Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe (Ma Văn Kháng)

Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa.

Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi.

Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa.

Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi.

Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tìm mua: Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe TiKi Lazada Shopee

Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc.

Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường.

Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ.

Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos).

Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề...

Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời.

Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v...

Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi.

Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo).

Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay.

Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao.

Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công.

Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây.

Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta.

Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe.

Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng.

Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi.

Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt.

Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh.

Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay.

Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.*

Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi.

Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa.

Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ.

Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Ma Văn Kháng":Xa Xôi Thôn Ngựa GiàChim Én Liệng Trời CaoĐám Cưới Không Có Giấy Giá ThúĐồng Bạc Trắng Hoa XòeGặp Gỡ Ở La Pan TẩnMột Mình Một NgựaNgười Thợ Mộc Và Tấm Ván ThiênVõ Sĩ Lên ĐàiMùa Lá Rụng Trong Vườn

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe PDF của tác giả Ma Văn Kháng nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Hôn Nhân Giấy (Diệp Tuyên)
Bạn có từng ân hận vì đã lấy chồng? “Hôn nhân giấy” kể cho các bạn nghe những chuyện mà phải sau khi kết hôn bạn mới hiểu. Người ta thường nói, một năm sau đám cười là giai đoạn “Hôn nhân giấy”, thực chất giấy đó là giấy gì? Giấy ráp, giấy dó, giấy vệ sinh hay giấy dầu? Cô Tiểu Ảnh, cô gái thuộc thế hệ 8x dùng chính những trải nghiệm của bản thân để cho độc giả hình dung được cuộc sống vụn vặt trong một năm sau đám cưới. Sau khi lấy thư ký Quản Đồng làm ở văn phòng Tỉnh ủy, con một trong gia đình, cô phát hiện ra: thói quen sống, cách tư duy của bố mẹ chồng ở nhà quê, hay sở thích, thói quen hành vi của Quản Đồng, một viên chức nhà nước, thậm chí thái độ đối với sự nghiệp và gia đình của hai người, càng ngày càng có nhiều cách biệt… Trong giai đoạn thích nghi tràn ngập những mâu thuẫn và hiểu lầm này, Cố Tiểu Ảnh từng có lúc đau lòng, từng có lúc tuyệt vọng. Nhưng thật may mắn, cô chưa bao giờ buông xuôi. Cãi cọ hết lần này đến lần khác, làm lành hết lần này đến lần khác, dần dần cô học được cách khoan dung, học được cách thấu hiểu, cảm thông. Khi họ tay trong tay thong dong bước qua giai đoạn tân hôn này, Cố Tiểu Ảnh mới hiểu ra: Hôn nhân không chỉ là một trạng thái, mà còn là một tri thức.*** Triết lý hay trong tác phẩm: Ngay từ lúc bắt đầu, tình yêu là một câu chuyện lãng mạn, còn hôn nhân là một câu chuyện nghiêm túc. Tìm mua: Hôn Nhân Giấy TiKi Lazada Shopee Lấy chồng không chỉ là lấy một người đàn ông, mà là lấy cả một gia đình. Cơm vợ nấu không phải là bữa cơm ngon nhất, nhưng chắc chắn là bữa cơm ấm áp nhất trên đời. Tình yêu và hôn nhân không giống nhau. S khác biệt lớn nhất là ở chỗ: tình yêu phóng đại ưu điểm, còn hôn nhân phóng đại nhược điểm. Có lúc, hôn nhân là duyên số, ngoài tình yêu, có lẽ còn có sự nương tựa rất thực tế nữa. Luôn luôn trong hôn nhân, không có gì là tốt nhất, chỉ có thích hợp nhất.***Lời tác giả Tôi vốn đã muốn viết cuốn sách này từ lâu. Về hôn nhân. Về giai đoạn đầu của hôn nhân. Về những chuyện vụn vặt trong giai đoạn đầu của hôn nhân. Về những bực bội, buồn bã, tỉnh ngộ, thậm chí là nhẫn nại không bao giờ có thể quên trong những chuyện vụn vặt đó. Đây không phải là chuyện cổ tích về nàng Lọ Lem, cũng không phải chuyện ân oán giữa các gia đình quyền quý, mà là câu chuyện về chúng tôi, những người thuộc thế hệ 8x, trong mắt xã hội được coi là “mặt trời nhỏ”, “mặt trăng nhỏ”, là “những bông hoa trong lồng kính”, đã học được những gì sau những năm tháng dưa cà mắm muối của hôn nhân. Chúng tôi là những bông hoa trong lồng kính, nhưng rồi hoa cũng phải lớn lên, cũng có một ngày phải bước vào đời sống gia đình. Thực ra, kể cả lúc này, trong mắt các bậc phụ huynh, chúng tôi vẫn là trẻ con, vẫn là những đứa trẻ chẳng bao giờ lớn. Vì thế chỉ có chính chúng tôi mới biết, dù rằng chúng tôi cũng hay có những suy nghĩ ích kỷ và nhõng nhẽo, nhưng chúng ta vẫn mạnh mẽ, khoan dung hơn nhiều so với tưởng tượng của mọi người. Đối diện với tình yêu và hôn nhân, mỗi người trong chúng tôi đều không hoàn thiện, nhưng hầu hết chúng tôi lại một lòng một dạ đi hết con đường n Nói cho cùng, điều tôi muốn viết, đó là trong cuộc sống rất đời thường này, chúng tôi, những người trẻ tuổi, luôn nắm chắc và quyết không từ bỏ tương lai. Và cuối cùng thì đã có “Hôn nhân giấy”. Trong thời gian 8 tháng, sau khi tôi hoàn thành cuốn tiểu thuyết này trong rất nhiều hoạt động giao lưu với độc giả, tôi nhận thấy, hóa ra đến cả chính tôi, cũng trong quá trình giao lưu đó mà càng ngày càng thấy cảm kích bố mẹ đẻ, bố mẹ chồng, chồng mình, và cả cái cuộc sống tràn ngập những cay đắng ngọt bùi này nữa. Vì thế, tôi muốn chân thành cảm ơn tất cả các độc giả đã quan tâm đến cuốn sách và tham gia thảo luận, cám ơn các bạn đã giúp tôi, từng bước một, đi đến ngày hôm nay. Cần đặc biệt nói rõ rằng: trong cuốn truyện này đương nhiên có bóng dáng của tôi, nhưng cũng không hoàn toàn là tôi. Hình ảnh hai nhân vật Cố Tiểu Ảnh và Quản Đồng đến từ đời sống của bốn cặp vợ chồng trẻ, mà cho đến nay họ vẫn nắm tay nhau vượt qua con đường gập ghềnh mà đi về phía trước. Nhưng tôi cũng hi vọng, cuốn sách này không chỉ đại diện cho bốn cặp vợ chồng trẻ đó, mà còn là nhiều hơn nữa. Thậm chí, tôi mong cuốn sách có thể thay chúng tôi truyền đạt một lời kêu gọi rằng: xin tất cả những người yêu mến chúng tôi hãy yên tâm, chúng tôi sẽ cố gắng để giữ gìn hạnh phúc, trân trọng tình yêu. Vậy thì, xin dành tặng cuốn sách này cho dịp kỉ niệm bốn năm kết hôn của tôi với Chàng Ngốc. Dành tặng cho tất cả những người sắp bước vào, đang trải qua, hay đã đi qua quãng thời gian này ở khắp mọi nơi. Dành tặng cho “quãng thời gian thích nghi” đã từng khiến chúng ta đau khổ, hoang mang, vui vẻ và nhiều cảm hứng.Diệp Tuyên Tế Nam ngày 7 tháng 6 năm 2009Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hôn Nhân Giấy PDF của tác giả Diệp Tuyên nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hòn Đảo Phía Chân Trời (Trần Nhuận Minh)
Tác phẩm kể về nghề biển và những người dân chài trong công cuộc xây dựng làng mới trên hòn đảo Mõm Cá Sấu thân yêu của tổ quốc. Từ những nhân vật phụ: Ông Trương Sần kì dị, điều khiển được rắn độc, lại có giọng hò đến say lòng người hay người ông nội kiệm lời, cổ hủ nhưng đã quyết định ra đảo, mang theo cả cỗ hậu sự của mình… cho đến nhân vật chính, cậu bé Nhụ, con trai một gia đình đánh bắt cá trên sông Bạch Đằng, tất cả đều sinh động và ấn tượng. Một sức sống mới đã bừng lên nơi hòn đảo cù lao khô cằn với những con người ấy… *** Hòn đảo phía chân trời thực chất là tiểu thuyết, gồm hai phần, có hai bối cảnh khác nhau, thông qua một gia đình làm nghề cá trên sông Bạch Đằng. Nhân vật trung tâm là Nhụ, con thứ ba của gia đình. Tìm mua: Hòn Đảo Phía Chân Trời TiKi Lazada Shopee Thằng Nhụ, mà ông Trương Sần gọi là cu Cõn, không ngờ rằng, một phần cuộc đời nó lại gắn bó mật thiết với ông, một người có cuộc sống lạ lùng, làm cái nghề lạ lùng. Ông không gia đình, không vợ con, chuyên bắt rắn độc, nuôi rắn độc, và chạy chữa cho người bị rắn độc cắn. Cũng chính ông, có giọng hò đến say lòng người, từ hồi còn chèo đò trên sông Bạch Đằng. Có thể nói Trương Sần là nhân vật chính, nhìn ở góc độ khác. Giả sử tiểu thuyết Hòn đảo phía chân trời, thiếu nhân vật này, chưa chắc cuốn sách đã đứng được. Càng về cuối tác phẩm, vai trò ông Trương Sần càng quan trọng. Ngòi bút Trần Nhuận Minh dữ quá một chút nữa, ông Trương Sần sẽ biến thành phù thủy. Nhưng thật may, điều đó đã không xảy ra. Trong Phần Một: Ngôi nhà bên cửa sông, tác giả mô tả ngôi nhà của Nhụ nằm sát mép nước, mỗi lần tàu chạy qua, sóng sông Bạch Đằng lập tức dào lên, vỗ oàm oạp vào bậc đá dưới thềm nhà. Vấn đề mà phần đầu sách khơi mở, chính từ ngôi nhà đó, bắt nguồn từ người ông. Nhà Nhụ có bốn chị em. Chị Chim sau đổi thành Chiêm, anh Thu, bộ đội hải quân, Nhụ và thằng Đé 5 tuổi. Thằng Đé thường ngủ muộn, bật dậy là bám vào chấn song cửa sổ, vén quần đái vo vo ra sông. Nó có biết gì đâu. Nhụ thì biết. Nhụ biết trong tâm trí ông nó, đang giằng co, về việc đi hay ở, đi là đến làng mới trên đảo xa. Việc hệ trọng đến vậy, ông cũng chỉ nói với Nhụ, kèm một chi tiết khá độc đáo, khiến Nhụ cứ ớ ra. Ông hay ngồi uống rượu trên tấm phản, nguyên là cỗ áo quan, ông tự chuẩn bị cho mình. Ông bảo Nhụ: Nhà ta từ đời thượng cổ đến giờ, chưa ai khuất sóng mà lại được chôn trong một cỗ áo quan. Có lẽ ông là người đầu tiên đây... Khi chết, không bị thả xác xuống biển... mà được chôn trên đất liền, là điều đặc biệt thiêng liêng đối với người dân chài. Ông bám chắc vào cỗ áo quan dành cho mình, là có ý ngầm phản đối việc con trai ông, đang đi tìm miền đất mới trên biển khơi. Hình ảnh bố mẹ Nhụ ở phần đầu sách, chỉ thấp thoáng, đây là sự sắp đặt có chủ ý. Trong điện ảnh, người ta gọi đó là thủ pháp mờ chồng, không chủ yếu, song không thể bỏ qua. Người đọc dễ dàng nhận thấy, tác giả có chút rộng rãi với nhân vật, đôi khi thả lỏng, cho nhân vật hoạt động ngoài tầm kiểm soát của ngòi bút, làm cho một số chương buộc phải nới lỏng dung lượng. Sang Phần Hai: Làng mới trên đảo biển, tiểu thuyết chặt chẽ hơn, đẩy các nhân vật vào hoạt động đa tuyến. Từ bối cảnh một làng đảo mới hình thành, ở địa danh lạ lẫm là Mõm Cá Sấu, cùng nhiều chi tiết, để lại nhiều dấu ấn. Nhụ đã theo bố chuyển ra làng đảo. Ở làng biển, Nhụ có thêm mấy người bạn: Đức, Ngạnh. Mỗi người bạn của Nhụ, có một cảnh đời khác nhau. Đức, con nhà khá giả hơn, phải đeo kính, hai mắt cách xa nhau. Đức biết thương người, còn thương cả con chó Róc, bị cáy cắp chảy máu mũi... Ngạnh thì khác. Ngạnh là thằng bé già trước tuổi. Vì nó sớm phải đối mặt với một cuộc đời buồn. Và càng buồn hơn, mười ba tuổi đầu, Ngạnh chưa hề biết chữ... Cần nói ngay rằng, ngòi bút Trần Nhuận Minh dễ làm xiêu lòng người đọc, ở các trang thể hiện tâm trạng. So với hai bạn, Nhụ có vẻ hiểu biết hơn. Cả ba đứa đều kết thân với chú Thuận, chiến sĩ bộ đội biên phòng, đóng trên đảo. Chú Thuận đã dạy Ngạnh biết đọc biết viết. Mõm Cá Sấu chỉ là một hòn đảo cù lao khô cằn, hoang vu, khi có con người đến sinh cơ lập nghiệp, sự sống mới bừng lên. Hãy nghe ba đứa trẻ đang đi trên mép sóng, bỗng reo to: Chúng ta phải đi báo với chú Thuận. Ngọc trai trước biến đi, bây giờ ngọc trai lại về... Tháng sau, chú Thuận rời quân hàm xanh về làm Chủ tịch lâm thời xã đảo. Nhà văn phòng Ủy ban rất sơ sài, nổi bật lên trên hết là ngọn quốc kỳ. Hai lần Trần Nhuận Minh viết về lá cờ, cả hai đều hay: Lá cờ đỏ sao vàng động gió, bay như hát trên bầu trời. Và lần khác: Cờ đỏ sao vàng, chủ quyền của đất nước đối với hòn đảo, bay như một đốm lửa, lấp loáng cháy ở lưng trời... Các chi tiết này rất quan trọng, vì nó minh chứng cho việc hình thành thể chế của chính quyền nhân dân Việt Nam, được thiết lập trên hòn đảo rất xa đất liền. Mọi việc đang được xúc tiến trôi chảy. Các đội tàu cá, dưới sự chỉ huy của bố Nhụ, một tướng cá, với các chuyến đánh bắt ở khơi xa, thì xã đảo xảy ra một chuyện buồn. Một đêm giông, tàu chở Chủ tịch xã vào đất liền, va vào cồn đá, gẫy bánh lái...Cả xã đảo buồn. Nhụ và hai thằng bạn là buồn nhất. Chúng nó truyền tin cho nhau: Đồn biên phòng đang xin trực thăng đi tìm xác chú... Ở đây, tác giả đã nói một điều rất hợp lôgic cuộc sống: Thành công nào mà chả có mất mát hi sinh. Người đọc lại chú ý một nhân vật phụ: Ông Quang. Ông già bán kẹo kéo ở cạnh cây lim Giếng Rừng (đầu tác phẩm), không ai ngờ lại chính là bố chú Thuận. Chú Thuận, đứa con duy nhất, chỗ dựa duy nhất của ông, không còn. Ông ra đảo, rồi tình nguyện ở lại đảo, nơi con trai ông đã hi sinh. Rồi ông Nhụ cũng ra đảo ở với con, với cháu. Ông đem theo cả cỗ hậu sự. Chi tiết này thật đắt. Cũng vẫn con người ấy, sự việc ấy, song tác giả hướng cái nhìn vào một quan niệm mới. Cuối cùng là ông Trương Sần cũng ra đảo, sống vui cùng mấy bạn già. Cảm giác như cứ trang viết nào trong cuốn sách, có ông Trương Sần, là trang ấy sinh động hẳn lên. Bởi nhân vật này quy tụ được bọn trẻ. Ông Trương Sần hấp dẫn tụi trẻ ở nhiều lẽ. Câu chuyện bố con ông Trương Sần, vật lộn với con rắn hổ mang to đại, thì cả khu Giếng Rừng, người lớn, trẻ con, đều biết. Từ trong lòng, bọn trẻ rất cảm phục. Bằng những kinh nghiệm sống khổ đau, mất mát, cùng chút niềm vui hiếm hoi, ông truyền dạy cho lũ trẻ cái nhân ái của con người. Ở đây, bất chợt ta gặp một Trần Nhuận Minh - nhà thơ, tác giả tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ, nâng hình tượng Nhân nghĩa và Tự do, lên thành chủ thể của tác phẩm. Trong tập sách này, Trần Nhuận Minh có những trang viết hay và cảm động, về nhiều mặt của cuộc sống, như: gà đẻ trứng, ông lão chèo đò chống đỡ với con rắn hổ mang..., các trang viết về những câu hò sông nước, về phong tục tập quán, kinh nghiệm người đi biển, về nghề biển v.v... cả những câu thơ, câu hò trong tập sách, người viết dụng công đưa vào, dù rằng, đó là câu hò dân gian hay thơ của Trần Nhuận Minh, cũng đều đáng khích lệ, bởi lời hay, hợp với khung cảnh. Song, về phần thơ, bạn đọc muốn tác giả cân nhắc thêm. Dùng thơ để thể hiện cao trào của tiểu thuyết, xưa nay chưa có ai làm, mà phải bạo tay và vững nghề mới dám làm. Bài thơ đứng một mình Chương kết không đánh số là bài khá, khiến các bạn nhỏ tuổi phải suy nghĩ nhiều, cũng chấp nhận được. Sách có nhiều chương viết sinh động, chứng tỏ tác giả có vốn sống phong phú về nghề biển và người dân chài. Tạo dựng đời sống hiện thực trong một tác phẩm văn chương về một làng đảo, đâu có dễ. Đây là một thành công trong truyện viết cho thiếu nhi. (Bài đăng báo VĂN NGHỆ. Số 22 ngày 2/6/2001)Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hòn Đảo Phía Chân Trời PDF của tác giả Trần Nhuận Minh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng Xuân (Khái Hưng)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng Xuân PDF của tác giả Khái Hưng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hôm Nay Tôi Thất Tình (Hạ Vũ)
Muốn vượt qua nỗi đau thất tình ư, dễ lắm... Đôi khi vẫn nghĩ, sao cứ phải ôm mãi một bó củi khô khi phía trước là rừng rậm, phải tiếc một gáo nước đã đổ đi khi suối nguồn đang ở phía trước? Thất tình, một điều có thể làm bất kì ai sợ hãi. Tình yêu bỏ rơi, buồn thật đấy! Duyên số đôi khi cũng buồn cười lắm, cho người ta gặp nhau rồi cuối cùng cũng chẳng thể cùng bước đến tận cuối con đường. Hai người hai hướng, chỉ còn con tim đang ngẩn ngơ vì tình. Là do người đánh mất hay vì người chưa từng có. Người tự yêu, tự an ủi trong mối tình vốn đã sớm nhận ra chẳng thể thành đôi. Người làm bộ như không sao cả, thời gian tự trôi rồi mọi thứ sẽ ổn. Nhưng hai chữ thất tình vẫn như giọt buồn tràn ly, ghim chặt thành sự ám ảnh. Tìm mua: Hôm Nay Tôi Thất Tình TiKi Lazada Shopee Người mượn tình cảm để chôn vùi tình cũ, mượn một tấm thân xa lạ để xoa dịu cơn đau, nuôi mộng bóng hình xưa sẽ tàn phai theo năm tháng. Rồi người nhận ra mình vừa vô trách nhiệm với mình, lại đang gieo cả sự bất hạnh cho kẻ khác. Thất tình là thế đó, đủ câu chuyện với nhiều nỗi niềm mông lung. Nhẹ nhàng với những áng văn chương truyền cảm, Hôm nay tôi thất tình cùng Hạ Vũ nói hộ tấm chân tình da diết của biết bao kẻ đang cô đơn. Viết cho những ngày người uống thật say để không còn thương nữa. Người chỉ muốn ôm mặt mà bật khóc để vơi đi cái nhói đau đang quặn thắt trong lòng. Ngày qua ngày trôi đều như thế, kẻ đi rồi có biết được đâu. Hôm nay tôi thất tình, là cuốn nhật kí ghi lại những dấu ấn của tình yêu tuổi trẻ. Nơi cất lại những bức họa buồn được người tô vẽ trong vội vàng. Người muốn vượt qua nỗi buồn hãy cứ bình tĩnh, Xa người đó rồi, nhất định sẽ gặp được một kẻ tốt hơn. Ông trời sắp đặt cả rồi, không cần gấp. Người hãy như Hạ Vũ, cứ im lặng, đi xem phim, đi shopping, đi ăn, đi chơi với bạn bè, chăm chỉ lên lớp, chăm chỉ đi làm... Từng bị tổn thương một lần rồi, đừng dùng những hành vi ngây thơ trẻ con làm tổn thương chính mình để trả thù hay trút hết cảm xúc. Có thù hận nặng nề tới mấy kẻ đã bỏ buông cũng chẳng quay lại. Đó vượt qua thất tình không khó phải không? Hôm nay tôi thất tình, thở dài một cái, thả cảm xúc vào khoảng không, nhìn đời nhất có thể và người có thể thanh thản, dũng cảm đi tiếp đươc rồi.*** Có những cuộc trò chuyện, ta luôn phải khơi gợi, bắt đầu trước. Tìm đủ mọi chủ đề để nói, cho tới cả những lời độc thoại, những câu hỏi vụn vặt. Bởi bản thân biết, chỉ cần ta im lặng, bên kia cũng sẽ im lặng. Thậm chí im lặng ngay cả khi chưa đáp lại ta câu nào. Có những nơi rõ ràng rất buồn, rất nhiều những xót xa và tủi thân, nhưng ta vẫn cứ ở lại. Bởi vì ở nơi đó có một người. Bởi vì ta biết, nếu ta đi, chắc chắn người cũng sẽ không đưa tay níu lại đâu. Chuyện của tôi và người là như thế đấy! Chúng tôi đã từng trò chuyện với nhau rất nhiều. Đã từng kể nhau nghe những chuyện trên trời dưới đất, cho đến những gì rất gần gũi xung quanh cuộc sống mình, cho đến cả những chuyện chưa từng kể với ai. Chúng tôi từng biết rất rõ mỗi ngày của nhau, thậm chú ngày mai của nhau sẽ đi đâu, làm gì. Chỉ cần rảnh ra là tìm đến nhau. Ra ngoài nói nhau biết, về đến nhà rồi liền cho nhau hay. Chúng tôi đã từng xem việc nhắn nhau mỗi khi thức dậy và chúc nhau có giấc ngủ ngon mỗi khi đêm về là một thói quen. Hơn nữa nếu thiếu vắng sẽ thấy không quen, thấy rất thiếu. Có lần người ngủ quên mất, tôi thấy hụt hẫng vô cùng, thấy nao cả lòng, khó khắn lắm mới ru mình vào giấc ngủ. Thế rồi một ngày, chúng tôi lặng im. Nói đúng hơn là chính người lặng im, mà tôi cũng không bắt lời nữa. Cứ thế mà thành nỗi lặng im, dài thật dài. Lặng im với một người mình từng rất thân thiết, gần gũi sẽ thấy rất buồn. Khung trò chuyện trơ trọi dòng tin nhắn xưa cũ, chẳng ai nói thêm lời nào. Giờ đây người đi đâu, làm gì, hiện tại đang thế nào, không thể biết được nữa. Ví như lúc này bình thường người phải đang ở ngoài rồi, vậy mà chẳng hiểu sao nay lại thấy trên mạng, cũng chẳng biết tại sao. Ví như một hôm khác người thức khuya thật khuya, hay có những sáng thấy người dậy từ rất sớm, cũng không thể biết vì sao, vì sao nữa. Cảm giác thế nào khi phải đấu tranh với nỗi nhớ dành cho một người? Không được nói chuyện. Không được quan tâm. Không được liên lạc. Từng có những khoảnh khắc cảm thấy bản thân sắp thua cuộc đến nơi. Nhưng cuối cùng vì nỗi sợ hãi khiến cho mình chẳng dám. Chẳng dám làm mọi chuyện thêm tồi tệ thêm. Tổn thương, đau buồn đang gánh càng thêm lớn. Thế nên, chỉ có thể như thế thôi, chỉ biết cùng người im lặng. Có những ngày cảm thấy mọi thứ dường như đã đạt đến mức cực đại, thật lòng muốn gõ vào khung trò chuyện ấy ba chữ: "Rất nhớ người" nhưng cuối cùng cũng chỉ dám đưa chuột bấm vào rồi lại thôi, thoả chút nỗi nhớ.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hạ Vũ":Anh Chính Là Thanh Xuân Của EmAnh Hùng Khó Qua Ải Mỹ NhânHôm Nay Tôi Thất TìnhYêu Sao Để Không ĐauĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hôm Nay Tôi Thất Tình PDF của tác giả Hạ Vũ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.