Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngày Sống Đời Thơ - Lê Minh Quốc

TRẦN HỮU TÁ (Chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM) Quen biết Lê Minh Quốc đã lâu, vậy mà có điều tôi vẫn hiểu chưa kỹ về anh. Cứ tưởng Lê Minh Quốc bắt đầu làm thơ từ những năm cầm súng chiến đấu ở chiến trường Campuchia (1977-1983), và sau đó tiếp tục say mê sáng tác lúc ngồi trên giảng đường của khoa Văn Đại học Tổng hợp TP.HCM, để rồi tập thơ Trong cõi chiêm bao đầu tay của anh ra mắt bạn đọc năm 1989. Hóa ra không phải. Lê Minh Quốc mê chữ, yêu văn và bước vào cuộc đời cầm bút từ rất sớm. Mười bốn tuổi, sau nhiều “tác phẩm” gửi đi cho các báo ở Sài Gòn lúc đó, nhưng đều rơi vào im lặng, bài thơ Em tôi - tác phẩm đầu tiên của thiếu niên thi sĩ Lê Minh Quốc được in trên báo Thiếu nhi số 89 (13/5/1973). Tờ báo này do ông chủ nhà sách Khai Trí lập ra và do nhà văn Nhật Tiến làm chủ bút. Khỏi phải nói niềm vui tột độ của cây bút trẻ này khi cầm số báo có đăng thơ của mình. Anh tiếp tục xuất hiện trên các tờ tuần báo dành cho thiếu nhi lúc đó như Tuổi Hoa, Mây Hồng và một số nhật báo khác. Sau này nhà thơ có tâm sự: Dù có thơ in nhưng tôi cũng không hề được tòa soạn gửi tặng báo biếu hoặc nhuận bút gì sất! Nhà thơ tương lai ấy đã tự an ủi theo đúng phép “thắng lợi tinh thần”: Chả cần, mình phục vụ cho văn học nghệ thuật (!) thì cần quái gì ba cái chuyện lẻ tẻ ấy. Con đường thơ văn của Lê Minh Quốc nếu tính từ những ngày niên thiếu đó thì đến nay đã bốn mươi năm có lẻ. Nhìn lại hệ thống danh mục tác phẩm của anh, dù ai là người trong nghề cũng phải nể: Mười tập thơ, mười tập truyện, nhiều tập khảo cứu biên soạn… Ấy là chưa kể hàng nghìn bài báo được đăng trên Phụ nữ TPHCM - nơi anh công tác hơn hai mươi năm nay, và trên rất nhiều báo khác trong cả nước. Gần đây anh chuyển hướng sang thể loại mới: tạp bút. Tác phẩm Ngày sống đời thơ mà bạn đọc đang có trong tay là đứa con tinh thần mới nhất của anh. Như thế, nếu tạm sơ kết (chứ chưa thể tổng kết, vì chắc chắn tuổi nghề của Lê Minh Quốc còn rất dài), cây bút này đã đều đặn cho công bố với tốc độ tên lửa “năm một, ba năm đôi”. Sức viết ấy đâu dễ có! Nhưng trong văn chương, điều quan trọng nhất chưa phải là số lượng mà là chất lượng. Hy vọng sẽ có dịp được viết kỹ về thơ và truyện của Lê Minh Quốc - hai lĩnh vực ấy anh cũng có chỗ đứng chắc chắn. Trong bài viết ngắn này, xin được nói riêng về tập Ngày sống đời thơ. Cũng như tác phẩm Ngày trong nếp ngày, Ngày viết mỗi ngày mới trình làng hồi cuối tháng ba năm nay, tập Ngày sống đời thơ trích đăng những trang nhật ký của Lê Minh Quốc. Tập trước anh tuyển chọn trong nhật ký của năm 2013, 2014, tập mới này là những dòng tâm sự của anh trong năm 2015. Lê Minh Quốc duy trì được một thói quen rất quý: viết nhật ký đều đặn hằng ngày. Ngày bận, viết ít. Ngày rảnh rỗi và có hứng viết dài hơn. Điều này rất nên làm đối với bất cứ ai, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Bởi vì chỉ cần sau vài ba năm đọc lại, tự bản thân đã thấy bên cạnh những trang đáng quên, thì có không ít điều bổ ích xoay quanh những gì mình đã suy tư, nếm trải, những vui buồn rất có ý nghĩa của quá khứ. Có chất liệu nào quý để hình thành nên những tác phẩm để đời của một nhà văn bằng những trang ghi chép của chính mình? Nét đặc thù cơ bản nhất của nhật ký là ở chỉ viết cho mình, mình là tác giả đồng thời cũng là độc giả đầu tiên và nhiều khi là duy nhất. Chính vì thế những trang nhật ký thường hết sức trung thực. Tập Ngày sống đời thơ của Lê Minh Quốc gồm 47 tiểu đoạn, mở đầu là những dòng nhật ký của ngày 3/1/2015 và kết thúc là những trang viết của anh ngày 31/12/2015. Gọi là nhật ký, nhưng chất tùy bút rất đậm. Ta đã rõ, tùy bút là một thể loại văn học lợi hại, tạo điều kiện để “cái-tôi-nhà-văn” tung hoành tùy theo hứng bút. Đọc tác phẩm của các cây tùy bút lỗi lạc như Nguyễn Tuân,... nhìn thoáng qua có thể nghĩ các đoạn, các ý sắp xếp bên nhau có phần lan man, xộc xệch, nhưng đọc kỹ thì thấy tự bản thân các trang viết đó có một cấu trúc bên trong chặt chẽ. Vì thế kinh nghiệm của những người sành thưởng thức văn chương khi đọc tùy bút là cấm kỵ việc đọc nhanh, đọc lướt mà phải đọc chậm, đọc nhâm nhi. Tôi ngờ là Lê Minh Quốc rất ái mộ nhà tùy bút Nguyễn Tuân và tiếp bước đi trên con đường của ông. Trong cả ba tập Ngày trong nếp ngày, Ngày viết mỗi ngày cũng như Ngày sống đời thơ, ngòi bút của Lê Minh Quốc hình như đã được thả sức phóng túng, tung hoành. Anh nói đến chuyện đời, chuyện nghề, chuyện tình cảm riêng tư. Những trang viết của anh có ba điểm tựa chắc chắn: thứ nhất, vốn sống dồi dào của những năm chiến đấu cũng như của những chuyến đi liên miên bất tận trong những năm làm báo; thứ hai, sức đọc rất khỏe - đọc tác phẩm của cha ông cũng như những sách mới ra lò, sách của Việt Nam cũng như sách của thế giới; thứ ba, anh là người quảng giao, quan hệ rộng và sâu sắc, chân tình với những người trong giới cũng như các đối tượng trong các lĩnh vực xã hội khác. Ba nguồn mạch đó khiến ngòi bút Lê Minh Quốc luôn dồi dào sức sống, đề tài hầu như không bao giờ vơi cạn. Tôi tin bạn đọc sẽ xúc động khi đọc những trang Lê Minh Quốc viết về gia đình - đặc biệt về mẹ của mình, về quê hương Đà Nẵng cũng như về những vùng đất mà anh đã đặt chân. Nhưng Lê Minh Quốc dành nhiều trang cho chuyện nghề văn. Anh trân trọng nhắc đến các nhà văn tiền bối như Huỳnh Thúc Kháng, Tản Đà, Nguyễn Hiến Lê, Trang Thế Hy, Sơn Nam… cũng như các nhà văn hóa nổi tiếng như Vương Hồng Sển, Trần Văn Khê, Phạm Duy… Thi hào Nguyễn Du được Lê Minh Quốc nhắc đến khá nhiều lần. Mặt khác anh cũng dành tình cảm ưu ái cho các bạn văn đồng trang lứa như Nguyễn Trọng Tạo, Trần Huiền Ân, Nguyễn Nhật Ánh, Đoàn Thạch Biền, Trương Nam Hương… Với bất cứ ai anh có những nhận xét trân trọng, tinh tế về văn nghiệp nói chung cũng như những cái hay, những điểm xuất thần trong các trang văn cụ thể của họ. Như trên đã nói, Lê Minh Quốc có sức đọc rất khỏe. Anh “tham lam, ham hố” không bỏ qua bất cứ những bài viết, những cuốn sách nào mà anh thấy lý thú, bổ ích. Có khi của một tác giả Hà Lan xa lạ viết về Việt Nam. Có khi là những cuốn địa chí của xã, huyện nhưng có ích cho nhận thức của người đọc. Lê Minh Quốc không ích kỷ giữ nó cho riêng mình, mà ghi lại trong những trang nhật ký để rồi có dịp đưa đến tay bạn đọc. Có khi đó là nghĩa của những địa danh như Sóc Trăng, Chắc Cà Đao… Có khi là nội dung đặc sắc của một cuốn sách - chẳng hạn quyển Một quan niệm về sống đẹp của Lâm Ngữ Đường (Trung Quốc)… Dường như khi viết, Lê Minh Quốc cố tự kiềm chế, không muốn đề cập đến những nghịch lý của cuộc sống, những mặt non yếu, tiêu cực của xã hội. Thế nhưng đôi lúc anh cũng đã “vượt rào”. Chẳng hạn anh đã đề cập đến, tuy không mới nhưng cần thiết, về sách giáo khoa cho thế hệ trẻ ở phổ thông cũng như sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận giáo viên. Nói về lĩnh vực văn chương Lê Minh Quốc đôi lúc cũng đã tỏ bày ý kiến về tình hình xào xạc, tiêu điều trong lĩnh vực sáng tác - đặc biệt là thơ. Anh cũng luôn tự dặn mình không để ngòi bút phản lại mình, phải hết sức quan tâm đến trách nhiệm của nhà văn đối với công chúng. Những điều tự răn ấy không những có ích cho nhà văn để khỏi đi chệch hướng, đồng thời cũng là lời cảnh báo chân tình cho các cây bút khác. Đọc xong trang sách cuối cùng, tôi vừa thấy hứng thú vừa cảm thấy có điều gì “chưa đã”. Chắc chắn anh sẽ có tập tạp bút cho năm 2016 và các tập sau đó nữa. Chỉ mong rằng Lê Minh Quốc quan tâm hơn đến những vấn đề xã hội nóng bỏng, bức thiết. “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, đó là một yêu cầu mang tính nguyên tắc của muôn đời. Nhà văn không thể lảng tránh. Tất nhiên đối với những vấn đề nhạy cảm, người viết phải rất thận trọng, nghiêm túc, xây dựng. Những kinh nghiệm này tôi ngờ là Lê Minh Quốc đã có thừa. Chẳng qua với tình bằng hữu văn chương, tôi xin nhắc lại với anh và cả tin anh sẽ làm rất tốt. Ngày 27/8/2016 Mời các bạn đón đọc Ngày Sống Đời Thơ của tác giả Lê Minh Quốc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cơm Thầy Cơm Cô
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) Tập ký sự Cơm Thầy Cơm Cô của tác giả Vũ Trọng Phụng. Cơm Thầy Cơm Cô (đăng báo 1936) cũng là một phóng sự mô tả hiện tượng những người dân thôn quê tìm ra đô thị do hấp lực của “ánh sáng kinh thành” để rồi bị biến thành những vú em, con sen thằng ở, thằng bồi thằng xe, bị bóc lột sức lực, bị lạm dụng tình dục, bị buôn đi bán lại, không ít người biến thành trộm cắp, đĩ điếm, làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Ở đây nhà văn đã sớm phát hiện những hậu quả tha hóa, phi nhân hóa, gây ra bởi sự di dân, sự nhập cư, là những hiện tượng mà quy mô sẽ tăng lên hàng chục hàng trăm lần khi xã hội ta bước sang thời công nghiêp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa. Một số truyện khác: Con người điêu trá, cuộc vui ít có, bụng trẻ con, tình là dây oan.... ***   Một thứ “mặt trái đời”. Kết quả chuyến xâm nhập điều tra nghề cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng đã bị nhà báo Lê Tràng Kiều xem là một thứ “mặt trái đời” của thời Hoàng Tích Chu ở một hình thể mới. Kiều cho rằng những điều Phụng tố cáo là những sự thực nên kiêng, bởi có quá nhiều điều đáng kinh sợ trong những mẫu hạng về giới cơm thầy cơm cô: “Có những đứa đầy tớ bị chủ nhà đánh chết. Có những con sen được ông chủ quý hơn vợ. Có những thằng nhỏ bỏ thuốc độc định giết cả nhà chủ nhà. Có những anh bếp nhổ đờm vào nồi cá kho. Có những vú già quyền hành như mẹ “cậu mợ”. Có những thằng nhỏ được kỳ lưng cho các tiểu thư. Có những anh xe được ngủ giường Hồng kông với bà chủ. Có những đứa ở lúc chủ chết khóc như khóc bố mẹ. Có những đứa liều mạng cứu chủ. Có những quân đốt nhà của chủ. Hoặc dắt cướp vào nhà. Hoặc thư đi thư lại, làm nghề ma cô. Có những thằng nhỏ hiếp con gái ông phán. Có những con sen bị ông tham hiếp dâm. Có nhiều!” Có tốt, có xấu, chẳng thể chỉ viết điều tốt không, mà đem tất cả điều xấu ra nói thì khó tránh kiểm duyệt. Trong lúc trù trừ Phụng đã được Nguyễn Công Hoan đề nghị: “Mình cứ việc điều tra ngay ở chính mình!” Và rồi phóng sự “Cơm thầy cơm cô” được xuất bản năm 1936, gồm 9 chương và phần mở đầu, ghi lại hết thảy hiện thực một cách chân thực về chuyến điều tra mà nhà văn là nhân vật “tôi” đi xin việc. Cám dỗ của “ánh sáng kinh thành”. Sau hòa ước Patenôtre 1884 – hòa ước cuối cùng nhà Nguyễn ký với thực dân Pháp – thực dân Pháp chia nước ta làm 3 miền với 3 chế độ cai trị khác nhau. Nam Kỳ với chế độ thuộc địa. Trung Kỳ theo chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Riêng Bắc Kỳ hoàn toàn theo chế độ bảo hộ. Bắc Kỳ, nơi đất ít, người đông, khí hậu khắc nghiệt nên quan hệ làng xã được duy trì bền vững, thực dân Pháp lợi dụng mối quan hệ này để định ra cách cai trị riêng cho Bắc Kỳ. Chúng giữ nguyên bộ máy cai trị của phong kiến để biến tầng lớp này thành tay sai đắc lực cho chính quyền Pháp ở Đông Dương bằng cách trao cho họ những quyền lợi về kinh tế và chính trị, nhằm mua chuộc người Việt làm tay sai cho thực dân Pháp, chia rẽ sự đoàn kết, đẩy nhanh quá trình phân hoá giàu nghèo, làm tăng mâu thuẫn trong xã hội, làm cho nhiều gia đình nông dân điêu đứng, bần cùng. “Cơm thầy cơm cô” là kết quả cuộc điều tra về nạn buôn người và nghề đi ở của ông vua phóng sự đất Bắc những năm 1930, dưới hậu quả thâm độc trong chính sách cai trị bóc lột của thực dân Pháp, người nông dân nghèo không biết làm gì cho có cái ăn, cái mặc, buộc phải di dân, buộc phải rời làng quê đi đến Hà thành với hy vọng đổi đời. Có lẽ những đêm không trăng không sao, người nhà quê vùng Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hòa Bình mỗi khi ra sân, quay về một phía trời, đã thấy có một vùng hào quang sáng rực. Đó là ánh sáng của kinh đô Hà Nội! Nơi nghìn năm văn vật, dân giàu, nhiều tiền lắm của, dễ kiếm sinh nhai… Ánh sáng kinh thành cám dỗ người dân quê. Khi ra đi, có lẽ họ chắc mẩm trong bụng về công việc vẻ vang. Họ như con thiêu thân bay vào đống lửa, cho nên mới bị quáng mắt bởi những ánh sáng của kinh thành. Trong khi chờ cho có việc, họ có mấy đồng xu cứ ăn hết dần. “Đến cái ngày mà túi cạn mà việc chưa có, mà không ai thí cho đồng chinh hay bát cháo, tất là họ phải sinh ra liều mạng, có những lá gan to. Đàn bà sẽ đi đến Dục tình. Đàn ông sẽ đi đến Hình phạt.” Hiện tượng những người dân thôn quê bỏ nhà bỏ cửa ồ ạt nối đuôi nhau ra đô thị, một mặt do điêu đứng bần cùng bởi sưu cao thuế nặng nơi làng quê, một mặt do hấp lực của “ánh sáng kinh thành” để rồi bị biến thành những vú em, những con sen thằng ở, những thằng bồi thằng xe… Họ bị bóc lột sức lao động, bị lạm dụng tình dục, bị buôn đi bán lại, không ít người biến thành trộm cắp, đĩ điếm, làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Bằng phong cách của người làm báo, Vũ Trọng Phụng nói thẳng, nói thực, tả chân. Ông đi sâu vào điều tra xã hội con sen thời bấy giờ. Khi giá trị con người có lúc không bằng lũ súc vật. Đám dân hạ lưu chia nhau ra khắp các phố, như dòng nước len lỏi qua các cống ngầm, thành thử những người lịch sự tưởng Hà thành lịch sự, mà các nhà xã hội học cũng tưởng là Hà thành không có chuyện gì bi thương. Nhưng thực ra, nó rất là thương tâm. “Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết đói một lần thứ hai sau khi bỏ cửa bỏ nhà. Nó đã làm cho giá con người phải ngang hàng với giá loài vật: Nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hoả Lò và một bọn trẻ cái làm nghề mãi dâm!” Cái cách dùng từ “bọn trẻ đực” và “bọn trẻ cái” sao mà đắt giá! Bởi giá trị con người có khi không bằng giá súc vật. Người dân quê đi đến được đất Hà thành, để kiếm việc làm phải nhờ vào mụ làm nghề đưa người ở, mụ tập trung họ đến chợ buôn người, họ ngồi giơ mặt cho ruồi bâu, chờ được mua. Mỗi người chỉ cầu như một con chó, nhiều khi kém một con chó. Vì con chó có khi còn được chủ mua thịt bò cho ăn, vì con chó có khi mỗi tháng còn khiến chủ tốn kém hơn nuôi một đứa tôi tớ trong nhà. Còn phận tôi đòi đem chân tay ra làm nhiều việc có ích, rất nặng nhọc, ăn đói làm no, mà vẫn không kiếm được việc, không có khách nào muốn mua. Rõ ràng không phải ra giá cao nên ế, chính là bán rẻ mà vẫn ế! Vũ Trọng Phụng phơi bày một sự thật trần trụi đến đau lòng, khi phận con người khát khao đời sống của một con chó còn không được. “Nước mẹ đại Pháp” đã làm gì nhân dân Việt Nam thế này? Vũ Trọng Phụng đã viết ra hiện thực mà nhiều người không dám viết, không phải ông nhìn đời bằng con mắt đen, mà thực tế xã hội Việt Nam dưới chính sách bảo hộ đầy thâm độc của thực dân Pháp đã mục nát như vậy rồi. Từ việc mua bán người, ra giá, trả giá như đồ vật, đến những sự việc diễn ra khi đi ở, bị bạo hành, bị hãm hiếp, trả thù… quan hệ nhân quả và sự tha hóa bản chất con người quả thật đã khiến độc giả phải rùng mình ghê sợ. Với một thái độ trung dung, Vũ Trọng Phụng không đứng về phía quân chủ nhà, cũng không bênh vực đám đầy tớ, ông chỉ đơn giản là trần thuật nguyên nhân, quá trình, hậu quả, hệ lụy… Tất cả là cái phông nền bộc lộ rõ bản chất xã hội đất Hà thành dưới thời Pháp thuộc.  “Nghệ thuật thì dài mà cuộc đời thì ngắn.” Danh ngôn của Hippocrates – cha đẻ Y học, người thầy thuốc vĩ đại nhất lịch sử Hy Lạp cổ đại – như ứng vào cuộc đời Vũ Trọng Phụng. Chỉ với 27 năm kiếp người và vỏn vẹn 9 năm cầm bút, ông đã để lại những đứa con tinh thần mang gen trội với sức sống dồi dào theo thời gian. Vũ Trọng Phụng không sợ cũng không ngại đào sâu vào những u uất của xã hội đương thời, những cái điều mà nhà văn khác e ngại nói ra. Với “Cơm thầy cơm cô”, nhà văn đã phát hiện những hệ lụy tha hóa, phi nhân hóa gây ra bởi di dân và nhập cư, cùng hậu quả ghê rợn của nó dưới thời Pháp thuộc. Ngày nay, khi đất nước ta bước sang thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, thì ảnh hưởng bởi hiện tượng này vẫn còn, tuy nhiên dưới sự quan tâm và quản lý của nhà nước Việt Nam, dù là di cư thì cuộc sống nhân dân vẫn có nhiều ổn định. Vũ Trọng Phụng đã chứng minh cái tài của người cầm bút được tôn vinh là “ông vua phóng sự đất Bắc”, mang đôi mắt tỏ tường trước xã hội dù nơi ánh đèn soi rực rỡ hay nơi tối tăm hôi hám, mang lòng can đảm dám viết thực theo lối tả chân. Bởi vậy mà văn Vũ Trọng Phụng vẫn sống và đang sống căng tràn trên diễn đàn văn học cả trong và ngoài nước. Mời các bạn mượn đọc sách Cơm Thầy Cơm Cô của tác giả Vũ Trọng Phụng.