Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chim Việt Nam - Hình Thái Và Phân Loại 2 Tập [PDF]

Trước đây, tại Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về chim - do các cá nhân hoặc nhóm tác giả trong nước và quốc tế thực hiện, nhưng cuốn “Chim Việt Nam” (dày 1.200 trang) thực sự là ấn phẩm giới thiệu hoàn chỉnh nhất về khu hệ chim Việt Nam nói riêng và thế giới các loài chim nói chung, là tư liệu hữu ích trong việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập.

Trên thế giới hiện biết được có 10.964 loài chim - thuộc 36 bộ, 243 họ. Còn trong cuốn sách nói trên của cặp tác giả Võ Quý - Nguyễn Lân Hùng Sơn, thể hiện “dung nhan” của 906 loài chim (tính đến năm 2015) hiện biết có tại Việt Nam - kết quả nghiên cứu công phu qua nhiều năm của 2 nhà khoa học này.

Ở Việt Nam, dù đã được thiên nhiên ban tặng một sự đa dạng sinh học cao với nhiều loại rừng, nhiều hệ sinh thái tự nhiên và nhiều tài nguyên quý giá, nhưng bởi nhiều nguyên nhân (trong đó có phần tác động của con người) nên nhiều loài sinh vật, cả động vật lẫn thực vật, đã giảm nhanh số lượng, hoặc đã bị diệt vong, trong vài thập kỷ qua.

Với 906 loài chim hiện biết ở Việt Nam, được miêu tả trong cuốn “Chim Việt Nam”, mỗi loài đều ẩn chứa nhiều sự quyến rũ không chỉ là vẻ sặc sỡ của bộ lông vũ, tiếng hót lảnh lót, du dương mà còn cả những câu chuyện về tập tính kỳ lạ của chúng. Với những bức ảnh màu minh họa (được trích xuất từ nhiều nguồn), người đọc có thể nhận diện được vẻ đẹp của nhiều loài chim mà không dễ gì gặp được ở ngoài tự nhiên.

PGS-TS Nguyễn Lân Hùng Sơn sinh năm 1976, là Trưởng Khoa Sinh học (ĐH Sư phạm Hà Nội), Phó Chủ tịch Hội Sinh thái học Việt Nam. Vẻ đẹp lộng lẫy của các loài chim đã mê hoặc ông ngay từ thời sinh viên. Với sự dẫn dắt của người thầy, nhà bảo tồn thiên nhiên và môi trường tiên phong của Việt Nam - GS Võ Quý, ông đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu chim ở Việt Nam.

Không chỉ dừng ở việc công bố các công trình khoa học liên quan đến khu hệ chim Việt Nam, ông còn góp phần truyền lửa cho các thế hệ sinh viên, cao học, nghiên cứu sinh và cả cộng đồng về niềm đam mê nghiên cứu và bảo tồn thiên nhiên nói chung và các loài chim hoang dã nói riêng. Theo ông, để mọi người yêu thiên nhiên, thì phải cho mọi người được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên và từ đó sống thân thiện với thiên nhiên, với động vật hoang dã và tạo nên tình người.

Ông Đặng Ngọc Sâm Thương sinh năm 1969, tốt nghiệp ĐH Bách khoa Đà Nẵng, mê khám phá thiên nhiên hoang dã. Những bức ảnh về chim Việt Nam qua góc nhìn của ông được chộp bắt rất kỳ công, đều tựa như những tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, thu hút sự chiêm ngưỡng của những người yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp.

Với việc ra mắt cuốn “Chim Việt Nam”, các tác giả đã tạo dựng được một công trình nghiên cứu khoa học quý, đồ sộ, đồng thời góp phần truyền đi thông điệp kêu gọi công chúng chung tay bảo vệ sự đa dạng sinh học để cuộc sống phát triển bền vững.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

NHỮNG ĐÀN BÀ LỪNG DANH TRONG LỊCH SỬ - NGUYỄN VỸ
Tôi đã thuật lại, trong quyển sách này, đời sống rất hấp dẫn, chứa rất nhiều bài học quý giá, của ba mươi người đàn bà lừng danh nhất trong Lịch-sử Đông Tây tự  cổ  chí kim. Tôi đã thuật lại, trong quyển sách này, đời sống rất hấp dẫn, chứa rất nhiều bài học quý giá, của ba mươi người đàn bà lừng danh nhất trong Lịch-sử Đông Tây tự cổ chí kim.Tôi bắt đầu bằng TRƯNG - NỮ - VƯƠNG, vì hai lý do. Xét về khách quan lịch sử và về phương diện giá trị tác phong, Trưng Nữ Vương không những là một anh hùng của Dân tộc Việt Nam mà còn là một nữ anh hùng bậc nhứt trên thế giới. Vả lại, Jeanne d'Arc thua kém Trưng Vương trên nhiều phương diện lắm mà được cả thế giới khâm phục trải qua các thời đại, là nhờ người Pháp biết truy tôn bậc Nữ anh hùng của họ. Tôi bắt đầu bằng TRƯNG - NỮ - VƯƠNG, vì hai lý do. Xét về khách quan lịch sử và về phương diện giá trị tác phong, Trưng Nữ Vương không những là một anh hùng của Dân tộc Việt Nam mà còn là một nữ anh hùng bậc nhứt trên thế giới. Vả lại, Jeanne d'Arc thua kém Trưng Vương trên nhiều phương diện lắm mà được cả thế giới khâm phục trải qua các thời đại, là nhờ người Pháp biết truy tôn bậc Nữ anh hùng của họ.Từ trước đến nay, người Việt Nam chưa hề viết nhiều về Trưng Nữ Vương, chưa ca ngợi xứng đáng Vinh quang lẫm liệt của Trưng Nữ Vương cho thế-giới biết. Cho nên tôi thấy cần phải đưa Bà từ quên lãng bất công của địa vị một anh hùng địa phương Việt-Nam lên bậc Thần tượng tối cao, chói lọi, xứng đáng của  Lịch sử Loài Người. Tác phẩm nầy đang được dịch ra Anh  Pháp ngữ chinh vì mục đích ấy. Từ trước đến nay, người Việt Nam chưa hề viết nhiều về Trưng Nữ Vương, chưa ca ngợi xứng đáng Vinh quang lẫm liệt của Trưng Nữ Vương cho thế-giới biết. Cho nên tôi thấy cần phải đưa Bà từ quên lãng bất công của địa vị một anh hùng địa phương Việt-Nam lên bậc Thần tượng tối cao, chói lọi, xứng đáng củaLoài Người. Tác phẩm nầy đang được dịch ra Anhngữ chinh vì mục đích ấy.Tói cố ý gát ra ngoài một số các nữ chính trị gia tuy cũng nổi tiếng xưa nay, nhưng phong độ cá nhân  và ảnh hưởng tinh thần trên đời sống nhân loại không đáng  kể, như các Nữ Hoàng, Nữ Thũ Tướng, Nữ Ngoại giao, Nữ Cách mạng, v.v .. Tói cố ý gát ra ngoài một số các nữ chính trị gia tuy cũng nổi tiếng xưa nay, nhưng phong độ cá nhân hưởng tinh thần trên đời sống nhân loại không đáng, như các Nữ Hoàng, Nữ Thũ Tướng, Nữ Ngoại giao, Nữ Cách mạng, v.v ..Các Nữ Văn sĩ, Thi sĩ, Nghệ sĩ. nổi danh trên  thế giới cổ kim, sẽ được giới thiệu đầy đủ trong một qu yển sách khác được ấn hành riêng. Nữ Thi hào Hồ xuân-Hương của Việt Nam sẽ có mặt trong tác phẩm Thi tuyển quốc tế ấy. Các Nữ Văn sĩ, Thi sĩ, Nghệ sĩ. nổi danh trêngiới cổ kim, sẽ được giới thiệu đầy đủ trong một qusách khác được ấn hành riêng. Nữ Thi hào Hồ xuân-Hương của Việt Nam sẽ có mặt trong tác phẩm Thi tuyển quốc tế ấy.Kỷ nguyên Lạc-Long, năm 1848Sài-gòn, tháng 4-1969N.V.
BÀ CHÚA CHÈ - NGUYỄN TRIỆU LUẬT
Lâu nay, lưu truyền tên gọi Tuyên phi Đặng Thị Huệ – ái phi của chúa Thịnh Vương Trịnh Sâm (1737-1782) – là Bà Chúa Chè. Tên gọi của bà gắn với thú uống trà của người Việt. Vì sao có tên gọi này, đã có nhiều người viết trong các truyện, in thành sách, nhưng xem ra vẫn không thống nhất. Người thì cho quê bà có tên Chè, người lại bảo lúc chưa vào phủ chúa bà đi bán chè tươi, có người còn nói chúa Trịnh Sâm gặp bà lúc đang hái chè. Tất thảy những cách giải thích này đều không hề dẫn ra được cứ liệu. Xin được dẫn cụ thể một số đoạn trong các nguồn và sách, đã viết như sau: Lâu nay, lưu truyền tên gọi Tuyên phi Đặng Thị Huệ – ái phi của chúa Thịnh Vương Trịnh Sâm (1737-1782) – là Bà Chúa Chè. Tên gọi của bà gắn với thú uống trà của người Việt. Vì sao có tên gọi này, đã có nhiều người viết trong các truyện, in thành sách, nhưng xem ra vẫn không thống nhất. Người thì cho quê bà có tên Chè, người lại bảo lúc chưa vào phủ chúa bà đi bán chè tươi, có người còn nói chúa Trịnh Sâm gặp bà lúc đang hái chè. Tất thảy những cách giải thích này đều không hề dẫn ra được cứ liệu. Xin được dẫn cụ thể một số đoạn trong các nguồn và sách, đã viết như sau: – Đặng Thị Huệ là cung phi chúa Trịnh Sâm, không rõ năm sinh, quê làng Phù Đổng, tỉnh Bắc Ninh. Bà xuất thân nghèo khổ, nguyên là cô gái hái chè, sau về với chúa Trịnh, nên tục gọi là Bà Chúa Chè (Gia phả Trịnh tộc, www.trinhtoc.com).– “Dân ta gọi Đặng Thị Huệ là Bà Chúa Chè vì Chúa Trịnh Sâm gặp được nàng trong lúc hái chè trên nương. Thấy nàng đẹp lập tức cho vời vào cung làm Tuyên phi” (Trần Quang Trần, Con rồng Việt Nam với người Giao Chỉ, Nxb Văn hóa dân tộc,1996, tr 112).– “Đặng Thị Huệ là con một gia đình bình dân tầm thường, xuất thân từ cô gái hái chè ở vùng quê Tiên Du xứ Kinh Bắc (nên về sau người ta vẫn gọi là Bà Chúa Chè. (Quốc Chấn, Những vua chúa Việt Nam hay chữ, Nxb Thanh niên, 2007, tr 120).– “Sau khi đánh được Thuận Hóa, Trịnh Sâm cho Đặng Thị Huệ từ chức Tiệp dư lên chức Tư dung. Lúc ấy người ta bắt đầu gọi nàng là Bà Chúa Chè (Chè đây là tên núi vùng quê của Nàng)” (Đinh Công Vĩ, Các truyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam, Nxb Phụ nữ, 2005, tr 264).– Đặng Thị Huệ người làng Chè, xã Phù Đổng (Hà Nội), vợ của chúa Trịnh Sâm. Vì là vợ chúa, lại người làng Chè nên đời vẫn gọi Đặng Thị Huệ là Bà Chúa Chè (Đặng Thị Huệ tiến thân như thế nào, Nguyễn Ngọc Thuần).Và còn những sách mà tôi chưa nêu, khi viết về Tuyên phi Đặng Thị Huệ, có liên quan đến tên gọi này. Nhưng với những tư liệu đã nhắc đến, nội dung giải thích tên gọi về Bà Chúa Chè đa phần các “thuyết” chưa xác đáng: Không có chuyện Chúa Trịnh Sâm gặp Thị Huệ khi đang hái chè. Theo cuốn tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí mô tả cách tự “tiến cử” của Bà: “Một hôm, Tiệp dư Trần Thị Vinh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi chúa ngồi. Ả họ Đặng này người làng Phù Đổng, mắt phượng mày ngài, vẻ người mười phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng lòng, bèn tư thông với ả”.Xem ra, có thể tin ở lý do gọi tên theo quê quán Bà. Cuốn Lê quý dật sử của Bùi Dương Lịch (1757-1828) cho biết rõ: Bà người làng Trà Hương, Phù Đổng, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Hà Nội). Tên làng “Trà” đọc Nôm thành “Chè”. Điều này cũng giống như trường hợp Bà Chúa Mía (tên Nguyễn Thị Ngọc Diệu, một bà phi của Chúa Thanh Đô vương Trịnh Tráng (1623-1652), đã lập chùa và có đền thờ ở làng Đông Sàng, xã Đường Lâm – trước có tên Cam Giá, tên Nôm là Mía – Thị xã Sơn Tây, Hà Nội).Nhưng có phải chỉ có một lý do đó?Xin nêu ra một nguồn cứ liệu khác, để có thể gợi mở, suy lý thêm về tên gọi của Đặng Thị Huệ. Trong một bài phú chữ Hán của Ngô Thì Nhậm (1746-1803) là “Thưởng liên đình phú”, có tả cảnh lò luyện thuốc tiên và hái sen ướp trà trong phủ của Quốc sư Hoàn Quận công (Nguyễn Hoàn, người Nông Cống, Thanh Hóa, từng làm Thái phó dạy Trịnh Sâm, sau giữ chức Tham tụng), dâng lên Trịnh Sâm. Chúa khen việc làm đó, đã ban cho 30 lạng bạc, để thưởng cho việc ướp trà sen. Mỗi lần thưởng thức trà đều cho vời Đặng Thị Huệ. Đoạn dịch nghĩa bài phú như sau: “Hái nhụy bạc và tơ vàng chừ, rồi chạy về nhanh tựa biến/ Đem về bếp trà nơi phủ Chúa chừ, mời bà Lệ Hoa sangThái điện/ Khen Tướng sư giỏi trồng sen chừ, ngợi tiên nga tài hái chọn/…”. Dưới đoạn này, tác giả Ngô Thì Nhậm còn chú rõ: “Mỗi lần hái được nhị sen, Quận công liền cho chạy ngựa dâng tiến phủ Chúa. Chúa Trịnh vương mỗi khi pha trà đó, thế nào cũng mời Tuyên phi (Đặng Thị Huệ) cùng thưởng thức. Tuyên phi rất thích trà sen,…” (Tuyển thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển II, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội, 1978, tr 91- 92). Với cứ liệu này, tin ở sự chứng kiến của người cùng triều đình, thậm chí là thân thiết với Bà, là Ngô Thì Nhậm, ta có thể biết thêm rằng: Tuyên phi Đặng Thị Huệ còn có tên Lệ Hoa (lệ: mỹ lệ; hoa: tinh hoa, văn sức – đây chắc là tên hiệu của bà), thường cùng thưởng trà với Chúa Trịnh Sâm. Đến đây, có thể nói thêm rằng, bà rất sành thưởng thức trà nên người ta còn gọi biệt danh là Bà Chúa Chè. Tên gọi này không phải chỉ lưu truyền trong dân gian, nó được nhắc hai lần trong cuốn Lê quý dật sử. Qua đây rõ thêm, biệt danh Bà Chúa Chè của Tuyên phi Đặng Thị Huệ đã có một tầng nghĩa nữa.Mở rộng hiểu biết xung quanh nhân vật lịch sử này, một sự tôn vinh, sau khi bà qua đời, ngay trong thời đại của Bà. Ấy là câu chuyện được các tác giả Ngô gia văn phái dựng lại trong tiểu thuyết chương hồi. Hoàng Lê nhất thống chí có chép việc Nguyễn Hữu Chỉnh khi chạy vào với Nguyễn Nhạc, con rể của Chỉnh làm thuyết khách cho Triều đình Lê – Trịnh, khi gặp nhau, trong cuộc hỏi đáp, người con rể Chỉnh kể chuyện Đặng Tuyên phi bị Thái phi hành tội. Có phải các tác giả mượn lời của nhân vật này để “chiêu tuyết” cho Đặng Tuyên phi! Qua lời người kể bộc lộ một bản lĩnh cứng cỏi: dù bị hai thị nữ túm tóc rập đầu xuống đất, không chịu lạy cũng không nói nửa nhời; rồi còn bị Thái phi nhổ vào đầu, mặt; đem giam vào nhà Hộ lăng. Khi đó xảy ra hiện tượng biến dị: những “đồ thờ bằng gỗ, bằng vàng, hễ động tay vào là nát mủn như bùn”. Thái phi nghe việc biến, cho đòi cô đồng vào hỏi; đồng phán: “Chúa thượng làm trái ý Tiên vương: tội bất hiếu có hai điều: Chúa vừa lên ngôi, đã ngờ Đặng thị làm bùa yểm trong tử cung, rồi tự ý mở tử cung, thay đổi quần áo khâm liệm, khiến xương ngọc không yên. Đó là một! Đặng thị là người mà Tiên vương yêu dấu, bây giờ bị chúa làm cho tủi nhục đủ đường, khiến vong linh tiên vương phải áy náy. Đó là hai! Nếu không mau hối lỗi tạ tội, tai biến sẽ còn nhiều nữa”. Tuyên phi được trở lại hầu hạ lăng tẩm, nhưng đêm ngày chỉ gào khóc xin chết theo tiên vương. Đến ngày giỗ “đại tường” của tiên vương, Tuyên phi bèn uống thuốc độc mà chết. Chúa sai quan trấn thủ Thanh Hoa, làm theo lễ cung nhân, táng Tuyên phi ở cách Vọng lăng một dặm”. Nghe xong chuyện, Chỉnh cảm thán: “Chết được đấy! Ta tưởng Tuyên phi chỉ có nhan sắc, không ngờ lại tiết liệt như vậy” (Hoàng Lê nhất thống chí, tập I, Nxb Văn học, 1987, tr 95-96)Như vậy, Bà Chúa Chè – Tuyên phi Đặng Thị Huệ, một nhân vật lịch sử, một bậc kỳ nữ đáng để hậu thế ghi nhớ, luận bình. Sao cái thời đầy biến động, trong thế kỉ 18, lại có người tài sắc đến vậy!Đỗ Tiến Bảng
LỊCH AN NAM (1890) THÔNG DỤNG TRONG 6 TỈNH NAM KỲ
Kim lớn đồng hồ Tây đi giáp một vòng, kim nhỏ đi giáp một khoản, thì là một giờ Tây. Như cả kim lớn, kim nhỏ chỉ số 12, nghĩa là giờ thứ 12, thì là nhằm giữa giờ tý, giờ ngọ An-Nam, hay là tý trung, ngọ trung. Kim lớn từ số 12 cứ việc đi một vòng cho giáp lại số 12. Kim nhỏ đi lần một khoản cho tới số 1, nghĩa là giờ thứ nhứt tây, thì là đầu giờ sửu, hay là giờ mùi An-Nam. Kim lớn bắt đầu từ số 12 đi một vòng khác cũng giáp số 12, kim nhỏ đi tới một bậc cho tới số 2, nghĩa là giờ thứ 2 tây, thì nằm giữa giờ sửu, giờ mùi. Cứ việc tính làm vậy cho đến khi kim nhỏ chỉ số 11, kim lớn giáp 12, thì là đầu giờ tí, giờ ngọ, vân vân...
PHONG TỤC MIỀN NAM QUA MẤY VẦN CA DAO
Đất đai miền Nam phong thạnh, khí hậu ôn hòa, nếu không có chiến tranh thì dân Nam sống dễ dàng thong thả, không mấy khi khổ sở vì địa ách thiên tai; trên rẫy, khoai, bắp, đậu đủ ăn; dưới ruộng, dồi dào bông lúa; sông rạch, đầm ngòi, tôm cá chẳng thiếu chi. Vì vậy, ca dao miền Nam không nhắc nhở nhiều tới sự cần cù khó nhọc  chỉ năm ba câu khuyến khích sự gắng công. Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao rất giàu tình cảm  được thể hiện qua ca dao tả cảnh, tu thân, tình gia tộc, phong tục thôn quê, ngoài xã hội, những câu hát vặt…   Đất đai miền Nam phong thạnh, khí hậu ôn hòa, nếu không có chiến tranh thì dân Nam sống dễ dàng thong thả, không mấy khi khổ sở vì địa ách thiên tai; trên rẫy, khoai, bắp, đậu đủ ăn; dưới ruộng, dồi dào bông lúa; sông rạch, đầm ngòi, tôm cá chẳng thiếu chi. Vì vậy, ca dao miền Nam không nhắc nhở nhiều tới sự cần cù khó nhọc  chỉ năm ba câu khuyến khích sự gắng công.Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao rất giàu tình cảm  được thể hiện qua ca dao tả cảnh, tu thân, tình gia tộc, phong tục thôn quê, ngoài xã hội, những câu hát vặt…