Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trái Đất Thức Tỉnh (Sal Rechele)

LỜI NÓI ĐẦU

Tôi biết một số người trong các bạn thường không đọc lời nói đầu của một cuốn sách. Nếu bạn là một người như vậy, tôi khẩn thiết yêu cầu bạn bỏ thói quen đó và dành chút thời gian đọc nó, khi nó chứa thông tin quan trọng để giúp bạn nắm được toàn bộ nội dung.

Cuốn sách này là cuốn sách thứ ba của tôi, và là bản viết thứ hai của tôi trong sự kết nối với những người hướng dẫn tinh thần của tôi, các Đấng Sáng Tạo (the Founders). Cuốn sách trước (“Life On the Cutting Edge,” và “Earth Change and 2012: Message From the Founders”), được nhắc tới vài lần trong cuốn sách này, không phải vì tôi muốn bán được nhiều hơn các cuốn sách đó, mà bởi vì có rất nhiều thông tin thích hợp để đi sâu vào tại thời điểm này, và để lặp lại nhiều lần các ý tưởng được đưa ra trước đây nhằm mang đến cho các bạn thông tin cập nhật trong một cuốn sách lớn đối với những độc giả trung bình.

Những lời tiên tri và dự đoán đưa ra ở đây được khảo sát từ hầu như tất cả các góc nhìn có thể, bao gồm tâm linh, siêu hình học, khoa học, triết học, tâm lý học, sinh học, kinh tế học, chính trị, địa vật lý, và nhiều hơn nữa. Hãy nghĩ chúng ta như những người mù đang sờ vào con voi và cố gắng có được bức tranh chính xác về con voi. Khoa học có thể là cái đuôi, sinh học là cái mình, và tâm linh là cái chân, vv...Tất cả các môn học có những giá trị, và tất cả chúng cũng có những giới hạn. Chúng tôi hy vọng bức tranh lớn được thể hiện ở đây sẽ giúp các bạn gắn các mảnh của Vũ Trụ rộng lớn lại với nhau.

LỜI NÓI ĐẦU..2 Tìm mua: Trái Đất Thức Tỉnh TiKi Lazada Shopee

MỘT BÌNH LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP TRAO TRUYỀN...11

MỘT CÁI NHÌN VÀO TƯƠNG LAI.13

GIỚI THIỆU Buổi Bình Minh Mới..17

Sự tốt nghiệp.17

Một cuộc hành trình vào tương lai...19

Một nét đại cương về ba Trái đất song song...23

Sự đồng sáng tạo cá nhân và sự đồng sáng tạo tập thể.24

Vượt qua cổng 2012.24

CHƯƠNG 1..27

Một Tổng Quan Về Dòng Thời Gian Tương Lai.27

Trải nghiệm cổng 2012.28

Những Thay Đổi Về Mặt Vật Lý Trong Những Linh Hồn Mật Độ 4...30

Góc Nhìn Từ Dưới Lên..32

Những Linh Hồn Mật Độ 4 Rời Bỏ Các Gia Đình Mật Độ 3 Của Họ Giai đoạn 2012 đến 2013...33

Di chuyển xa hơn trong 2013...35

Những Thách Thức Trong Các Cộng Đồng Giác Ngộ Năm 2014.35

Sự Xuất Hiện Của Các Hội Đồng Ánh Sáng (Councils of Light).38

Giai đoạn 2014 - 2016..39

Vương Quốc Chết Chóc Mật Độ 3..40

Trái Đất Mới Bắt Đầu Xuất Hiện Sao Chổi năm 2017...42

Các năm từ 2018 đến 2020..44

Các năm từ 2020 đến 2030...45

Sự bay qua của hành tinh Nibiru năm 2030..46

Sự Chuyển đổi Thiên hà: 2030 - 2100.48

CHƯƠNG 2..50

Bản Chất Của Thời Gian...50

Trái đất Phi tuyến và các Tầng thứ Sinh mệnh của Cô ấy..51

Mối quan hệ giữa Tư tưởng và Thời gian..52

Những Thay đổi trong Bản chất của Thời gian...53

Một thảo luận về các dòng thời gian có thể và các dòng thời gian chắc chắn...54

Đối Mặt Với Sự thật Của Cái Là Như Vậy (Truth of What Is)...56

Sáng Tạo Một Dòng Thời Gian Mà Trao Quyền Cho Các Bạn..56

Các Đời Sống Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai.57

Bản chất thực sự của Nghiệp...58

Nói thêm về các đời sống song song.59

Ba Dòng Thời Gian Trội Của Trái Đất Dòng Thời Gian Trội Của Mật Độ 3 Chết Chóc và Phá Hủy.61

Dòng Thời Gian Trội Của Các Cộng Đồng Giác Ngộ...62

Dòng Thời Gian Trội Của Sự Thăng Lên...62

CHƯƠNG 3..65

Những Thay Đổi Bên Trong.65

Những xúc tác cho sự thay đổi...65

Nguyên Nhân của Bóng tối trên Trái đất...67

Những cố gắng đảo ngược mọi thứ của các Đấng Lâm Phàm (Avartas)...68

Tính phức tạp của Tự do Ý chí..68

Sự Thức Tỉnh Tâm Linh.69

Những sự xao lãng trên con đường Tâm linh của các bạn...70

Linh hồn đẩy nhân tính trở lại với sự giác ngộ.70

Sự Thanh lọc trên Trái đất.71

Sự hư hỏng hệ thống miễn dịch trong các linh hồn mật độ 3.73

Sự hàn gắn của những linh hồn mật độ 4..76

Những kỹ thuật hàn gắn và trị liệu đề xuất..78

Thiền định Alpha-Theta..78

Tái lập trình tiềm thức.78

Tha thứ và buông bỏ.79

Liệu pháp Gestalt với sự hàn gắn tinh thần..80

Kỹ thuật Rebirthing...80

Hồi phục linh hồn và hợp nhất linh hồn..81

Sự giải phóng các thân thể ether và astral...82

Hàn gắn dòng thời gian (Timeline Healing)...82

Hàn gắn dòng thời gian ngược.83

Kết nối dòng thời gian tương lai.84

Những thay đổi sinh học trong các linh hồn đang thăng lên...85

Thay đổi Tư tưởng của các bạn và Hàn gắn Thân thể của các bạn...86

Phương tiện Ánh sáng Merkabah..88

Những Triệu chứng gen của sự Thăng lên Năng lượng Trẻ trung và Vô hạn..90

Những Thay đổi đối với các Tế bào của các bạn - Các Cơ cấu của sự Thăng lên...93

Tác động của các sự Chuyển đổi cổng đối với sự Thăng lên.95

Những Thay đổi Tâm lý được Chờ đợi khi Các Bạn Đi qua Các Cổng..96

Gọi lại Đời sống Quá khứ...98

Những Hiểu biết Siêu hình và những Hiểu biết Tâm linh...100

Chất lượng tư tưởng của bạn xác định trải nghiệm của bạn về thực tại.100

Cân bằng Vai trò của Những người Hướng dẫn Tinh thần.103

Hai Bước Tiến, Một Bước Lùi.105

Ăn kiêng và Dinh dưỡng cho những Linh hồn đang Thăng Lên...107

Các Thói Nghiện Và Làm Thế Nào Để Hàn Gắn Chúng..112

Phần 1 - Những thói nghiện quá trình.112

• Nghiện Bản ngã (cùng với lý trí, trí năng).113

• Nghiện Quyền lực.113

• Nghiện Tiền Nghiện các thứ Vật chất...113

• Nghiện sự Náo nhiệt và sự Giải trí..113

• Nghiện con người (lối sống giao thiệp rộng)..114

• Nghiện các Niềm Tin Tôn Giáo..114

• Nghiện việc Trở Nên Đúng (Being Right)..114

Phần 2 - Các thói Nghiện Chất..115

• Nghiện Ăn (ăn quá nhiều)...115

• Nghiện Đường...115

• Nghiện rượu...116

• Nghiện Caffeine, Amphetamine và các chất Kích thích...117

• Nghiện hút thuốc lá.117

• Thuốc Bất Hợp Pháp và Thuốc Theo Toa.118

Tóm Tắt.119

CHƯƠNG 4...120

Những Thay Đổi Bên Ngoài..120

Những Dị Thường về Điện từ Trong Mặt trời và trong Các Hành Tinh.121

Các Điểm Đen, các Lưỡi Lửa, và các cơn Bão Mặt Trời.122

Những Tác động của Những Sự Biến Đổi Điện Từ lên Thân Thể Con Người.123

Các Đường Lưới và các Đường Ley.125

Tác Động Của Tư Tưởng Con Người Lên Hệ Thống Lưới Của Trái Đất Một số Chi Tiết Về Sự Can Thiệp

Bởi Những Nhóm Thiên Hà Khác Nhau.127

Ô Nhiễm Điện Từ..131

Những Thay Đổi Đối Với Khí Hậu Của Chúng Ta..131

Các Trận Bão, Các Trận Lốc Tố Và Các Trận Gió Xoáy Dữ Dội.134

Những Địa Điểm Tốt Nhất Để Tránh Thời Tiết Khắc Nghiệt..134

Khô Hạn Và Lụt Lội Các Viễn Cảnh Cho Một Kỷ Băng Hà Khác..135

Lượng Mưa “nhiều” và “ít”.137

Hạn hán Và Lụt Lội Ảnh Hưởng Đến Sự Phân Phối Lương Thực Như Thế Nào...137

Đói Và Khát Trong Loài Người...138

Những Nơi Tốt Nhất Để Tránh Lụt Lội Và Hạn Hán...139

Những Trận Động Đất Và Phun Trào Núi Lửa...140

Vị Trí Và Thời Gian Của Những Trận Động Đất Và Phun Trào Núi Lửa.141

Những Thay Đổi Của Đường Bờ Biển.143

Di Cư Khỏi Các Thành Phố Ven Biển..144

Tác Động Tâm Lý Của Việc Nước Biển Dâng..145

Những Thay Đổi Đối Với Động Vật Và Thực Vật..146

Những Thay Đổi Về Nông Nghiệp Trong Trái Đất Mới..147

Những Thay Đổi Thực Tại Bên Ngoài - Những Nhận Xét Kết Luận.150

CHƯƠNG 5...152

Những Âm Mưu Nổi Tiếng - Sự Thật Hay Bịa Đặt.152

Thuyết âm mưu thứ 1 - Vụ tấn công vào trung tâm thương mại thế giới (world trade center) và lầu năm góc ở Hoa Kỳ vào tháng 09 năm 2001 là kết quả của một âm mưu...152

Thuyết âm mưu thứ 2 - Có các kế hoạch cho thế chiến 3 khởi đầu ở Trung Đông..154

Thuyết âm mưu thứ 3 - Sẽ có 3 ngày tăm tối. Trái Đất sẽ ngừng quay quanh trục. Ngày và đêm sẽ xáo trộn hoàn toàn..154

Thuyết âm mưu thứ 4 - Các lực lượng ác đang giải hóa chất (“chemtrails”) vào bầu khí quyển của hành tinh này nhằm kiểm soát hoặc trừ khử hầu hết dân chúng..156

Thuyết âm mưu thứ 5 - Có một kế hoạch đầu độc người dân thông qua các loại vắc xin giả và thuốc giả.156

Thuyết âm mưu thứ 6 - Có một chủng tộc ngoài hành tinh độc ác đang kiểm soát loài người phía sau hậu trường..158

Thuyết âm mưu thứ 7 - Có một kế hoạch bắt tất cả mọi người cấy một con chíp vào dưới da của họ để kiểm soát họ trong mọi lúc. Nếu không có con chip, họ không thể mua, bán hay trao đổi các hàng hóa và các dịch vụ..159

Thuyết âm mưu thứ 8 - Hội Đồng Ngân Hà đang đến trên một hạm đội phi thuyền để mang những Lightworker ra khỏi hành tinh và chuyển họ đến nơi an toàn trong khi những người còn lại trên hành tinh bị xóa sạch (bị hủy diệt)...160

CHƯƠNG 6...162

Những Thực Tại Kinh Tế.162

Những Nền Kinh Tế Của Sự Phân Cực...162

Nguyên nhân gốc rễ của sự kiểm soát và đàn áp...163

Vấn đề đối với việc buông bỏ vật chất..164

Sự sụp đổ của các quốc gia phương Tây..166

Các chi tiết của sự sụp đổ...167

Sự Sụp đổ của nền kinh tế phương Đông...169

Lịch trình sự sụp đổ.170

Các giải pháp được đưa ra bởi giới cầm quyền tinh hoa.170

Các giải pháp khai sáng đối với sự sụp đổ của nền kinh tế.171

Các kim loại quý và sự mang trở lại chuẩn vàng..173

Bãi bỏ các hệ thống ngân hàng dự trữ nhỏ và lãi kép..173

Đất đai (Bất động sản)..174

Các loại tiền tệ mới.174

Nói về sự ly khai...176

Những nền kinh tế giác ngộ...176

Những đề xuất cho việc ứng phó với sự sụp đổ của nền kinh tế...178

Những nơi cần tránh trong suốt quá trình diễn ra sự chuyển đổi kinh tế..179

Những địa điểm an toàn về mặt kinh tế trong thời kỳ chuyển đổi...179

CHƯƠNG 7...181

Các Cấu Trúc Chính Trị...181

Cuộc Đại Chiến cuối cùng.182

Phơi bày các chế độ độc tài...184

Vượt lên các “chủ nghĩa”.187

Một lời về Quyền Lực Cá Nhân.188

Triển vọng cho các cuộc cách mạng hòa bình và bạo lực...189

Sự lãnh đạo giác ngộ mới.191

Cập nhật về Trật Tự Thế Giới Mới của Illuminati Trật tự Thế Giới Mới (nhưng hóa ra là cũ)..193

Trật tự Thế Giới Mới (nhưng hóa ra là cũ)..195

Ngăn chặn những người Illuminati đen tối.196

CHƯƠNG 8...198

Các Hệ Thống Xã Hội...198

Sự kết thúc của chủ nghĩa tiêu thụ.198

Những việc cụ thể mà các bạn có thể làm để giảm mức tiêu thụ..200

Hệ thống y tế..201

Tương lai của y học.203

Giao tiếp trong thời đại điện tử...206

Giải phóng đạo đức nghề nghiệp.209

Các hệ thống xã hội giác ngộ..211

Các mối quan hệ giác ngộ...213

Tương trợ lẫn nhau.215

CHƯƠNG 9...218

Những Cộng Đồng Có Chủ Ý.218

Các Làng Sinh Thái (Ecovillages)...218

Các Cộng Đồng Tâm Linh (Spiritual Communities).219

Các Công Xã (Communes)...220

Các Cấu Trúc Cộng Đồng Khác..220

Làm Thế Nào Để Thành Lập Một Cộng Đồng.222

Nói Thêm về Các Hội Đồng..223

Sống Trong Thiên Đàng.225

Những Nơi Tốt Nhất Cho Các Cộng Đồng Thay Thế...225

CHƯƠNG 10.228

Những Tiến Bộ Công Nghệ...228

Sử Dụng Công Nghệ Một Cách Có Trách Nhiệm..229

Các Công Nghệ Thay Thế Đang Tồn Tại.230

Năng Lượng Mặt Trời.230

Thủy Điện.231

Năng Lượng Gió...232

Các Cục Pin Nhiên Liệu Hydrogen...232

Xăng Sinh Học (Biodiesel).232

Các Phương Tiện và Máy Móc Lai...233

Những Nơi Tốt Nhất Cho Năng Lượng Mặt Trời, Gió Và Thủy Năng.233

Những Vị Trí Tốt Nhất Trên Mảnh Đất..233

Các Công Nghệ Mới.235

Nhiệt Hạch Lạnh (Cold Fusion)..235

Radionics..236

Đo Lường Tư Tưởng...236

Năng Lượng Điểm Không.237

Năng Lượng Cho Nhà Ở Và Công Việc..242

Các Hệ Thống Nông Nghiệp Mới..242

Nền Kiến Trúc Khai Sáng..244

Những Vật Liệu Xây Dựng...245

Các Thành Phố Của Tương Lai...246

Những Thiết Bị Giao Thông Mới..247

Những Tiến Bộ Y Tế.250

Tái Xây Dựng Thế Giới Mật Độ 3 Sau Sự Chuyển Đổi...255

CHƯƠNG 11.257

Trật Tự Vũ Trụ.257

Sứ Mệnh Và Mục Tiêu Của Loài Người.257

Các Thần Linh (Earth spirits) Và Các Tinh Linh (Elementals)..259

Những Thiên Thần, Tổng Thiên Thần Và Các Vị Thầy Đã được tấn phong.260

Sự Dính Líu Của Người Ngoài Hành Tinh Trong Các Vấn Đề Của Con Người Trong Sự Chyển Đổi.265

Trở Thành Các Công Dân Ngân Hà..267

CHƯƠNG 12.269

Sự Sống Trên Các Thế Giới Khác...269

Pleiades.269

Mặt Trời Và Hệ Mặt Trời..269

Trái Đất..270

Kim Tinh...270

Mộc Tinh..271

Thổ Tinh...272

Alpha Centauri..272

Tau Ceti.273

Fomalhaut...274

Thất Tinh (Seven Sisters)..274

Các Hội Đồng Cao Cấp Pleiades...275

Hệ Thống Orion.276

Betelguese...276

Rigel.277

Mintaka.278

Các Hội Đồng Cao Cấp Orion..278

Alpha Draconis..279

Những Sinh Mệnh Draco Đen Tối...279

Những Người Draco Sáng...280

Hội Đồng Cao Cấp Draco..280

Các Thế Giới Draco..281

Zeta Raticulus.281

Những Người Essassani Và Hathor.281

Sirius...283

Sirius A...283

Sirius B...284

Andromeda.285

Các Hội Đồng Nebadon.286

Antares..286

Nibiru.286

Arcturus.287

Các Hội Đồng Aldebaran..288

Các Hội Đồng Alcyone...288

Hội Đồng Ngân Hà (Galactic Confederation hay Galactic Federation).288

Bắc Cực (Polaris)..289

Lyra/Vega.290

CHƯƠNG 13.292

Cuộc Sống Trong Trạng Thái Thăng Hoa...292

Một sự tóm tắt thêm nữa về các Trái Đất song song...292

KẾT LUẬN..296

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trái Đất Thức Tỉnh PDF của tác giả Sal Rechele nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Thiền Và Giải Thoát (Tinh Vân)
LỜI CỦA NHÀ XUẤT BẢN ∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞ Nói đến thiền là nói đến sự giác ngộ giải thoát. Thiền là tiếng Phạn nói đủ là Thiền na, Trung Hoa dịch là tư duy, Tham thiền, Thiền định, thoạt tiên cũng để chỉ một thao tác dễ thấy của các Thiền sư khi tu tập với nghĩa đơn giản là ngồi tĩnh tâm. Nếu vậy, ngồi tĩnh tâm dễ bị nhầm lẫn vì đạo sĩ yoga hay các đạo sĩ tu hành của nhiều tôn giáo cũng ngồi tĩnh tâm. Khác nhau ở chỗ là các môn đồ của các tôn giáo ngồi tĩnh tâm để hướng tới một đấng siêu nhiên, còn các Thiền sư tĩnh tâm để gạt bỏ tạp niệm, rũ sạch tham sân si an nhiên tự tại vượt ngoài tam giới, thoát khỏi sinh lão bệnh tử trong kiếp luân hồi. Chỉ khi Đạo Phật phát triển thì Thiền (Phật giáo) mới được hiểu với nghĩa sâu rộng như hiện nay và hành thiền không chỉ là ngồi một chỗ mà có thể hành Thiền mọi lúc mọi nơi.. Thiền và giải thoát là cuốn sách giải đáp Thiền của Phật giáo là gì, ý nghĩa của hành Thiền và làm sao để hành Thiền, một cách căn bản và phổ cập, nhưng việc cốt lõi của Thiền là sáu căn không vướng sáu trần. Tìm mua: Thiền Và Giải Thoát TiKi Lazada Shopee Hiểu được và làm được thì đạt tới giác ngộ, còn hiểu được và làm được một phần thôi cũng đã lợi lạc nhiều rồi vì ta đang sống trong một cuộc sống thị trường sôi động, phải vật lộn vì cuộc mưu sinh... Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI Lời đầu sách ∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞∞ Xã hội ngày càng phát triển, con người phải vật lộn với cuộc sống, với rất nhiều thứ lo toan bề bộn. Nhu cầu vật chất sống càng cao, tinh thần càng mệt mỏi nhưng không vì thế mà con người chịu buông bỏ, ngược lại còn muốn được nhiều hơn thế nữa, đến phút cuối của cuộc đời lẽ ra phải hỏi mình sẽ về đâu? Nhưng họ đều không nghĩ vậy, một hơi thở sau cùng họ lại nghĩ rằng làm sao giữ được của cải mà mình đã tạo ra. Cả một đời lao nhọc, không kể những lúc phải tranh giành, chiếm đoạt để rồi ra đi với hai bàn tay trắng, mang theo bên mình là nghiệp báo khổ đau. Đó bởi do lòng tham của con người là quá lớn, một chiếc túi không đáy chứa đầy tiền tài, danh vọng v.v... Đức Phật đã từng dạy hàng đệ tử của Ngài phải biết “Thiểu dục tri túc”. Vì sao Phật dạy như vậy? Chúng ta là những người học và hành trì theo Phật nhưng chúng ta có thật sự biết mình đã “Thiểu dục tri túc” hay chưa? Con người luôn chạy theo danh vọng, khi được một lại muốn được mười và hơn thế nữa. Nhưng việc lớn của đời người là gì? Phải giải quyết ra sao? Mạng sống của con người là bao lâu? Một hơi thở đi ra không vào thì mình sẽ về đâu? Điều này thiết nghĩ chỉ có các vị Thiện hữu tri thức mới nhận ra điều cốt yếu này, và cũng chỉ có quý Ngài mới thực sống được với thể tánh thanh tịnh đó. Còn chúng ta cũng man máng với nào là đời người sinh tử là việc lớn, nào là mạng sống của con người chỉ trong một hơi thở nhưng đó chỉ là câu trả lời dựa trên sách vở, chứ chưa thực nhận ra điều cốt lõi này, bởi nếu đã trực nhận ra thì có một con đường ai cũng phải đi qua, sao bây giờ hành trang còn chưa chuẩn bị? Cho nên ngài Vân Môn có nói: Ở trong hiện tượng siêng bày thân, Chỉ người tự nhận mới là gần. Năm xưa lầm nhắm trên đường kiếm, Nay mới nhìn ra lò lửa băng. Chúng ta có duyên lành được học giáo pháp của Phật, được Thầy Tổ chỉ dạy tận tình, được gần các bậc Thiện hữu tri thức để học hỏi. Vậy, chúng ta cùng nhau cố gắng hoàn thành sở nguyện của mình. Một lần nữa, con xin mượn lời của Hòa thượng Ân sư thượng Nhật hạ Quang đã nhắc nhở cho hành Tăng Ni Phật tử chúng con: “Hãy cố gắng lên, hãy tinh tấn lên, kẻo không còn kịp nữa”. Cho nên quyển sách “THIỀN VÀ GIẢI THOÁT” ra mắt cho những vị độc giả hữu duyên, nhín chút thời gian để mắt xem qua là những lời vàng thước ngọc, và ứng dụng trong cuộc sống đời thường hết khổ an vui. Quyển sách này chúng tôi soạn dịch của các tác giả Pháp sư Huệ Minh và ngài Thánh Nhất cùng Hòa thượng Tinh Vân là những vị cao tăng thạc đức. Với chút tấm lòng của dịch giả muốn góp thêm ngôi nhà Phật học nên không ngại tài sức mọn dịch ra tác phẩm này. Nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả chúng sinh đều trọn thành Phật đạo. Trong quá trình dịch thuật không tránh khỏi những điều sơ sót, kính mong các vị cao minh chỉ điểm và bổ khuyết để dịch phẩm được hoàn chỉnh hơn trong lần tái bản sau. Thiền viện Thường Chiếu Kính ghi Thích Đạt Ma Thuận HùngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thiền Và Giải Thoát PDF của tác giả Tinh Vân nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay (Bùi Văn Chấn)
CÁI NÔI CỦA ĐẠO HỒI: BÁN ĐẢO Ả RẬP TRONG THẾ KỶ 6 VÀ 7. Vị giáo chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad, sinh năm 570 tại thành phố Mecca, thủ đô của xứ Saudi Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh Kinh Koran và thuyết giảng về đạo Islam, ông qua đời tại thành phố Medina, cách Mecca khoảng 40 miles về phía Bắc, hưởng thọ 62 tuổi. Cuộc đời của Muhammad đã bắt đầu từ 30 năm cuối thế kỷ 6 và bắt cầu 32 năm sau qua thế kỷ 7. Tất cả những gì ảnh hưởng đến cuộc đời của Muhammad đều in dấu ấn trong thế giới đạo Hồi ngày nay. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử của xã hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ 6 và 7. Khác với Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần như một cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc thù của đời sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt thương mại của dân Mecca, các phong tục tập quán và tín ngưỡng cổ truyền của người Ả Rập, các cuộc chiến tranh của đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine, đế quốc Hỏa Giáo Ba Tư v.v… Tìm mua: Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay TiKi Lazada Shopee Tất cả đều được Muhammad phản ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc kinh Koran, chúng ta rất dễ dàng kiểm chứng các sự kiện bằng cách đối chiếu với lịch sử. Ngược lại, sự nghiên cứu lịch sử về bối cảnh bán đảo Ả Rập trong thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về Muhammad cũng như về đạo Islam. 1. Về địa dư: Bán đảo Ả Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200 miles, rộng 900 miles. Diện tích trên một triệu dặm vuông, lớn bằng 1/3 Hoa Kỳ hoặc bằng 8 lần diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng này được gọi là bán đảo vì nó được bao bọc ba phía bởi biển hoặc đại dương: Đông giáp Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và phía Tây giáp Hồng Hải (Biển Đỏ). Phía Bắc của bán đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy dài tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó là sa mạc Syro-Arabia vì nó ở giữa hai nước Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa mạc này bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu không dự trữ đủ nước uống. Khách lữ hành phải đi những quãng đường rất xa mới gặp được một ốc đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa mạc được tạo thành do những hồ nước ngầm ở dưới mặt đất (underground pools). Khí hậu sa mạc rất khô, thường chỉ có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều nhất là miền cực nam bán đảo Ả Rập, tức nước Yemen ngày nay. 2. Dân cư: Bán đảo Ả Rập ngày nay được chia thành nhiều quốc gia: Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757 ngàn dặm vuông, 23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm vuông, 10 triệu dân. Oman 2.5 triệu dân, Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu dân và Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con cháu xa xưa của giống người ở Địa Trung Hải và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về phương diện chủng tộc, người Ả Rập được xếp vào chủng tộc da trắng (Whites) như người Âu. Hầu hết người Ả Rập thời xưa sinh sống bằng nghề du mục. Do đó, chính họ đã tự đặt tên cho chủng tộc của mình là Arab có nghĩa là du mục (Arab means Nomad). Người Ả Rập và Do Thái thù ghét nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả Rập và Do Thái đều cùng một chủng tộc. Theo Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì sau cơn đại hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ còn lại một gia đình của ông Noah sống sót mà thôi. Con trai lớn của ông Noah là Shem trở thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả Rập. Do đó, phát sinh danh từ “Semites” để gọi chung Do Thái và Ả Rập. Semites có nghĩa là “con cháu của Shem” (Semites: Descendants of Shem). Mới đây, một số nhà khoa học về nhân chủng đã làm một cuộc thử nghiệm DNA trên nhiều người Do Thái và nhiều người Ả Rập tại Iraq, Arabia, Yemen và Syria. Họ công bố kết quả thử nghiệm đã xác nhận người Do Thái và các giống dân Ả Rập đều cùng chung một mẫu DNA, tức cùng chung một nguồn gốc tổ tiên. Chẳng những vậy, họ đều có chung một nguồn gốc văn hóa từ Babylon. Ngôn ngữ cổ của Babylon là Sumerian, ngôn ngữ cổ Do Thái là Hebrew và ngôn ngữ Arabic đều có nhiều nét tương đồng. Ngôn ngữ của Muhammad và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả Rập (Arabic) hiện là ngôn ngữ chính của 250 triệu người thuộc nhiều quốc gia ở Trung Đông. 3. Chính Trị và Tôn Giáo: Trong thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông bị chia thành hai miền đặt dưới sự khống chế của hai đế quốc: Đế quốc Ba Tư làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria và Arabia. Trong thời gian này, đế quốc Ba Tư chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm quốc giáo và chọn Ctesiphon làm thủ đô. Đế quốc Byzantine làm chủ miền tây gồm có Hy Lạp, Do Thái, Palestine, Ai Cập và vùng Địa Trung Hải. Đế quốc Byzantine chọn Ki Tô Giáo làm quốc giáo và chọn Constantinople (nay là Istambul) làm thủ đô. Hai đế quốc Ba Tư và Byzantine đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc Byzantine đổi tên Ki Tô Giáo thành “Công Giáo”, tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là tôn giáo hoàn vũ (Universal Religion). Rất nhiều người Ả Rập trong vùng kiểm soát của đế quốc Byzantine theo đạo Công Giáo. Tất cả những người này thuộc quyền cai quản của Giáo Hội Syria (Syriac Church). Đến giữa thế kỷ 6, đế quốc Công Giáo Byzantine chinh phục được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày nay) theo đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo xâm nhập Yemen ở cực nam bán đảo Ả Rập. Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm mưu của Byzantine nên tìm cách nâng đỡ mọi người Do Thái và những người Ả Rập theo đạo Do Thái nắm chính quyền tại bán đảo Ả Rập. Năm 510 (tức 60 năm trước khi Muhammad sinh ra) với sự yểm trợ của đế quốc Ba Tư, một người Ả Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống lãnh các bộ lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai trị toàn bán đảo Ả Rập. Đến năm 525, đế quốc Byzantine yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia đem quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai chống cự không nổi phải bỏ chạy, cuối cùng nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ đó, bán đảo Ả Rập thành thuộc địa của Abyssinia và Ki Tô Giáo thành quốc giáo tại xứ này. Năm 570, người Ả Rập cầu cứu hoàng đế Ba Tư đem quân đánh đuổi quân Ki Tô Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba Tư chiến thắng và biến bán đảo Ả Rập thành một tỉnh của đế quốc. Cũng từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được truyền bá rộng rãi trong dân chúng Ả Rập. 4. Phong Tục Tập Quán: Dù sống cuộc đời du mục ở sa mạc hay chuyên nghề thương mại sinh sống tại thành thị, mọi người Ả Rập đều thích tự xưng là “những người con của sa mạc” (sons of desert). Từ nhiều ngàn năm qua cho đến nay, người Ả Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những con lạc đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng đưa họ qua sa mạc và đồng thời cũng là nguồn cung cấp sữa và thịt. Người Ả Rập ít trồng trọt nên họ thường bị thiếu ngũ cốc và bị suy dinh dưỡng. Cuộc sống sa mạc đã tạo ra hoàn cảnh khiến cho các bộ lạc du mục phải luôn luôn gây chiến với nhau để tranh chiếm các giếng nước hiếm hoi hoặc tranh chiếm các thảo nguyên để thả nuôi gia súc. Qua nhiều thế kỷ, cuộc sống du mục đã hình thành nơi các sắc dân Ả Rập những phong tục tập quán đặc biệt: a. Tục trả thù: Để có thể sống còn trong những điều kiện khắt nghiệt của sa mạc, mọi người Ả Rập phải tụ họp lại thành từng nhóm (groups) gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống. Nhiều nhóm liên kết với nhau thành đoàn (clans) hoặc lớn hơn nữa thành bộ lạc (tribes). Mọi cá nhân đều phải gắn bó với quyền lợi chung của bộ lạc. Người Ả Rập gọi tinh thần gắn bó ấy là “muruwah” bao hàm rất nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến đấu, phải kiên nhẫn chịu đựng mọi sự đau khổ khi bộ lạc gặp khó khăn, phải cương quyết bảo vệ mọi kẻ yếu trong bộ lạc và phải quyết tâm trả thù những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của bộ lạc. Các tù trưởng có trách nhiệm bảo vệ mọi thành viên trong bộ lạc của mình. Nếu không trừng phạt những kẻ đã xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của thành viên trong bộ lạc mình thì tù trưởng đó sẽ không còn được tín nhiệm nữa. Vì tính liên đới trách nhiệm trong bộ lạc nên trong nhiều trường hợp một người trong bộ lạc này bị giết thì một người trong bộ lạc thù địch phải bị giết để đền mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả bằng máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu vĩ đại của những chu kỳ bạo động không bao giờ dứt. Trong những thời kỳ đói kém hay hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường chọn một trong những bộ lạc thù địch để tấn công nhằm cướp gia súc, thực phẩm và hàng hóa cần thiết để sống còn. Các đàn ông của bộ lạc địch đều bị giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị bắt đưa về làm vợ bé hay đầy tớ. Số còn lại bị đưa đi bán ở chợ nô lệ. Những người Ả Rập du mục không hề coi những vụ cướp của giết người như vậy là điều tội lỗi. Họ quan niệm đó chỉ là những việc làm tự nhiên để trừng phạt kẻ thù một cách hợp lý mà thôi. b. Tục giết các bé gái sơ sinh (Female Infanticide) Luật sa mạc cũng tàn nhẫn như luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót, mọi kẻ yếu phải bị loại trừ! Việc giết các bé gái sơ sinh là một phương cách điều chỉnh dân số của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi bộ lạc có quá nhiều con gái và quá ít con trai thì bộ lạc bị lâm vào tình trạng suy yếu. Chỉ có đàn ông con trai mới có thể đáp ứng nhu cầu sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu chiến đấu và nhu cầu lao động sản xuất. Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội du mục không dành cho họ một quyền lợi luật định nào (no legal right). Họ bị coi như một thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một động sản (movabal property). Những gia đình nào đã sinh một vài đứa con gái rồi thì những bé gái sinh sau thường bị giết chết không thương tiếc. c. Tục cắt da qui đầu và cắt âm vật Theo tương truyền thì Abraham là người đầu tiên tự cắt da qui đầu của mình và cắt da qui đầu các con trai của ông để tỏ lòng tuân phục Thiên Chúa. Do đó, tục lệ cắt da qui đầu trở thành nghi lễ bắt buộc đối với mọi người theo đạo Do Thái. Tục lệ này thường được gọi là Phép Cắt Bì (Cirumcision). Trước khi có đạo Hồi, đa số người Ả Rập thường tự xưng là tín đồ đạo Abraham, tức Đạo Do Thái Nguyên Thủy. Họ thường cắt da qui đầu cho các bé trai giống như người Do Thái. Ngoài ra, người Ả Rập có tục lệ cắt bỏ một phần hoặc tất cả âm vật, còn được gọi là mồng đóc (Clitoris) của các bé gái từ 4 đến 8 tuổi. Đây là một tục lệ chung của người Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện nay, nhiều người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen, Sudan theo Ki Tô Giáo vẫn giữ tục lệ này. Họ tin rằng việc cắt clitoris tuy có gây đau đớn nhưng tránh cho phụ nữ những đòi hỏi sinh lý và giúp họ dễ trở nên thanh sạch cao đẹp hơn. d. Tục chứng minh trinh tiết cô dâu Một tục lệ của người Ả rập gây căng thẳng tinh thần cho các cô gái đến tuổi lấy chồng, đó là tục lệ chứng minh trinh tiết cô dâu (Proof of the bride’s Virginity). Sau đám cưới, mọi người trong gia đình cô dâu và những người khách tham dự tụ họp bên ngoài phòng ngủ cô dâu chú rễ. Sau khi động phòng, chú rễ bước ra khỏi phòng ngủ báo cáo kết quả cho mọi người biết. Nếu chú rễ tuyên bố cô dâu đã mất trinh trước đám cưới thì đây là một điều nhục nhã cho gia đình nhà gái và cuộc hôn nhân có thể bị hủy bỏ! e. Tục giết gái chửa hoang Các cô gái Ả Rập không chồng mà chửa bị coi là đã phạm trọng tội đối với danh dự của gia đình. Các cô gái này thường bị cha hoặc anh em ruột giết chết để bảo vệ danh dự gia đình. Vì thế, người Ả Rập gọi tục lệ này là “Giết người vì danh dự” (Honor Killing). Các cô gái chửa hoang thường khó có thể thoát chết vì dù có chạy đến cầu cứu các cơ quan luật pháp cũng không được bảo vệ. Các thủ phạm giết người trong trường hợp này được xã hội coi là hành động chính đáng và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn có tính cách tượng trưng mà thôi. Tất cả các tục lệ kể trên hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập Hồi Giáo. Tuy nhiên, những tục lệ đó không xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh Koran cũng như những văn bản luật pháp của đạo Hồi đều không có điều khoản nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay, nhiều nước Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ xét ra có hại và lỗi thời.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay PDF của tác giả Bùi Văn Chấn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Thất Giác Chi (Satta Bojjhanga)
Lời Mở Đầu Kinh điển Phật Giáo, gồm ba tạng, luôn luôn nhắc đến những yếu tố của sự giác ngộ mà Ðức Thế Tôn đã nhiều lần giảng giải, trong nhiều trường hợp khác nhà Trong bộ Tăng Nhứt A-Hàm (Samyutta Nikaya, Maha Vagga) có một phần đề tựa là Bojjhanga Samyutta ghi lại những bài thuyết giảng của Ðức Phật về những Giác Chi (Bojjhanga). Phần này có ba bài Kinh mà từ thời Ðức Phật người Phật tử thường được tụng như một loại kinh để bảo vệ (paritta hay pirit) chống lại sự đau khổ, bịnh hoạn, hay một bất hạnh nào của đời sống. Danh từ Bojjhanga bao gồm hai phần: bodhi và anga. Bodhi bao hàm ý chứng ngộ, hay nói một cách chính xác, là sự hiểu biết sâu sắc liên quan đến sự chứng ngộ Tứ Diệu Ðế, bốn Chơn Lý Cao Quý, tức là Chơn Lý Cao Quý về sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về nguồn gốc của sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về sự chấm dứt khổ, và Chơn Lý Cao Quý về con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ. Anga có nghĩa là yếu tố, hay tay chơn (chi). Do đó, Bodhi + anga (bojjhanga) là những yếu tố của sự giác ngộ, hay những yếu tố của tuệ minh sát, hay của trí tuệ. Danh từ nầy thường được dịch là Thất Giác Chi. Tìm mua: Thất Giác Chi TiKi Lazada Shopee "Bojjhanga! Bojjhanga! Bạch hóa Ðức Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ dạy, lời dạy nầy có thể được áp dụng đến mức nàỏ" Một thầy tỳ-khưu bạch hỏi Ðức Phật như vậỵ "Bhodaya samvattantiti kho bhikkhu tasma bhojjhanga ti vuccanti". "Nó dẫn đến giác ngộ, nầy tỳ-khưu, vì lẽ ấy nó được gọi như thế". Ðó là lời giải đáp vắn tắt của Ðức Bổn Sư ( trong Samyutta Nikaya). Ở một đoạn khác Ðức Phật dạy: "Nầy chư Tỳ-khưu, cùng trong một cái nhà nóc nhọn, tất cả những cây kèo đều đâm vào góc nhọn, đều nghiêng về góc nhọn, đều châu đầu vào góc nhọn, và trong tất cả sườn nhà, cái góc nhọn được xem là điểm chánh. Cùng thế ấy, nầy chư Tỳ-khưu, thầy tỳ-khưu trau dồi và chuyên cần phát triển bảy yếu tố của trí tuệ cũng thiên về Niết-Bàn, nghiêng về Niết-Bàn, hướng về Niết-Bàn như vậy". Bảy yếu tố ấy là: 1. Niệm (Sati) 2. Trạch Pháp (Dhammavicaya) 3. Tấn (Viriya) 4. Hỉ (Piti) 5. An (Passadhi) 6. Ðịnh (Samadhi) 7. Xả (Upekkha) Ở đây xin ghi lại một trong những bài Kinh về Thất Giác Chi (Bojjhanga). Bài nầy bắt đầu như sau: "...Ta có nghe như vầy: Một thủa nọ, Ðức Thế Tôn ngự trong thành Vương Xá (Rajagaha), tại Trúc Lâm (Veluvanna), chỗ nuôi sóc. Lúc ấy Ðức Ðại Maha Kassapa lâm bịnh, Ngài lâm trọng bịnh. Vào lúc hoàng hôn Ðức Phật rời khỏi trạng thái vắng lặng của Ngài, đến thăm Ðại Ðức Maha Kassapa (Ma-ha Ca-diếp), ngồi lại, và ngõ những lời trí tuệ sau đây: "Nầy Kassapa, hôm nay con đau thế nào? Con có nghe đau đớn quá lắm hay không? Con chịu nổi không? Sự đau đớn có thuyên giảm không, hay vẫn đang tăng thêm? Có dấu hiệu nào cho thấy bớt không, hay vẫn thêm? -- Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, con rất đau đớn. Con không thể nào chịu nổi. Thật là đau đớn vô cùng. Không có dấu hiệu nào thuyên giảm mà càng lúc càng đau thêm. -- Nầy Kassapa, bảy yếu tố của sự giác ngộ ấy mà Như Lai đã giảng giải tường tận, Như Lai đã trau dồi và phát triển đầy đủ, và khi đã được trau dồi và phát triển đầy đủ, bảy giác chi này đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. Bảy yếu tố ấy là gì? 1. Niệm. Nầy Kassapa, pháp nầy Như Lai đã giảng giải tận tường, đã trau dồi và đã phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ, tâm niệm đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. 2. Trạch Pháp... 3. Tinh Tấn... 4. Hỉ... 5. An... 6. Ðịnh... 7. Xả. Nầy Kassapa, pháp nầy Như Lai đã giảng giải tận tường, đã trau dồi và đã phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ, tâm niệm đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. Bảy giác chi nầy, quả thật vậy, nầy Kassapa, Như Lai đã giảng giải tận tường. Như Lai đã trau dồi và phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ thất giác chi nầy đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. -- Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, quả thật vậy, bảy yếu tố ấy là Thất Giác Chi! Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, quả thật vậy, đó là Bảy Yếu Tố Giác Ngộ!" Ðó là những lời của Ðức Phật và tiếp theo là lời của Ðại Ðức Maha Kassapa đón mừng tiếp nhận những lời vàng ngọc của Ðức Thế Tôn. Liền sau đó Ðại Ðức Maha Kassapa hết bịnh. Lúc bấy giờ bịnh tình của Ðại Ðức Maha Kassapa liền tan biến". (Samyutta Nikaya V, trang 79) Bài Maha Cunda Bojjhanga Sutta, một trong ba bài kinh đã được nhắc đến ở phần trên, ghi rằng một lần nọ chính Ðức Phật lâm bịnh và Ðại Ðức Maha Cunda đọc Kinh Bojjhanga, Thất Giác Chi. Sau đó bịnh tình của Ðức Phật liền tan biến. (Samyutta Nikaya V, trang 81). Tâm của con người ảnh hưởng đến thân một cách rất sâu xa và vô cùng kỳ diệu. Nếu ta để tâm buông lung tác hành và duyên theo những tư tưởng ô nhiễm và tồi tệ tâm có thể gây nên tai hại không thể lường được, đến mức độ có thể giết chết một chúng sanh. Tuy nhiên, tâm cũng có thể chữa khỏi một chứng bịnh của thể xác. Nếu ta gom tâm mạnh mẽ vào những tư tưởng chơn chánh, với sự hiểu biết chơn chánh, thì thành quả mà tâm có thể đạt đến thật vô cùng rộng lớn và sâu xa "Tâm không những gây bịnh mà còn có thể chữa bịnh, một bịnh nhơn lạc quan có nhiều hy vọng được chữa trị dễ dàng hơn người luôn luôn lo âu và sầu muộn. Trong những trường hợp đã được ghi nhận, có nơi cho thấy đức tin cũng chữa được hầu như tức khắc những chứng bịnh thuộc cơ hữu" (Aldous Huxley - Ends and Means - London 1946. Trang 259). Giáo Pháp của Ðức Phật - gọi là Phật Pháp - là những lời dạy sáng suốt, đầy trí tuệ. Những ai có nguyện vọng thành đạt sự giác ngộ, trước tiên nên hiểu rõ ràng những trở ngại đang chặn ngang con đường đưa đến giác ngộ. Theo sự hiểu biết chơn chánh của Ðức Phật, đời sống là khổ. Và sự khổ nầy nương tựa trên vô minh (avijja). Vô minh là thọ cảm những gì không đang được thọ cảm, tức là điều bất thiện. Lại nữa, Vô Minh là không nhận thức được bản chất cấu hợp của năm uẩn, là không nhận thức được những căn và những trần (giác quan và đối tượng của giác quan) và bản chất thật sự của chúng, là không nhận thức được tánh cách rỗng không và tương đối của tứ đại (đất, nước, lửa, gió), không nhận thức được bản chất trọng yếu của những khả năng kiểm soát giác quan (ngũ căn), không thể nhận thức tánh cách thực tiễn, không thể sai lầm, của Tứ Diệu Ðế. Và năm pháp triền cái, tức năm chướng ngại tinh thần, là chất dinh dưỡng cho (hay làm duyên tạo nên) cái vô minh ấy. Năm pháp được gọi là triền cái, hay chướng ngại, vì nó hoàn toàn đóng lại, cắt lìa, và chặn ngang. Năm pháp nầy gây trở ngại cho sự hiểu biết con đường giải thoát ra khỏi đau khổ. Ðó là tham dục (kamacchanda), oán ghét (vyapada), dã dượi hôn trầm (thinamiđha), phóng dật lo âu (uddhacca kukkucca), và hoài nghi (vicikicca). Cái gì nuôi dưỡng năm triền cái nầy? Thân bất thiện nghiệp, khẩu bất thiện nghiệp, và ý bất thiện nghiệp (tini duccaritani) nuôi dưỡng năm pháp nầỵ Còn ba bất thiện nghiệp nầy lại được nuôi dưỡng bằng giác quan không thu thúc (indriya asamvaro). Không thu thúc và sân thâm nhập vào sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Không thu thúc lục căn vì thiếu giác tỉnh, không niệm, không hay biết đầy đủ (asati asampajjanna). Theo đoạn kinh đề cập đến vấn đề dinh dưỡng; để đối tượng bị lôi cuốn đi mất, để sự hiểu biết về ba đặc tính của kiếp sinh tồn (vô thường, khổ, vô ngã) thoát ra khỏi tâm, lãng quên thực chất của sự vật, là lý do làm cho ta không thu thúc lục căn. Chính trong những lúc không nhận thức bản chất vô thường, khổ, vô ngã của sự vật ta tự buông lơi cho bao nhiêu loại tự do thân, khẩu mặc tình tạo bất thiện nghiệp và để cho trí tưởng tượng mặc tình trôi chảy theo dòng tư tưởng bất thiện. Thiếu hay biết đầy đủ là: 1. Thiếu sự hay biết đầy đủ về mục tiêu (sattha sampajjanna); 2. thiếu sự hay biết về tánh cách thích nghi (sappaya sampajjann); 3. thiếu sự hay biết về phương sách (gocara sampajjanna); 4. thiếu sự hay biết về tánh cách sáng suốt, không si mê (asammoha sampajjanna). Khi ta làm việc gì mà không có mục tiêu chánh đáng, khi ta nhìn sự vật và có hành động không giúp tăng trưởng điều thiện, khi ta làm điều gì không thuận lợi cho sự cải thiện, khi ta quên Giáo Pháp (Dhamma) tức là quên phương sách chơn chánh mà ta đang cố gắng thành đạt, khi ta bám víu vào những vật một cách si mê, mà ta lầm tưởng là đáng được ưa thích, đẹp đẽ, trường tồn, hữu ngã, khi ta làm như vậy là ta nuôi dưỡng sự không thu thúc lục căn. Nằm bên dưới lớp thiếu tâm niệm và thiếu sự hiểu biết đầy đủ, có sự suy tư không chơn chánh (ayoniso manasikara, chăm chú không chánh đáng). Kinh điển ghi rằng suy tư không chơn chánh là tư tưởng sai lầm, đi ra ngoài con đường chơn chánh, có nghĩ là xem cái vô thường là thường còn, cái khổ là vui thích, vô ngã là linh hồn trường cửu, thiện xem là bất thiện, cái xấu, trái lại, thấy là tốt. Cuộc lặn hụp kéo dài mãi mãi trong vòng luân hồi bắt nguồn từ suy tư không chơn chánh. Suy tư không chơn chánh càng gia tăng, lớp si mê càng gia tăng, và càng bám chặt hơn vào kiếp sinh tồn. Vô minh đã hiện hữu, toàn khối đau khổ do đó cũng phát sanh. Vậy, người suy tư nông cạn cũng tựa hồ như chiếc thuyền trôi giạt theo chiều gió, như đàn cừu bị cuốn trong giòng nước lũ, như bò mang ách, mãi mãi xuôi ngược trong vòng luân hồi. Kinh sách cũng dạy rằng một niềm tin không trọn vẹn (assaddhiyam) nơi Phật, Pháp, Tăng là điều kiện phát triển suy tư không chơn chánh. Và không có niềm tin trọn vẹn vì không nghe Chơn Lý, Giáo Pháp (Dhamma). Cuối cùng không được nghe Chơn Lý vì không đến gần bậc thiện trí, không kết hợp với người tốt (asappurisa samsevo). Rốt cùng, sự thiếu bạn lành (kalyana mittata) là lý do căn bản sanh ra những tệ hại trên thế gian. Và ngược lại, nền tảng và chất dinh dưỡng của điều tốt là tình bằng hữu trong sạch, kết bạn với người lành, người cho ta thức ăn làm bằng chất liệu của Giáo Pháp cao thượng, những gì tạo cho ta niềm tin nơi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Khi ta có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo ta sẽ có suy tư sâu xa và chơn chánh, có tâm niệm và sự hay biết đầy đủ, có thu thúc lục căn, có thân, khẩu, ý thiện nghiệp, có tứ niệm xứ, có bảy yếu tố của sự giác ngộ và có trí tuệ đưa đến giải thoát, tuần tự điều nầy kế tiếp điều kia.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thất Giác Chi PDF của tác giả Satta Bojjhanga nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Thần Thánh Trung Hoa (Khuyết Danh)
Mục lục Bảo Sanh Đại Đế Cửu Thiên Huyền Nữ Đình Phước Táo Quân Huyền Thiên Thượng Đế Tìm mua: Thần Thánh Trung Hoa TiKi Lazada Shopee Nam Cực Tiên Ông Ngọc Hoàng Đại Đế Nguyên Thủy Thiên Tôn Nữ Oa Nương Nương Quan Thánh Đế Quân Tài Thần Tam Quan Đại Đế Tây Vương Mẫu Thái Thượng Lão Quân Thái Tuế Thành Hoàng Thập Điện Diêm La Vương Thiên Hậu Nương Nương Thổ Địa Nghi Thức Khai Kinh Tụng Kinh Minh Thánh Văn Xương Đế Quân THẦN THÁNH TRUNG HOA Bảo Sanh Đại Đế BẢO SANH ĐẠI ĐẾ Bảo Sanh Đại Đế còn gọi là “Ngô Chân Nhân”, “Ngô Chân Quân”, “Đại Đạo Công”, “Ân Chủ Công”, “Chân Nhân Tiên Sư”, “Hoa Kiều Công”, “Anh Huệ Hầu Ngô Công Chân Tiên” …Việc xưng hô tuy không đồng nhất, là do nhiều đời vua chúa phong tặng tôn hiệu khác nhau, vì tất cả đều thờ phụng Ngài là thần tiên. Bảo Sanh Đại Đế, họ Ngô, tên Bản, tự Hoa Cơ, hiệu Vân Đông. Ngài sinh ra vào năm thứ tư Thái Bình Hưng Quốc triều nhà Tống, tại làng Bạch Tiêu, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến. *Ngài là hậu duệ của Thái Bá Hoàng Đế triều nhà Châu, đóng đô ở Kim Lăng, huyện NGÔ, nên lấy theo đó làm họ. Truyền được 31 đời đến thời Chiến Quốc thì nước chư hầu Ngô bị diệt vong, hoàng tộc hoặc chết hoặc bị phân ly tứ tán khắp nơi. Trong đó có một chi chạy đến ở tại huyện Lâm Chương, đạo Hà Bắc, tỉnh Hà Nam. Dòng họ nầy nhiều đời ăn chay niệm Phật, làm phước bố thí cho bá tánh. Được chín đời, có người tên Ngô Thông, cưới vợ là Huỳnh Thị, nhân chạy giặc đến làng Bạch Tiêu, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến thì định cư ở đó. Đây chính là thân phụ của Đại Đế vậy. Vì thế, sau nầy lấy nơi sanh trưởng của Đại Đế là làng Bạch Tiêu làm quê quán. *Như đã nói trên, tổ tiên nhiều đời của Đại Đế đã từng tu nhân tích đức, bố thí cứu giúp bá tánh vô số. Riêng Ngài Ngô Thông, sau nầy được truy phong là “Hiệp Thành Nguyên Quân”, cũng là người hiền lành, cần kiệm làm ăn, vui vẻ siêng năng hành thiện cứu đời nhiều năm, tên tuổi và công đức của Ngài vang danh hắp chốn. Còn mấu thân Huỳnh Thị, truyền thuyết là “Ngọc Hoa Đại Tiên” đầu thai giáng thế, tính tình hiền hậu hòa nhã, trinh thục, đã có nhiều công quả ở kiếp trước, đời nầy lại chăm lo tích đức càng nhiều hơn. Một đêm nọ, bà đang say giấc nồng, nằm mộng thấy sao Tử Vi đầu thai vào mình, tỉnh giấc thì biết là có mang. Đến năm thứ tư Thái Bình Hưng Quốc nhằm năm Kỷ Mão, bà Huỳnh thị chuyển dạ đau lưng đang nằm nghỉ, hỏang hốt nhìn thấy nào là Thái Bạch Kim Tinh, Nam Lăng Sứ Giả, Bắc Đẩu Tinh Quân… hộ tống một vị Tiên Đồng, đến phòng của bà nói:“Đây là sao Tử Vi ở thượng giới mà trước đây đã giáng thế đầu thai vào bà đó”. Hôm ấy là giờ Thìn ngày rằm tháng ba âm lịch, chính là ngày mà đức Ngô Bản giáng sanh. Lúc bấy giờ, mùi hương lạ bay thơm khắp nhà, háo quang tỏa rực, lại thấy Tiên Ngũ Lão và Tam Thai Khôi Tinh hiện thân bái hạ. Bên ngoài, trên trời có hoa năm sắc rơi xuống vô số phủ che hết căn nhà. Dân chúng ai ai cũng cho là điềm kỳ lạ, có thoại khí lành tốt chắc chắn không phải việc bình thường. *Ngô Bản từ nhỏ đã tỏ ra thông minh mẫn tuệ, biểu hiện tính cách có tâm đạo là không chịu ăn thịt. cá. Rồi khi lớn lên, không chịu cưới vợ, luôn tỏ ra phẩm hạnh khác với người đời. Đến tuổi trưởng thành, Ngài đã thông suốt các sách, xem qua liền nhớ. Ngài đọc hàng ngàn quyển sách đủ loại, kể cả Địa Lý, Lễ Nhạc và Hành Chính. Nhưng chú ý nhất là sách vở về Y thuật của Huỳnh Đế và các y gia khác. Ngài ra sức nghiên cứu và đã đính chính nhiều chỗ sai sót của các sách y học đời trước. Về phương diện bào chế thuốc, Ngài đã ra công chế tạo được nhiều dược phẩm kỳ diệu, có giá trị chữa bệnh rất hiệu quả.Ngô Bản thường bày tỏ ý chí của Ngài là “cứu thế giúp người”.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Khuyết Danh":Thần Thánh Trung HoaNói Nhiều Không Bằng Nói ĐúngBao Thanh Thiên - Thất Hiệp Ngũ NghĩaBuổi Tàn ThuCác Sự Tích Của Người Nhật BảnGiáo Trình C++Hôn Nhân Không Lựa ChọnHuyền Thoại Mạn Đà LaNguyễn Du (1766-1820)Sự Tích Cây Huyết Dụ TrướcSự Tích Con Sư TửSự Tích Phật A Di Đà Và Bảy Vị Bồ TátSự Tích Phật A-Di-Đà Bảy Vị Bồ TátThánh Tông Di ThảoTiết Đinh San Chinh TâyTrạng QuỳnhTruyện Kể Danh Nhân Lịch Sử Trung QuốcVạn Huê Lầu Diễn NghĩaYên-Tử Cư-Sĩ -Trần Đại-SỹĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thần Thánh Trung Hoa PDF của tác giả Khuyết Danh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.