Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Việt - Chủ Nhân Của Kinh Dịch Và Chữ Vuông (Viên Như)

Dịch học là một triết học xa xưa của người Á Đông. Mặc dù ra đời cách đây trên 5000 năm nhưng sức hấp dẫn của nó càng ngày càng lan tỏa mạnh mẽ, không những tại những nơi nó đã từng phát triển như Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bổn, Cao Li mà ngày nay nó còn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu phương Tây. Có thể nói Dịch học như là Bản thể luận đầu tiên của nhân loại; đồng thời cũng là Hiện tượng luận hay nói theo Phật giáo là Pháp tướng luận. Chính vì điều này mà nó không những cung cấp cho người ta hiểu biết về bản chất của nhân sinh và vũ trụ mà còn cho phép con người có những dự đoán dựa trên những kết quả có tính siêu nhân quả. Vì ảnh hưởng của nó lớn lao như thế nên vấn đề nguồn gốc của nó càng làm cho những người nghiên cứu quan tâm hơn.

Tất nhiên vấn đề này đã được đề cập từ xa xưa, cách đây hàng ngàn năm nhưng ngày nay khi nhìn lại, người ta nhận ra rằng câu hỏi “Ai là tác giả Dịch học” vẫn chưa được xác định một cách khoa học. Tại Trung Hoa, các học giả chưa đưa ra được câu trả lời thỏa đáng, dù nói đến Dịch học hầu như ai cũng nghĩ nơi đây là quê hương triết lí này.

Trong hướng đi tìm nguồn gốc của Dịch học, vài thập niên qua, ở Việt Nam có một số nhà nghiên cứu cho rằng Dịch học có nguồn gốc từ người Lạc Việt. Nhiều người đã đưa ra những chứng lí để chứng minh cho lập trường của mình, có thể nói rằng những lập luận ấy khá thuyết phục. Tuy nhiên vì là suy diễn nên chưa được chấp nhận rộng rãi, điều này cũng dễ hiểu, vì hàng ngàn năm qua Nam và Bắc cùng chia sẻ một không gian lịch sử, trong đó có sự phát triển của Dịch học mà sách vỡ viết về Dịch chủ yếu viết bằng chữ Hán.

Cùng trong hướng đó, tác giả đã đề nghị trong cuốn sách rằng: “không chỉ là suy diễn mà là những bằng chứng cho thấy rằng chính người Lạc Việt đã sáng tạo nên hệ thống Dịch lí và chữ Vuông, vì hoàn cảnh lịch sử, câu chuyện ấy đã được kể lại hoặc là mơ hồ hoặc là dưới tên của dân tộc khác. Tuy nhiên Tổ Tiên người Việt đã khéo léo cất dấu cái văn hóa huyền vĩ của mình dưới những cách thức khác nhau của ngôn ngữ dân tộc mình. Đây là một nổ lực vô cùng lớn lao và đầy trí tuệ. Bởi vì những gì mà ta nhận được từ những trống đồng, tranh dân gian hay chuyện ngụ ngôn là những thông tin có tính hệ thống, xuyên suốt, phù hợp với những gì đã lưu lại trong sách vở từ hàng ngàn năm qua về Dịch học. Từ những phát hiện như vậy, tôi xin giới thiệu với bạn đọc những gì mà Tổ Tiên người Việt đã làm, đã cất dấu để lưu lại cho hậu thế cái thông điệp rằng “Người Việt chính là tác giả của Dịch học và chữ Vuông”. Đây là những phát hiện mà tôi cho rằng quá mới nên nhất định có nhiều giới hạn, mong được sự góp ý của các thức giả.”***

Kính dâng Thầy và Cha Mẹ Tìm mua: Người Việt - Chủ Nhân Của Kinh Dịch Và Chữ Vuông TiKi Lazada Shopee

NGƯỜI VIỆT − CHỦ NHÂN ĐÍCH THỰC CỦA KINH DỊCH VÀ CHỮ VUÔNG(thay Lời giới thiệu)

Cách đây gần chục năm tôi tình cờ được một người bạn gửi qua email tặng cho bản đồ địa mạch với hình con rồng từ đỉnh Everest cao hơn 8.800m đến đáy vịnh Mindanao sâu 11.000m mà đầu và đuôi rồng chênh nhau 20 km. Nhìn vào đây, bất cứ ai cũng có thể nhận thấy rằng chính thân rồng này là cột xương sống vô cùng vững chắc giữ cho Trái đất của chúng ta không bị thay đổi và biến dạng. Rằng 500 km trong số 7.000 km của thân rồng nằm trên đất Việt Nam là vô cùng quan trọng.

Tôi cũng thấy rất rõ hình chữ S của đất nước chúng ta chính là hình ảnh của âm dương trong âm dương ngũ hành rất quý giá và cần thiết. Rằng thế cân bằng, quyền biến của người Việt từ xưa đến nay giúp chúng ta không bị đồng hóa mà vẫn giữ mãi được bản sắc dân tộc.

Tôi bắt đầu đi lọ mọ tìm hiểu về Phong thủy, Dịch lí hay Thái ất Cửu cung mà các cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp… đánh giá rất cao. Càng đọc, càng nghiên cứu mới càng thấy rất hay, nhiều thứ kỳ bí và rất cần khám phá dài lâu. Ma trận được dần hé mở.

Như một thiền sinh và một nhà nghiên cứu, tôi dần dần ráng tìm tòi về cội nguồn đầu tiên của dân tộc Việt Nam liên quan đến Bách Việt. Tôi cũng nhiều lần tự đưa ra các giả thuyết về nguồn gốc của Kinh Dịch, Hà đồ, Lạc thư. Trong thâm tâm, rất mong muốn tìm lại cuốn Kinh Dịch gốc đã bị mất.

Tôi cũng xem lại trong sử sách để tìm về với nhân vật nổi tiếng mà không người Việt nào không biết − Cao Biền. Ông được phái sang đất Việt tìm các huyệt quý để yểm, hòng tiêu diệt hiền tài của nước Nam. Ông ta đã tìm ra 632 huyệt chính, huyệt phát vương và 1.517 huyệt bàng, huyệt phát quan và đã cố yểm nhưng không yểm được. Cũng theo sử sách, đến đời nhà Minh, Hoàng Phúc lại được sai sang nước Việt để tiếp tục yểm bùa nhằm biến nước Nam thành quận huyện của họ, nhưng không thành.

Rồi tôi nghiên cứu lại các tài liệu của các vị thầy, các học giả đi trước và thấy rất rõ rằng đứng về mặt phong thủy thì đất nước Việt Nam là cái hình thế rất rất đặc biệt đối với phương Bắc. Càng ngẫm càng thấy rất đặc biệt và rất quan trọng. Quan trọng không chỉ với riêng Việt Nam mà cả khu vực và quốc tế.

Rồi tôi ngồi nhớ lại các vị thầy, các vị thiền sư nổi tiếng và tiền bối của nước ta như Thiền sư Định Không (730-808) cùng các học trò là Đình Hương, Thông Thiện. Rồi Thiền sư La Quý An, thiền sư Vạn Hạnh để nhớ mãi về sự ra đời của vua Lý Công Uẩn và triều đại Lý Trần hưng thịnh mãi sau này.

Cách đây vài năm, tôi gặp thầy Viên Như trong khuôn khổ Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Cung văn hóa Việt Xô tại Thủ đô Hà Nội. Chúng tôi trao đổi với nhau những tâm huyết về đất nước và dân tộc, về thiền và tu tập, về Kinh Dịch và nhiều thứ khác nữa. Để rồi hai thầy trò giữ liên lạc với nhau dài lâu, thường xuyên và mãi đến bây giờ.

Trong một chuyến nghỉ mát của cả Công ty Sách Thái Hà tại Đà Lạt và Nha Trang, tôi và bạn đồng nghiệp Nguyễn Ngọc Quân - Giám đốc Trung tâm Xuất bản Thái Hà Books đã gặp thầy Viên Như và cùng xem bản thảo cuốn sách Người Việt - chủ nhân của Kinh Dịch và chữ Vuông. Tôi giật mình. Đúng những gì tôi đang nghiên cứu, tìm tòi bao năm nay. Chúng tôi quyết định xuất bản cuốn sách này ngay lập tức.

Tôi đọc đi đọc lại bản thảo này và thấy rằng thầy trò chúng tôi đang đi cùng một hướng, đang làm cùng một việc. Tôi cũng thấy ra một tương lai huy hoàng chung trên một tầm nhìn vĩ đại. Rằng đất nước Việt Nam của chúng ta vô cùng tuyệt vời và đã được chọn, thử thách mấy ngàn năm nay. Rằng chúng ta đã và đang tìm được về với cội nguồn, với hồn thiêng sông núi. Rằng sau khi bị đô hộ 1.117 năm, Việt Nam ta nay đã biết tự hào về chính mình và thức dậy như con rồng bắt đầu cất cánh bay lên. Ôi Thăng Long!

Dân tộc Việt Nam đã được thử thách trọn vẹn suốt mấy ngàn năm nay. Chúng ta sở hữu tài sản quý giá là Tình Thương và Trí Tuệ trên tinh thần bất khuất ngàn đời mà ta quên mất. Chúng ta là con rồng cháu tiên mà đâu có hay. Chúng ta sở hữu cả những tài sản vô giá của nhân loại mà mải ngủ quên trong si mê và phiền não. Ôi Thăng Long thật đây rồi!

Tôi thấy rằng đã bắt đầu cho một sự chuyển dịch lớn lao của dân tộc Việt và rằng cần một bộ máy với những con người trong bộ máy hòa cùng nhịp đập để Việt Nam cất cánh. Ôi Thăng Long!

Tôi ngồi thiền và thấy rất rõ tiếng trống đồng của các vua Hùng đang thúc giục, thấy rõ chim lạc, chim hồng đang bay cao bay thấp đâu đó quanh mỗi chúng ta. Rằng Kinh Dương Vương đang đánh thức chúng ta. Rằng kinh lạc đang có sẵn trong mỗi con người Việt. Chúng ta chỉ cần có tỉnh thức, chỉ cần thở và cười trong bình an và chánh niệm thì con rồng trong ta sẽ thức tỉnh. Chúng ta đánh thức rồng thức dậy để bay cao bay xa, vì một nước Việt Nam hùng cường và thịnh vượng.

Thân mong bạn đọc kỹ cuốn sách này và cùng tôi thấy một kỷ nguyên mới đang được vận hành. Tôi đang nói thầm và muốn bạn hô to lên cùng tôi “TÔI TỰ HÀO LÀ NGƯỜI VIỆT NAM” và “VIỆT NAM THĂNG LONG”.

Thủ đô Hà Nội, sáng ngày 8 tháng 8 năm 2014

TS. Nguyễn Mạnh Hùng

Chủ tịch Hội đồng Quản trị

kiêm Tổng Giám đốc Công ty CP Sách Thái Hà

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Việt - Chủ Nhân Của Kinh Dịch Và Chữ Vuông PDF của tác giả Viên Như nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Âm Phù Kinh - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Tựa Âm Phù Kinh là một quyển sách rất nhỏ của Đạo Lão, tương truyền là do Hoàng Đế (2697-2597) viết. Nhưng có nhiều học giả không công nhận như vậy. Trình Chính Thúc (Trình Di, Trình Y Xuyên, 1033-1107) cho rằng sách này được viết vào thời Ân (1766-1154) hay thời Chu (1122-255). Chu Hi (Chu Nguyên Hối, 1130-1200) cho rằng Lý Thuyên, một đạo sĩ đời vua Đường Huyền Tông (713-755) đã ngụy tạo ra. Chu Hi soạn Âm Phù khảo dị. Thiệu Khang Tiết (1011-1077) cho rằng Âm Phù Kinh được viết ra vào đời Chiến Quốc. Đạo tạng có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên. Trương Quả Lão (một vị trong Bát Tiên đời Đường) cũng có viết Âm Phù Kinh và có dẫn Y Doãn, Thái Công, Chư Cát Lượng, Lý Thuyên. Lại có bản do 11 người chú: Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc, Trương Lương, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong, Lý Thuyên, Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh. - Thạch Đại Dương Nhân Sơn, một người rất giỏi về Đạo Phật, chú Âm Phù theo Phật. - Lý Gia Du giỏi Dịch giảng Âm Phù theo Dịch. - Đơn Chân Nhân, Khấu Trương, Trương Quả Lão, Lý Thuyên là các Đạo Gia nên bình Âm Phù theo Lão. Trịnh Tiều Nghệ Văn cho biết trước sau có 38 bộ Âm Phù Kinh biên soạn thành 51 quyển. Như vậy mỗi người chú Âm Phù một cách. Binh gia giải theo Binh Gia, Đạo Gia giải theo Đạo Gia, Phật Gia giải theo Phật Gia. Nhưng Âm Phù Kinh vẫn là Âm Phù Kinh. (Xem Vô Tích Hoàng Nguyên Bính tiên thích, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, Tựa) Tại sao một quyển sách chỉ vẻn vẹn có ba bốn trăm chữ mà được nhiều học giả mê thích như vậy? Thưa vì nó đưa ra một học thuyết quá hay: Đó là hãy bắt trước Trời mà hành sự thì muôn việc đều hay. (Quan Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi hành tận hĩ. 觀 天 之 道 執 天 之 行. 盡 矣.) Trung Hoa Đạo giáo Đại Từ Điển viết: «Thánh Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các đắc kỳ nghi...» «Thánh nhân xem Trời, bắt chước Trời hành sự, nếu việc Trời việc người ăn khớp với nhau, làm gì cũng hợp đạo Trời, không làm gì sai trái với tự nhiên, thì trị nước hay tu thân đều tốt đẹp.» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm.) Xưa nay chỉ có ăn ở theo đúng cơ Trời, thời Trời, là hay, là tốt mà ít ai nhận thấy. Chúng ta thấy ngày có mặt trời, đêm có mặt trăng. Mà mặt trời thời hằng cửu, bất biến, mặt trăng thì tròn khuyết biến thiên. Mặt trời là Thái Cực, mặt trăng là Âm Dương. Trăng có tròn có khuyết, con người có khi tốt có khi xấu, nhưng lúc chung cuộc phải tiến tới viên mãn như trăng ngày rằm, như mặt trời chính Ngọ. Chu kỳ mặt trăng gồm đủ 64 quẻ Dịch mà chúng ta không thấy. Mỗi chớp mắt, mở mắt của chúng ta, mỗi một ngày một đêm, mỗi một tháng, mỗi một năm cũng gồm đủ 64 quẻ Dịch. Như vậy rõ ràng là Trời muốn chúng ta sống theo đúng tự nhiên, thì mọi sự sẽ chu toàn. Ngay quẻ Kiền đã dạy chúng ta phải bắt chước Trời mà hành sự. Đại Tượng quẻ Kiền viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健. 君 子 以 自 強 不 息: Trời cao mạnh mẽ xoay vần, Nên người quân tử quyết tâm tự cường. (Không hề ngưng nghỉ triển dương) Câu thứ 4 của Âm Phù Kinh cũng hết sức hay: Thiên Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã. (天 性 人 也, 人 心 機 也. 立 天 之 道 以 定 人 也.) Thiên Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời để xác định (xem) con người (tiến bộ đến đâu.) Đọc Âm Phù Kinh, tôi mới thấy rõ, Con người chính là Trời (Thiên Tính Nhân dã), còn Con người chỉ là Cái máy. Lập ra đạo Trời, cho thấy đâu là Đạo Người rốt ráo. Đạo Con Người thật ra là đạo tự nhiên bất biến. Con người sinh ra không phải là để khổ đau, mà chính là để luôn luôn sung sướng. Con người sinh ra cốt là để nhìn thấy trong mình, ngoài mình, đâu đâu cũng là Chân Thiện Mỹ. Con người hiện chưa được vậy, là vì quá ích kỷ và con u mê dốt nát mà thôi. Gần cuối sách, Âm Phù Kinh lại dạy bài học thứ ba: Thị cố quân tử tri tự nhiên chi Đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi. (是 故 君 知 自 然 之 道 不 可 違, 因 而 制 之.) Cho nên người quân tử không thể đi sai Đạo tự nhiên. Chỉ có thể nhân đó biến chế mà thôi. Xưa nay, người ta thường chống đối với tự nhiên, thích chinh phục thiên nhiên. (Going against Nature, conquering Nature). Nhưng cũng có người cho rằng cần phải tìm hiểu Tự Nhiên, Hiểu Tự Nhiên là Cứu Rỗi mình (Knowledge of Nature, as a way of Salvation), và chủ trương Theo Thiên Nhiên (Following the way of Nature). Cũng có người chủ trương theo tự nhiên là chết, đi ngược tự nhiên mới được trường sinh. (Thuận tắc tử, nghịch tắc Tiên). Biến chế Tự Nhiên Âu Châu dịch là Manipulation of Nature. (Xem Science and Civilisation in China, Vol. V, Joseph Needham, Index, nơi chữ Nature, tr. 541) Tôi tuyệt đối chủ trương ta không thể sống ngược với Thiên Nhiên được, nhưng phải nương theo Thiên Nhiên mà sống. Nếu dạy người đi ngược chiều hướng này là làm hại người mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn chấp nhận lời trên của Âm Phù Kinh. Câu Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên trong các sách luyện đơn là cốt dạy con người đi sâu vào phía Tâm Linh, chứ đừng để Tâm Thần phát tán ra ngoại cảnh, nhất là khi về già. Nghịch đây không phải là đi ngược Thiên Nhiên. * Chiều đi từ quẻ Phục cho tới quẻ Kiền thường được gọi là Chiều Nghịch. Chiều đi từ quẻ Cấu cho tới quẻ Khôn là chiều Thuận. Thuận là Thuận của phàm nhân; Nghịch là Thuận của Thánh Tiên. Âm Phù Kinh chủ trương: Bắt chước Trời mà hành sự, theo đúng cơ trời mà biến hóa, như vậy để cầu trường sinh. hay làm cho nước giàu dân mạnh, hay làm cho binh cường tướng mạnh để chiến thắng, tất cả đều là một nguyên tắc. (Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng.) (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh là: «Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.» (Âm Phù Kinh là sách Thánh Nhân thay Trời dạy huyền cơ Đạo Lý.) Thánh Nhân dụng tâm hết sức thâm trầm, thấy được Thiên Tính Bản Nhiên của mình, rồi theo đúng cơ vi, sống hợp nhất với lẽ Tự Nhiên. Nhìn vào lòng mình, theo đúng cơ vi Trời Đất, hiểu thế là hiểu rõ Âm Phù Kinh. «Thánh Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý. Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hĩ.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Thần Trời Đất với Thần trong ta là Một, nên khi hoạt động thời in như thần, khi tĩnh lặng thì có đủ Thần trong mình, mình và Thái Không là Một, mình với vạn hữu là bạn, Thể Tính của mình và Thể Tính của trời đất không có gì khác biệt, thế gọi là Đắc Đạo. «Thiên Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc Đạo.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh dạy ta lẽ Thiên Đạo và Nhân Tâm ám hợp với nhau, và muốn ta sống đúng theo Trời. «Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 333) Âm Phù Kinh xưa nay chỉ có hơn 300 chữ hay hơn 400 chữ. (SĐD, tr.333) Cộng thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phách thêm Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (SĐD, tr.333) Âm Phù Kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau. Và giải Âm là Âm, Phù là Phù Hợp. (SĐD, tr. 333) Âm Phù Kinh đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (SĐD, tr. 334) «Vạn vật hữu hình viết Âm, Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự Nhiên chi Đạo viết Kinh.» Lại nói: «Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã, Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (SĐD, tr. 334) Tôi dịch Âm Phù Kinh vì thấy một quyển sách nhỏ bé như vậy mà sao lại có nhiều danh nhân bình giải như thế. Tôi thấy những người như Lý Thuyên đời vua Đường Huyền Tông, ưa thích Đạo từ nhỏ, mới đầu Ông có được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Ông đọc cả ngàn lần mà vẫn không hiểu được thâm ý. Theo truyền thuyết thì Ông đã tới Ly Sơn và đã được một bà cụ dạy cho huyền nghĩa Âm Phù, Ông mới hiểu ý nghĩa Âm Phù. Sau đó Ông viết: Hoàng Đế Âm Phù Kinh Sớ, 3 quyển, Thái Bạch Âm Kinh, 10 quyển, Ly Sơn Lão Mẫu truyền Âm Phù huyền nghĩa, 1 quyển. Ông làm quan giữ chức Giang Lăng Tiết Độ Sứ phó Ngự Sử Trung Thừa. Ông là người có mưu lược, sau đó vào danh sơn qui ẩn, phục khí, tịch cốc, thanh tâm tu đạo, không rõ chết ra sao. Ông còn viết thêm ít sách khác. (Xem Du Tấn, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 97) 
Kinh Dịch: Những phương pháp tự dự đoán nhanh - Đông A Sáng
Hệ từ thượng truyện viết, Kinh Dịch có bốn đạo, thánh nhân thường dùng là: Khi nói năng, chúng ta theo lời từ (quái từ, hào từ) trong Kinh. Khi hành động, chúng ta tuân theo lẽ biến hóa trong Kinh. Khi chế tạo đồ dùng, chúng ta phỏng theo hình tượng trong Kinh. Khi bói toán, chúng ta theo nguyên lý bói phệ trong Kinh. Vậy, Kinh Dịch có 4 công dụng, công dụng quan trọng là bói phệ, để biết thời cơ, tránh xấu tìm tốt, tránh họa tìm phúc; gọi là dự đoán học. Hệ từ thượng truyện viết, Kinh Dịch có bốn đạo, thánh nhân thường dùng là: Khi nói năng, chúng ta theo lời từ (quái từ, hào từ) trong Kinh.Khi hành động, chúng ta tuân theo lẽ biến hóa trong Kinh. Khi chế tạo đồ dùng, chúng ta phỏng theo hình tượng trong Kinh. Khi bói toán, chúng ta theo nguyên lý bói phệ trong Kinh.Vậy, Kinh Dịch có 4 công dụng, công dụng quan trọng là bói phệ, để biết thời cơ, tránh xấu tìm tốt, tránh họa tìm phúc; gọi là dự đoán học. Hệ từ thượng viết: Người quân tử sắp làm việc gì, thì dùng bói phệ mà hỏi Dịch. Dịch nhận được mệnh bói phệ và trả lời nhanh như tiếng vang; không kể xa gần, sâu tối, Dịch cũng biết được cái gì sẽ xảy ra. Nếu Dịch không phải là cái gì rất tinh vi trong thiên hạ thì đâu có làm được như vậy? Kinh Dịch cũng khẳng định: Qua Bát quái (dự đoán) mà biết được tốt xấu (cát hung), thì sẽ làm nên nghiệp lớn (đại nghiệp). Có nhà nghiên cứu còn cho rằng, Kinh Dịch – Bát quái vốn bao la vạn tượng, không gì là không có ở trong đó, là kho thông tin vô tận của nhân loại; chúng ta sử dụng (để dự đoán) hoài không hết và không tốn kém tiền bạc, khác với những kho thông tin, những kênh, những phương tiện thông tin hiện đại khác! Hệ từ thượng viết: Người quân tử sắp làm việc gì, thì dùng bói phệ mà hỏi Dịch. Dịch nhận được mệnh bói phệ và trả lời nhanh như tiếng vang; không kể xa gần, sâu tối, Dịch cũng biết được cái gì sẽ xảy ra. Nếu Dịch không phải là cái gì rất tinh vi trong thiên hạ thì đâu có làm được như vậy?Kinh Dịch cũng khẳng định: Qua Bát quái (dự đoán) mà biết được tốt xấu (cát hung), thì sẽ làm nên nghiệp lớn (đại nghiệp).Có nhà nghiên cứu còn cho rằng, Kinh Dịch – Bát quái vốn bao la vạn tượng, không gì là không có ở trong đó, là kho thông tin vô tận của nhân loại; chúng ta sử dụng (để dự đoán) hoài không hết và không tốn kém tiền bạc, khác với những kho thông tin, những kênh, những phương tiện thông tin hiện đại khác!
Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư - Hi Di Trần Đoàn
Tử vi đẩu số toàn thư (1973) Tác giả: Hi Di Trần Đoàn Dịch giả: Vũ Tài Lục Tử vi đẩu số toàn thư (1973)Tác giả: Hi Di Trần ĐoànDịch giả: Vũ Tài Lục Cuốn sách này được làm thành, đại bộ phận dịch từ tập : Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh do La Hồng Tiên biên soạn, do nhà xuất bản Trúc Lâm An Thư Cục ấn hành tại Đài Loan. Phần bình chú qua tham khảo các sách Tử Vi Xiến Vi của Trương Huy Văn, Chiêm Tinh Thuật của Hoàng Tiểu Nga, Mệnh Lý Huyền Vi của Vô Nhai Cư Sĩ, Trích Thiên Tuỷ của Lưu Bá On, Mệnh Lý Giảng Nghĩa của Vi Thiên Lý, Hám Long Kinh của Dương Quân Tùng, Tạo Hoá Nguyên Thược của Nhiệm Thiết Tiều, Mệnh Lý Chính Tôn của Thần Phong Khảo, Uyên Hải Từ Bình của Từ Tử Bình, Quỷ Cốc Toán Mệnh Thuật … Phần phú nôm để đối chiếu, chúng tôi trích dẫn từ việc ghi chép công phu của Tử Vi Ao Bích của Việt Viêm Tử và Tử Vi Thực Hành của Dịch Lý Huyền Cơ. Cuốn sách này được làm thành, đại bộ phận dịch từ tập : Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh do La Hồng Tiên biên soạn, do nhà xuất bản Trúc Lâm An Thư Cục ấn hành tại Đài Loan. Phần bình chú qua tham khảo các sách Tử Vi Xiến Vi của Trương Huy Văn, Chiêm Tinh Thuật của Hoàng Tiểu Nga, Mệnh Lý Huyền Vi của Vô Nhai Cư Sĩ, Trích Thiên Tuỷ của Lưu Bá On, Mệnh Lý Giảng Nghĩa của Vi Thiên Lý, Hám Long Kinh của Dương Quân Tùng, Tạo Hoá Nguyên Thược của Nhiệm Thiết Tiều, Mệnh Lý Chính Tôn của Thần Phong Khảo, Uyên Hải Từ Bình của Từ Tử Bình, Quỷ Cốc Toán Mệnh Thuật … Phần phú nôm để đối chiếu, chúng tôi trích dẫn từ việc ghi chép công phu của Tử Vi Ao Bích của Việt Viêm Tử và Tử Vi Thực Hành của Dịch Lý Huyền Cơ.
60 Năm Sinh Trong Hoa Giáp
Trong một thế giới rộng lớn và vũ trụ bao la vô cùng, vô tận, con người luôn muốn biết, muốn tìm hiểu, nghiên cứu những bí ẩn và ứng nghiệm những kiến thức và hiểu biết của mình, nhằm thỏa mãn khao khát ước muốn và trí tò mò của bản thân. Trong một thế giới rộng lớn và vũ trụ bao la vô cùng, vô tận, con người luôn muốn biết, muốn tìm hiểu, nghiên cứu những bí ẩn và ứng nghiệm những kiến thức và hiểu biết của mình, nhằm thỏa mãn khao khát ước muốn và trí tò mò của bản thân. Ấy vậy mà trí tuệ của loài người vẫn đang còn bị hạn chế. Mặc dù từ thế hệ này qua thế hệ khác, mỗi ngày loài người lại khám phá cái mới, sáng tạo cái mới, nhưng cũng đồng thời lại quên lãng hay bỏ qua nhiều kiến thức uyên thâm, những thành quả vĩ đại của các thời đại cổ xưa ví dụ như các nền văn minh In Ca, Cổ: Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc v.v… Nhiều nền văn minh sán lạng của lục địa Châu Phi cổ xưa đã làm con người ngày nay phải ngỡ ngàng, sững sờ khi tình cờ phát hiện ra từ lòng đất. Ngay như một điều hiển nhiên là trái đất quay quanh mặt trời, thế mà gần 16 thế kỷ (kể từ công lịch) các học thuyết tôn giáo vẫn phủ nhận và khi Galile bác bỏ thuyết “địa tâm” ủng hộ thuyết “nhật tâm” của Copecnic ông đã bị thiêu sống. Rồi Bruno cũng phải chết trong tù đầy vì ủng hộ cái sự thật hiển nhiên ấy! Thế mới biết nhiều khi chính con người đề ra học thuyết này, nọ và các trường phái triết học khác nhau chỉ bởi vì lợi ích giai cấp của trường phái, chứ họ không quan tâm mấy đến sự thực hiển nhiên là vậy. Ai cũng bảo cái của mình là duy nhất đúng, là chân lý tuyệt đối. Không, vũ trụ bao la và vô tận, thế giới con người, sinh vật và thực vật vẫn còn chất chứa vô vàn huyền bí mà loài người với trí tuệ còn có hạn của mình vẫn hàng giờ say sưa khám phá, chiêm nghiệm hết thế hệ này đến thế hệ khác để thỏa mãn trí tò mò và vì lợi ích của chính mình. Về lĩnh vực con người, hàng nghìn năm trước cho đến ngày nay người ta cũng rất muốn biết những điều bí ẩn của chính mình. Biết bao học giả đã, đang dày công nghiên cứu áp dụng và kiểm chứng qua nhiều khoa phép để dự đoán xem tương lai của mỗi cá thể sẽ phải trải qua trong thời gian sống thế nào. Đã có nhiều khoa dự báo ra đời. Ví như: dùng thuật tướng. Các tướng thuật gia cho rằng “Mệnh là căn bản của một đời người. Tướng là trợ thủ cho Mệnh mà hình thành”. Như vậy có Mệnh ắt phải có Tướng và ngược lại có Tướng phải có Mệnh. Nếu riêng về Thuật Tướng, con người còn chia nhỏ để kiểm nghiệm, đúc kết ví dụ: gồm Diện Tướng (tướng mặt), Hình Tướng (tướng dáng người), Tọa Tướng (tướng ngồi), Thanh Tướng (tướng qua tiếng nói) v.v.. Tướng Thuật gia nổi tiếng đời Đường Trung Quốc, ngài Viên Thiện Cương sau khi xem tướng cho Võ Tắc Thiên năm lên 9 tuổi đã tiên đoán với diện tướng “mắt rồng, cổ phượng, tướng cực quý hiếm” sẽ là thiên tử. Quả đúng là với dự đoán ấy, 28 năm sau ứng nghiệm. Hay dùng Thuật số (tử vi). Ở thời Tiền nhà Đường, Trung Quốc có rất nhiều Mệnh số gia nổi tiếng như: Ngài Dương Cấn ở Tứ Xuyên, tuy bị lòa mà giỏi đoán Mệnh, ông Thông Diễn, ông Chương Tấn Công, tể tướng bị bãi chức thời Kánh Lịch (Trung Quốc) v.v… đều là những Mệnh số gia uyên thâm dự báo, số mệnh không một lần sai. Họ đã được sách sử ghi chép. Rồi còn Chiêm tinh gia, Bốc Phệ gia (bốc quẻ); Nhà ngoại cảm, hay Kinh Dịch gia độn Giáp v.v.. Tất cả đều là các khoa phép dự báo ứng nghiệm trong thực tế cuộc sống. Cuối thế kỷ XX có nhiều Chiêm tinh gia rất nổi tiếng, nhà ngoại cảm tài ba, nhưng họ cũng chịu bất hạnh vì sự thù ghét của ý thức hệ. Đó là bà Vangelia Pendeva Minitrova, người phụ nữ Bulgari được mệnh danh là nhà tiên tri Vanga nhìn thấu tương lai và quá khứ, bà bị mù năm 16 tuổi và khi 30 tuổi đã thành nhà tiên tri và chính bà cũng đã bị ngồi tù vì không phù hợp ý thức hệ đang thống lĩnh lúc đó. Người phụ nữ Pháp Maria Adelaida Lenorman sinh ra ở Alanson Paris 1772 đã từng dự báo qua những con bài để biết về số phận chính xác đến tuyệt đối, ngay cả của hoàng đế nước Pháp hồi bấy giờ là Napoleon Bounaparte… Còn rất nhiều nhà ngoại cảm tìm hài cốt lỗi lạc nữa… Với quyển sách nhỏ được tập hợp từ nhiều kiểm chứng Đông, Tây, kim cổ góp phần dự báo để bạn đọc chiêm nghiệm và tham khảo. Ấy vậy mà trí tuệ của loài người vẫn đang còn bị hạn chế. Mặc dù từ thế hệ này qua thế hệ khác, mỗi ngày loài người lại khám phá cái mới, sáng tạo cái mới, nhưng cũng đồng thời lại quên lãng hay bỏ qua nhiều kiến thức uyên thâm, những thành quả vĩ đại của các thời đại cổ xưa ví dụ như các nền văn minh In Ca, Cổ: Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc v.v…Nhiều nền văn minh sán lạng của lục địa Châu Phi cổ xưa đã làm con người ngày nay phải ngỡ ngàng, sững sờ khi tình cờ phát hiện ra từ lòng đất. Ngay như một điều hiển nhiên là trái đất quay quanh mặt trời, thế mà gần 16 thế kỷ (kể từ công lịch) các học thuyết tôn giáo vẫn phủ nhận và khi Galile bác bỏ thuyết “địa tâm” ủng hộ thuyết “nhật tâm” của Copecnic ông đã bị thiêu sống. Rồi Bruno cũng phải chết trong tù đầy vì ủng hộ cái sự thật hiển nhiên ấy!Thế mới biết nhiều khi chính con người đề ra học thuyết này, nọ và các trường phái triết học khác nhau chỉ bởi vì lợi ích giai cấp của trường phái, chứ họ không quan tâm mấy đến sự thực hiển nhiên là vậy.Ai cũng bảo cái của mình là duy nhất đúng, là chân lý tuyệt đối.Không, vũ trụ bao la và vô tận, thế giới con người, sinh vật và thực vật vẫn còn chất chứa vô vàn huyền bí mà loài người với trí tuệ còn có hạn của mình vẫn hàng giờ say sưa khám phá, chiêm nghiệm hết thế hệ này đến thế hệ khác để thỏa mãn trí tò mò và vì lợi ích của chính mình.Về lĩnh vực con người, hàng nghìn năm trước cho đến ngày nay người ta cũng rất muốn biết những điều bí ẩn của chính mình. Biết bao học giả đã, đang dày công nghiên cứu áp dụng và kiểm chứng qua nhiều khoa phép để dự đoán xem tương lai của mỗi cá thể sẽ phải trải qua trong thời gian sống thế nào. Đã có nhiều khoa dự báo ra đời. Ví như: dùng thuật tướng. Các tướng thuật gia cho rằng “Mệnh là căn bản của một đời người. Tướng là trợ thủ cho Mệnh mà hình thành”. Như vậy có Mệnh ắt phải có Tướng và ngược lại có Tướng phải có Mệnh. Nếu riêng về Thuật Tướng, con người còn chia nhỏ để kiểm nghiệm, đúc kết ví dụ: gồm Diện Tướng (tướng mặt), Hình Tướng (tướng dáng người), Tọa Tướng (tướng ngồi), Thanh Tướng (tướng qua tiếng nói) v.v..Tướng Thuật gia nổi tiếng đời Đường Trung Quốc, ngài Viên Thiện Cương sau khi xem tướng cho Võ Tắc Thiên năm lên 9 tuổi đã tiên đoán với diện tướng “mắt rồng, cổ phượng, tướng cực quý hiếm” sẽ là thiên tử. Quả đúng là với dự đoán ấy, 28 năm sau ứng nghiệm.Hay dùng Thuật số (tử vi). Ở thời Tiền nhà Đường, Trung Quốc có rất nhiều Mệnh số gia nổi tiếng như: Ngài Dương Cấn ở Tứ Xuyên, tuy bị lòa mà giỏi đoán Mệnh, ông Thông Diễn, ông Chương Tấn Công, tể tướng bị bãi chức thời Kánh Lịch (Trung Quốc) v.v… đều là những Mệnh số gia uyên thâm dự báo, số mệnh không một lần sai. Họ đã được sách sử ghi chép.Rồi còn Chiêm tinh gia, Bốc Phệ gia (bốc quẻ); Nhà ngoại cảm, hay Kinh Dịch gia độn Giáp v.v.. Tất cả đều là các khoa phép dự báo ứng nghiệm trong thực tế cuộc sống.Cuối thế kỷ XX có nhiều Chiêm tinh gia rất nổi tiếng, nhà ngoại cảm tài ba, nhưng họ cũng chịu bất hạnh vì sự thù ghét của ý thức hệ. Đó là bà Vangelia Pendeva Minitrova, người phụ nữ Bulgari được mệnh danh là nhà tiên tri Vanga nhìn thấu tương lai và quá khứ, bà bị mù năm 16 tuổi và khi 30 tuổi đã thành nhà tiên tri và chính bà cũng đã bị ngồi tù vì không phù hợp ý thức hệ đang thống lĩnh lúc đó. Người phụ nữ Pháp Maria Adelaida Lenorman sinh ra ở Alanson Paris 1772 đã từng dự báo qua những con bài để biết về số phận chính xác đến tuyệt đối, ngay cả của hoàng đế nước Pháp hồi bấy giờ là Napoleon Bounaparte… Còn rất nhiều nhà ngoại cảm tìm hài cốt lỗi lạc nữa…Với quyển sách nhỏ được tập hợp từ nhiều kiểm chứng Đông, Tây, kim cổ góp phần dự báo để bạn đọc chiêm nghiệm và tham khảo.