Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Việt - Chủ Nhân Của Kinh Dịch Và Chữ Vuông (Viên Như)

Dịch học là một triết học xa xưa của người Á Đông. Mặc dù ra đời cách đây trên 5000 năm nhưng sức hấp dẫn của nó càng ngày càng lan tỏa mạnh mẽ, không những tại những nơi nó đã từng phát triển như Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bổn, Cao Li mà ngày nay nó còn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu phương Tây. Có thể nói Dịch học như là Bản thể luận đầu tiên của nhân loại; đồng thời cũng là Hiện tượng luận hay nói theo Phật giáo là Pháp tướng luận. Chính vì điều này mà nó không những cung cấp cho người ta hiểu biết về bản chất của nhân sinh và vũ trụ mà còn cho phép con người có những dự đoán dựa trên những kết quả có tính siêu nhân quả. Vì ảnh hưởng của nó lớn lao như thế nên vấn đề nguồn gốc của nó càng làm cho những người nghiên cứu quan tâm hơn.

Tất nhiên vấn đề này đã được đề cập từ xa xưa, cách đây hàng ngàn năm nhưng ngày nay khi nhìn lại, người ta nhận ra rằng câu hỏi “Ai là tác giả Dịch học” vẫn chưa được xác định một cách khoa học. Tại Trung Hoa, các học giả chưa đưa ra được câu trả lời thỏa đáng, dù nói đến Dịch học hầu như ai cũng nghĩ nơi đây là quê hương triết lí này.

Trong hướng đi tìm nguồn gốc của Dịch học, vài thập niên qua, ở Việt Nam có một số nhà nghiên cứu cho rằng Dịch học có nguồn gốc từ người Lạc Việt. Nhiều người đã đưa ra những chứng lí để chứng minh cho lập trường của mình, có thể nói rằng những lập luận ấy khá thuyết phục. Tuy nhiên vì là suy diễn nên chưa được chấp nhận rộng rãi, điều này cũng dễ hiểu, vì hàng ngàn năm qua Nam và Bắc cùng chia sẻ một không gian lịch sử, trong đó có sự phát triển của Dịch học mà sách vỡ viết về Dịch chủ yếu viết bằng chữ Hán.

Cùng trong hướng đó, tác giả đã đề nghị trong cuốn sách rằng: “không chỉ là suy diễn mà là những bằng chứng cho thấy rằng chính người Lạc Việt đã sáng tạo nên hệ thống Dịch lí và chữ Vuông, vì hoàn cảnh lịch sử, câu chuyện ấy đã được kể lại hoặc là mơ hồ hoặc là dưới tên của dân tộc khác. Tuy nhiên Tổ Tiên người Việt đã khéo léo cất dấu cái văn hóa huyền vĩ của mình dưới những cách thức khác nhau của ngôn ngữ dân tộc mình. Đây là một nổ lực vô cùng lớn lao và đầy trí tuệ. Bởi vì những gì mà ta nhận được từ những trống đồng, tranh dân gian hay chuyện ngụ ngôn là những thông tin có tính hệ thống, xuyên suốt, phù hợp với những gì đã lưu lại trong sách vở từ hàng ngàn năm qua về Dịch học. Từ những phát hiện như vậy, tôi xin giới thiệu với bạn đọc những gì mà Tổ Tiên người Việt đã làm, đã cất dấu để lưu lại cho hậu thế cái thông điệp rằng “Người Việt chính là tác giả của Dịch học và chữ Vuông”. Đây là những phát hiện mà tôi cho rằng quá mới nên nhất định có nhiều giới hạn, mong được sự góp ý của các thức giả.”***

Kính dâng Thầy và Cha Mẹ Tìm mua: Người Việt - Chủ Nhân Của Kinh Dịch Và Chữ Vuông TiKi Lazada Shopee

NGƯỜI VIỆT − CHỦ NHÂN ĐÍCH THỰC CỦA KINH DỊCH VÀ CHỮ VUÔNG(thay Lời giới thiệu)

Cách đây gần chục năm tôi tình cờ được một người bạn gửi qua email tặng cho bản đồ địa mạch với hình con rồng từ đỉnh Everest cao hơn 8.800m đến đáy vịnh Mindanao sâu 11.000m mà đầu và đuôi rồng chênh nhau 20 km. Nhìn vào đây, bất cứ ai cũng có thể nhận thấy rằng chính thân rồng này là cột xương sống vô cùng vững chắc giữ cho Trái đất của chúng ta không bị thay đổi và biến dạng. Rằng 500 km trong số 7.000 km của thân rồng nằm trên đất Việt Nam là vô cùng quan trọng.

Tôi cũng thấy rất rõ hình chữ S của đất nước chúng ta chính là hình ảnh của âm dương trong âm dương ngũ hành rất quý giá và cần thiết. Rằng thế cân bằng, quyền biến của người Việt từ xưa đến nay giúp chúng ta không bị đồng hóa mà vẫn giữ mãi được bản sắc dân tộc.

Tôi bắt đầu đi lọ mọ tìm hiểu về Phong thủy, Dịch lí hay Thái ất Cửu cung mà các cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp… đánh giá rất cao. Càng đọc, càng nghiên cứu mới càng thấy rất hay, nhiều thứ kỳ bí và rất cần khám phá dài lâu. Ma trận được dần hé mở.

Như một thiền sinh và một nhà nghiên cứu, tôi dần dần ráng tìm tòi về cội nguồn đầu tiên của dân tộc Việt Nam liên quan đến Bách Việt. Tôi cũng nhiều lần tự đưa ra các giả thuyết về nguồn gốc của Kinh Dịch, Hà đồ, Lạc thư. Trong thâm tâm, rất mong muốn tìm lại cuốn Kinh Dịch gốc đã bị mất.

Tôi cũng xem lại trong sử sách để tìm về với nhân vật nổi tiếng mà không người Việt nào không biết − Cao Biền. Ông được phái sang đất Việt tìm các huyệt quý để yểm, hòng tiêu diệt hiền tài của nước Nam. Ông ta đã tìm ra 632 huyệt chính, huyệt phát vương và 1.517 huyệt bàng, huyệt phát quan và đã cố yểm nhưng không yểm được. Cũng theo sử sách, đến đời nhà Minh, Hoàng Phúc lại được sai sang nước Việt để tiếp tục yểm bùa nhằm biến nước Nam thành quận huyện của họ, nhưng không thành.

Rồi tôi nghiên cứu lại các tài liệu của các vị thầy, các học giả đi trước và thấy rất rõ rằng đứng về mặt phong thủy thì đất nước Việt Nam là cái hình thế rất rất đặc biệt đối với phương Bắc. Càng ngẫm càng thấy rất đặc biệt và rất quan trọng. Quan trọng không chỉ với riêng Việt Nam mà cả khu vực và quốc tế.

Rồi tôi ngồi nhớ lại các vị thầy, các vị thiền sư nổi tiếng và tiền bối của nước ta như Thiền sư Định Không (730-808) cùng các học trò là Đình Hương, Thông Thiện. Rồi Thiền sư La Quý An, thiền sư Vạn Hạnh để nhớ mãi về sự ra đời của vua Lý Công Uẩn và triều đại Lý Trần hưng thịnh mãi sau này.

Cách đây vài năm, tôi gặp thầy Viên Như trong khuôn khổ Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Cung văn hóa Việt Xô tại Thủ đô Hà Nội. Chúng tôi trao đổi với nhau những tâm huyết về đất nước và dân tộc, về thiền và tu tập, về Kinh Dịch và nhiều thứ khác nữa. Để rồi hai thầy trò giữ liên lạc với nhau dài lâu, thường xuyên và mãi đến bây giờ.

Trong một chuyến nghỉ mát của cả Công ty Sách Thái Hà tại Đà Lạt và Nha Trang, tôi và bạn đồng nghiệp Nguyễn Ngọc Quân - Giám đốc Trung tâm Xuất bản Thái Hà Books đã gặp thầy Viên Như và cùng xem bản thảo cuốn sách Người Việt - chủ nhân của Kinh Dịch và chữ Vuông. Tôi giật mình. Đúng những gì tôi đang nghiên cứu, tìm tòi bao năm nay. Chúng tôi quyết định xuất bản cuốn sách này ngay lập tức.

Tôi đọc đi đọc lại bản thảo này và thấy rằng thầy trò chúng tôi đang đi cùng một hướng, đang làm cùng một việc. Tôi cũng thấy ra một tương lai huy hoàng chung trên một tầm nhìn vĩ đại. Rằng đất nước Việt Nam của chúng ta vô cùng tuyệt vời và đã được chọn, thử thách mấy ngàn năm nay. Rằng chúng ta đã và đang tìm được về với cội nguồn, với hồn thiêng sông núi. Rằng sau khi bị đô hộ 1.117 năm, Việt Nam ta nay đã biết tự hào về chính mình và thức dậy như con rồng bắt đầu cất cánh bay lên. Ôi Thăng Long!

Dân tộc Việt Nam đã được thử thách trọn vẹn suốt mấy ngàn năm nay. Chúng ta sở hữu tài sản quý giá là Tình Thương và Trí Tuệ trên tinh thần bất khuất ngàn đời mà ta quên mất. Chúng ta là con rồng cháu tiên mà đâu có hay. Chúng ta sở hữu cả những tài sản vô giá của nhân loại mà mải ngủ quên trong si mê và phiền não. Ôi Thăng Long thật đây rồi!

Tôi thấy rằng đã bắt đầu cho một sự chuyển dịch lớn lao của dân tộc Việt và rằng cần một bộ máy với những con người trong bộ máy hòa cùng nhịp đập để Việt Nam cất cánh. Ôi Thăng Long!

Tôi ngồi thiền và thấy rất rõ tiếng trống đồng của các vua Hùng đang thúc giục, thấy rõ chim lạc, chim hồng đang bay cao bay thấp đâu đó quanh mỗi chúng ta. Rằng Kinh Dương Vương đang đánh thức chúng ta. Rằng kinh lạc đang có sẵn trong mỗi con người Việt. Chúng ta chỉ cần có tỉnh thức, chỉ cần thở và cười trong bình an và chánh niệm thì con rồng trong ta sẽ thức tỉnh. Chúng ta đánh thức rồng thức dậy để bay cao bay xa, vì một nước Việt Nam hùng cường và thịnh vượng.

Thân mong bạn đọc kỹ cuốn sách này và cùng tôi thấy một kỷ nguyên mới đang được vận hành. Tôi đang nói thầm và muốn bạn hô to lên cùng tôi “TÔI TỰ HÀO LÀ NGƯỜI VIỆT NAM” và “VIỆT NAM THĂNG LONG”.

Thủ đô Hà Nội, sáng ngày 8 tháng 8 năm 2014

TS. Nguyễn Mạnh Hùng

Chủ tịch Hội đồng Quản trị

kiêm Tổng Giám đốc Công ty CP Sách Thái Hà

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Việt - Chủ Nhân Của Kinh Dịch Và Chữ Vuông PDF của tác giả Viên Như nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Dự đoán tương lai bằng phương pháp số hóa
Cuốn sách “Dự đoán tương lai bằng phương pháp số hóa” phát hành dựa trên sự mã hóa các chữ thành số như: Mã số, mã vạch cho sản phẩm, mã hóa tên người…Những số tự nhiên trong số hóa đã mang một chức năng khác, nó ẩn chứa các thông tin để biết như giá cả, thứ loại của sản phẩm hay những thông tin cá nhân… Môn dự đoán qua số hóa cũng trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển đến ngày nay. Bằng phương pháp số hóa, mỗi người có một cách khai thác, ứng dụng theo hướng mà họ quan tâm.Thời xa xưa người Trung Hoa đã vận dụng số hóa vào nhiều môn dự đoán như : Ngọc chưởng thần quái, Bát quái thần toán, Tính danh dự đoán học … Đến thế kỷ XX phương pháp số hóa bắt đầu ứng dụng vào một số lĩnh vực : công nghệ, thương mại, quân sự…
36 KẾ NHÂN HÒA
Trong xã hội ngày nay, cơ hội nhiều và thử thách cũng nhiều. Mọi người đều khao khát thành công, tạo dựng sự nghiệp, xây dựng gia đình ổn định. Nhưng muốn có được một chỗ đứng ổn định trong thương trường, xã hội mà không có một hệ thống triết lý, mưu kế xử thế cao siêu thấu đạt lòng người thì rất khó thành công. Nhân sinh xử thế cốt ở chữ "Độ", xử sự đúng phân lượng là cảnh giới tối cao. Cương trực vốn rất tốt nhưng quá cương trực thành gai góc, sắc sảo khiến người ta sợ hãi thì người đời khó chấp nhận. Hòa vốn tốt nhưng nếu chỉ cầu hòa đến đánh mất nguyên tắc, thiếu chủ kiến riêng, nhân nhượng, tất cả chỉ để cầu hòa thì thường bị coi là hèn. Cổ xưa từng nói: Thiên thời không bằng địa lợi. Địa lợi không bằng Nhân hòa. Cuốn ebook 36 Kế Nhân Hòa này nhằm cung cấp cho bạn đọc một ít kỹ xảo xử thế nhân gian, mong rằng có thể giúp bạn thuận buồm xuôi gió thẳng tiến đến thành công.Mục LụcKế 1. Kế ban ơnKế 2. Kế vu hồiKế 3. Kế mượn cớKế 4. Kế tấn công cạnh sườnKế 5 Kế khen thưởngKế 6 Kế lán tụngKế 7. Kế kích tướngKế 8: Kế dát vàngKế 9: Kế chữa thẹnKế 10. Kế phủng trường (Kế phò tá)Kế 11. Kế mượn uy danhKế 12. Kế hóa giảiKế 13. Kế nhượng bộKế 14. Kế lự tràoKế 15. Kế nhìn mặtKế 16. Kế hai mặtKế 17. Kế đe dọaKế 18. Kế thăm dòKế 19. kế nắm đằng chuôiKế 20. Kế che đậyKế 21. Mài cho mềm ngâm cho nhũnKế 22. Kế câu cáKế 23. Kế hạ đàiKế 24.Kế phản hồi ( nghĩ lại, quay ngược )Kế 25. Kế ứng biếnKế 26. Kế giả nguKế 27. Kế bán khôn mà ănKế 28. Kế lộ xấuKế 29. Kế phản pháoKế 30. Kế phản ngữKế 31. Kế bè đảngKế 32. Kế đe dọaKế 33. Kế xuống đài.Kế 34. Kế ám thịKế 35. Kế đàm phánKế 36. Kế thăm dò
Bát Tự Hà Lạc lược khảo - Học Năng
Bát tự Hà Lạc (có sách ghi là Tám chữ Hà Lạc) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý của Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành,... bằng cách lập quẻ Tiên thiên với hào nguyên đường và quẻ Hậu thiên; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. Bát tự Hà Lạc (có sách ghi là Tám chữ Hà Lạc) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý của Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành,... bằng cách lập quẻ Tiên thiên với hào nguyên đường và quẻ Hậu thiên; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. LỜI NÓI ĐẦUMột ông bạn già bảo Soạn giả: “Suốt đời anh chỉ lấy số giúp cho người, Tài Tử thế. Nếu không thích hành nghề, thì sao chẳng viết sách đi? Môn Bát Tự Hà Lạc của anh có cỡ lắm rồi đấy!”.Chỗ thân nên mới trả lời văng mạng rằng: “Cớ gì! mắc cỡ thì có. Nào đã biết gì đâu mà viết với lách. Học số tuy gần 40 năm thật, nhưng lẽ quyển Kinh Dịch chưa sờn, chứ đừng có nói là đã hân hạnh dứt lấy một lần, thì phỏng viết sách ra có ích gì, hay chỉ làm thiệt lấy đôi ba ram giấy và ít ký mực của học sinh nghèo”.Ông bạn nghe xong mỉm cười rồi lại nghiêm nét mặt mà nói: “Chà! mặc cảm vừa vừa thôi chứ. Tuổi anh nay mai sắp sang tuần “Thất - Thập cổ lai hi rồi”, liệu ít nữa, xuống lòng đất mẹ có mang được tí sở học đi không? Mà nếu thiên hạ ai cũng nghĩ (Tếu) như anh cả, thì rồi môn BÁT - TỰ HÀ - LẠC đến mất giống ư?Tuy câu chuyện đối đáp tầm phào như trên, mà rồi cũng làm cho đầu óc phải suy nghĩ. Soạn giả tự nhủ: “Ừ, anh bạn nói cũng có lý. Như người học Phật có ứng khẩu được KỆ mới là hiểu KINH. Học sách Thánh Hiền mà không làm được bài vở gì thì sao gọi là triết học. Suốt đời chưa trình làng được một chữ nghĩa nào về LÝ - SỐ, thì rồi đây, khi sang thế giới bên kia lỡ gặp các Cụ: Chu Công, Khổng Tử, Trần Đoàn, Thiệu Khang Tiết v.v... liệu các Cụ có để yên cho hay không, hay Khai trừ thẳng cánh”. Nghĩ vậy mà thấy rờn rợn góc gáy, nên rấp tâm phải viết một cái gì về LÝ SỐ, mặc dù vẫn viết rằng: Viết ra thì cũng tội, mà không viết ra cũng tội.Nhưng viết gì đây?Tử Vi, KINH DỊCH, MAI HOA, KỲ MÔN,GIÁP ĐỘN v.v... đều đã đủ mặt ở thị trường sách vở từ trong Thư Cục, Ấn Quán cho ra đến vỉa hè. Nhìn kỹ thì thấy thiếu BÁT TỰ và HÀ LẠC LÝ SỐ là 2 môn thịnh hành nhất ở các phố Hoa Kiều.Gần đây, tình cờ gặp một thầy Tướng Số, người Hoa Kiều là chỗ quen nên ông ta hỏi: “Học giả Việt Nam các ông chỉ có lấy Tử Vi thôi, không ai biết lấy BÁT TỰ và HÀ LẠC à?”.Chẳng lẽ soạn giả lại vô lễ nổi xung lên, nhưng liền nhớ ngay câu chuyện đối thoại xưa giữa YẾT KIÊU đục thuyền và giặc Nguyên, nên cũng bắt chước lối hiên ngang mà trả lời rằng: “Học giả Việt chúng tôi, trừ hạng tôi ra, lấy đấu mà đong không hết, còn ai cũng uyên thâm đủ các môn NHÂM, CẦM, ĐỘN, TOÁN cả, con cháu Trạng Trình mà không tinh thông sao được. Ông đã đọc Sử nước tôi chưa? Sở dĩ chúng tôi chỉ lấy Tử Vi thôi, là vì khoa ấy dễ phổ biến hơn hết”.Ông thầy Tàu ngồi im. Lời của ông tuy không có gì là kỵ thị Văn Hóa, nhưng vô tình đã lùa ngọn roi châm chọc vào bên cạnh sườn Học Vấn gầy còm của Soạn giả, khiến hắn này phải có một quyết định như câu Dịch, hào 3 quẻ quải: “Quyết quyết độc hành”.Thôi, đúng cũng là số đến ngày phải cầm bút rồi, mặc dầu đây không phải là “Bút Mộng Hoa” của Thi Hào Lý Bạch chi cả mà chỉ là bút rỉ mực cợn, đi đôi với bộ mắt đã mờ, gân tay đã mỏi, nhưng cũng cứ cố gắng và mạo muội vạch ra cuốn BÁT TỰ - HÀ LẠC này.
Âm Phù Kinh - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Tựa Âm Phù Kinh là một quyển sách rất nhỏ của Đạo Lão, tương truyền là do Hoàng Đế (2697-2597) viết. Nhưng có nhiều học giả không công nhận như vậy. Trình Chính Thúc (Trình Di, Trình Y Xuyên, 1033-1107) cho rằng sách này được viết vào thời Ân (1766-1154) hay thời Chu (1122-255). Chu Hi (Chu Nguyên Hối, 1130-1200) cho rằng Lý Thuyên, một đạo sĩ đời vua Đường Huyền Tông (713-755) đã ngụy tạo ra. Chu Hi soạn Âm Phù khảo dị. Thiệu Khang Tiết (1011-1077) cho rằng Âm Phù Kinh được viết ra vào đời Chiến Quốc. Đạo tạng có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên. Trương Quả Lão (một vị trong Bát Tiên đời Đường) cũng có viết Âm Phù Kinh và có dẫn Y Doãn, Thái Công, Chư Cát Lượng, Lý Thuyên. Lại có bản do 11 người chú: Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc, Trương Lương, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong, Lý Thuyên, Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh. - Thạch Đại Dương Nhân Sơn, một người rất giỏi về Đạo Phật, chú Âm Phù theo Phật. - Lý Gia Du giỏi Dịch giảng Âm Phù theo Dịch. - Đơn Chân Nhân, Khấu Trương, Trương Quả Lão, Lý Thuyên là các Đạo Gia nên bình Âm Phù theo Lão. Trịnh Tiều Nghệ Văn cho biết trước sau có 38 bộ Âm Phù Kinh biên soạn thành 51 quyển. Như vậy mỗi người chú Âm Phù một cách. Binh gia giải theo Binh Gia, Đạo Gia giải theo Đạo Gia, Phật Gia giải theo Phật Gia. Nhưng Âm Phù Kinh vẫn là Âm Phù Kinh. (Xem Vô Tích Hoàng Nguyên Bính tiên thích, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, Tựa) Tại sao một quyển sách chỉ vẻn vẹn có ba bốn trăm chữ mà được nhiều học giả mê thích như vậy? Thưa vì nó đưa ra một học thuyết quá hay: Đó là hãy bắt trước Trời mà hành sự thì muôn việc đều hay. (Quan Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi hành tận hĩ. 觀 天 之 道 執 天 之 行. 盡 矣.) Trung Hoa Đạo giáo Đại Từ Điển viết: «Thánh Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các đắc kỳ nghi...» «Thánh nhân xem Trời, bắt chước Trời hành sự, nếu việc Trời việc người ăn khớp với nhau, làm gì cũng hợp đạo Trời, không làm gì sai trái với tự nhiên, thì trị nước hay tu thân đều tốt đẹp.» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm.) Xưa nay chỉ có ăn ở theo đúng cơ Trời, thời Trời, là hay, là tốt mà ít ai nhận thấy. Chúng ta thấy ngày có mặt trời, đêm có mặt trăng. Mà mặt trời thời hằng cửu, bất biến, mặt trăng thì tròn khuyết biến thiên. Mặt trời là Thái Cực, mặt trăng là Âm Dương. Trăng có tròn có khuyết, con người có khi tốt có khi xấu, nhưng lúc chung cuộc phải tiến tới viên mãn như trăng ngày rằm, như mặt trời chính Ngọ. Chu kỳ mặt trăng gồm đủ 64 quẻ Dịch mà chúng ta không thấy. Mỗi chớp mắt, mở mắt của chúng ta, mỗi một ngày một đêm, mỗi một tháng, mỗi một năm cũng gồm đủ 64 quẻ Dịch. Như vậy rõ ràng là Trời muốn chúng ta sống theo đúng tự nhiên, thì mọi sự sẽ chu toàn. Ngay quẻ Kiền đã dạy chúng ta phải bắt chước Trời mà hành sự. Đại Tượng quẻ Kiền viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健. 君 子 以 自 強 不 息: Trời cao mạnh mẽ xoay vần, Nên người quân tử quyết tâm tự cường. (Không hề ngưng nghỉ triển dương) Câu thứ 4 của Âm Phù Kinh cũng hết sức hay: Thiên Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã. (天 性 人 也, 人 心 機 也. 立 天 之 道 以 定 人 也.) Thiên Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời để xác định (xem) con người (tiến bộ đến đâu.) Đọc Âm Phù Kinh, tôi mới thấy rõ, Con người chính là Trời (Thiên Tính Nhân dã), còn Con người chỉ là Cái máy. Lập ra đạo Trời, cho thấy đâu là Đạo Người rốt ráo. Đạo Con Người thật ra là đạo tự nhiên bất biến. Con người sinh ra không phải là để khổ đau, mà chính là để luôn luôn sung sướng. Con người sinh ra cốt là để nhìn thấy trong mình, ngoài mình, đâu đâu cũng là Chân Thiện Mỹ. Con người hiện chưa được vậy, là vì quá ích kỷ và con u mê dốt nát mà thôi. Gần cuối sách, Âm Phù Kinh lại dạy bài học thứ ba: Thị cố quân tử tri tự nhiên chi Đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi. (是 故 君 知 自 然 之 道 不 可 違, 因 而 制 之.) Cho nên người quân tử không thể đi sai Đạo tự nhiên. Chỉ có thể nhân đó biến chế mà thôi. Xưa nay, người ta thường chống đối với tự nhiên, thích chinh phục thiên nhiên. (Going against Nature, conquering Nature). Nhưng cũng có người cho rằng cần phải tìm hiểu Tự Nhiên, Hiểu Tự Nhiên là Cứu Rỗi mình (Knowledge of Nature, as a way of Salvation), và chủ trương Theo Thiên Nhiên (Following the way of Nature). Cũng có người chủ trương theo tự nhiên là chết, đi ngược tự nhiên mới được trường sinh. (Thuận tắc tử, nghịch tắc Tiên). Biến chế Tự Nhiên Âu Châu dịch là Manipulation of Nature. (Xem Science and Civilisation in China, Vol. V, Joseph Needham, Index, nơi chữ Nature, tr. 541) Tôi tuyệt đối chủ trương ta không thể sống ngược với Thiên Nhiên được, nhưng phải nương theo Thiên Nhiên mà sống. Nếu dạy người đi ngược chiều hướng này là làm hại người mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn chấp nhận lời trên của Âm Phù Kinh. Câu Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên trong các sách luyện đơn là cốt dạy con người đi sâu vào phía Tâm Linh, chứ đừng để Tâm Thần phát tán ra ngoại cảnh, nhất là khi về già. Nghịch đây không phải là đi ngược Thiên Nhiên. * Chiều đi từ quẻ Phục cho tới quẻ Kiền thường được gọi là Chiều Nghịch. Chiều đi từ quẻ Cấu cho tới quẻ Khôn là chiều Thuận. Thuận là Thuận của phàm nhân; Nghịch là Thuận của Thánh Tiên. Âm Phù Kinh chủ trương: Bắt chước Trời mà hành sự, theo đúng cơ trời mà biến hóa, như vậy để cầu trường sinh. hay làm cho nước giàu dân mạnh, hay làm cho binh cường tướng mạnh để chiến thắng, tất cả đều là một nguyên tắc. (Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng.) (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh là: «Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.» (Âm Phù Kinh là sách Thánh Nhân thay Trời dạy huyền cơ Đạo Lý.) Thánh Nhân dụng tâm hết sức thâm trầm, thấy được Thiên Tính Bản Nhiên của mình, rồi theo đúng cơ vi, sống hợp nhất với lẽ Tự Nhiên. Nhìn vào lòng mình, theo đúng cơ vi Trời Đất, hiểu thế là hiểu rõ Âm Phù Kinh. «Thánh Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý. Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hĩ.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Thần Trời Đất với Thần trong ta là Một, nên khi hoạt động thời in như thần, khi tĩnh lặng thì có đủ Thần trong mình, mình và Thái Không là Một, mình với vạn hữu là bạn, Thể Tính của mình và Thể Tính của trời đất không có gì khác biệt, thế gọi là Đắc Đạo. «Thiên Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc Đạo.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh dạy ta lẽ Thiên Đạo và Nhân Tâm ám hợp với nhau, và muốn ta sống đúng theo Trời. «Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 333) Âm Phù Kinh xưa nay chỉ có hơn 300 chữ hay hơn 400 chữ. (SĐD, tr.333) Cộng thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phách thêm Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (SĐD, tr.333) Âm Phù Kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau. Và giải Âm là Âm, Phù là Phù Hợp. (SĐD, tr. 333) Âm Phù Kinh đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (SĐD, tr. 334) «Vạn vật hữu hình viết Âm, Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự Nhiên chi Đạo viết Kinh.» Lại nói: «Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã, Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (SĐD, tr. 334) Tôi dịch Âm Phù Kinh vì thấy một quyển sách nhỏ bé như vậy mà sao lại có nhiều danh nhân bình giải như thế. Tôi thấy những người như Lý Thuyên đời vua Đường Huyền Tông, ưa thích Đạo từ nhỏ, mới đầu Ông có được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Ông đọc cả ngàn lần mà vẫn không hiểu được thâm ý. Theo truyền thuyết thì Ông đã tới Ly Sơn và đã được một bà cụ dạy cho huyền nghĩa Âm Phù, Ông mới hiểu ý nghĩa Âm Phù. Sau đó Ông viết: Hoàng Đế Âm Phù Kinh Sớ, 3 quyển, Thái Bạch Âm Kinh, 10 quyển, Ly Sơn Lão Mẫu truyền Âm Phù huyền nghĩa, 1 quyển. Ông làm quan giữ chức Giang Lăng Tiết Độ Sứ phó Ngự Sử Trung Thừa. Ông là người có mưu lược, sau đó vào danh sơn qui ẩn, phục khí, tịch cốc, thanh tâm tu đạo, không rõ chết ra sao. Ông còn viết thêm ít sách khác. (Xem Du Tấn, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 97)