Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

VIỆT NAM VĂN PHẠM - LỆ-THẦN TRẦN TRỌNG KIM

Trần Trọng Kim, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần, sinh năm 1883 (Quý Mùi) tại làng Kiều Linh, xã Đan Phố, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Vợ ông là em gái nhà nghiên cứu văn học Bùi Kỷ.

Trần Trọng Kim, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần, sinh năm 1883 (Quý Mùi) tại làng Kiều Linh, xã Đan Phố, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Vợ ông là em gái nhà nghiên cứu văn học Bùi Kỷ.

Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ. Năm 1897, ông học Trường Pháp-Việt Nam Định, học chữ Pháp. Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường thông ngôn và đến 1903 thì tốt nghiệp. Năm 1904, ông làm Thông sự ở Ninh Bình sau đó tham dự đấu xảo. Năm 1905, vì hiếu học nên ông qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon, sau được học bổng vào trường Thuộc địa Pháp. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước. Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm.

Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ. Năm 1897, ông học Trường Pháp-Việt Nam Định, học chữ Pháp. Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường thông ngôn và đến 1903 thì tốt nghiệp. Năm 1904, ông làm Thông sự ở Ninh Bình sau đó tham dự đấu xảo. Năm 1905, vì hiếu học nên ông qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon, sau được học bổng vào trường Thuộc địa Pháp. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước. Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm.

Văn phạm là phép dạy nói và dạy viết cho đúng mẹo-luật của một tiếng nói. Những mẹo luật ấy môt đằng phải theo lý cho thuận, một đằng phải lấy những lối, những cách của tiền-nhân đã dùng quen, và sự thông dụng của người trong nước mà làm mẫu mực.

Văn phạm là phép dạy nói và dạy viết cho đúng mẹo-luật của một tiếng nói. Những mẹo luật ấy môt đằng phải theo lý cho thuận, một đằng phải lấy những lối, những cách của tiền-nhân đã dùng quen, và sự thông dụng của người trong nước mà làm mẫu mực.

(Các giáo sĩ đạo Thiên-chúa sang truyền giáo đã dùng chữ cái La tinh để phiên âm, đặt ra chữ Quốc ngữ, là một thứ chứ lúc bấy giờ dùng rất phổ thông trong nước)

Chữ quốc ngữ có 12 nguyên âm và 25 phụ âm (khác với Phan Khôi): b, c, ch, d, đ, g(h), gi, h, k, kh, l, m, n, ng(h), nh, p, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Âm Thanh Kiếm PDF (NXB Mai Linh 1936) - Điệp Hùng
Để đánh giá đầy đủ trào lưu dịch tiểu thuyết Trung Quốc rầm rộ sau khi chữ quốc ngữ trở nên thịnh hành, tác giả bài viết này đã lập một danh mục các bản dịch xuất bản thành sách (xin xem dưới đây) dựa theo thư mục đã in của Cordier và Boudet cũng như thư mục vi phim của bà C. Rageau bao gồm tất cả các tác phẩm bằng chữ quốc ngữ lưu giữ tại Thư viện quốc gia Pháp từ khi thiết lập hệ thống lưu trữ mang tính pháp lý năm 1922 cho đến 1954. Những tài liệu này được bổ sung bằng một tập tiếp theo gồm tất cả các sách vở có trước 1922 của Thư viện quốc gia. Hơn thế, nhờ sự cộng tác với bà C. Salmon, tác giả bài này lại được tiếp xúc gián tiếp với các phiếu tư liệu của thư viện Pháp ghi các ấn phẩm xuất bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và phiếu tư liệu của Viện nghiên cứu quốc gia về ngôn ngữ và văn minh phương Đông. Thư mục, gồm 316 bản dịch (không kể sách tái bản) này chỉ ghi những tác phẩm đã xác định được nguyên tác. Hiển nhiên con số ở đây là rất nhỏ so với thực tế. Tuy vậy tác giả tin rằng nó đại diện trung thực cho trào lưu dịch thuật bắt đầu dấy lên vào quãng 1905 và kéo dài cho đến khi Nhật chiếm đóng. Chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo nên một đứt đoạn rất rõ rệt trong hoạt động xuất bản, song thư mục này không tiêu biểu lắm cho con số thực các bản dịch, bản in lại những ấn phẩm trước Chiến tranh thế giới thứ hai và các bản dịch mới.Âm Thanh KiếmNXB Mai Linh 1936Điệp Hùng272 TrangFile PDF-SCAN
Đông Hải Triều Âm PDF (NXB Trung Bắc Tân Văn 1935) - Nguyễn Huy Xương
Đông Hải Triều Âm chia làm 3 phần: 1) Tôn chỉ Phật giáo, bài diễn văn của ông Nguyễn Huy Xương đại biểu Hải Dương. 2) Nghi văn lễ Phật. 3) Nghi lễ niệm Phật của ban giảng diễn Hải Dương. In tại nhà in Trung Bắc Tân Văn - Hà Nội 1935Đông Hải Triều ÂmNXB Trung Bắc Tân Văn 1935Nguyễn Huy Xương32 TrangFile PDF-SCAN
Hai Mươi Tuổi - Kiều Thanh Quế PDF (NXB Đức Lưu Phương 1940)
Tôi viết Hai Mươi Tuổi với tất cả hăn- hái, u-buồn, hoài- nghi của tuổi hai mươi, tôi mạnh dạn cầm bút viết "Hai mươi tuổi". Ở đây, tôi trình bày tất cả các hạng hai mươi tuổi không lý - tưởng, toàn là bạn thân hay không thân của tôi, ở đâu, tôi nói xấu cũng như nói tốt họ. Ở đâu, quản bút tôi đang cầm nó bắt tôi khai hết sự thiệt. Tôi không viết sách bao giờ. Tôi chỉ biết là khi nào thấy thần-trí bị ám-ảnh bởi một sự vật, tâm tư thắc mắc bởi một đau khổ ...Hai Mươi TuổiNXB Đức Lưu Phương 1940Kiều Thanh Quế156 TrangFile PDF-SCAN
Hận Ngày Xanh PDF (NXB Tân Dân 1942) - Hoàng Cầm
Có phải chăng tiếng sóng bể, tiếng gió khơi đã giội vào hàng thông trên bãi, có phải chăng tiếng rung động của đôi lòng trong trắng đang hòa nhạc nêu đương dưới nắng thu vàng ? Có phải chăng tiếng thổn-thức từ trái tim rũ héo của người xưa ? Hay chính là bản nhạc đầu thương nhớ trong thời xuân xanh của bạn bay về ? Thế là bạn đã có một bài thơ, một bản đàn. Ẩm-điệu lẩn vào tâm-tư, tùy ở bạn nghĩ đến lòng đau của thi-nhân ngày trước. Giọt lệ thi-nhân! bạn hứng lấy mà xem! Bạn sẽ thấy ngạc nhiên khi thấy bóng mình ở trong ấy, đang nghe tiếng hận ngày xanh...Hận Ngày XanhNXB Tân Dân 1942Hoàng Cầm196 TrangFile PDF-SCAN