrainar cũng thấy được những gì mà con sói cái sắp làm mẹ này đang cảm thấy. Trực giác giúp nó hiểu được những gì đang diễn ra trong bụng sói vợ, và có lẽ nó cũng xúc động. Vểnh một bên tai, Tastrainar hơi ngửng cái đầu nặng nề và kềnh càng lên. Trong ánh mờ tối của đôi đồng tử lạnh lẽo giữa cặp mắt đen thẫm trũng sâu vào trong, có thoáng lướt qua một vết đen nào đó, một linh cảm dễ chịu mơ hồ nào đó. Nó dè dặt kêu gừ gừ, khịt khịt mũi và rên ư ử, biểu lộ tâm trạng hồ hởi của mình, tỏ ý sẵn sàng phục tùng không điều kiện con sói vợ mắt xanh và che chở cho vợ. Rồi nó bắt đầu ân cần và âu yếm đưa cái lưỡi to ẩm ướt và ấm áp liếm đầu sói vợ. Acbara yêu thích lưỡi sói chồng vào những lúc sói chồng vuốt ve âu yếm nó, người run lên vì nôn nóng, lưỡi nóng bừng vì máu hừng hực dồn lên, trở nên chắc nịch, lanh lẹn và mạnh mẽ như rắn. Vào những lúc ấy, nó hết sức thích thú tuy lúc đầu cố làm ra vẻ bình thản, thờ ơ. Nó cũng thích thú như vậy cả vào những giờ phút êm đềm hạnh phúc sau khi ăn uống no nê, khi lưỡi sói chồng vừa mềm mại vừa ẩm ướt vuốt ve nó. Người phán xét cao nhất là thời gian. Dần dần, hai con sói bờm xám từ nơi khác đến đã có thể tự bảo vệ mình. Trong vô số những cuộc giao chiến dữ dội, chúng đã giành được phần đất trên cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun và giờ đây chúng đã trở thành chủ nhân. Lũ sói địa phương không còn dám xâm phạm vào lãnh địa của chúng nữa. Có thể nói rằng, vậy là cuộc sống của những con sói bờm xám mới xuất hiện đã ổn định thành công trên đất Ixức-Cun. Nhưng trước đó là cả một giai đoạn lịch sử. Nếu như thú vật có thể nhớ lại quá khứ thì Acbara – một con sói rất sáng ý và cảm nhận tinh tế – sẽ lại nếm trải tất cả những gì mà đôi khi nó chợt nhớ lại, chua xót đến mức chảy nước mắt và rền rĩ vì đau đớn. Trong thế giới đã mất ấy, trong đồng cỏ Môiuncumư mênh mông xa xôi ấy, đã từng diễn ra một cuộc sống đầy những chuyến săn mồi rộng lớn với việc đuổi bắt liên miên những bầy sơn dương Môiuncumư bao la. Từ thời cổ đại, giống sơn dương Xaigắc đã sinh sống trên những vùng thảo nguyên lúc nào cũng rậm rạp loại cây muối đen chịu được tiết trời khô khốc ấy, và trong số những loài móng kép thì chúng thuộc loài lâu đời nhất, lâu đời như chính thời gian vậy. Những bầy súc vật mũi khoằm này chạy không biết mệt,. Lỗ mũi to tướng của chúng dồn không khí qua phổi với một mức độ mãnh liệt hệt như cá voi dồn những dòng nước đại dương qua bộ lược răng, và do đó chúng được trời phú cho khả năng chạy liên tục suốt từ sáng đến tối. Khi chúng bắt đầu chạy vì bị kẻ thù vĩnh viễn và lúc nào cũng bám riết lấy chúng là chó sói săn đuổi; khi một bầy này kinh hoàng khiến bầy bên cạnh, đôi khi cả bầy thứ ba thứ tư nữa, cũng kinh hoàng theo; khi cuộc chạy trốn đồng loạt này lôi cuốn cả những bầy lớn nhỏ khác gặp trên đường chạy; khi chúng lướt vun vút trên thảo nguyên Môiuncumư, qua các gò đồi, các bình nguyên và các bãi cát, chẳng khác gì cơn đại hồng thủy đổ sụp xuống trái đất… thì mặt đất tựa như chạy ngược về phía sau và kêu rào rào như khi mưa đá vào lúc mùa hè. Không khí lúc đó tràn ngập hơi thở quay cuồng của chuyển động, tràn ngập bụi đá và những tia lửa bắn tóe ra từ dưới móng, tràn ngập mùi mồ hôi của bầy súc vật – mùi đua tranh điên cuồng không phải giành lấy cái sống mà là giành lấy cái chết. Và lũ sói chạy tản ra, bám sát gót, cố xua bầy xaigắc vào những ổ mai phục, nơi nằm chờ chúng giữa những bụi cây muối đen là những con sói lão luyện, ranh năng nhọn hoắt, sẵn sàng từ chỗ mai phục nhảy phắt lên gáy con mồi đang lao vùn vụt, ngã lộn nhào cùng với nó, cắn đứt cổ làm máu phụt ra lênh láng rồi lại lao vào cuộc săn đuổi. Nhưng lũ Xaigắc không hiểu sao thường nhận ra những nơi sói mai phục và kịp né tránh những nơi ấy. Và cuộc săn đuối lại bắt đầu một vòng mới với tốc độ và mức dữ dội còn lớn hơn nữa. Tất cả những con thú ấy, cả những con bị săn đuổi và những con săn đuổi – một mắt xích của quá trình tồn tại nghiệt ngã – đều dốc hết sức vào cuộc chạy thi, khiến máu dường như sôi lên chẳng khác gì trong cơn hấp hối, để sống và để sống sót. Và có lẽ chỉ Chúa Trời mới có thể dừng cả hai bầy thú lại, bởi vì đây là chuyện sống chết của những con vật khao khát sống khỏe mạnh. Những con sói nào không chịu đựng nổi tốc độ điên cuồng như vậy và những con sói nào không phải sinh ra để ganh đua trong cuộc đấu tranh sinh tồn – trong cuộc chạy đua sinh tồn – đều ngã lăn ra và trút hơi thở cuối cùng trong lớp bụi bốc lên của cuộc săn đuổi đang cuốn xa dần như cơn bão. Nếu chúng còn sống chăng nữa thì chúng cũng phải bỏ đến những miền khác, nơi chúng tha hồ hoành hành giữa những bầy cừu hiền lành, hiền lành đến mức thậm chí không tìm cách chạy trốn nữa. Nhưng quả thật, những nơi ấy có mối nguy hiểm riêng. Mối nguy hiểm đáng sợ nhất trong số tất cả những mối nguy hiểm có thể xảy ra ở đấy: bên cạnh đàn cừu là những con người, những kẻ vừa là Chúa Trời vừa là nô lệ của bầy cừu, những kẻ muốn sống nhưng lại không cho loài khác sống, đặc biệt là những ai không phụ thuộc vào họ và thích được tự do. Con người! Con người! Họ thật ghê gớm như Chúa Trời vậy! Họ cũng săn bắt lũ xaigắc của đồng cỏ Môiuncumư mênh mông. Trước kia, họ xuất hiện trên mình ngựa, mặc quần áo da thú, trang bị bằng cung tên. Sau này họ xuất hiện với những khẩu súng nổ vang, vừa hò hét vừa phi ngựa hết nơi này đến nơi nọ, – còn lũ xaigắc thì chạy nườm nượp hết phía này đến phía khác – tha hồ mà lùng chúng trong những cánh rừng cây muối đen. Nhưng rồi, đến lúc những con-người-Chúa-Trời ấy bắt đầu tổ chức những cuộc săn lùng bằng xe ôtô nhằm làm cho chúng phải kiệt sức vì mệt mỏi, hệt như lũ sói vẫn làm, lũ xaigắc quỵ ngã và họ vừa ngồi trên xe vừa bắn giết. Tiếp đấy, họ sử dụng máy bay lên thẳng. Lúc đầu, họ từ trên trời quan sát các bầy xaigắc trên thảo nguyên rồi bao vây chúng trong những toạ độ đã định sẵn. Những tay xạ thủ dưới mặt đất thì phóng vun vút khắp những vùng đất bằng với tốc độ một trăm kilômet giờ hoặc hơn thế nữa để lũ xaigắc không kịp ẩn nấp. Máy bay lên thẳng thì từ trên cao hiệu chỉnh mục tiêu và hướng săn đuổi. Ôtô, máy bay lên thẳng, súng trường cao tốc… – và thế là cuộc sống ở đồng cỏ Môiuncumư bị lộn nhào hết lên. Con sói cái Acbara mắt xanh còn chưa thay lông và con sói chồng tương lai nó là Tastrainar mới nhỉnh hơn nó một chút, thì chúng đã đến lúc phải làm quen với những cuộc săn đuổi lớn. Lúc đầu, chúng không theo kịp, chúng xé xác những con sơn dương đã gục ngã và giết chết những con nào chưa chết hẳn. Nhưng dần dần, về sức lực và sức chịu đựng chúng đã trội hơn nhiều con sói từng trải, nhất là những con sói đang về già. Nếu như mọi việc đều diễn ra theo qui luật tự nhiên thì chỉ ít lâu nữa là chúng sẽ đứng đầu cả bầy sói. Nhưng tình hình lại ngoặt theo chiều hướng khác… Năm này không giống năm khác. Vào mùa xuân năm đó, các bầy xaigắc sinh đẻ đặc biệt nhiều, không ít con cái còn sinh đôi nữa, bởi vì mùa thu trước, trong thời gian săn đuổi, lớp cỏ khô đã hơi lên xanh lại sau một vài trận mưa tầm tã vào lúc tiết trời ấm áp. Thức ăn thừa thãi, do đó tỉ lệ sinh đẻ tăng lên. Trong thời gian sinh đẻ, lũ xaigắc ngay từ đầu xuân đã đi đến những vùng cát lớn không có tuyết ở mãi sâu trong đồng cỏ Môiuncumư, nơi chó sói không dễ dàng tới được. Mà săn đuổi lũ Xaigắc trên các cồn cát là một việc vô vọng. Trên các cồn cát thì chó sói không thể đuổi kịp lũ xaigắc được. Để bù lại, chó sói thường sống no đủ vào mùa thu và mùa đông. Khi việc di cư theo mùa của động vật khiến những vùng nửa sa mạc và thảo nguyên đầy ắp những bầy xaigắc đông vô kể, đó là lúc Chúa hậu đãi loài sói. Còn về mùa hè, đặc biệt vào thời tiết nóng nực, chó sói thường không ưa động chạm đến xaigắc bởi vì đã có đủ một loại con mồi khác, dễ săn đuổi hơn, là ngân thử. Vô số ngân thử lang thang khắp thảo nguyên để bù đắp lại những gì chúng đã trượt mất vào thời kỳ ngủ đông. Trong mùa hè, chúng phải kịp làm tất cả những gì mà các thú vật khác đã làm trong một năm trời. Chính vì thế mà chúng hối hả xục xạo khắp nơi, không thèm để ý đến nguy hiểm. Vậy tại sao lại không săn bắt kia chứ – bởi vì cái gì cũng có giờ phút của nó, mà về mùa đông thì không thể săn bắt kia mà, chúng không hề xuất hiện. Lại còn các loại thú nhỏ và chim chóc – đặc biệt là gà gô – dùng làm thức ăn cho sói vào những tháng hè. Nhưng việc kiếm ăn chủ yếu – những cuộc săn đuổi rộng lớn lũ xaigắc – là vào mùa thu và kéo dài từ mùa thu cho đến tận cuối đông. Lại một lần nữa là cái gì cũng có giờ phút của nó, trong đó thể hiện một sự hợp lý riêng, do thiên nhiên ban cho, của vòng quay cuộc đời trong đồng cỏ. Chỉ thiên tai và con người mới có thể phá vỡ quá trình tự lâu đời này của tình hình ở Môiuncumư.   Mời các bạn đón đọc Đoạn Đầu Đài của tác giả Tchinguiz Aitmatov,

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Cha Im Lặng
"Những giọt nước mắt mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy chảy trên má của cha mẹ tôi tạo nên hôm nay một chiếc cầu giữa hiện tại và quá khứ, giữa con người mà họ đang là hiện nay và con người mà họ đã từng là trước đây, giữa nước Pháp và nước Việt, hai quê hương của họ." Người cha im lặng - Doan Bui là quyển tự truyện phác họa lại hành trình đặc biệt của một gia đình người Việt sinh sống ở Pháp, sau khi người cha mất đi giọng nói vì một cơn tai biến mạch máu não. Chuyến hành trình này không chỉ giúp những người con lần tìm lại quá khứ của người cha, tìm về nguồn cội cũng như khám phá ra những bí mật "động trời" của gia đình, mà còn hòa giải được những xung đột rất đời thường, những bất đồng ngôn ngữ và văn hóa giữa các thế hệ trong cùng một gia đình người Việt xa xứ.​ *** Một đêm tôi mơ thấy giọng nói của cha tôi. Tôi đang cầm điện thoại. Ban đầu, tôi không nghe thấy gì cả. Chỉ thoáng một hơi thở, vài tiếng lạo xạo ở đường dây. “A lô, cha đấy phải không?”. Chính vào lúc ấy thì giọng nói xuất hiện chẳng rõ từ đâu, mơ hồ, xa xôi. Tôi đã lo là cuộc nói chuyện sẽ bị ngắt. Tôi dỏng tai về phía giọng nói ấy, nó thật nhỏ và rè rè như thể phát ra từ một sóng radio nghe trộm. Giọng của cha tôi, tôi biết, một thứ giọng phát âm từ trong họng được chuyển thành trầm mỗi khi nói tiếng Pháp, như kiểu một ca sĩ có giọng nam trung cố hát những nốt nhạc thấp nhất. Nó còn trở nên xa lạ hơn nữa khi bị làm méo đi bởi chiếc máy thu âm mà cha dùng để đọc những bản báo cáo trong phòng thí nghiệm phân tích y khoa nơi ông làm việc: Khối u trung mô, khối u trung biểu mô, nhiều tế bào bướu ác xuất phát từ tuyến có hạch nhân, có sẵn tế bào chất khoang nước. Lúc nói tiếng Việt, giọng cha tự nhiên hơn. Nhưng vẫn khiến tôi hoang mang. Cha nói giọng Bắc. Tôi thì lại quen với giọng của mẹ tôi, bà ngoại tôi, các dì tôi, với cách phát âm du dương và từ trong mũi của người Nam. Tôi có cảm giác ngôn từ phát ra từ miệng cha rơi xuống giống như những viên đá cuội có hình thù kỳ lạ và sắc nhọn. Cha ấy à, trong nhà chúng tôi nghe thấy cha từ xa. Tiếng ho suyễn và tiếng của chai xịt chống hen Ventoline thường đến để đệm vào ngôn từ của cha như mô-típ lặp đi lặp lại bướng bỉnh của một bản giao hưởng. Trong giấc mơ ấy của tôi, tôi nhận ra những âm thanh đó. Một thoáng giọng, hơi thở đè lên ngôn từ, tiếng phì phò. Chính cha tôi đấy. Thế là nỗi hoảng sợ của tôi tan biến. Niềm vui tràn ngập trong tôi. Tựa như trong một giấc mộng ta được gặp lại người cha đã qua đời: vui sướng, ta bảo, ồ cha vẫn đây cơ à, vậy là ác mộng qua rồi, sao con mơ thấy cha chết nhỉ, con nhớ cha quá đi thôi! Ðược nói chuyện với cha, tôi mừng khôn xiết. Bình thường mỗi khi tôi gọi điện về nhà và nếu cha là người cầm máy, tôi chỉ nói: “Chào cha, cha khỏe chứ?”, một cách hờ hững, rồi sau đó dường như luôn luôn là câu: “Cha chuyển máy cho mẹ được không?”. Cha tôi hay trả lời ngắn gọn: “Mẹ con không có nhà”, hoặc “Mẹ con một tiếng nữa mới về”. Trong giấc mơ ấy, tôi muốn vớt vát những cuộc nói chuyện thường xuyên bị thui chột của chúng tôi, tôi hỏi cha: “Ồ, mà bây giờ cha nói được rồi? Cuối cùng, cha lại có giọng rồi!”. Tôi không nhớ cha đã nói gì. Tôi chỉ lắng nghe giọng cha. Tôi thức dậy. Và bật khóc. Tôi lại cảm thấy một cục chì nặng đè lên ngực, và biết rằng sẽ không bao giờ nghe thấy giọng cha. Cha vẫn còn đây, nhưng giọng cha đã chết. Mời các bạn đón đọc Người Cha Im Lặng của tác giả Doan Bui.
Côn Trùng
Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của tác giả Lê Thị Hiệu (Hiệu Constant). Côn Trùng - một lối viết độc đáo về nhân tình cuộc sống và những mảng đời thực ngoài xã hội. Truyện giãi bày một cách xót xa và nuối tiếc, một cách dũng cảm và day dứt về một mối tình không bao giờ tàn lụi. Vẻ đẹp của mối tình không bao giờ được xã hội công nhận này vừa như ánh sáng lung linh soi rọi, vừa như loài côn trùng rỉ rả gặm nhấm; vừa làm hồi sinh cõi sống tinh thần, vừa làm héo úa vẻ đẹp của hạnh phúc. Truyện được chia làm 2 mảng: kể chuyện và tự sự. Tuy là tác phẩm đầu tay, nhưng tác giả đã chứng tỏ bút lực của mình tương đối rộng và hấp dẫn người đọc. Có lẽ có được bút lực này một phần là nhờ tác giả đã là một dịch giả trẻ, môi trường sống xê dịch từ Việt Nam sang Pháp và từ Pháp theo đường bay thường xuyên về quê nhà Việt Nam. Gia tài dịch của Lê Thị Hiệu với bút danh Hiệu Constant là chị đã dịch được một số những tác phẩm thời thượng, được bạn đọc trong nước đón nhận. (Nhà văn Võ Thị Xuân Hà giới thiệu) *** Tôi phải kể ra đây với bà, bởi câu chuyện mà tôi sắp kể thì không thể không kể ra được bà ạ. Từ lâu rồi nó cứ gậm nhấm tâm hồn tôi, nó cứ rỉ rả suốt đêm ngày. Tôi day dứt. Tôi bối rối. Đôi lúc tôi còn cảm thấy cả sự ân hận, hối lỗi đối với những người xung quanh. Nhất là đối với mẹ tôi giờ đang ở cõi vĩnh hằng, nhưng tôi biết, đêm đêm, bà vẫn về bên tôi, vẫn chăm sóc tôi như ngày xưa. Vì tôi vốn là đứa con cưng nhất của- bà. Thưa bác sĩ, nhưng tôi không biết bắt đầu câu chuyện này từ đâu? Nhìn ánh mắt khuyến khích của bà, tôi thấy an tâm hơn. Tôi chắc bà sẽ hiểu tôi, vì đây là nghề của bà. Tôi đã đọc rất nhiều sách và nghe rất nhiều những câu chuyện nói về ngành nghề của bà. Ngày xưa đôi lúc tôi còn chế giễu những người phải tìm đến các bác sĩ tâm lý, là vì dạo ấy tôi không bao giờ có ý nghĩ rằng một ngày nào đó tôi lại phải tìm đến những phòng mạch như của bà đây để điều trị. Đúng là ở đời, nói trước bước không qua. Trong đầu tôi hiện giờ đang bùng nhùng biết bao ý nghĩ. Những ý nghĩ đó cứ đan xen, hòa trộn lẫn nhau. Vâng, chuyện quan trọng nhất tôi sẽ kể cho bà nghe ngay đây. Đấy, bà lại có điện thoại rồi, và tiếng chuông điện thoại đã làm tôi hoảng loạn và câu dạo đầu đầu tiên mà tôi muốn bắt đầu đã lại tan biến đi mất. Tôi phải nói cho bà biết ngay rằng, chuyện tôi sắp kể là một câu chuyện tình. Bà làm ơn có thể tắt điện thoại đi được không, vì điện thoại sẽ làm ngắt mạch câu chuyện của tôi và tôi sẽ lại khó bắt đầu lại từ đầu. Vâng, đây là một câu chuyện tình chẳng giống như bất kỳ một câu chuyện tình nào khác. Và chính nó đã làm tôi trở nên trầm cảm từ bấy lâu nay. Chuyện của tôi đã bắt đầu từ nhiều năm rồi. Chuyện của tôi và người ấy ấy mà. Tôi có buộc phải nói tên người ta ra không? Có à? Có nói ra thì lòng tôi sẽ thanh thản hơn để giãi bày à? Đúng thế, đúng là nghề nghiệp của bà có khác. Mới bắt đầu thì đã thấy có hiệu nghiệm rồi, bởi tôi cứ lấy kinh nghiệm từ mình mà ra. Nếu một ngày tôi cố gắng gọi dù chỉ là gọi thầm tên của người ta thì cả ngày hôm đó tôi sẽ cảm thấy thanh thản và chịu hơn, còn nếu như tôi cứ bắt mình phải quên đi và sống trong sự kìm nén thì tôi sẽ cảm thấy rất ngột ngạt, khó thở. Vâng, anh ấy tên N.V . Nhưng chỉ có điều, bà biết không, khi gọi tên anh ấy ra như vậy thì tim tôi lại thổn thức, cả người tôi như có một luồng điện chạy qua vậy, các mạch máu dường như lưu thông nhanh hơn, hơi thở của tôi gấp gáp, các tế bào trên cơ thể tôi lại căng ra, chúng như muốn đón nhận nơi anh từng cử chỉ, vuốt ve, từng ánh mắt, thậm chí chúng còn muốn hít thở hơi thở của anh. Đã bao đêm tôi tập ngồi thiền. Tôi không dám nghĩ về anh bất kỳ lúc nào. Thì tôi đã nói với bà lúc nãy, khi bà đang tra những bệnh án của tôi. Tôi yêu anh ấy, yêu say mê, cuồng nhiệt. Tôi yêu anh bằng con tim run rẩy trắng trong của mình. Khoảng cách xa xôi càng làm cho tình yêu của tôi tăng dần lên theo năm tháng. Mỗi mùa đến rồi lại qua. Mỗi năm đến rồi lại đi. Mỗi mùa đem đến cho tôi những thứ tình cảm khác nhau dành cho anh. Bản chất anh trầm ngâm, chắc anh thích mùa thu. Bây giờ Paris đang là mùa thu, bà thấy đó. Cảnh tượng đẹp thiên thần ngoài kia. Ban nãy, trước khi đến phòng khám của bà, tôi đã đạp xe trên kè sông Seine. Anh sáng vàng xộm, xiên qua những kẽ lá đâm thẳng xuống mặt dường nhựa, chiếu lên những chiếc lá rụng lao xao chạy dọc theo những ngọn gió. Tôi còn thấy những con tàu mousse chạy lờ lững trên dòng sông nổi tiếng toàn cầu, chạy xuyên qua thành phố trái tim của thế giới. Khách du lịch đến từ khắp nơi đều thích dạo dọc sông Seine trên những con tàu mang tầm lịch sử. Dạo sông Seine và ngắm những tòa nhà chọc trời đổ bóng xuống lòng sông! Còn gì đẹp và lãng mạn hơn. Khi đi qua công viên Luxembourg cũng thế, tôi nhìn vào và thấy rất nhiều người đi dạo. Đầu thu rồi nhưng những đám cỏ vẫn xinh xắn, vẫn xanh ngắt. Chúng mới đẹp làm sao khi điểm những chiếc lá vàng vừa rơi từ những cây dẻ xuống đậu là là trên bề mặt. Cuộc đời con người cũng vậy, cũng mong manh quá, cũng như chiếc lá đang rơi kia. Tôi giơ tay ra và bắt được một chiếc. Trên đó cũng có những đường gân chạy ngang dọc như những đường chỉ trong tay tôi đây, hay như trong tay bà vậy. Hai chiếc lá là hai bộ gân khác nhau, cũng như tay tôi khác tay bà. Chiếc lá tôi đang cầm là màu vàng nâu, và đã khô đi. Vậy là nó kết thúc cuộc đời một cách tốt đẹp. Nó đã sản sinh ra bao lượng ô-xi cho chúng ta và đã hút đi bao lượng các-bon-nic để cho trái đất xanh này bớt đi ô nhiễm? Và kia kìa, xa chỗ tôi đứng một chút, có một chiếc lá xanh vừa rụng xuống. Đúng thế, nó còn xanh lắm vậy mà đã phải lìa khỏi cành. Bà thấy cảm cảnh à? Tôi cũng vậy, nhưng trong cuộc đời này còn biết bao điều hệ trọng hơn như thế xảy ra mỗi ngày. Đối với chính loài người chúng ta. Nào tai nạn giao thông. Nào thiên tai. Nào bệnh tật... Và còn chiến tranh nữa. Nhiều vô cùng. Nhưng tôi lan man rồi. Không đi vào câu chuyện chính của mình. Không sao à? Bà ở đây là để nghe tôi nói sao? Và tôi có quyền được kể ra, được nói ra tất cả những gì ẩn chứa trong lòng? Ngay cả những điều mà tôi không dám thổ lộ với ai, kể cả những người thân của mình? Ngày xưa, nếu mẹ tôi còn sống, có lẽ bà sẽ cho tôi những lời khuyên bổ ích. Hay cả người anh trai lớn nhất của tôi nữa. Anh ấy đã ra đi khi còn quá trẻ và đã có những lúc tôi oán thán anh ấy. Rằng nếu anh còn sống, cuộc sống của tôi có lẽ sẽ thanh thản hơn. Anh cũng sẽ cho tôi rất nhiều lời khuyên. Anh ấy thông minh, kiên nhẫn và hình như chưa tạt tai tôi bao giờ. Bà thấy đấy, khi còn bé, dù là con gái đi nữa, nhưng ai mà chẳng có lúc làm những điều bậy bạ, nghịch ngợm, nhưng anh ấy đã ân cần giảng giải cho tôi. Tôi nhớ rất rõ những lần anh giúp tôi làm bài tập hóa. Trong tất cả các môn, tôi dốt môn này nhất. Khi phải cân bằng những phương trình hóa học là tôi chết tắp lự. Đấy là tôi nói những phương trình khó thôi, còn nếu không thì điểm trung bình môn hóa của tôi cũng đạt được trên trung bình khá kia đấy. Hôm đó, hồi tôi học lớp mười một bà ạ, anh đang say sưa giảng cho tôi về các hợp chất a-xit, hợp chất khí, hay các loại muối, kiềm thì tôi bất chợt hỏi tại sao con người lại cứ gây chiến tranh để tạo ra những cái chết vô nghĩa lý... Anh trai tôi nhìn xuống, lúc ấy tôi chắc phải kinh khủng lắm, như thoát thiền vậy. Ánh mắt tôi xa xăm, nhìn ra ngoài sân lúc ấy cũng đang là mùa thu, ánh nắng cũng lao xao, vài tia nắng len lỏi qua các kẽ ngói chiếu thẳng xuống mặt bàn tôi đang ngồi làm bài tập. Những hạt bụi nhỏ li ti chạy nhảy huyên náo trong đám nắng dệt lên tấm lưới vô hình giăng giăng. Ngày đó trong đầu tôi đã nảy sinh ý nghĩ về sống chết vô thường. Con người sinh ra để yêu thương nhau nhưng rồi cũng để chém giết lẫn nhau. Hồi đó, anh trai cả tôi vừa xuất ngũ. Anh đi làm nghĩa vụ quân sự đúng vào thời kỳ quân Tàu giở mặt tấn công vào biên giới phía bắc Việt Nam. Chắc anh hiểu được nỗi niềm của tôi, bởi những lần anh về phép, tôi hay bắt anh kể cho nghe chuyện binh đao, khói lửa. Anh toàn kể chuyện vui, nhưng có một lần tôi nghe lỏm được, khi đang ngồi học bài sau tấm liếp. Tôi vốn không tò mò, nhưng khi nghe anh đang nói chuyện với mẹ mà lại khóc ấm ức. Anh mà lại khóc ư, chuyện thật lạ! Giỏng tai nghe ngóng, tôi nghe thấy anh kể cho mẹ nghe về chuyện một người bạn thân của anh tháng trước đã tử trận. Anh ấy mới hai mươi tuổi. Chưa một lần có bạn gái, chưa được cầm tay người phụ nữ nào. Trong cuốn nhật ký của anh chỉ có những dòng anh gửi cho một người tên Liên, mà anh tôi vừa đi gặp chiều nay. Buồn quá phải không bà, khi chúng ta đang sổng trong thời đại Internet, hòa mạng chỉ trong giây lát là có thể nói chuyện với người ở bên nửa kia của trái đất. Con gái con trai mới mười hai, mười ba tuổi đầu đã có bạn khác giới xí xa xí xớn rồi đấy. Còn tôi, mấy ngày trước đó, trong giờ học, bọn tôi, hay đúng ra là mấy thằng Hùng, Tiến, Cần, Trường... chúng nó chẳng chịu học, sau đó lại còn vẽ bậy hết lên mặt, viết những câu không thể nghe nổi như mẹ ơi con muốn chết, hận đời và khát máu, khiến thầy giận quá. Chúng nó thì làm gì mà đã biết những dư vị đó, trẻ con, vớ vẩn, tự nhiên tôi thấy ghét chúng nó thế, mặc dù thằng Hùng vốn cũng rất tử tế và học giỏi. Hôm đó, thầy đã không dạy mà nói chuyện thâm tình với chúng tôi, như những người bạn, người em. Thầy kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện cũng đại loại như của anh trai tôi. Ngày trước, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thầy cũng có một người bạn chết trận như vậy, rằng người con trai ấy tên là Tâm, chết ngay trên cánh tay của thầy tôi. Trước khi chết chỉ nói được mỗi câu “Cậu mang về cho mẹ tớ cái khăn có thêu con chim hòa bình nhé”. Tất cả những câu chuyện như vậy gieo rắc trong tâm hồn tôi những gì mong manh, dễ vỡ, nên tôi sợ bà ạ. Nhưng rồi những gì tôi sợ cũng xảy ra. Anh tôi mất đột ngột trong một tai nạn hết sức thông thường. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không tin đó là sự thật.   Mời các bạn đón đọc Côn Trùng của tác giả Hiệu Constant.
Chỉ Một Tình Yêu
Một tác phẩm của Johanna Lindsey Câu chuyện xoay quanh những thân phận giả mạo, bí mật gia đình và một tình yêu vượt qua mối thù truyền kiếp 50 năm tại vùng đất hùng vĩ Montana trong những năm 1880. “Nhiều quý cô trẻ tuổi kết hôn vì tiền và địa vị xã hội, chỉ một vài trong số họ may mắn kết hôn vì tình yêu – nhưng Tiffany Warren sẽ kết hôn để hoá giải một mối cừu thù. Phải thực hiện giao ước của mẹ, Tiffany miễn cưỡng đi về miền Tây để gặp người cha chưa từng gặp mặt và con trai kẻ thù của ông, Hunter Callahan. Khi nhà Warren và Callahan được hợp nhất bằng một cuộc hôn nhân, cả hai gia tộc sẽ dừng cuộc tranh chấp dải đất từ bao lâu nay. Sự hỗn loạn của cuộc cướp tàu đã trao cho Tiffany một cơ hội quý báu. Giả danh người quản gia mà cha nàng thuê, nàng có thể sống với người cha nàng chưa từng biết để hiểu về con người ông và cả gã cao bồi hàng xóm mà nàng đã được đính ước. Nhưng rồi nàng muộn màng nhận ra mối thù giữa hai gia tộc lại càng sâu sắc hơn khi nhà Callahan cướp người quản gia của nhà Warren ngay khi nàng bước xuống tàu! Và nàng, Tiffinay, dưới thân phận của Jennifer Fleming, phải sống trong ngôi nhà của kẻ thù, cùng với hôn phu của mình. Để rồi nàng biết được rằng, chàng là một người đẹp trai, quyến rũ và ngọt ngào, người khiến nàng luôn phải cưỡng lại vì không thể rời mắt – và rời tay – khỏi Jennifer. Khi bị lật tẩy, Tiffany từ chối cưới Hunter để  hàn gắn mối thù. Trong lúc Hunter đi đòi lại cô dâu chính thức của mình, chàng hiểu rằng mặc dù chàng yêu hai người phụ nữ – một Tiffany chuẩn mực, thanh nhã, hay một Jennifer sôi nổi, nồng nàn – chàng chỉ có duy nhất một trái tim để chinh phục.” *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu Nơi Em Thuộc Về Trái Tim Hoang Dã Yêu Lầm Anh? Tình Yêu Tìm Thấy Chỉ Một Tình Yêu The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Rose Warren đã ngừng khóc trước khi con gái bà, Tiffany, mở cửa chính ngôi nhà sơn màu nâu trong thành phố, nhưng vẫn không thể dứt ra khỏi đầu câu nói đã làm bà phải rơi lệ. Đi cùng con bé đi, Rose. Đã mười lăm năm rồi, em hành hạ chúng ta như vậy còn chưa đủ hay sao? Bà thường cho phép cô con gái mới bước sang tuổi mười tám tháng trước đọc những lá thư của Franklin Warren. Frank thường giữ cho nội dung thư không quá riêng tư, để bà có thể đọc cùng với con gái của họ. Nhưng lần này thì không, bà vò lá thư lại rồi nhét vội vào túi áo khi nghe tiếng Tiffany vang lên trong sảnh. Con bé không hề biết lý do thật sự khiến cha mẹ không sống cùng nhau. Đến cả Frank cũng không biết lý do thật sự bà bỏ đi. Sau chừng ấy năm, tốt nhất là cứ để nó như thế thôi. “Tiffany, vào phòng khách với mẹ đi con!” Rose gọi trước khi Tiffiny bước lên phòng bà. Nắng chiều làm ánh lên mái tóc nâu đỏ của Tiffany khi nàng cởi mũ. Nàng rũ chiếc áo khoác mỏng ngắn ra khỏi vai khi bước vào phòng khách. Trời quá ấm áp để phải mặc áo khoác, nhưng một tiểu thư ở thành phố New York thì phải ăn mặc đứng đắn khi đi ra ngoài. Khi Rose nhìn Tiffany, bà từng tự nhắc mình rằng con gái bé bỏng của bà đã không còn bé nữa. Ngay cả khi Tiffany bước sang tuổi mười tám, Rose cũng đã từng hơn một lần ước con gái bà đừng lớn lên. Con bé đã cao hơn một mét bảy và thường xuyên phàn nàn vì chuyện đó. Tiffany thừa hưởng chiều cao của cha, Franklin, và cả đôi mắt màu xanh lục bảo nữa. Chỉ là, con bé vẫn không biết điều đó. Con bé có dáng người thanh nhã của Rose, nên lại càng xinh đẹp, nhưng màu tóc đỏ thì chỉ giống phần nào thôi. Màu tóc Tiffany nghiêng về ánh đồng hơn. “Mẹ mới nhận được thư của cha con.” Lặng thinh. Trước đây Tiffany rất thích đọc thư của Frank, nhưng đã từ lâu lắm rồi, kể từ khi con bé không hỏi khi nào cha đến thăm con nữa. Trái tim Rose tan vỡ khi thấy sự thờ ơ trong tình cảm của con gái bà với cha nó. Bà biết Tiffany không có kỷ niệm nào với cha. Con bé còn quá nhỏ khi cùng Rose rời khỏi Nashart, Montana. Rose biết lẽ ra bà phải để cha con họ gặp nhau trong những năm qua. Frank đã rất cao thượng khi cho phép các con trai về thăm bà, mặc dù bà thừa biết ông làm vậy là để làm bà cảm thấy day dứt vì đã không tạo điều kiện hay cho phép con gái họ gặp cha. Bà đã luôn lo sợ Frank không cho con gái quay về với bà nữa. Đó không chỉ là nỗi sợ mơ hồ, mà là cơn ác mộng khủng khiếp nhất của bà. Ông đã từng giận dữ đe dọa sẽ giữ lại con gái của họ. Ông đã mang vô số thứ ra để uy hiếp bà, hòng giữ cho gia đình của ông được đoàn tụ. Và bà không thể oán trách ông! Nhưng cũng không thể ngăn được điều đó, không thể được. Giờ đây bà phải đối mặt với nỗi sợ lớn nhất trong đời: một khi Tiffany đến Montana, Rose sẽ không bao giờ được gặp lại con nữa. Đáng lẽ ra bà phải kiên quyết bắt hôn phu của Tiffany đến New York đón con bé. Nhưng đó sẽ là giọt nước tràn ly đối với Frank. Ông đã tôn trọng ý muốn của Rose và tránh mặt trong suốt mười lăm năm trời, nhưng đây là thời điểm bà đã hứa để Tiffany quay về với vòng tay của ông. Lương tâm của bà không cho phép hai cha con chia cắt lâu hơn nữa. Tiffany dừng lại trước bà và chìa tay ra để đòi thư. Rose chỉ về phía ghế sofa. “Ngồi xuống đây con.” Tiffany nhướng mày khi mẹ không đưa bức thư cho nàng, nhưng cũng ngồi xuống cạnh Rose. Căn phòng rất lớn. Thành phố cũng rất lớn. Cha mẹ Rose là một gia đình giàu có đến từ cựu thế giới, toàn bộ tài sản của họ hiện giờ là của bà. Khi Rose từ Montana quay trở về cùng với cô con gái ba tuổi, bà mới biết rằng trong năm năm vắng nhà, mẹ bà đã trải qua nhiều trận ốm liên tiếp và bị liệt. Mẹ Rose chỉ sống được thêm bốn năm nữa, nhưng ít ra Tiffany cũng được biết bà ngoại của mình. Đó là một quãng thời gian đau khổ trong cuộc đời Rose. Bà đã phải từ bỏ chồng và ba con trai, và rồi sau đó lại mất luôn người mẹ của mình. Nhưng ít nhất bà còn có Tiffany. Bà hẳn đã phát điên vì thống khổ nếu bà cũng từ bỏ Tiffany. Nhưng ngày đó rồi cũng đã đến... “Lại đến lúc Nói Phải Quấy rồi hả mẹ?” Tiffany chán chường hỏi. “Con bắt đầu xấc xược từ lúc sang tuổi mới rồi đấy,” Rose cảnh cáo. “Nếu đó là cách mẹ muốn nói về sự oán giận vẫn đang gặm nhấm con thì cũng được thôi. Đó là xấc xược đấy.” “Tiffany-“ “Con không đến Montana đâu, mẹ. Con không quan tâm điều đó dẫn đến một cuộc đổ máu đâu. Con không quan tâm chuyện con cũng sẽ không bao giờ được gặp lại anh em con nữa. Con từ chối kết hôn với một người con chưa từng gặp.” Tiffany khoanh tay trước ngực và hất cằm thách thức. “Đó, con đã nói lời cuối cùng rồi và con sẽ không đổi ý đâu.” “Mẹ đồng ý với con.” Tiffany mở to mắt trước khi reo lên nhẹ nhõm. “Cảm ơn mẹ! Mẹ không biết được con đã đau khổ thế nào trước viễn cảnh –“ “Để mẹ nói hết đã. Mẹ đồng ý con sẽ không cưới một người không quen biết. Con sẽ đến Montana để gặp cậu ta. Con sẽ có vài tháng để hiểu về cậu ta. Nếu lúc đó con vẫn không thấy thích cậu ta, thì, mẹ đồng ý, con có thể hủy hôn và trở về New York trước khi thời tiết xấu đi. Mẹ hứa với con điều đó, Tiffany.” “Tại sao mẹ không hề cho con biết rằng con có quyền quyết định trong hôn ước mà cha mẹ sắp đặt cho con từ khi con còn là một đứa bé chứ?” “Vì mẹ đã hy vọng con sẽ thực hiện hôn ước đó một cách tự nguyện. Mẹ muốn con lớn lên và quen với ý nghĩ đó, mẹ hy vọng con có thể mong chờ điều đó.” “Nhưng Montana* thậm chí còn chưa phải là một nơi văn minh nữa kìa!” “Mình có thể nói chuyện mà không hét vào nhau không con?” Rose nói và khẽ cười, “Hạt Montana không hoang sơ như con nghĩ đâu. Mẹ cho là các anh con đã làm rõ điều đó cho con rồi chứ. Đó là một trong những nơi đẹp nhất mẹ đã từng thấy. Con chắc sẽ thích được ở đó mà.” “Con thích ở đây, nơi con lớn lên, nơi có bạn bè con, nơi con sống,” Tiffany lầm bầm, rồi cao giọng hơn, “nơi đàn ông không đeo súng ở hông bởi vì chẳng có gì, chẳng có người nào cần bắn cả. Sao mà mẹ có thể chấp nhận một thỏa thuận như thế chứ, mẹ?” “Mẹ là người đưa ra thỏa thuận đó.” Bà chưa bao giờ nói cho con gái biết điều đó, và thấy Tiffany mở to đôi mắt ngọc lục bảo, bà ước mình có thể giải thích bằng cách khác. Nhưng chẳng có cách nào cả. “Hóa ra mẹ là người ném con cho bầy sói à?” “Ôi trời ạ, Tiff, đừng thống thiết như thế chứ. Đó là điều duy nhất mẹ có thể nghĩ ra để chấm dứt mối thù giữa nhà Callahan và nhà Warren. Dải đất gần nguồn nước nằm giữa hai điền trang thậm chí cũng không phải nguyên nhân sâu xa, nhưng cả hai bên đều dùng nó để tiếp tục gây hấn với nhau, cả hai đều tranh giành nó về mình. Mẹ chưa bao giờ thấy cái gì ngu ngốc như thế, cả hai bên. Bất kỳ khi nào họ đến gần nguồn nước cùng lúc là có súng nổ. Nếu có con bò lạc nào đi đến gần, họ sẽ đuổi nó quay trở lại, chỉ để gây thêm nhiều vụ nổ súng hơn nữa. Hôn ước của con và Hunter Callahan sẽ chấm dứt sự tranh chấp đó.” “Vậy là mẹ gánh lấy trách nhiệm hóa giải mối thù mà mẹ không gây nên bằng cách hy sinh đứa con gái duy nhất của mình sao?” Rose cáu kỉnh. “Cho con biết, nhóc, Zachary Callahan là một trong những người đẹp trai nhất mẹ từng gặp. Và nhìn vào người vợ xinh xắn của ông ta, mẹ không nghi ngờ gì là những cậu con trai lớn lên cũng sẽ đẹp như thế. Mẹ không nghĩ con là vật hy sinh, mẹ chắc rằng con có thể e ngại vì lấy một người nhà Callahan làm chồng. Nhưng là người ngoài cuộc, mẹ nhìn nhận mọi việc theo cách khác. Những người cao bồi thường hiếu thắng, thậm chí độc đoán, đúng vậy, nhưng mẹ không nghĩ điều đó là lạ ở vùng đất ấy. Frank và Zachary chỉ là hai người đàn ông cứng đầu, mà không ai trong hai người muốn nhân nhượng nhau một inch nào. Mọi chuyện bắt nguồn từ một quá khứ đau buồn, và nguồn nước ở ranh giới hai miếng đất không giúp nó được kết thúc. Mẹ nhận định rằng gia đình Callahan không phải là những người xấu. Zachary có thể là một chủ trang trại hiếu thắng và bẳn tính, nhưng ông ta cũng nổi tiếng là một người chồng tận tụy và là một người cha tốt. Vậy đã là quá đủ cho một gia đình rồi.” “Mẹ không phải là người có thể kết thúc mối thù đó, mẹ. Tại sao mẹ còn thử chứ?” Mời các bạn đón đọc Chỉ Một Tình Yêu của tác giả Johanna Lindsey.
Quy Luật Hấp Dẫn
Tên truyện: Quy Luật Hấp Dẫn Tựa gốc: Rules of Attraction Tác giả: Simone Elkeles Dịch: An, Dzungnguyen 1102, Lana Biên tập: Sa Bìa: Lynn Ebook: K “Quy luật hấp dẫn” là cuốn tiểu thuyết thứ 2 trong loạt truyện Perfect Chemistry gồm 3 quyển kể về 3 anh em Fuentes của nhà văn Simone Elkeles. Xúc tác hoàn hảo – Perfect Chemistry #1 Phản ứng dây chuyền – Perfect Chemistry #3 Giới thiệu:  Carlos Fuentes không muốn dựa dẫm vào người anh trai Alex của mình, và cậu đã nói điều đó với Alex khi ở Boulder, Colorado. Cậu ấy muốn sống một cuộc sống không tầm thường và tạo ra con đường riêng cho mình – giống như Alex đã từng làm. Thật không may, mối liên hệ của cậu với một băng đảng ở Mexico không dễ mất đi, và Carlos nhanh chóng nhận ra mình đang trong tầm ngắm của một ông trùm ma túy. Khi Alex thu xếp cho Carlos đến sống cùng với cựu giáo sư đại học và gia đình của ông để cậu không phải vào tù, Carlos cảm thấy lạc lõng tại nơi đây. Cậu thậm chí còn bị đè nén bởi những cảm xúc mạnh mẽ của mình đối với con gái của giáo sư – Kiara, người không giống những cô gái mà cậu thường bị thu hút. Nhưng Alex và Kiara sớm nhận ra những vấn đề của trái tim, những quy luật hấp dẫn vượt ra khỏi những khác biệt xã hội ngăn cách họ. Khi mà những mối đe dọa với Carlos ngày càng lớn hơn, cậu đã vô cùng kinh ngạc khi phát hiện rằng gia đình người Mỹ này dường như có thể cứu cậu. Nhưng liệu Carlos có dám mạo hiểm sự an toàn của họ để có được cơ hội sống một cuộc sống mà cậu thậm chí chưa từng dám mơ? 23 chương đầu là bản dịch của bạn Dzungnguyen 1102 đã đăng ở Kites và mình đã nhận được sự đồng ý của bạn ấy cũng như của Kites để đăng lên nhà (có chỉnh sửa so với bản bên Kites). Rainy sẽ dịch tiếp từ chương 24 trở đi. *** Bộ truyện Perfect Chemistry gồm 3 quyển kể về 3 anh em Fuentes của nhà văn Simone Elkeles. Quyển 1: Xúc Tác Hoàn Hảo – Perfect Chemistry #1 Quyển 2: Quy luật hấp dẫn – Perfect Chemistry #2 Quyển 3: Phản ứng dây chuyền – Perfect Chemistry #3  *** Tác giả    Simone Elkeles sinh ra và lớn lên tại Chicago, Hoa Kỳ. Bà là tác giả của những đầu sách cho teen bán chạy nhất theo xếp hạng của New York Times và USA Today.   Siome Elkeles cùng các tác phẩm hay nhất của bà, Xúc tác hoàn hảo, đã được vinh danh ở rất nhiều giải thưởng sách văn học khác nhau và đáng kể nhất là giải RITA 2010, giải thưởng hàng năm danh giá dành cho tác phẩm văn học lãng mạn xuất sắc nhất nước Mỹ. *** Tôi muốn sống theo cách của riêng mình. Tuy nhiên tôi là người Mexico, nên gia đình tôi luôn chỉ dẫn tôi làm mọi việc, dù tôi có muốn hay không đi chăng nữa. Thôi được rồi, chỉ dẫn thì chưa đúng, ra lệnh thì đúng hơn. Mẹ tôi đã không hỏi tôi xem là liệu tôi có muốn rời khỏi Mexico và chuyển đến Colorado để sống cùng với anh trai Alex trong năm cuối trung học phổ thông hay không. Bà đã quyết định gửi tôi về Mỹ, “vì muốn tốt con thôi” – theo ý của bà, chứ không phải tôi. Khi phần lớn các thành viên trong gia đình ủng hộ bà, quyết định được đưa ra. Họ thực sự nghĩ rằng gửi tôi về Mỹ sẽ làm cho cuộc đời tôi không kết thúc dưới những nấm mồ hoặc trong nhà tù sao? Kể từ khi tôi bị sa thải khỏi nhà máy đường hai tháng trước, tôi đã sống một cuộc sống điên rồ. Không có gì có thể thay đổi được điều này. Tôi nhìn ra ô cửa sổ bé bé khi chiếc máy bay bay qua ngọn Rockies phủ tuyết. Tôi chắc chắn rằng mình không ở Atencingo bao lâu nữa, và tôi cũng không ở ngoại ô Chicago, nơi mà tôi đã sống nhiều năm trước khi mẹ bắt chúng tôi thu dọn và chuyển đến Mexico trong năm hai trung học. Khi máy bay hạ cánh, nhìn những hành khách khác chen lấn để xuống máy bay, tôi ở lại và đợi cho tình cảnh này kết thúc. Tôi sắp gặp lại anh trai của mình lần đầu tiên trong vòng gần hai năm. Chết tiệt, tôi thậm chí còn không biết là liệu tôi có muốn gặp lại anh ấy hay không nữa. Hầu hết mọi người đã xuống máy bay nên tôi không thể trì hoãn thêm nữa. Tôi lấy ba lô của mình và làm theo các biển chỉ dẫn ở khu vực nhận hành lý. Khi vừa ra khỏi cửa an ninh, tôi trông thấy ông anh Alex đang đợi bên ngoài các thanh rào chắn. Tôi nghĩ tôi có thể không nhận ra anh ấy, hoặc cảm thấy như chúng tôi là những người xa lạ chứ không phải một gia đình. Tuy nhiên, không có bất kỳ sự nhầm lẫn nào xảy ra cả bởi khuôn mặt chúng tôi giống y như nhau. Tôi hơi hài lòng rằng bây giờ tôi đã cao hơn anh ấy, và tôi không còn là đứa trẻ gầy gò bị anh ấy bỏ lại phía sau nữa. “Chào mừng đến với Colorado.” Anh ấy vừa nói vừa ôm lấy tôi. Khi anh ấy thả tôi ra, tôi nhìn thấy những vết sẹo mờ trên lông mày và bên tai. Tôi đã không nhìn thấy nó vào lần cuối chúng tôi gặp nhau. Anh ấy trông có vẻ chững chạc hơn, nhưng anh không còn giữ ánh mắt đề phòng mà anh luôn mang bên mình như chiếc khiên che chắn nữa. Tôi nghĩ là sự đề phòng của tôi được thừa hưởng từ anh. “Cảm ơn.” Tôi nói dứt khoát. Anh ấy biết rằng tôi không muốn đến đây. Chú Julio đứng cạnh tôi cho đến lúc chú ấy tống khứ tôi lên máy bay. Và sau đó chú còn đe dọa rằng sẽ ngồi ở sân bay cho đến khi chú ấy biết chắc rằng tôi đã cất cánh. “Còn nói được tiếng Anh chứ?” Anh trai tôi hỏi khi chúng tôi đi lấy hành lý. Tôi trợn tròn mắt: “Chúng ta chỉ sống ở Mexico có hai năm thôi, Alex. Nói đúng hơn là chỉ có mẹ, em và Luis chuyển đến Mexico. Anh đã bỏ rơi mọi người.” “Anh không bỏ rơi mọi người. Anh chỉ sắp học đại học và bởi vậy anh có thể làm điều gì đó thiết thực với cuộc sống của mình. Em cũng nên thỉnh thoảng thử làm điều gì đó thiết thực đi.” “Thôi khỏi, cảm ơn anh. Em cảm thấy ổn với cuộc sống không mấy thiết thực của mình.” Tôi lấy chiếc túi vải len của mình ra khỏi băng chuyền và theo Alex rời khỏi sân bay. “Em đang đeo cái gì ở cổ đấy?” Anh ấy hỏi tôi. “Nó là cái chuỗi hạt.” Tôi trả lời, chỉ tay vào dấu chữ thập đính cườm trắng đen “Em đã chuyển sang tôn giáo khác từ lần cuối chúng ta gặp nhau.” “Tôn giáo gì chứ, anh không tin. Anh biết nó là biểu tượng của một băng đảng,” anh nói khi chúng tôi tiến đến chiếc xe Beemer mui trần màu bạc. Anh trai tôi không thể nào mua nổi chiếc xe đó, chắc hẳn là anh ấy mượn từ cô bạn gái Brittany. “Vậy thì sao chứ ?” Alex đang ở trong một băng đảng ở Chicago. Trước đây bố tôi cũng là thành viên của một băng đảng. Cho dù Alex có muốn thừa nhận điều đó hay không thì tôi cũng kế thừa sự xấu xa đó. Tôi đã cố gắng sống theo luật pháp. Tôi chưa bao giờ than phiền khi tôi làm ra ít hơn 50 peso mỗi ngày và làm việc liên tục sau giờ học ở trường. Sau khi bị sa thải và bắt đầu làm việc với băng Guerreros del barrio, tôi kiếm được hơn 1000 peso mỗi ngày. Nó có thể bị xem là thứ tiền dơ bẩn, nhưng nó giúp tôi đủ ăn. “Em có học được gì từ sai lầm của anh không đấy?” Anh ấy hỏi. Khỉ thật, khi Alex ở trong băng Latino Blood ở Chicago, tôi đã từng tôn thờ anh ấy. “Anh hẳn không muốn nghe câu trả lời đâu.” Lắc đầu thất vọng, Alex lấy chiếc tủi vải ra khỏi tay tôi và quăng nó vào sau xe. Vậy nếu anh ấy rời khỏi Latino Blood thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ? Anh ấy sẽ phải mang những hình xăm ấy trong suốt quãng đời còn lại. Dù sao đi nữa thì anh ấy sẽ luôn dính líu đến Latino Blood cho dù có hoạt động hay không hoạt động trong băng đảng ấy. Tôi nhìn anh trai của mình hồi lâu. Anh ấy chắc chắn đã thay đổi. Tôi đã cảm nhận được điều này ngay từ phút đầu tiên tôi trông thấy anh. Anh ấy có lẽ trông giống như Alex Fuentes, nhưng tôi có thể nói rằng anh ấy đã mất đi tinh thần chiến đấu mà Alex Fuentes từng có. Giờ anh ấy học đại học và suy nghĩ rằng anh ấy có thể tuân  theo luật pháp và biến thế giới trở thành một nơi tươi đẹp hơn để sống. Thật ngạc nhiên khi anh ấy nhanh chóng quên đi rằng chúng tôi đã từng sống trong khu ổ chuột ở vùng Ngoại ô Chicago một thời gian cách đây không lâu lắm. Có một số thứ trong thế giới này không thể tươi sáng, dù bạn có cố đánh bóng nó thế nào đi chăng nữa. “Mẹ thế nào rồi?” Anh ấy hỏi. “Mẹ ổn.” “Thế còn Luis?” “Cũng vậy. Cậu em trai nhỏ của chúng ta thông minh gần bằng anh rồi, Alex. Nó nghĩ rằng nó sẽ trở thành một phi hành gia như Hernández.” Alex gật đầu như một người cha đầy tự hào, và tôi nghĩ anh ấy thực sự tin rằng Luis có thể đạt được ước mơ của mình. Cả hai người họ đều hoang tưởng… Cả hai người anh em của tôi đều là những kẻ mộng mơ. Alex nghĩ rằng anh ấy có thể cứu thế giới bằng cách tạo ra các loại thuốc chữa bệnh, còn Luis thì lại nghĩ rằng nó có thể rời khỏi thế giới này và thám hiểm một thế giới khác. Khi chúng tôi đi lên đường cao tốc, tôi trông thấy những dãy núi ở xa xa. Nó làm tôi nhớ về địa hình hiểm trở ở Mexico. “Nó được gọi là Front Range.” Alex nói với tôi. “Trường đại học nằm ở chân núi.” Anh ấy chỉ sang trái. “Chúng được gọi là Flatirons bởi những tảng đá ở đây phẳng như những tấm bảng bằng sắt vậy. Thỉnh thoảng anh sẽ đưa em tới đó. Brit và anh thường đi dạo ở đó khi rời khỏi ký túc xá.” Anh ấy liếc nhìn tôi và bắt gặp tôi đang nhìn anh ấy với vẻ không thể tin nổi. “Sao nào?” Anh ấy đang nói chơi đúng không? “Anh đang đùa em à?”? Tôi chỉ đang tự hỏi anh là ai và anh đã làm chuyện quái quỷ gì với anh trai của tôi. Anh trai Alex của tôi đã từng là một kẻ nổi loạn, và giờ thì anh ấy lại đang nói về những ngọn núi, bảng sắt và đi dạo với bạn gái. “Thế em thích anh nói về chuyện say xỉn và gây rắc rối chắc?” “Đúng vậy!” Tôi nói và hành động như thể là tôi đang cực kì hứng thú. “Rồi sau đó anh có thể nói cho em biết nơi mà em có thể say xỉn và gây rắc rối, bởi em sẽ không thể sống nếu không dùng một vài loại chất cấm.” Tôi nói dối. Có thể mẹ tôi đã nói với anh ấy rằng bà nghi ngờ tôi sử dụng thuốc nên tôi cứ làm như thể là tôi dùng chúng vậy. “Được thôi. Thế cứ nói với mẹ về những thứ điên rồ đó đi, Carlos. Anh không còn làm những thứ mà em làm đâu.” Tôi gác chân mình lên bộ phận điều khiển xe. “Anh còn không có bằng chứng.” Alex đẩy chân tôi xuống. “Không phiền chứ? Xe của Brittany đấy.” “Anh thực sự bị mê hoặc rồi. Đến lúc nào thì anh mới bỏ quách cái loại con gái rẻ tiền đó đi và bắt đầu trở thành một anh chàng sinh viên đại học bình thường – ngủ với hàng tá cô gái?” Tôi hỏi anh ấy. “Britany và anh không hẹn hò với người khác.” “Tại sao lại không?” “Người ta gọi đó là bạn trai và bạn gái.” “Có mà hèn nhát ấy. Một chàng trai chỉ ở cùng với một cô gái thì không bình thường chút nào cả, Alex. Em là một người tự do và em sẽ sống độc thân mãi mãi”. “Vậy là đã rõ, Quý ngài tự do, ngài sẽ không ngủ với bất kỳ ai trong căn nhà của tôi.”   Mời các bạn đón đọc Quy Luật Hấp Dẫn của tác giả Simone Elkeles.