Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đêm Núm Sen

  “Ba giờ đêm, dưới phố, lại lào xào một cuộc hành binh dài dặc, về làng… Tôi tỉnh giấc. Sứa nằm thiêm thiếp bên vai tôi. Tôi nghe tiếng Sứa thở. Tôi vuốt nhẹ, dọc cái lưng trần. Vuốt nhẹ. Tôi nhớ cặp đùi. Khi nãy, nó giãy. Nó giãy cuống quýt. Tôi đưa tay vuốt. Sứa vẫn thiêm thiếp. Tôi vuốt. Căn buồng đỏ mênh mông. Tôi vuốt sự ngây thơ rơm rớm. Con nai nằm nghiêng đùi hơi co. Tôi vuốt… Dưới phố, những ki lô mét hành quân… Tôi vuốt. Sứa tỉnh dậy. Sứa thẹn. Sứa co người lại. Tôi vuốt. Con nai ngây thơ của tôi ơi! Tôi vuốt con nai bị thương của tôi. Rơm rớm… Rơm rớm…” Khi kiến Gầy phải lòng một cô gái vú vểnh, và sục sạo đến tận nhà của cô nàng, tức biệt thự Đá Đỏ, để tìm hiểu và tỏ tình, anh chàng không sao ngờ được cuộc chinh phục của mình lại có thể gian nan đến thế và nhất là, có thể bị chia cắt đến như vậy. Bởi cuộc chiến. Tình yêu của kiến Gầy, như của bao nhiêu người-kiến kiến-người khác, đã bị chiến tranh tràn qua, như một cơn hồng thủy. Đêm núm sen, hơn cả một cuộc phiêu lưu vào một thế giới giả tưởng, nơi mà cuộc sống cá nhân, bị nghiền nát và cuốn đi bởi chiến tranh, bởi đời sống tập thể, trước hết, là một cuộc trình diễn ngôn ngữ của một tác giả mà từ vựng là của thi ca và cảm xúc là của thi sĩ. Ai có thể tả những phấp phỏng, thẹn thùng, nhớ nhung, đay khổ, say đắm như Trần Dần? Ai có thể tả đêm núm sen phập phồng cảm xúc và sexy như Trần Dần? Với Đêm núm sen, sự viết của Trần Dần một lần nữa khẳng định rằng tiếng Việt đẹp thế nào và vì sao ông vẫn là một thành lũy vời vợ Chẳng phải vậy ư, khi những trang bản thảo ố vàng, tìm được đường trở lại sau hơn nửa thế kỷ bị cất giấu, bị gián nhấm và thất lạc, vẫn tỏa nguyên một “quyền lực man mác” lên chúng ta hôm nay. *** Tác giả Trần Dần lựa chọn hình thức ngụ ngôn để viết Đêm núm sen, thay vì chọn bối cảnh thực như Những ngã tư những cột đèn. Hình thức ngụ ngôn khiến cho tiểu thuyết xa rời quy chiếu có tính hiện thực, tạo ra một không gian có tính ước lệ, biểu tượng. Câu chuyện làng Mận, cuộc chiến ở đây gần như là phản chiếu của rất nhiều cuộc chiến, của rất nhiều thân phận con người. Nhà văn Trần Dần thường vượt qua cái khung một thể loại văn chương ở nhiều điểm. Với Đêm núm sen, Dương Tường gọi là một ngụ ngôn đen, giống như những ngụ ngôn đen của Gunter Grass thể hiện gương mặt bị lãng quên của lịch sử. Tác phẩm là một ngụ ngôn đen kể chuyện con vật, nhưng câu chuyện đi rất xa so với tác phẩm đồng thoại. Ở đây, loài kiến không chỉ gợi ra ý niệm nhỏ bé, mà nó sống theo bầy. Khi nhìn kiến, ta chỉ có thể nhìn nó khi cúi thật thấp. Quan hệ của loài kiến là mối quan hệ giữa cá nhân và bầy đàn, mà cá nhân thường bị đẩy ra bên lề lịch sử. Tác phẩm được viết với nhịp độ nhanh, mạnh, gấp gáp, mang hơi thở trên từng bề mặt câu chữ. Tác giả Trần Dần trong những nhật ký có nói ý chiến tranh không cho phép người ta nghĩ được nhiều. Trong cuộc chiến, mọi thứ diễn ra quá nhanh, tất cả câu chuyện dù lớn lao hay nhỏ bé, chiến tranh không làm cho người ta nghĩ. Đêm núm sen dưới lớp vỏ nhanh, gấp gáp, các sự kiện liên tục diễn ra, các nhân vật liên tục xuất hiện, nhưng trong cái cách hối hả đó là sự suy nghĩ thật chậm, thật sâu vào chiến tranh. Tất cả những câu đối thoại ngắn gọn, những nhịp đi gấp gáp trong sách được nhà văn tính toán kỹ lưỡng để người đọc buộc phải suy nghĩ. Nhà phê bình văn học Mai Anh Tuấn thừa nhận “Tôi không đủ sức để đuổi theo hết ý tưởng của Trần Dần. Cuốn sách này làm cho ta ngỡ ngàng về tính hiện đại. Đọc nó, cho tôi những cặp tri nhận khác nhau: chiến đấu – lao động, tình yêu – sự thù oán, đau khổ – hèn nhát, mộng tưởng – tuyệt vọng…" Những cặp cảm giác mà Mai Anh Tuấn nêu ra trong sách không chỉ đúng với con người ở một thời đại, mà đúng với chúng ta ở thời đại ngày hôm nay. Chính vì thế, độc giả hôm nay khi chạm đến cặp cảm giác đó có vẫn có thể tìm được tiếng nói chung ở tác phẩm. Và cũng vì thế, mà tác phẩm dẫu được viết ra từ hơn nửa thế kỷ trước, tới nay vẫn phù hợp và mới mẻ.  *** TRẦN DẦN sinh ngày 23.8.1926 trong một gia đình khá giả tại phố Năng Tĩnh, thành phố Nam Định. Ông học trung học tại Hà Nội, đậu tú tài Pháp và bắt đầu làm thơ. Năm 1946, Trần Dần lập nhóm thi sĩ tượng trưng cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương... Cũng trong năm này, tạp chí Dạ Đài ra số 1, đăng bản tuyên ngôn của phái Tượng trưng do Trần Dần chấp bút. Năm 1954, Trần Dần viết Người người lớp lớp, cuốn tiểu thuyết duy nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đó về Điện Biên Phủ. Sau đó Trần Dần viết Nhất định thắng (thơ, 1955); Đi! Đây Việt Bắc (trường ca, 1957), Cổng tỉnh (thơ, 1960); Đêm núm sen (tiểu thuyết, 1961), Jờ Joạcx (thơ, 1963), Mùa sạch (thơ, 1964) Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết, 1964)... Năm 1976, Trần Dần và Dương Tường thử nghiệm Thơ thị giác. Năm 1980, Trần Dần viết bộ tam 36 thở dài - Tư Mã dâng sao, năm 1987 viết Thơ mini... Trần Dần mất ngày 17 tháng 1 năm 1997 tại Hà Nội. Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Một số tác phẩm khác của Trần Dần được Nhã Nam xuất bản: — Trần Dần thơ — Đi! Đây Việt Bắc — Những ngã tư và những cột đèn   *** "Mỗi lần đứt tay... lại đau một lần.” Mỗi lần đau, lại một lần thấy có "nhiều im-lặng biết nói”, cùng “nhiều câu nói không-nói-gì”. Đấy là những nỗi đau lặp lại. Đấy là thân phận của một nhân vật kiến, của nhiều nhân vật kiến của cả loài kiến. Đấy là ngôn từ, chẳng thể chỉ dành riêng cho một người, cho nhiều người hoặc cho cả loài người. Đêm núm sen là cuốn sách như thế về một xã hội côn trùng khép mình trong lịch sử của chính nó, một xã hội có thừa đau thương đến nỗi chỉ có thể an bình mà chịu kiếp cô lập, bởi vì mọi lối ra bên ngoài lại chính là những lối vào của nguy hiểm và chiến tranh. Một xã hội mà ở đấy lũ kiến yêu thích giả buồn để mua vui, để sau đó lại “không nên đùa với cái buồn”. Đêm núm sen là cuốn tiểu thuyết về một cộng đồng nhân loại mà ở đấy có “sáng tác tập thể”, có “những tác giả nặc danh của chiến thắng”, có “quá nhiều nước mắt”, có những bữa tiệc mà mỗi lần “đi dự tiệc, cứ phải ngâm thơ”, có diễn thuyết, có những thở dài vì “ai có thể cãi được với tin đồn?” Đêm núm sen cũng là một bài trí sân khấu khổng lồ để đưa khán giả vào những “ki lô mét nhớ”, vào “những ngã tư, cột điện lằng nhằng”, vào phố Bồ Đào, phố Gầm Cầu, phố Xu Xê, phố Hoa Mười Giờ, đại lộ Mùa Thu, chẳng hề tồn tại ở bất cứ nơi nào... rồi vào những phố Hy Lạp, những xóm La Tinh... rồi tới phố Hàng Gà và phòng tuyến Chèm là những địa danh có thật ở Hà Nội. Nhưng trên hết, Đêm núm sen chính là tình yêu, là cuộc đi tìm tình yêu. Và bởi vì tình yêu mà lũ kiến có thể hóa thân thành người hoặc ngược lại con người sẵn sàng mang kiếp của kiến. Nhưng thực ra kiếp người hay kiếp côn trùng, đâu có khác gì nhau. Những loại chủng này bao giờ cũng lủng củng yêu thương, ngay cả khi chiến tranh ập đến, ngay cả khi chúng bị cuốn vào đau thương và mất mát. Cái còn lại chỉ là tình yêu. Và quan niệm về tình yêu thì làm sao thay được. Đấy là khi anh kiến Gầy thổ lộ lời yêu với nàng kiến: “Sứa có tin là tôi yêu Sứa thế này, tức là tôi chỉ yêu độc có mình tôi thôi không?” Đấy cũng là lúc mà kiến Gầy trong những khổ sở vì tình yêu, bất chợt quên cả tổ tiên và nguồn gốc mà than thở, rằng ở nơi mà lũ kiến đang sống “mỗi người là một tiểu thuyết”. Ngôn từ này của anh kiến Gầy, kéo dài trong những độc thoại cùng đối thoại, có đôi chút ngây ngô cụt lủn và kém văn học của loài kiến, có không ít nhạy cảm và phức tạp của loài người, để không thể không nhắc tới chàng trai trẻ của Cổng tỉnh năm 1960, và Trần Dần trong những bài thơ lẻ 1963. Chàng trai tỉnh lẻ, nhà thơ, và anh kiến, cả ba chia nhau cùng những từ vựng, cùng một tình yêu phố phường, cùng một cảm thụ một cảm xúc thẩm mỹ. Chính vì vậy mà đâu đó trong suốt chiều dài lời kể chuyện vụng dại của kiến, thể nào cũng lấp lánh những ngôn từ thô tục mà chỉ Trần Dần mới chắp lại được thành thơ. Viết năm 1961, Đêm núm sen cũng như nhiều tác phẩm khác của cùng tác giả, phải đợi nhiều thập niên mới đến được với công chúng. “Có cần kể nữa không?” câu hỏi chẳng biết trả lời ra sao của anh kiến Gầy, khi mà 56 năm đã qua kể từ khi Trần Dần hoàn thành bản thảo, khi mà Đêm núm sen đã được gấp rút biên soạn trong những ngày đầu năm 2017. Vào đúng lúc mà 20 năm về trước nhà thơ đã vội vã ra đi. Một lần cho mãi mãi. 1 TRẦN TRỌNG VŨ   Mời các bạn đón đọc Đêm Núm Sen của tác giả Trần Dần.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Câu Chuyện Tâm Linh - Gary Zukav
Đây là một quyển sách tập hợp những câu chuyện có thật về hành trình khám phá nội tâm của tôi. Trong đó, đôi khi tôi dùng tên thật của những nhân vật, đôi khi tôi thay bằng những tên gọi khác. Có lúc tôi kể chuyện theo đúng như những gì đã xảy ra trong thực tế, và đôi khi tôi kết hợp nhiều câu chuyện lại làm một. Thi thoảng các câu chuyện không kể lại những sự việc đúng y như chúng xảy ra, nhưng các câu chuyện đó cũng là có thật. Người Lakota, một tộc người thổ dân châu Mỹ, truyền lưu câu chuyện về một phụ nữ cưỡi con nghé màu trắng. Bà là người đã cho bộ tộc của họ cái tẩu thiêng. Một ngày kia, có phóng viên hỏi một cụ già Lakota rằng cụ có tin câu chuyện về người phụ nữ kỳ lạ này là thật hay không. Cụ trả lời: - Tôi không biết nó có thật sự xảy ra đúng theo cách mọi người truyền tụng hay không, nhưng tự bản thân anh có thể hiểu là chuyện đó có thật. Và bạn cũng có thể nhận thấy tất cả những câu chuyện trong quyển sách này đều là thật. Bạn cần nhìn sâu vào bên trong tâm hồn mình để chứng thực điều đó. Mọi câu chuyện về linh hồn, từ quyển sách này hay bạn nghe được ở đâu đó, đều đòi hỏi bạn phải nhìn vào nội tâm mình để biết xem nó có thật hay không. Điều này có thể thật với người này, nhưng lại không thật đối với người khác. Đó là cách tiếp cận của quyển sách về Những câu chuyện tâm linh. Chẳng hạn, có người cho rằng Vũ Trụ ở trạng thái chết, “trơ ỳ” và mọi sự việc trong cuộc sống đều xảy ra tình cờ, ngẫu nhiên. Nhưng người khác, trong đó có tôi, lại nghĩ Vũ Trụ rất sống động, thông thái và đầy lòng trắc ẩn. Nhìn nhận Vũ Trụ chết là một câu chuyện. Nhìn nhận Vũ Trụ sống động lại là một câu chuyện khác. Vậy thì theo bạn, câu chuyện nào là có thật? Chính bạn phải quyết định điều đó. Mỗi câu chuyện trong quyển sách này đều mang đến cho bạn cơ hội để quyết định xem nó có là thật đối với bạn hay không. Cụ già người Lakota nói rằng chính bản thân bạn có thể tự suy xét xem khi nào một câu chuyện là thật, nhưng trước khi suy xét, bạn phải biết về câu chuyện đó trước đã. Có nghĩa là bạn phải suy nghĩ về nó và, thậm chí quan trọng hơn, khám phá xem bạn cảm nhận gì về nó. Bạn có thể đọc tất cả những câu chuyện này trong vài ngày, theo thứ tự, hoặc chọn đọc từng câu chuyện riêng rẽ tùy thích. Vì có tới năm mươi hai câu chuyện, cho nên bạn có thể đọc mỗi tuần một câu chuyện và dành ra thời gian để ngẫm nghĩ về nó. Ngay cả nếu bạn đọc hết tất cả chỉ trong một ngày, bạn vẫn có thể đọc lại chúng, mỗi tuần một câu chuyện chẳng hạn, để có thêm thời gian suy ngẫm về từng câu chuyện. Tôi yêu thích Những câu chuyện tâm linh. Đối với tôi, bất kỳ câu chuyện nào khiến tôi hiểu rõ giá trị bản thân và giá trị của bạn, cũng như khiến tôi hạnh phúc khi biết rằng tất cả chúng ta cùng tồn tại bên nhau kể cả khi mọi việc trở nên khó khăn, thì tất thảy đều là Những câu chuyện tâm linh. Bất kỳ câu chuyện nào giúp tôi quý trọng Trái Đất và nhìn nhận Trái Đất như một Người Bạn Lớn, cũng là Những câu chuyện tâm linh. Tôi hạnh phúc khi chia sẻ Những câu chuyện tâm linh này với các bạn. Mời các bạn đón đọc Những Câu Chuyện Tâm Linh của tác giả Gary Zukav.
Hồ Quý Ly - Nguyễn Xuân Khánh
Bằng nghệ thuật tái hiện khoáng đạt, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã lật lại lịch sử thời kỳ cuối đời nhà Trần, góp thêm tiếng nói khám phá xã hội và con người Hồ Quý Ly - một nhân vật mà hơn 600 năm qua vẫn còn nhiều tranh cãi về ông. Hơn thế, cuốn tiểu thuyết còn là bức tranh đẹp về Thăng Long ngàn năm văn hiến với những địa danh cổ nổi tiếng, những cảnh sinh hoạt thôn dã, những lễ hội dân gian, những phong tục tốt đẹp...được lưu truyền hay đã bị mai một theo năm tháng. *** Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tự Lý Nguyên, là hoàng đế sáng lập nhà Hồ Việt Nam. Ông trị vì được 1 năm thì trao ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên ngôi làm Thái thượng hoàng, cho đến khi ông bị bắt qua nhà Minh sau khi bị thua trận vào năm 1407. Về dòng dõi Hồ Quý Ly, sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển VII chép: ...Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung Quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ... *** Hội thề Đồng Cổ là ngày lễ lớn của Thăng Long. Nó được cừ hành vào ngày mồng bốn tháng tư hàng năm. Đó là một lễ hội thuần Việt rất được dân kinh đô xem trọng ở thời Lý Trần, tiếc rằng đã bị các triều vua sau này nho hoá bỏ mất.  Sách cổ chép rằng vua Lý Thái Tông, thủa còn là thái tử, phụng mạng vua cha đi đánh Chiêm Thành, năm Canh Thân (1020), khi đến vùng Đan Nê, An Định, Thanh Hoá, đóng quân dưới chân một quả núi. Canh ba đêm ấy, trong cõi mộng mung lung, nhà vua chợt thấy một dị nhân, mình cao tám thước, mày râu cứng nhọn, mặc áo giáp, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: “Tôi là Thần núi Đồng Cổ, nghe tin thái tử đem quân đi dẹp giặc phương Nam, tôi xin theo giúp phá giặc, để lập chút công nhỏ”. Thái từ cả mừng vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy. Sau đó tiến quân đánh chiếm quả nhiên toàn thắng. Khi trở về qua núi Đồng cổ, thái tử sửa sang lễ tạ rồi rước thần vị về kinh đô Thăng Long. để giữ dân, hộ nước. Đền thờ lập sau chùa Thánh Thọ, thuộc địa phận thôn Đông, phường Yên Thái (làng Bưởi).  Khi Lý Thái Tổ chết, thái tử lên ngôi vua, tức vua Lý Thái Tôn. Đêm nằm mộng thấy thần Đồng Cổ đến báo rằng: “Ba vị em vua là Vũ Đức Vương, Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương âm mưu làm phản”. Lúc vua tỉnh dậy. Sai Lê Phụng Hiểu dàn quân bố trí phòng bị. Sự việc xảy ra quả đúng như giấc mộng. Loạn ba vương được dẹp tan. Đến đây, vua xuống chiếu xây đàn thề ở miếu Đồng Cổ, và hàng năm cứ đến mồng bốn tháng tư thì trăm quan hội họp làm lễ ăn thề.  Năm nay, ông vua già Trần Nghệ Tông cho mở hội thề to hơn mọi năm. Tháng hai, viên quan coi việc tế lễ đã cho thợ đến sửa sang miếu thờ, cạo rêu, quét vôi, tô tượng, thay những câu đối cũ. xây dựng lại những chỗ đổ nát, sửa sang cây cối, trồng hoa, lát đường... và soát xét lại đồ tế khí. Đồ tế khí ở đây có hai thứ có thể gọi là linh vật của đất nước.  Thứ nhất là chiếc chuông chùa Yên Tử. Hồi vua Trần Thái Tôn bỏ nhà lên núi Yên Tử định cắt tóc đi tu, quan thái sư Trần Thủ Độ kéo cả triều đình lên theo, cầu xin vua về cho hợp lòng dân. Việc đi tu của vua không thành. Khi vua chia tay, Phù vân quốc sư nghĩ phải có cái duyên hạnh ngộ lớn thì mới có một ông vua lên tận chốn núi cao hẻo lánh này để tìm Phật. Ông bảo nhà vua: “Trong núi không có Phật. Phật ở trong lòng người”. Tuy nhiên, để kỷ niệm cái duyên kỳ ngộ ấy, phù vân quốc sư tặng nhà vua Đại Hồng Chung ở chùa Vân Yên đem về kinh đô.  - Tâu bệ hạ. Đây là chiếc chuông quý truyền mấy trăm năm suốt triều nhà Lý. Đại Hồng Chung ít khi dùng đến, chỉ dùng vào dịp đầu xuân. Mỗi năm khi chuông rung lên là mây mù ùn ùn kéo đến. Mây trắng che kín đầu Yên Từ. Chuông gọi mây xong lại gọi mưa. Khi hồi chuông dồn dập binh boong ngân nga lần thứ hai thì những hạt nước li ti nằm trong mây sữa run rẩy, rồi chúng bay lượn quấn quít với nhau và thành những hạt to rơi xuống. Mưa rào. Đó là phật lộ. Mong rằng tiếng chuông của đức Phật từ bi được vang lên trên kinh thành Thăng Long. Mong rằng nước mưa của Phật từ bi sẽ nhuần thấm trong lòng người dân kinh kỳ.  Chiếc chuông Yên Tử đem về được treo ở chùa Thánh Thọ. Mấy năm trước, nhà sư Phạm Sư Ôn tập họp dân lưu tán đói khát nổi loạn. Giặc thày chùa kéo về kinh thành Thăng Long đốt phá. Ông vua già Trần Nghệ Tông, ông vua trẻ Trần Thuận Tôn và cả hoàng gia phải rời kinh đô đi lánh nạn. Đội cấm quân phía hữu kinh thành đóng binh ở chùa Thánh Thọ. Đội quân này đã gây cho quân nổi loạn nhiều thiệt hại. Tức giận, toán giặc thày chùa đã tàn phá, đốt trụi khu chùa thắng cảnh đẹp nhất Thăng Long. Cũng may khi giặc rút, nhân dân đã chữa cháy, cứu được tháp chuông. Giặc thày chùa mà lại đốt chùa. Ông vua già thở dài, và chẳng lẽ để chiếc chuông linh thiêng nằm chơ vơ giữa hoang phế, nên ông đã sai mang chuông đến đền Đồng Cổ.  ... Mời các bạn đón đọc Hồ Quý Ly của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
Yến Huyết - Nguyễn Khắc Phục
Mùa cưới rộ lên ở Hàm Dương. Thành phố bỗng trở nên vô cùng quyến rũ. Khắp nơi nhuốm đầy vẻ diễm tình, từ những làn sóng biển màu lục đến nụ cười của du khách. Giữa lúc đó, người ta đồn rầm lên chuyện “Ma Nữ” xuất hiện trên đảo Phu Thê, một hòn đảo nhỏ ở eo biển phía bắc thành phố, cách bờ khoảng hơn nghìn mét. Ngày nước ròng có thể lội ra đảo câu cá, mò trai vọp và cầu gai. Trên đảo, khách sạn Na-ga đang được xây dựng dở dang với những ngọn tháp mô phỏng kiểu tháp Chàm cổ. Đùng một cái, xảy ra những vụ bê bối trên công trường, việc thi công khách sạn phải đình chỉ… Người ta quả quyết rằng, đêm nào cũng thấy một người đàn bà mặc áo trắng xõa tóc đi lại trên cái khách sạn bị bỏ hoang, đúng giờ tý, từ bốn ngọn tháp tối tăm cất lên tiếng than khóc rền rĩ, ai oán của những bóng ma. Rồi người đàn bà mặc áo trắng bay lên sân thượng, cười rú từng cơn hú gọi cuồng phong. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, tiếng gió hú, tiếng sóng biển gầm thét làm thành bản hòa tấu của đêm tối và chết chóc. Ma Nữ là ai vậy? Thực ra đó chỉ là một người đàn bà chạy trốn cái bầu không khí sống động của mùa cưới thành phố, đêm đêm lén lút đổ bộ lên đảo Phu Thê… Nàng không tới đấy để ngắm trăng. Nàng cũng chẳng tìm kiếm cái gì ở đấy. Nàng chỉ trở lại với cái thiên đường xa xưa, ngắn ngủi, nguyên sơ và nồng nhiệt của nàng. Mười tám tuổi, chỉ một đêm duy nhất tại thiên đường đó, nàng đã bước từ cuộc đời trinh nữ lên kiếp đàn bà. Để rồi cái thiên đường ấy bị bỏ hoang mãi mãi. Nàng từ đâu đó trong thành phố, lầm lũi ngược sông núi, băng qua rừng thông, rồi một mình một bóng, tiếp tục cuộc độc hành trong đêm. Nàng cười vô cớ trong lúc trèo từng bậc thang xoáy ốc lên đỉnh tháp. Ngọn tháp chưa kịp đúc mái, thành thử nàng gần như mặt đối mặt với khoảng không rợn người. Nàng vội tựa lưng vào vách bê-tông nhám lạnh để trấn tĩnh. Gió lộng lau khô những giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt lúc nàng trèo lên tháp và bây giờ, nó lại rũ tung mớ tóc nàng. Nàng rùng mình nhìn xuống mặt biển hun hút, thảng thốt vì cảm giác kinh dị xâm chiếm tâm trí nàng. Nàng ngồi bệt xuống sàn tháp, lẩn trốn cái chiều sâu vừa hiện thể trong cặp mắt mở to chứa đựng nỗi chống chuếnh của mình. Dưới chân nàng là vực thẳm vô định. Trên đầu nàng, bầu trời đêm vần vũ đầy hăm dọa... Mấy giây sau, nàng chậm rãi đứng dậy, mon men đến sát hàng lan can sắt tạm thời - cái giới hạn mong manh giữa nàng và khoảng trống. Gió thốc ngay vào mặt, bất giác nàng bíu chặt lấy lan can như sợ bị gió cuốn đi. Nàng cố dò dẫm tìm một điểm tựa nào đó cho đôi mắt nàng khỏi thất lạc trong bóng tối mịt mù. Càng khuya gió biển càng mạnh lên, thổi dạt đi ánh trăng vốn mỏng mảnh, yếu đuối. Trên mặt biển chỉ còn lại chút hồi quang nhỏ nhoi của đêm trăng ngà. Nàng lạnh, da mặt hứng gió quá lâu đã dại hẳn đi và mất luôn cảm giác nhức buốt. Cái lạnh còn ngấm cả vào đôi mắt của nàng khiến chúng sáng lên thứ ánh sáng của khối chì bị chém sạt một góc... Nỗi sợ hãi dần dà tiêu tan. Mất nó, tâm hồn nàng càng trở nên trống rỗng như một đoàn va-gông phế thải nằm trên nhánh ray phụ của một ga xép. Nàng không còn chủ ý nào rõ rệt. Mọi giác quan của nàng tạm thời tê liệt dưới ánh trăng, trong gió rét, nhưng tận cùng linh hồn nàng lay động một nỗi khát khao tự giải thoát. Nàng như một con chim sa xuống bãi lầy, đôi cánh mỏng của nó dính bùn bê bết, hai chân nó thì lại quá mảnh khảnh, không đủ sức lấy đà cho nó cất mình lên. Con chim đáng thương ấy thuộc loài yến huyết. Loài yến không nhả rãi ra làm tổ như những loài yến khác, mà đúc tổ bằng máu tự tim mình! Trong ký ức của nàng, bao giờ hình ảnh Võ Dinh cũng hiện lên dịu dàng và khốc liệt… Mời các bạn đón đọc Yến Huyết của tác giả Nguyễn Khắc Phục.
Tiếng Rền Của Núi - Yasunari Kawabata
Yasunari Kawabata là một trong những nghệ sỹ lớn nhất của của Nhật Bản thế kỷ XX. Ông là một bậc thầy trong nghệ thuật biểu cảm vǎn học, mang đậm bản sắc dân tộc. Ông đã mở ra cho nhân loại cánh cửa của tư duy và tân hồn Nhật Bản vốn vẫn được coi là bí hiểm và kín đáo. Trong cuộc đời sáng tác của mình, ông đã tạo nên những tác phẩm bất tử có vai trò thúc đẩy sự phát triển của nền vǎn học Nhật Bản nói riêng và nền vǎn học trế giới nói chung. Mời bạn đọc tìm hiếu đất nước và con người Nhật Bản qua tập truyện ngắn của Yasunari Kawabata. *** Không có một thái độ thực sự rõ ràng, dứt khoát nào của tác giả được đưa ra đối với hành vi, suy nghĩ của mọi nhân vật. Không lên án, không ca ngợi. Mỗi độc giả sẽ tuỳ theo cách nghĩ của mình mà đưa ra thái độ cảm tình hay ngược lại. Phải chăng trong văn chương cũng cần sự khách quan như trong viết sử? Tôi đang đọc lần thứ hai “Tiếng rền của núi” nhằm suy ngẫm kỹ hơn về diễn biến đời sống nội tâm của từng nhân vật. Và tập trung phát hiện thêm những vẻ lấp lánh trong văn chương của ông. Nhiều khi, không phải ranh giới giữa đúng và sai mơ hồ, mà ngay cả ranh giới giữa được và mất, giữa hay và dở cũng mơ hồ. Và vì thế, nó tạo ra một tâm trạng bất an, bối rối nào đó. Làm sao không bối rối nếu anh không định hướng được nên đi theo hướng nào thì sẽ gặp điều tốt? Làm sao không bất an nếu anh không chắc chắn hướng đi có dẫn anh đến với điều tốt hay không? Vài ví dụ: mối quan hệ ngoài luồng của cậu con trai lại đánh thức chất đàn bà bên trong cô con dâu có vẻ hơi chậm phát triển vì còn quá ngây thơ. Rồi sự có con của tình nhân ngoài ý muốn của anh con trai lại chính là nguyên nhân khiến anh ta từ bỏ cô ta, và quay về chỉn chu với vợ mình. Nhiều khi, tự nhiên tạo ra những nghịch cảnh nho nhỏ, mà chỉ từ sự quan sát kỹ lưỡng mới phát hiện được ra. Ví dụ ông chồng khi chết, trên quan tài đặt một bức ảnh lúc còn trẻ, khá đẹp lão. Và bà vợ già nua bạc tóc đứng bên quan tài. Và người ta dễ ngộ nhận chính ông chồng là nguyên nhân sự già nua của vợ, mà không ai ngờ rằng bà vợ ấy đã đẩy đuổi, đầy ải ông chồng như thế nào. Ví dụ cái tình cha chồng con dâu, ranh giới nào giữa tình máu mủ và cảm xúc giới tính? Tác giả đã đi trên một sợi dây mong manh, giữa sự giản đơn và giáo điều với nguy cơ thừa nhận sự loạn luân. Và cái cách kết thúc tiểu thuyết cũng lửng lơ, không hề có một kết luận dù là tạm thời nào về số phận của các nhân vật, về mối quan hệ giữa họ. Người đọc vẫn có thể tiếp tục suy đoán về tương lai. Mời các bạn đón đọc Tiếng Rền Của Núi của tác giả Yasunari Kawabata.