Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Kế Quán

Tầm mười năm về trước, trong rừng sâu mọc lên một kiến trúc kì lạ tên là Thời Kế Quán, gồm một tháp đồng hồ chuyên chỉ giờ lung tung và một biệt thự chôn nửa xuống đất. Trước và sau khi xây Quán, có rất nhiều người liên quan đến nó đã chết, số người thiệt mạng gần đủ để trám kín các ô số trên mặt đồng hồ, lý do không rõ. Chỉ biết từ đó tháp và nhà gần như hoang phế, không ai nhớ đến nữa. Mười năm trôi qua, cây lá đã gần như phủ kín đường vào thì Thời Kế Quán nổi tiếng trở lại, do những người đi rừng bắt gặp ma trôi nổi quanh đó. Tin tức kích thích sự tò mò của một nhóm người chuyên nghiên cứu tâm linh. Họ mời một bà đồng cùng vào Quán để làm lễ gọi hồn, tìm hiểu chân tướng. Khi cửa mở cho họ đi vào, kim trên tháp đã rụng mất. Khi cửa mở cho họ đi ra, ô số tháp có thể thay mới hết. Thời Kế Quán… Một Quán nữa của năng lượng u uất. Một Quán nữa của uẩn khúc đời người phải giải tỏa qua kiến trúc. Một Quán nữa của tài năng lập dị Nakamura Seiji. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Lộ Quán – 1988; Hình Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. *** Tác giả: Yukito Ayatsuji. Dịch giả: Hải Yến Thể loại: Trinh thám Nhật Cảnh báo: Review viết với giọng điệu tưng tửng, cân nhắc trước khi đọc Nếu “Thập giác quán” đã chinh phục và khiến tôi quyết theo đuổi loạt truyện Quán, thì “Thời kế quán” là cái vẫy tay cuối cùng trước khi tôi tạm biệt series này. Dù series này bị bao lời chê nhưng tôi vẫn trung thành với tác giả Yukito Ayatsuji, cũng từng thích cả bộ Another.   “Thời kế quán” có motip quen thuộc như các cuốn Quán trước, đó là một nhóm người tình cờ tự nguyện bị “giam” vào một không gian u ám hoặc kỳ quái, tại đây, các sự kiện chết chóc liên tiếp xảy ra. Hung thủ có thể thuộc hoặc không thuộc số người đang ở cùng địa điểm đó. Các vụ giết người đều xuất phát từ yêu-hận-tình-thù trong quá khứ. Đặc biệt, tất cả các địa điểm – có chữ cuối trong tên gọi đều là “Quán” – đều là những công trình kiến trúc do một vị kiến trúc sư tài năng cổ quái thiết kế nên. Vị kiến trúc sư này có sở thích đưa vào các công trình của mình những tầng hầm, hành lang ẩn, cửa ngầm, chốt khóa ẩn giấu… Cá nhân tôi nghĩ sống trong những nơi như vậy cũng có nét thú vị riêng, đặc biệt nếu ta là một vị vua thời Trung Cổ đang cần chỗ ẩn nấp trước những người nông dân nổi dậy, nhưng với bản chất đơn giản và thích những gì rõ ràng tươi sáng, tôi không hề muốn bước vào (nói chi là sống) ở những nơi có quá nhiều phòng kín phòng ẩn, quá nhiều những thứ gợi liên tưởng đến hiện trường án mạng (thì nó đúng là hiện trường án mạng mà). Ngay từ những phần đầu, khi thấy xuất hiện chuyện “cầu cơ” thì tôi muốn dừng đọc và cho cuốn sách ra khỏi nhà, nhưng vì thiện cảm đã có từ lâu với series Quán / ngoài ra cũng vì cuốn này được một anh tác giả tôi quen khen hay, nên tôi miễn cưỡng đọc tiếp. Thêm một lý do củ chuối nữa khiến tôi cố gắng đọc đến hết là vì bìa áo đẹp, đẹp hơn cuốn “Hắc miêu quán” dù HMQ có nội dung hay hơn. Câu truyện trong “Thời kế quán” sẽ giúp độc giả có thêm hiểu biết mới mẻ về cách tính giờ cố định và bất định. Bối cảnh truyện là khi smartphone chưa xuất hiện, giới trẻ cũng chưa bị hội chứng nghiện ĐT hoặc làm gì cũng phải chụp hình up fây, nên họ chấp nhận bỏ lại hết phụ kiện tư trang, mặc những bộ áo chùng đen dài cứ như tham gia giáo phái, vào sống mấy ngày trong một không gian thần bí với một nhà ngoại cảm cũng thần bí không kém. Trong bộ áo chùng đen và không gian thiếu ánh đèn thì phân biệt nam nữ còn khó, do đó chỉ cần đánh cắp một chiếc mặt nạ trang trí trên tường là có thể che giấu nhân dạng để thản nhiên giết người. Nhân vật có-thể-xem-như-thám-tử-chính trong truyện vẫn là nhà văn trinh thám kiêm trụ trì một ngôi chùa, không thiết chăm chút bề ngoài và có tài gấp origami cực đỉnh, trong vòng vài phút có thể hoàn thành một mẫu gấp giấy khó mà người khác phải mất mấy tiếng mới gấp xong (tôi thích điều này). Nhưng cũng như những cuốn Quán khác, thám tử này tuy có khả năng suy luận tinh nhạy sắc bén nhưng lần nào cũng suy luận ra khi tất cả nạn nhân đều đã chết. Tuy hiểu rằng trong tiểu thuyết trinh thám thì thường nạn nhân sẽ vô tội (trừ truyện của Tử Kim Trần) nhưng cuốn Quán nào cũng có nhiều-hơn-hai người vô tội bị giết thì tôi cũng hơi buồn bực bức bối. Nhưng đây không phải lý do khiến tôi muốn ngưng đọc series Quán, tôi ngưng đọc là vì hết thấy hay. Giờ khen đến ngoại hình. “Thời kế quán” có bìa được vẽ rất đẹp. Phần dịch thuật tốt, đọc không có cảm giác bị dịch sát nghĩa từ tiếng Nhật. Trình bày đẹp, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Cũng như những cuốn Quán khác, “Thời kế quán” có danh sách nhân vật và bản vẽ kiến trúc ngay đầu truyện, nhưng khi đọc cuốn này thì tôi không muốn giở tới giở lui để xem cả hai thứ đó, vì nhân vật quá nhiều còn bản vẽ quá phức tạp. Tuy vậy, bản vẽ kiến trúc trong cuốn này có một chi tiết rất thú vị liên quan đến tựa sách. Thêm một điều thú vị khác: thời điểm diễn ra câu truyện là cuối tháng 7 đầu tháng 8, trùng hợp với thời điểm tôi quyết định đọc cuốn này dù không hề biết trước hay cố tình đọc cho trùng. “Thời kế quán” khép lại quãng thời gian trung thành + vui vẻ của tôi với series Quán, nói thì nói vậy nhưng nếu ai tặng những cuốn tiếp theo thì tôi vẫn sẽ đọc. (Sea, 4-8-2020) Cáo Biển Non Xanh *** THỜI KẾ QUÁN Quyển thứ 5 trong xê-ri Quán của Yukito, để khen hay thì hơi khó, nhưng quả thực đây là quyển xuất sắc nhất xê-ri cho đến lúc này. Ưu điểm là rất nhiều nạn nhân, mối quan hệ của các nhân vật trong truyện chồng chéo, mưu kế tinh vi, suy luận phức tạp. Nhược điểm là động cơ tương đối khiên cưỡng, hành vi của thủ phạm thiếu nhất quán, có một chỗ hung thủ gây án mà cảm giác như có đồng phạm (chắc em nhầm, đoạn ý em cũng không đọc kỹ). Nhưng chỗ sáng nhất của tác phẩm này không nằm ở mấy điểm trên, nó sáng bởi vì cho đến lúc này, ít nhất với em, Thời kế quán là tiểu thuyết tiệm cận nhất với những tác phẩm trinh thám cổ điển. Không chỉ tính riêng trong xê-ri Quán, mà kể cả những tác phẩm khác đã từng xuất bản ở Việt Nam như của Shimada Soji hay Paul Halter, hoặc xa hơn như một tác giả (chưa có gì ở Việt Nam) mà em rất thích là Joyce Cato v…v… Tác phẩm này tuy viết ở thời hiện đại, đặt trong thời gian hiện đại (năm 1989) nhưng lại tạo ra được không khí và bối cảnh giống y như thời cổ điển. Điểm cộng lớn ạ. Có một chỗ chắc biên tập viên hơi không chú ý, mong là các anh chị IPM trong group đọc được thì lưu ý giùm em: bản liệt kê thời gian ở trang 306 và 308 bị nhầm ngày, mới cả in thừa ra một đoạn lặp lại những dòng đã ghi phía trên. Còn lại, nhìn chung rất ổn. Phùng Băng *** THỜI KẾ QUÁN Review Thời Kế Quán Tác giả Yukito Ayatsuji Một nhóm người đươc mời đến tham dự một nghi lễ tâm linh gọi hồn tại Thời Kế Quán, một công trình kiến trúc kì dị. Nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi với bản tính hiếu kỳ cũng định đến xin tham quan nhưng bị trễ không vào kịp. Trong lúc đó nhóm người kia bị kẹt trong Thời Kế Quán và lần lượt từng người bị sát hại dã man… Truyện dày nhất trong số các cuốn Quán đã xuất bản đến nay và tình tiết cũng phức tạp nhất. Hung thủ không quá khó đoán nhưng trọng tâm nằm ở kế hoạch gây án. Hắn lợi dụng kiến trúc biệt lập bí ẩn của Thời Kế Quán với 108 cái đồng hồ kì dị để vạch ra một kế hoạch gây án khôn khéo và tàn bạo. Mình cũng chỉ đoán đươc lờ mờ, còn động cơ thì bất ngờ vì tác giả dấu đến phút chót. Với động cơ này mà phải giết một đống người thì cũng hơi điên nhưng không phải trọng tâm nên cũng chẳng cần thắc mắc nhiều. Xét tổng thể thì cũng là cuốn được nhất trong số các Quán, dày hơn 500 trang nhưng viết khá hấp dẫn dễ đọc. Bạn nào thích trinh thám suy luận thì sẽ hợp gu cuốn này. chấm cá nhân 7,75/10 *** Kawaminami Takaaki còn đang loay hoay tìm cách thoát khỏi trận mưa tầm tã thì may thay, cư xá điểm hẹn đã xuất hiện trong tầm mắt. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt trong túi áo khoác ra xem giờ. Đây là món đồ cậu thừa kế của ông nội hai năm về trước. Kể từ đó cậu bỏ hẳn đồng hồ đeo tay, chuyển sang dùng loại đồng hồ kiểu cổ này. Đã 4 rưỡi chiều, quá giờ hẹn mất nửa tiếng rồi. Cậu đã có ý thức xuất phát sớm đấy chứ. Nhưng do chưa thông thuộc thành phố, cậu xuống nhầm ga. Khi xuống đúng thì trời đổ mưa, cậu lại mất thêm mấy phút đi mua dù, vất vả lắm mới mò được đường từ nhà ga đến địa điểm như người ta chỉ, rốt cuộc trễ hẹn. Hôm nay Kawaminami có hẹn với một người đã lâu chưa gặp, nên tới trễ thế này thật là xấu hổ. Nhưng người đó sẽ không bực đâu, cậu tự an ủi. Đừng nói ba mươi phút, mà dù phải đợi hai tiếng đi chăng nữa, người đó cũng sẽ mỉm cười bỏ qua cho cậu. Kawaminami vừa giũ nước khỏi dù vừa quan sát bên trong. Cậu đang đứng ở tiền sảnh cư xá Green Heights. Cư xá nằm trên một khu phố yên tĩnh ở Kaminoge, quận Setagaya, Tokyo. Bức tường bên trái là một dãy hòm thư màu vàng đều tăm tắp. Cậu vội đi xem họ tên trên hòm thư để xác định lại số căn hộ. 409. Căn số 9, tầng 4. Đã ba năm rồi hai người chưa gặp nhau. Kawaminami thử mường tượng khuôn mặt anh ta. Đó là một người gầy nhẵng, nước da ngăm đen, cằm hơi nhọn. Anh có cái mũi khoằm, đôi mắt thâm quầng trũng sâu, chân mày lúc nào cũng nhíu lại, môi mím chặt, nhìn qua tưởng là người u sầu khó chịu. Nhưng thật ra cực kì vui tính và hay cười, thi thoảng còn cười kiểu vô tư ngây thơ mà Kawaminami rất thích. Tuy nhiên… Thay vì mong đợi một cuộc tái ngộ vui vẻ, Kawaminami lại thấy lòng ngập tràn ngần ngại, một cảm giác mà cậu hiểu rõ nguồn cơn. Tái ngộ người quen cũ này là một việc vô cùng đáng sợ. Đáng sự không phải do bản thân anh ta, mà do kí ức anh ta khơi gợi. Chỉ cần nhìn thấy anh ta, những hình ảnh khủng khiếp của vụ việc ba năm trước dù muốn dù không sẽ ập về tâm trí cậu. Kawaminami cho rằng suốt ba năm qua, chưa một lần cậu nghĩ đến việc gặp lại anh ta, âu cũng là do e dè cảm giác đáng sợ ấy. Cậu biết, mình không nên ôm mãi trong lòng quá khứ đau thương. Vụ việc ba năm trước khiến cậu mất đi khá nhiều bạn bè thân thiết. Kawaminami sốc nặng đến nỗi cuộc sống sau đó của cậu cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng. Nhưng thời gian trôi đi, cậu đã quyết định mình phải bước tiếp. Đằng nào thì chuyện đã xảy ra là vô phương thay đổi. Cầu xin đến đâu người chết cũng không thể quay về. Vậy thì chỉ còn cách là vượt qua quá khứ mà sống tiếp thôi. Chẳng biết có phải do cơn mưa phiền phức ngoài kia hay không, tâm trí Kawaminami như sũng nước. Cố gắng kiềm chế dòng cảm xúc đang dần trở nên u uất, cậu thả lỏng người và xoay cổ vài cái, rồi tiến về phía thang máy nằm cuối tiền sảnh. Vẩy nốt mấy giọt nước còn sót lại trên dù, Kawaminami giơ tay bấm nút thang máy. Nhưng cậu chưa kịp chạm vào nút thì cửa thang máy đã mở, một phụ nữ bước ra ngoài. Cô mặc sơ-mi tím và bộ vest may bằng vải thô, dáng người cao ráo với mái tóc xoăn nhuộm nâu dài chấm vai. Trong một tích tắc, ánh lấp lánh của sợi dây chuyên màu vàng ôm lấy cần cổ trắng nõn lóe lên chói mắt. Mùi nước hoa kì lạ dâng ngập bầu không khí ẩm ướt khiến Kawaminami có cảm giác mình đang rơi vào một cơn mê. Liếc nhìn khuôn mặt cô, Kawaminami buột miệng thốt lên, “Ồ.” Người phụ nữ mang kính đen to bản, khuôn mặt trang điểm rất dày, tuổi tầm trên dưới ba mươi. Mặc dù cặp kính che đi phần nào khuôn mặt, nhưng Kawaminami có thể khẳng định đây là một phụ nữ xinh đẹp. Cậu ngờ ngợ mình đã thấy cô ở đâu rồi. Không hẳn là gặp ngoài đời, có lẽ là xem trên ảnh… Kawaminami vô thức đứng lại, nhìn theo người phụ nữ. Cô ngó hộp thư nằm bên trái hộp thư căn 409 cậu kiểm tra ban nãy, lấy ra một gói bưu phẩm. Cô cho bưu phẩm vào túi, đoạn bước thẳng ra cửa kính tiền sảnh. Dõi theo đến khi bóng cô mất hút trong màn mưa, Kawaminami nhìn lại hộp thư đựng món đồ cô vừa lấy. Số trên đó là 408. Nằm ngay cạnh căn hộ của người cậu đến gặp. Tiếp theo là… Komyoji Mikoto Kawaminami giật mình khi thấy bảng tên. Trước lúc đặt chân vào thang máy, cậu nhìn cái tên một lần nữa cho chắc. Quả không sai. Đúng là Komyoji Mikoto. Cái tên đề trên hộp thư. Nếu Komyoji Mikoto này chính là Komyoji Mikoto đó thì cái cảm giác đã thấy cô ở đâu rồi của cậu là chính xác. Cậu bước vào thang máy để đi lên, lòng thầm thắc mắc sao lại tình cờ đến thế. Mùi nước hoa vẫn còn thoang thoảng trong buồng thang. Kawaminami nhấn chuông căn 409, cửa liền mở ra. Người xuất hiện trước mặt cậu mặc áo thun màu đen nhăn nhúm, quần jeans dài che đi đôi chân ống sậy. So với lần gặp cuối cùng cách đây ba năm, anh chẳng thay đổi gì mấy. “Ồ,” và vẫn đọc tên cậu thành Conan, hệt như ba năm trước*. “Cậu đến rồi.” Xem giải thích ở Thập Giác Quán, chương 2. “Vâng. Lâu lắm mới gặp lại anh,” Kawaminami gật đầu tạ lỗi. “Xin lỗi anh, tôi tới trễ.” “Hả?” Anh chủ nhà nghiêng đầu. “Không phải chúng ta hẹn 4 giờ à?” “Vâng.” “Thế thì có trễ đâu?” “Hả?” Lần này đến lượt Kawaminami nghiêng đầu. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt ra khỏi túi, “hơn 4 rưỡi rồi mà.” “Kì thật. Đồng hồ nhà tôi mới có 4 giờ thôi.” Có khi anh ta chưa tỉnh ngủ cũng nên. Chủ nhà đưa cặp mắt mơ màng về phía góc phòng, “Đó, cậu nhìn đồng hồ đi.” Một chiếc đồng hồ hình bát giác kiểu cổ treo trên tường phòng khách, kim giờ mới gần đến vị trí 4 giờ. “Gì vậy? Không phải nó chết rồi sao?” Nghe vậy, chủ nhà mới để ý. Anh đưa tay phải vò mớ tóc xoăn mềm mại, “Cũng có khi. Ghét thật, cái đồng hồ đó tôi mua ở tiệm đồ cổ đấy.” “Hèn gì…” “Chiều qua tôi mới lên dây cho nó. Chắc hỏng hóc ở đâu rồi cũng nên.” Anh lúc lắc đầu ra chiều đau khổ, rồi quay qua nở nụ cười vô tư lự với Kawaminami. “Mà thôi, cũng đâu có sao.” Đúng như dự đoán, anh chủ nhà, nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi, tên thật là Shimada Kiyoshi, lại bắt đầu cười vô tư, hệt như dáng vẻ ba năm về trước. “Cảm ơn cậu cất công tới đây hôm nay. Làm cậu bận tâm mất rồi. Vào nhà nói chuyện nào, Conan.” Kawaminami Takaaki gặp Shimada Kiyoshi lần đầu vào mùa xuân năm 1986, cụ thể là ngày 26 tháng Ba, đến giờ cậu vẫn còn nhớ. Năm đó cậu 21 tuổi, đang là sinh viên năm ba khoa Công nghệ trường Đại học K, tỉnh Oita vùng Kyushu. Mọi việc bắt đầu khi Kawaminami nhận được một bức thư đề tên người gửi là Nakamura Seiji. Nakamura Seiji là một kiến trúc sư nổi tiếng, vì muốn sống ẩn dật nên đã rời khỏi đất liền, tự mình xây dựng quần thể công trình kì lạ mang tên Lam Ốc và Thập Giác Quán chiếm phần lớn diện tích của Giác Đảo, một hòn đảo nhỏ thuộc vùng Kyushu và sống ở đó. Thế nhưng tháng Chín năm 1985, nửa năm trước khi Kawaminami nhận được thư, ông ta đã chết một cách bất thường. Vì muốn tìm hiểu lá thư bí ẩn này, Kawaminami đã đến nhà ông Nakamura Kojiro, em ruột ông Seiji. Chính tại đây, cậu gặp Shimada. Shimada là con trai thứ ba của một trụ trì. Anh có tính tò mò chằng kém gì Kawaminami. Nhác thấy bì thư đề tên ông Nakamura Seiji quá cố, anh liền tỏ ra quan tâm đặc biệt. Trong khi Shimada là người đam mê các thể loại tiểu thuyết trinh thám thì Kawaminami lại là thành viên của hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám ở trường đại học. Có lẽ đó là lý do khiến Shimada chú ý tới cậu. Mấy ngày sau đó, cả hai bắt tay vào tìm hiểu thư người chết cũng như điều tra thêm về cái chết của ông Seiji nửa năm trước đấy. Nói sơ qua thì kết cục là hai người đã tìm ra chân tướng của vụ giết người trên Giác Đảo mà nạn nhân chính là những người bạn thân thiết của Kawaminami. Tóm lại, vụ việc ba năm trước là vậy. Sau vụ việc trên đảo, cậu và Shimada tiếp tục gặp nhau vài lần nữa, nhưng rồi liên lạc thưa thớt dần đi. Một phần do Kawaminami phải dốc sức hoàn thành khóa luận tốt nghiệp cũng như kì thi đầu vào cao học. Lần cuối cùng hai người gặp nhau có lẽ là tháng Bảy năm đó. Về phần Shimada, sau vụ Thập Giác Quán anh thảnh thơi lang bạt nay đây mai đó, đụng hết vụ án này đến vụ án khác, thi thoảng mới liên lạc thông báo tình hình bản thân. Vào tháng Mười năm 1986, Shimada gọi điện báo cho Kawaminami biết anh có tham gia phá giải vụ án tại Thủy Xa Quán ở Okayama, một trong những công trình kiến trúc do Nakamura Seiji thiết kế. Kawaminami còn nhớ nỗi thôi thúc từ thảm sâu tâm khảm khiến cậu muốn gào lên ngắt lời anh, rằng cậu đã chịu quá đủ những chuyện máu me rồi. Tốt nghiệp đại học xong, Kawaminami học tiếp cao học Công nghệ. Cậu và Shimada bặt tin từ ấy. Hoàn tất chương trình đào tạo thạc sĩ hai năm, Kawaminami đến làm cho Kitansha, một trong những nhà xuất bản lớn ở Tokyo, bắt đầu từ tháng Tư năm nay. Rời khỏi Kyushu đã khá lâu rồi, một hôm cậu quyết định gọi đến nhà Shimada hỏi thăm tình hình thì mới hay anh đã chuyển nhà lên Tokyo từ năm ngoái, chưa hết, Shimada giờ còn là tác giả viết truyện trinh thám, bút danh Shishiya Kadomi. “Lúc đó tôi bất ngờ lắm. Không biết làm sao mà anh lại thành nhà văn.” Kawaminami vừa nói vừa ngồi xuống xô-pha trong phòng khách. Shimada hấp háy mắt tỏ vẻ ngại ngùng. “Tôi cũng bất ngờ. Dân công nghệ như cậu lại đầu quân cho ngành xuất bản, mà còn là chỗ nổi tiếng như Kitansha nữa.” “Tôi nộp thử thôi, không ngờ được nhận. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại trúng tuyển kìa… À nói ra khí muộn, nhưng tôi đọc Mê Lộ Quán rồi đấy. Biết tin cái là tôi tìm đọc ngay.” Mê Lộ Quán là tác phẩm đầu tay của nhà văn Shishiya Kadomi, xuất bản tháng Chín năm ngoái. Khi biết cuốn sách do Kitansha phát hành, Kawaminami kinh ngạc nhận ra cậu với Shimada đúng là có duyên nợ với nhau. “Tôi có gửi một quyển tặng cậu, nhưng do địa chỉ không rõ ràng nên bị gửi trả lại. Cậu đổi chỗ ở rồi à?” “Tôi vào cao học thì căn hộ đó cũng bị phá. Tôi quên nhờ bưu điện chuyển hộ thư tín sang địa chỉ mới nên sách của anh không tới được. Đáng lẽ tôi phải liên lạc với anh, nhưng lu bu chuyện này chuyện kia, thời gian trôi qua lúc nào không hay nữa. Tôi xin lỗi.” “Lỗi phải gì! Tôi cũng thế thôi. Lưỡng lự mãi rồi thành ra thế này.” “Nhưng mà…” “Dù sao thì hôm nay cậu cũng đã tới thăm tôi rồi. Còn gì phải phàn nàn nữa.” Shimada vừa nói vừa gật gù. Kawaminami nhận ra anh đang tỏ thái độ thông cảm với mình. Thâm tâm cậu luôn muốn quên đi những kí ức về vụ việc ba năm trước, nên cố cắm cúi vào khóa luận tốt nghiệp và kì thi cao học. Cậu lo là việc liên lạc với Shimada sẽ lại khiến mình nảy sinh những xúc cảm tiêu cực và sợ hãi. Cảm ơn anh, Kawaminami nghĩ, nhưng không nói ra. “À, anh Shimada này.” Tìm quanh bàn được chiếc gạt tàn đã cáu bẩn, Kawaminami châm thuốc hút. “Anh bỏ chùa mà đi thế có sao không?” Shimada đứng cạnh bếp, đang pha cà phê thì khựng lại, nhún vai hững hờ, “Cha tôi vẫn khỏe. Trước mắt vẫn đủ sức đảm đương vai trò trụ trì chứ chưa cần truyền cho thằng con lang bạt này.” “Anh đến Tokyo để tiện công việc à?” “Cũng không hẳn. Ở đây thì chắc chắn là tiện lợi nhiều mặt, nhưng đó không phải nguyên nhân chính của tôi.” “Thế ạ…” “Nói sao nhỉ, tôi muốn chiêm ngưỡng xem thành phố biến đổi ra sao vào những năm cuối thế kỉ 20. Cuộc sống nơi thôn quê rất lành mạnh, nhưng tẻ nhạt lắm.” “Dạ.” Con người này đúng là không thay đổi gì cả. Bước sang tuổi tứ tuần rồi mà suy nghĩ vẫn không chịu tương xứng với độ tuổi. Kawaminami chực hỏi anh đã nghĩ đến chuyện lập gia đình chưa, nhưng nhanh chóng từ bỏ ý định. Cậu dụi điếu thuốc vào gạt tàn, đảo mắt quan sát nhà cửa. Những tưởng nơi đây phải bừa bộn lắm, hóa ra lại rất gọn gàng sạch sẽ, chẳng giống nơi ở của một người đàn ông độc thân chút nào. Phòng khách rất rộng, sàn lát gỗ. “Căn hộ đẹp thật. Khu này chắc giá cao lắm phải không?” “Ừ, cũng tầm tầm.” “Tầm tầm là sao ạ?” “Chủ cư xá là người quen cũ của tôi. Thông cảm với chiếc ví lép kẹp của một cây viết mới tập tọng nên cho tôi thuê với giá khá rẻ.” “Có chuyện đó nữa à!” “Ừ, tôi từng ở đây hồi đại học rồi. Chủ nhà là con trai một gia đình giàu có. Chúng tôi cùng tuổi nên dễ bắt thân. Cư xá tên là Lục Trang.” “Chà. Hèn gì tên tiếng Anh là Green Heights.” “Ừm. Hắn ta thừa kế cư xá cũ, rồi phá đi xây cư xá này.” Kawaminami thình lình nhận ra ở góc bàn có món đồ là lạ. Một mô hình gấp giấy phức tạp màu đen. “Ác ma hở anh?” Kawaminami trỏ mô hình. “Ừ, nó đã xuất hiện trong Mê Lộ Quán. Cậu vẫn hứng thú với nghệ thuật xếp giấy chứ?” “Vẫn.” Shimada đặt tác phẩm xếp giấy lên lòng bàn tay. Từ tai, miệng, chân tay, đến cả đuôi và cánh, từng chi tiết một đều gắn kết với nhau hết sức chặt chẽ. “Mê Lộ Quán quả là nhận được sự ủng hộ ngoài mong đợi. Nguyên bản cách gấp ác ma là do tác giả của nó gửi thư chỉ cho tôi. Tôi đã đọc các tác phẩm của người ấy nên hiểu được đôi chút về nghệ thuật gấp giấy. Về sau tác giả lại chỉ thêm cho phiên bản ác ma cải tiến. Cậu nhìn chỗ này xem. Phiên bản ban đầu có năm ngón tay thôi.” Kawaminami nhón ác ma lên, ngắm nghía. Quả thật, so với nguyên tác năm ngón, bản cậu đang cầm trên tay có tới bảy ngón. “Ra đây chính là ác ma bảy ngón.” “Chắc cậu đọc KChildhood’s End của Arthur C. Clarke rồi. Overloads* cũng từ cuốn đó mà ra đấy.” Nhân vật người ngoài hành tinh trong Kết thúc ấu thơ, giúp ngăn chặn sự diệt vong của nhân loại. “Tuyệt thật. Mô hình này được gấp bằng đúng một tờ giấy thôi phải không anh, tôi không thấy mối ghép ở đâu cả.” “Ừ.” “Xếp giấy đúng là một nghệ thuật đòi hỏi sự tỉ mỉ tuyệt đối.” Cậu không nghĩ người như Shimada có thể tạo ra từng góc cạnh mô hình hoàn hảo thế này. Nội dung cuốn Mê Lộ Quán cậu đọc hai tuần trước dần dần tái hiện trong đầu. Cả chuyện cậu định nói với Shimada nữa, trên đường tới đây cậu đã suy đi tính lại mãi… Do dự một hồi, cậu quyết định, phải nói ra thôi. “Hừm, anh Shimada… à không, nên gọi là nhà văn Shishiya mới phải, vì dù sao thì hiện giờ tôi cũng là biên tập viên của Kitansha…” “Là gì cũng được, nhưng mà bỏ giùm tôi hai chữ ‘nhà văn’ đi.” “Vậy thì, anh Shishiya!” Kawaminami gọi, rồi dừng lại lấy hơi. “Kì thực tôi cũng không biết nói sao, nhưng mà đúng là có duyên!” “Có duyên? Duyên gì?” “À, chuyện là…” Kawaminami ngập ngừng, liếc mắt lên chiếc đồng hồ bát giác treo tường. Kim vẫn chỉ 4 giờ kém y như ban nãy. Cậu vươn tay kéo chiếc gạt tàn trên bàn lại gần hơn. “Anh biết Biệt thự Đồng Hồ ở Kamakura không?” “Biệt thự Đồng Hồ?” Phản ứng của Shimada Kiyoshi, hay Shishiya Kadomi, thật bất ngờ. Đôi chân mày rậm nhướng cao, mắt mở to nhìn Kawaminami, “Không lẽ…” “Vấn đề nằm ở chính mấy chữ ‘không lẽ’ ấy đấy!” Kawaminami đón ánh mắt Shimada. “Biệt thự còn có tên khác là Thời Kế Quán. Như tôi được biết, đó cũng là một trong những công trình do Nakamura Seiji thiết kế.” “Kể tôi nghe chi tiết hơn đi.” Shishiya Kadomi quay trở về bàn bếp, nhấc tách cà phê vừa pha máy xong, mang lại cho Kawaminami. “Cậu lấy thông tin ở đâu? Kiểu này chắc không phải một mình cậu điều tra rồi!? Nói gì thì nói, cậu hẳn không muốn dây vào những chuyện liên quan tới Nakamura Seiji nữa chứ nhỉ!” “Vâng.” Kawaminami ngậm điếu thuốc mới trên môi, “Chính vì thế, tôi mới nói là có duyên… À, tôi xin phép uống cà phê nhé.” Cậu cho thêm đường vào tách, khuấy đều, nhưng không quên dò xét biểu cảm trên mặt Shishiya! Anh đan hai tay sau đầu, mắt chăm chú nhìn cậu. “Chuyện này bẳt nguồn từ bộ phận tôi làm. Tôi có nói sơ qua trên điện thoại với anh rồi, hồi mùa xuân tôi vào làm tạp chí.” “À, ừ.” Shishiya mím cặp môi dày, gật đầu đồng tình. “Cậu làm biên tập cho CHAOS?” “Anh đọc CHAOS chưa?” “Đọc lướt thôi. Tôi không hứng thú với thể loại tạp chí ấy lẳm.” CHAOS là nguyệt san của Kitansha, ra đời ba năm về trước. Tạp chí lấy tiêu chí “ultra science*”, chủ yếu viết về các chủ đề liên quan đến tâm linh như siêu năng lực, UFO hay những hiện tượng kì bí. Đối tượng độc giả từ 15 đến 20 tuổi. Lúc mới phát hành, tạp chí rất được giới trẻ ưa thích, nhưng sau một thời gian không có thêm bài vở gì mới lạ, giờ chỉ xuất bản cầm chừng thôi. Siêu khoa học. “Ở ban biên tập của CHAOS, tôi đảm nhận phần dự án đặc biệt. Một trong số đó là ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’.” “Hồn ma à…” Shishiya nhún vai, xoa xoa cặp má hóp. “Có ma thật không?” “Hồi trước có, tôi không rõ chi tiết, nhưng người quanh vùng đều nói thế.” Kawaminami trả lời. “Chủ sở sở hữu biệt thự vốn là ông Koga Michinori, qua đời cách đây chín năm. Trước và sau thời điểm ấy, rất nhiều người trong nhà theo nhau mất mạng. Hiện nay dân trong vùng kháo nhau rằng có một thiếu nữ cứ đi thơ thẩn ở khu rừng gần biệt thự, hình như chính là hồn ma con gái ông Koga Michinori…” “Koga Michinori?! Tôi nghe thấy cái tên này ở đâu rồi thì phải.” “Là người nổi tiếng đấy. Ông là cựu chủ tịch của công ty thuộc hàng nhất nhì trong ngành sản xuất đồng hồ mà.” “À, ra thế. Hóa ra là chủ tịch Koga Michinori của Công ty Đồng hồ Koga. Sau đó lại xây nên Biệt thự Đồng Hồ… Thời Kế Quán hả?” “Nghe bảo công trình kì lạ lẳm. Có tháp đồng hồ khá độc đáo, cấu trúc các phòng rất phức tạp, trong nhà bày đầy đồng hồ cổ.” “Ồ!” Shishiya khe khẽ thốt, mắt dừng ở chiếc đồng hồ bát giác không còn chạy trên tường. Kawaminami tiếp tục, “Công trình kì lạ! Thoáng nghe mấy chữ này tôi đã nghĩ ngay, phải chăng lại liên quan đến ông ta? Bèn hỏi thử phó chủ biên xem sao. Trúng phóc, kiến trúc sư công trình là Nakamura.” “Ra vậy! Đúng là có duyên thật. Conan, cậu cho tôi điếu thuốc!” “Mời anh.” Shishiya rút điếu thuốc ra khỏi bao, lẩm nhẩm, “Điếu cho hôm nay,” rồi châm lửa. Phổi Shishiya vốn rất yếu, vào lần gặp cách đây ba năm, anh từng tuyên bố với Kawaminami rằng đã quyết định mỗi ngày chỉ hút một điếu thuốc thôi. Có thể thấy anh vẫn tuân thủ đúng nguyên tắc đó. “Hừm, dự án đặc biệt của cậu cụ thể ra sao?” Shishiya nhẩn nha nhả khói. “Dự án đó… bảo là thú vị thì cũng thú vị đấy…” Kawaminami bối rối nhìn về phía hành lang dẫn ra cửa chính. “Có chuyện gì khó nói à?” Nghe hỏi, cậu lắc đâu “Dạ không,” chuyển hướng nhìn về lại chỗ cũ, “Mà, anh Shima… à không, anh Shishiya…” “Gọi không thuận miệng nhỉ?” “Không sao ạ. Nãy giờ cũng thuận rồi.” “Có gì đâu, nếu không quen thì không cần gọi thế.” “Không được. Bút danh là để xác nhận danh phận nhà văn của anh mà… Anh Shishiya, căn 408 ở sát vách căn anh phải không?” “Đúng, đây là căn 409 mà.” “Người ở căn đó, anh biết không?” “Căn sát vách á?” Shishiya chớp mắt nghi hoặc. “Biết, cô Komyoji.” “Komyoji Mikoto.” Kawaminami đọc ra cả họ và tên. “Nghe cái tên anh không cảm thấy gì à?” “Cảm thấy gì?” Shishiya ngửa cổ ra sau. “Ý cậu là người nổi tiếng?” “Vâng, cũng có thể nói là người nổi tiếng. Gần đây chị ấy hay xuất hiện trên ti-vi lắm.” “Tôi không mấy khi xem ti-vi. Nghệ sĩ à?” “Không phải nghệ sĩ.” Kawaminami mường tượng lại khuôn mặt người phụ nữ. “Chị ấy là người có khả năng tâm linh, danh tiếng đang lên.” “Có khả năng tâm linh?” Shishiya mở to mắt ngạc nhiên. “Thật á?” “Một nhà ngoại cảm có linh lực mạnh hiếm thấy, lại xinh đẹp nên rất được chú ý. Bên tôi đăng vài bài về chị ấy rồi, ban nãy vừa chạm mặt dưới nhà là tôi nhận ra ngay.” “Trông không có vẻ sở hữu linh lực đặc biệt gì. Thinh thoảng giáp mặt ngoài hành lang tôi chỉ xã giao đôi câu thôi.” “Komyoji xuất hiện trên ti-vi thì toàn mặc đồ đen, mặt mày trang điểm trắng toát như người chết, chắc để tạo bầu không khí ra vẻ thần bí.” “Mà về các hiện tượng siêu nhiên thì quan điểm của cậu như thế nào, tin hay không tin?” “Hồi xưa thì tôi hoàn toàn phản đối mấy chuyện như thế. Nhưng từ ngày làm báo, đọc nhiều tài liệu và bằng chứng, ít nhiều tôi cũng tin là có… Tuy nhiên, chín phần mười bài vở trên báo đều là chuyện bịa.” “Một phần còn lại thì chẳc là chuyện thật hả?” “Có thể nói thế.” “Về linh lực của cô Komyoji, cậu nghĩ sao?” “Tôi cũng không biết nói thế nào… Chị ấy sống một mình ạ?” “Hình như thế. Thi thoảng tôi bắt gặp một người trông cũng có địa vị đi cùng cô ấy.” “Vậy ạ?” “Ừ, mấy lần rồi. Đại khái là một người đàn ông lớn tuổi, nhưng không có vẻ là cha cô ta, chưa chừng lại là bồ bịch cũng nên. Nhà ngoại cảm đi nữa thì cũng vẫn là con người thôi. Đúng không, Conan?” “À vâng… Mà chính vì thế…” Shishiya dụi phần tàn thuốc vào gạt tàn, chờ xem cậu nói gì tiếp theo. “Mấu chốt là ở chỗ, để chứng minh vụ ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’ là thật, ban biên tập CHAOS đã quyết định đề cử người đẹp tâm linh Komyoji làm trưởng nhóm lần này.” “Ồ, thế hả?” Vẫn cái vẻ đó, Kawaminami nghĩ thầm, rồi nhún vai, “Vậy nên ban nãy tôi mới bất ngờ. Tôi đâu nghĩ chị Komyoji ở tòa nhà này, lại còn ở sát vách anh.” “Ra là thế. Đúng là trùng hợp đến giật mình.” Shishiya cười híp mắt. “Nhưng mà, đôi khi nguồn gốc của nhiều việc đều có liên quan đến nhau cả. Mà bao nhiêu chi tiết ngẫu nhiên trùng hợp thế này thì nhất định là sẽ có chuyện gì đó cho mà xem.” “Nhất định sẽ… có chuyện gì đó…” “Nghe mù mờ nhỉ, không được khoa học cho lắm.” “Nội dung kế hoạch bên tôi đại khái như sau.” Kawaminami tiếp tục. “Từ đêm 30 tháng này, nhóm thực địa sẽ giam mình ở Thời Kế Quán trong ba ngày liên tục. Chị Komyoji với vai trò người gọi hồn sẽ giúp chúng tôi liên lạc với hồn ma đang ngụ trong biệt thự.” “Chắc cậu cũng nằm trong nhóm thực địa phải không?” “Vâng. Thành viên gồm tôi, phó chủ biên, phóng viên ảnh, ngoài ra còn vài sinh viên trong Hội Mystery của Đại học W. “Trinh thám à?” “Không phải trinh thám đâu. Tên hội này hình như là ‘Hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí’ nên gọi tắt là Hội Mystery luôn.” “Hầy. Dễ nhầm thật!” “Nghe ‘huyền bí’ chắc mọi người sẽ nghĩ ngay đến người ngoài hành tinh hay UFO. Thật ra chính tôi vẫn luôn nghi hoặc, phải chăng do hiểu lầm này mà tôi mới bị điều đến ban biên tập CHAOS.” “Chắc không đến nỗi chứ…” Shishiya ngả mình ra sau. “Nhốt mình trong ngôi nhà đó hẳn ba ngày? Chà. Chắc sẽ không chịu được đâu.” “Anh nghĩ vậy à?” “Tôi cứ có cảm giác lợn cợn. Nhà ma bình thường thì đã đành, nhưng đây lại còn là một trong những công trình của Nakamura Seiji…” Nhìn vào khuôn mặt băn khoăn của anh nhà văn, Kawaminami hỏi, “Anh cho rằng sẽ xảy ra chuyện gì bất trắc à?” “Ừ… à không. Nói thế thì vô căn cứ quá. Thôi, coi như tôi thần hồn nát thần tính đi.” Shishiya bật cười, nhưng chân mày vẫn nhíu lại. Thập Giác Quán, Thủy Xa Quán, rồi Mê Lộ Quán… cứ điểm qua số thảm án đã xảy ra tại các công trình của Nakamura Seiji thì đủ biết nỗi lo của anh không phải không có lý. “Thời Kế Quán ấy, cậu có tìm hiểu được thông tin gì chi tiết hơn không?” Shishiya hỏi. Như muốn xua đi nỗi ưu tư đang từ từ cuộn lên quấn lấy tâm khảm, Kawaminami lắc đầu thật mạnh, “Chưa có ạ.” “Thế hả? Dù sao thì cũng cứ cẩn thận nhé. Nếu được thì tôi cũng muốn đi cùng. Ngày 30, hai tuần nữa nhỉ?” “Lúc đó anh có bận không?” “Cuốn đang viết hạn chót là mười ngày nữa. Nếu hoàn thành kịp, thì không bận.” Nhìn thái độ không chắc chắn của Shishiya, đủ biết bản thảo đang tiến hành không mấy suôn sẻ. “Thôi tôi cứ về hỏi thăm sếp xem số người tham gia tăng lên có sao không. Nếu không sao thì anh nhập hội nhé.” “Thôi khỏi. Nếu rảnh tôi muốn đi một mình thử coi. Đã là công trình của Nakamura Seiji thì nhất định phải thu xếp đến chiêm ngưỡng.” Nói xong, Shishiya giơ hai tay vươn vai, đứng bật dậy khỏi ghế. “À này, Conan. Gần đây có quán điểm tâm cũng yên tĩnh, đi với tôi ra đấy đi. Từ lúc ngủ dậy tới giờ tôi chưa có gì bỏ bụng. Sẵn tiện hai năm nay bặt vô âm tín rồi, nên tôi cũng có nhiều chuyện muốn hỏi đây.” Chủ nhật, ngày 16 tháng Bảy năm 1989. Bên ngoài, cơn mưa cuối mùa vẫn rả rích rơi. Những lời đầy ẩn ý của Shishiya khuấy động cảm giác bất an mơ hồ trong lòng Kawaminami, nhưng vào thời điểm ấy, cậu vẫn chưa ngờ được rằng chỉ hai tuần sau, trong chuyến viếng thăm Thời Kế Quán, cậu sẽ rơi vào một cơn ác mộng kinh hoàng. Mời các bạn đón đọc Thời Kế Quán của tác giả Yukito Ayatsuji & Hải Yến (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xác Không Đầu
Cơ thể bị chia cắt của một người đàn ông được tìm thấy Trong Kênh Saint-Martin. Gần với hiện trường, Maigret gặp chủ nhân ngầm của một quán cà phê, Aline Calas, và tự hỏi liệu cơ thể trong con kênh có phải là của chồng cô không. Như thường lệ, bản năng của Maigret là chính xác. Buộc phải điều tra thêm nhưng với thời gian trên tay khi anh đã giải quyết xong vụ án, Maigret bắt đầu đào sâu vào quá khứ của tất cả những ai quan tâm. Không giống như hầu hết các hư cấu thám tử, nơi tìm kiếm giải pháp là trọng tâm của câu chuyện, cuốn tiểu thuyết này khám phá các động cơ khác nhau có thể dẫn đến phạm tội. Đây là lý do tự thù hận đằng sau những hành động theo đó bạn có thể làm tổn thương và làm tổn thương những người thân thiết nhất với bạn. Simenon, thông qua Maigret, tuyệt vọng cố gắng để tìm ra ý nghĩa thực sự và tham vọng, tin rằng sự hiểu biết có thể dẫn đến sự tha thứ và tha thứ sẽ làm giảm ổ đĩa để phạm tội. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. *** Khi trời vừa rạng sáng thì Jules Naud, người anh cả của hai anh em nhà Naud, xuất hiện trên sà lan, trước hết là cái đầu, tiếp đó đến đôi vai và sau cùng là tấm thân cao lều nghều của anh. Đưa tay lên vuốt mớ tóc màu sợi lanh chưa kịp chải, anh nhìn âu thuyền có bến cảng Jemmages ở bên trái và bến cảng Valmy bên phải. Anh vừa cuốn một điếu thuốc lá và châm hút trong buổi sáng còn se lạnh thì ngọn đèn của một quán rượu ở phố Recollets bật sáng. Mặt tiền của quán rượu có màu vàng khè. Popaul, chủ quán, mặc áo không cổ, tóc chưa chải, đang đứng ngoài vỉa hè để tháo những cánh cửa lùa. Jules đi trên tấm ván bắc làm cầu lên bờ và cuốn điếu thuốc thứ hai trong khi đó thì Robert, người em, cũng cao lớn như anh, đã thức giấc và lên trên boong tàu. Anh ta thấy Jules đang tì tay lên quầy hàng đợi chủ quán rót thêm rượu vào tách cà phê của anh.  Robert đang đợi đến lượt mình. Cùng với những cử chỉ như Jules, anh ta cũng cuốn một điếu thuốc lá. Khi người anh cả rời khỏi quán hàng thì người em cũng đã lên khỏi sà lan. Hai người gặp nhau ở giữa đường. - Ta cho nổ máy đây - Jules bảo người em trai. Có những ngày hai người không nói với nhau quá một chục câu theo kiểu ấy. Con tàu của họ mang tên Hai anh em. Họ đã lấy hai chị em sinh đôi của một gia đình sống trên bờ sông. Robert cũng tì tay lên quầy hàng của ông Popaul béo lùn và đợi chủ quán rót rượu. - Hôm nay đẹp trời - Popaul gợi chuyện. Qua cửa sổ, Robert thấy trời đã chuyển sang màu hồng. Những ống khói trên các nóc nhà bắt đầu hoạt động, sương giá đọng trên các mái nhà lợp bằng đá bảng hoặc bằng ngói bắt đầu tan. Người ta nghe thấy tiếng nổ của đầu máy đi-ê-zen. Phía sau sà lan phụt ra những luồng khói đen. Robert đặt tiền lên quầy hàng, cầm lấy chiếc mũ cát-két và đi khỏi quán rượu. Người phụ trách âu thuyền trong bộ đồng phục đã xuất hiện chuẩn bị cho việc mở cửa âu. Người ta nghe thấy những bước chân ở cảng Valmy nhưng không nhìn thấy người. Tiếng trẻ con bi bô trong những khoang tàu, nơi các bà mẹ đang chuẩn bị cà phê. Jules đang cúi xuống nhìn mặt nước ở cuối sà lan. Người em thấy như có chuyện gì không ổn. Sà lan chở đá xây dựng từ Beauvais về. Chuyến này đá chở nhiều hơn thường lệ một vài tấn. Đêm qua sà lan từ bên La Vilette để đi vào kênh đào Saint-Martin. Thông thường thì tháng Ba kênh đào có nhiều nước. Năm nay ít mưa nên bùn trong các con kênh sục lên khi sà lan đi qua. Những cánh cửa âu thuyền được kéo lên. Jules ngồi bên vòng quay của bánh lái. Người em lên bờ tháo neo. Chân vịt bắt đầu quay tít, những bọt nước có bùn nổi lên. Tì người vào cây sào, Jules đẩy sà lan tránh xa bờ kênh. Bỗng nhiên chân vịt khựng lại, tiếng máy nổ rú lên và Robert thấy Jules đang cúi xuống máy. Cả hai đều không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chân vịt không sát xuống đáy sông. Chắc chắn đã có vật gì mắc vào nó. Có thể là rác đã bị cuốn lên. Cầm một cây sào, Jules đến cuối sà lan và khuấy nước ở đấy lên. Chân vịt vẫn không nhúc nhích. Trong khi Jules đi tìm một chiếc móc bằng sắt thì Laurence từ khoang sà lan nhô đầu lên. - Có chuyện gì vậy? - Không biết. Cái móc bắt đầu làm việc. Vài phút sau đó thì Charles Dambois, người phụ trách âu thuyền, bước tới. Ông ta không hỏi han gì mà chỉ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu để hút. Trên bờ kênh, người ta thấy nhiều y tá và hộ lý vội vã tới phố Cộng Hoà để làm việc tại bệnh viện Saint-Louis. - Anh đã thấy vật đó chưa? - Đã thấy. - Một sợi dây cáp ư? - Không biết. Jules đã móc được vật ấy lên và chân vịt lại tiếp tục quay. Chiếc móc sắt được nhấc lên khỏi mặt nước và mắc vào đấy là một gói giấy báo buộc kỹ. Giấy báo ngâm nước đã mủn ra. Đấy là một cánh tay người, từ bả vai đến bàn tay, thịt đã xám lại như con cá chết. *** Depoil, hạ sĩ cảnh sát của khu phố Ba, đã hết phiên trực đêm ở bến cảng Jemmages, đang chuẩn bị ra về thì gặp Jules chạy tới. - Tôi ở âu thuyền Recollets cùng với chiếc sà lan Hai anh em. Chân vịt đã không quay được khi chúng tôi cho sà lan chạy và chúng tôi đã gỡ từ đó ra một cánh tay người. Depoil đã làm việc ở quận Mười mười lăm năm, có phản ứng nhanh nhạy của người cảnh sát nên anh nắm ngay sự việc. - Tay của đàn ông ư? - Depoil hỏi với vẻ hoài nghi. - Phải. Cánh tay đầy lông màu hung và... Thường thì người ta vớt được xác chết ở kênh đào Saint-Martin từ chân vịt của tàu thuyền. Hầu hết là xác nguyên vẹn, đại đa số là xác đàn ông, ví dụ như xác của một ông già lang thang quá chén hoặc xác của một thanh niên bị địch thủ cho một nhát dao rồi đẩy xuống dòng kênh. Xác chết bị chặt ra từng khúc cũng không phải là không có, một năm trung bình một hai vụ, mà hầu hết là phụ nữ. Depoil có thể kể ra từng vụ một. Chín phần mười họ đều là gái bán dâm, đi lượn lờ trên bờ kênh vào ban đêm. "Tội ác do những kẻ loạn dâm gây ra" - Báo cáo của anh thường kết luận như vậy. Cảnh sát biết rõ những kẻ năng lui tới chốn này, họ có cả một danh sách những kẻ đáng nghi ngờ. Chỉ cần một vài ngày là đủ để tóm cổ được tác giả của vụ án cướp của giết người hoặc tấn công địch thủ bằng vũ khí. - Anh đã mang nó lên bờ rồi chứ? - Depoil hỏi. - Cánh tay người ư? - Anh để nó ở đâu? Mời các bạn đón đọc Xác Không Đầu của tác giả Georges Simenon & Trần Bình (dịch).
Xin Cho Tôi Gọi Cô Là Em Yêu
Tình cờ, Kerry McGrath - phụ tá uỷ viên công tố, phát hiện ra bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Smith chỉnh hình khuôn mặt cho hai bệnh nhân của ông thành khuôn mặt của cùng một người phụ nữ đã bị ám sát hơn 10 năm trước. Hồ nghi, Kerry mở lại hồ sơ cũ, nàng đã bị sự ngăn cản từ người chồng cũ, từ sếp của nàng, và kể cả vị thượng nghị sĩ mà nàng rất kính trọng. Chẳng bao lâu sau, tính mạng của chính nàng cùng cô con gái nhỏ cũng bị đe doạ nếu nàng vẫn muốn khám phá sự thật.... *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? ***       Xin đừng phủ lên trên ngôi mộ này Những đóa hồng mà nàng hết sức yêu quí; Tại sao làm cho nàng ngất ngây bằng hoa hồng Mà nàng không thể thấy hoặc ngửi được? Edna St Vincent Millay, Epitaph.       Ông đã làm mọi cách để cố gắng gạt Suzanne ra khỏi tâm trí. Một đôi khi, ông tìm lại được sự yên tĩnh trong vài giờ hoặc thậm chí ngủ suốt đêm. Đó là cách duy nhất giúp ông tiếp tục sống, làm công việc hàng ngày. Phải chăng ông vẫn còn yêu cô hay chỉ ghét cô? Ông không bao giờ có thể chắc chắn. Cô đẹp, với đôi mắt sáng long lanh có cái nhìn chế giễu, với mái tóc sẫm bồng bềnh như mây, với đôi môi có thể mỉm cười một cách hết sức mời mọc hoặc mím lại một cách hết sức dễ dàng giống hệt một đứa bé đang bị cấm ăn kẹo. Trong tâm trí ông, cô vẫn luôn luôn hiện diện, như lúc cô đã nhìn ông vào phút giây cuối cùng của đời cô, trêu chọc ông và quay lưng về phía ông. Và giờ đây, gần mười một năm sau, Kerry McGrath sẽ không để cho Suzanne yên nghỉ. Những câu hỏi, rồi lại thêm những câu hỏi! Không thể chấp nhận được. Cần phải ngăn chặn cô ta. “Hãy để cho người chết chôn vùi người”. Đó là một ngạn ngữ cổ, ông nghĩ, và nó vẫn còn đúng. Phải ngăn chặn cô ta, bằng mọi giá.        Thứ Tư, ngày 11 tháng 11 Mời các bạn đón đọc Xin Cho Tôi Gọi Cô Là Em Yêu của tác giả Mary Higgins Clark & Nguyễn Nhất Nam (dịch).
Tiếng Thét Trong Đêm
Jenni - một phụ nữ ly dị đang nuôi con với muôn vàn khó khăn. Cuộc gặp định mệnh với Erich Krueger - một họa sĩ thiên tài ở miền Midwest trong một cuộc triển lãm tranh ở New York đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của nàng. Sau một cuộc tình chớp nhoáng, Jenni và hai con chuyển từ New York đầy náo nhiệt về miền nông thôn ở Minnesota u tịch, yên tĩnh để kết hôn với Erich. Erich - một chàng trai hòa hoa, phong nhã, giàu có tưởng như là một kết thúc hoàn hảo cho cuộc đời đầy sóng gió của Jenni. Nhưng ngay trong ngày đêm động phòng Erich đã yêu cầu nàng mặc bộ đồ của mẹ chàng và Jenni phát hiện ra nàng quá giống mẹ Erich. Tính cách bị ám ảnh bởi sự ngăn nắp của chàng đã làm cho nàng cảm thấy quá ngột ngạt và những chuỗi ngày bất ổn bắt đầu từ đây. Liên tiếp những biến cố xảy ra với cái chết của Kevin - người chồng trước của Jenni gần nông trang của gia đình Erich, và đứa con đã đẩy nàng vào sự khủng hoảng nhưng sự việc không kết thúc tại đây. Và Jenni phải làm thế nào để giải thoát khỏi sự nguy hiểm đang rình rập và đồng thời bảo tồn mạng sống của mình và các con... *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? *** Lúc tờ mờ sáng, Jenni bắt đầu đi vào rừng để Jin tìm kiếm căn nhà gỗ. Suốt đêm qua, không hề chợp mắt, nàng nằm bất động, thao thức trên chiếc giường rộng, sang trọng, kiểu có tán che. Im vắng ngự trị trong ngôi nhà làm trĩu nặng tâm can nàng. Dẫu nhiều tuần lễ đã trôi qua mà đôi tai nàng vẫn rình nghe trong tuyệt vọng tiếng khóc đói sửa của đứa con nhỏ. Bầu vú căng sửa của nàng luôn chờ đợi cái miệng bé nhỏ háu ăn. Căn phòng sáng lên khi nàng bật ngọn đèn ngủ. Ánh đèn tỏa vào chiếc cốc pha lê chạm trổ trên tủ com mốt. Những bánh xà phòng nho nhỏ thơm mùi thông bày trong cốc hắt ánh sáng màu xanh vào chiếc hộp trang điểm bằng bạc. ***** Đối với nàng, có hệ trọng gì đâu. Dẫu phải chết rét đi nữa thì nàng cũng phải kiếm cho ra căn nhà gỗ đó. Nó ở đâu đó thôi, trong khu rùng thông đen, sồi và thích của xứ Na Uy này. Trong những đêm dài thao thức, nàng đã hoạch định một chương trình cho cuộc tìm kiếm. Theo nàng nghĩ, Erich không đi nhanh bằng nàng được, anh ta đi một bước thì nàng đã tiến xa ba bước rồi. Bước sải dài của nàng tự nhiên mang nàng đi nhanh hơn nàng tưởng. Như ngày kia, Erich đến căn nhà gỗ sực nhớ quên mang theo chìa khóa, chàng trở về để lấy, thì phải đi mất 40 phút. Theo anh ta, đoạn đường từ căn nhà gỗ đến bìa rừng phải đi khoảng 20 phút. Erich không bao giờ dẫn nàng đến đó. Chàng đã từng nói với nàng: ‘‘Jenni, em hãy hiểu cho anh, mọi nghệ sĩ đều cần có một thế giới riêng tư’’. Trước đây, nàng cũng không bao giờ tìm cách để đến nơi đó. Erich cũng đã tuyệt đối cấm mọi người trong nông trang vào rừng. Ngay cả Clyde, người quản lý nông trang từ ba mươi năm nay cũng xác nhận chưa hề biết căn nhà gỗ đó nằm ở đâu. Tuyết trắng xóa, từng mảng nặng nề, chất lớp, đã xóa tan đi dấu chân nàng. Nhưng trái lại nó cũng giúp nàng thực hiện cuộc tìm kiếm thấu đáo hơn bằng cách đi ski. Nàng cố thận trọng để tránh bị lạc hướng, với hằng hà bụi rậm nơi đây cùng với khả năng định hướng tồi tệ của nàng thì nguy cơ đi lòng vòng sẽ xảy ra ngay. Thận trọng, Jenny chủ định mang theo một cái la bàn, cái búa, đinh và ít mảnh vải nhỏ. Nàng dự tính sẽ đóng những mảnh vải này vào thân cây để đánh dấu. Suốt đêm qua, nàng suy nghĩ hẳn mình có nên đến gặp ông cảnh sát trưởng Gunderson. Hẳn nhiên ông ta sẽ nhìn nàng bằng ánh mắt dò hỏi, khinh khỉnh. Bộ áo liền quần đi ski móc ở tủ ngăn dưói nhà, cạnh nhà bếp. Nàng mặc nó vào trong khi chờ đợi nước cà-phê đun sôi. Ngay khi uống tách cà-phê đầu tiên, nàng đã hình dung rõ ràng hơn vị trí của căn nhà. Nàng sẽ mang theo bình thủy cà-phê. Jenni không có chìa khóa của căn nhà gỗ nhưng khi vào nàng có thể dùng búa để đập vỡ cửa kính. Toàn bộ ngói nhà rộng lớn cũ kỹ mà nàng đang sống nơi đây, thật bóng loáng từ trên xuống dưới. Hẳn đó là thành tích sáng chói do những nguyên tắc khắc nghiệt về tính sạch sẽ của Elsa, chị người làm, ngay cả khi chị ta không đến đã hai tuần nay. Trước khi ra về, chị ta luôn bóc một tờ lịch treo ở tường, trên chiếc điện thoại. Jenni còn nhớ đã từng nói với Erich về chị ta, "Elsa khônq thể kềm chế được việc lau chùi mọi thứ dẫu không thấy dơ và chị ta cứ lặp lại mãi như vậy trong suốt tuần". Bảy giờ, đến lượt nàng bóc tờ lịch của ngày Thứ hai 14 tháng 2, nàng vò nát tờ lịch cũ và chăm chú nhìn vào hàng chữ lớn ghi trên tờ lịch mới: Thứ bảy 15 tháng 2. Nàng rùng mình. Đã gần mười bốn tháng trôi qua kể từ ngày nàng gặp gỡ Erich tại gallery. Không thể thế được. Đó phải là một thế kỷ. Nàng đăm chiêu suy nghĩ. Mái tóc màu hạt dẻ sẫm màu của nàng trong thời gian nàng mang thai giờ đây đã trở thành gần như màu đen. Mái tóc lộ ra sự buồn bả và không còn sức sống khi nàng ém nó dưới chiếc nón trùm đầu bằng len. Chiếc gương đóng khung bằng vỏ sò đặt bên phía trái cánh cửa bếp thật không phù hợp với cảnh bề thế của căn bếp với khung trần trang trí bởi những cây đà to lớn bằng gỗ sồi. Nàng đến đứng trước gương, đôi mắt nàng giờ đã quầng thâm, không còn là màu xanh ngọc bích; sáng hôm nay chúng phản chiếu nét nhìn chăm chú và sững sờ. Đôi má nàng lõm sâu. Nàng đã sụt cân từ khi ở cữ. Khi nàng cài lại cúc áo, thì thấy gân xanh đập nhẹ nơi cổ mình, mới có hai mươi bảy tuổi mà nàng có cảm tưởng như gấp mười lần hơn; và nàng cảm thấy mình già như một bà lão trăm tuổi. Ước gì sự đờ đẫn này biến mất đi. Ước gì ngôi nhà này không còn thinh lặng như thế này nữa, một sự thinh lặng khủng khiếp. Nàng hướng mắt nhìn lò sưởi bằng gang nằm sát tường phía đông của căn bếp. Cái nôi chất đầy củi đã được đặt lại chỗ cũ cùng những vật dụng cần thiết cạnh đó. Nàng nhìn chăm chú chiếc nôi. Như một cú sốc thường xuyên hiện diện. Dần dà nàng cảm thấy quen thuộc với sự có mặt của nó trong căn bếp. Đoạn, nàng quay sang rót cà phê vào bình thủy, thu gom lại các vật cần dùng như la bàn, cái búa, những cái dinh, những mảnh vải và dồn tất cả vào trong một túi đeo lưng, với khăn quàng trùm mặt, chân mang giày ski, Jenni nhanh nhẹn luồn đôi tay vào bao găng tay to tướng bằng lông thú. Nàng tạ ơn Trời đã cho mình học tốt môn trượt tuyết trong năm qua. Nàng mở cửa bước ra. Gió dữ dội quất mạnh vào người nàng. Tiếng rống khàn đục của đàn bò trong chuồng làm nàng liên tưởng đến tiếng nức nở của nỗi tuyệt vọng sâu xa. Mặt trời rực rỡ trên tuyết trắng, vẻ đẹp sáng ngời của vị chúa tể xa xôi dường như bất lực với nỗi khắc nghiệt của băng giá. Giờ này, hẳn Clyde đang đi kiểm tra chuồng súc vật. Đội ngũ nông dân ăn lương công nhật hẳn đang bận rộn chất đầy rơm cho đàn bò Black Angus; vì là mùa đông nên chúng không thể ăn cỏ trên đồng và chúng thường ẩn náu nơi đây để có thức ăn. Phân nửa tá điền đang làm việc trên phần đất khai khẩn rộng lớn và không một người nào đến gần ngôi nhà này. Chỉ thấy những chiếc bóng nhỏ bé của họ lố nhố phía chân trời..   Mời các bạn đón đọc Tiếng Thét Trong Đêm của tác giả Mary Higgins Clark & Lê Thành (dịch).