Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Kế Quán

Tầm mười năm về trước, trong rừng sâu mọc lên một kiến trúc kì lạ tên là Thời Kế Quán, gồm một tháp đồng hồ chuyên chỉ giờ lung tung và một biệt thự chôn nửa xuống đất. Trước và sau khi xây Quán, có rất nhiều người liên quan đến nó đã chết, số người thiệt mạng gần đủ để trám kín các ô số trên mặt đồng hồ, lý do không rõ. Chỉ biết từ đó tháp và nhà gần như hoang phế, không ai nhớ đến nữa. Mười năm trôi qua, cây lá đã gần như phủ kín đường vào thì Thời Kế Quán nổi tiếng trở lại, do những người đi rừng bắt gặp ma trôi nổi quanh đó. Tin tức kích thích sự tò mò của một nhóm người chuyên nghiên cứu tâm linh. Họ mời một bà đồng cùng vào Quán để làm lễ gọi hồn, tìm hiểu chân tướng. Khi cửa mở cho họ đi vào, kim trên tháp đã rụng mất. Khi cửa mở cho họ đi ra, ô số tháp có thể thay mới hết. Thời Kế Quán… Một Quán nữa của năng lượng u uất. Một Quán nữa của uẩn khúc đời người phải giải tỏa qua kiến trúc. Một Quán nữa của tài năng lập dị Nakamura Seiji. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Lộ Quán – 1988; Hình Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. *** Tác giả: Yukito Ayatsuji. Dịch giả: Hải Yến Thể loại: Trinh thám Nhật Cảnh báo: Review viết với giọng điệu tưng tửng, cân nhắc trước khi đọc Nếu “Thập giác quán” đã chinh phục và khiến tôi quyết theo đuổi loạt truyện Quán, thì “Thời kế quán” là cái vẫy tay cuối cùng trước khi tôi tạm biệt series này. Dù series này bị bao lời chê nhưng tôi vẫn trung thành với tác giả Yukito Ayatsuji, cũng từng thích cả bộ Another.   “Thời kế quán” có motip quen thuộc như các cuốn Quán trước, đó là một nhóm người tình cờ tự nguyện bị “giam” vào một không gian u ám hoặc kỳ quái, tại đây, các sự kiện chết chóc liên tiếp xảy ra. Hung thủ có thể thuộc hoặc không thuộc số người đang ở cùng địa điểm đó. Các vụ giết người đều xuất phát từ yêu-hận-tình-thù trong quá khứ. Đặc biệt, tất cả các địa điểm – có chữ cuối trong tên gọi đều là “Quán” – đều là những công trình kiến trúc do một vị kiến trúc sư tài năng cổ quái thiết kế nên. Vị kiến trúc sư này có sở thích đưa vào các công trình của mình những tầng hầm, hành lang ẩn, cửa ngầm, chốt khóa ẩn giấu… Cá nhân tôi nghĩ sống trong những nơi như vậy cũng có nét thú vị riêng, đặc biệt nếu ta là một vị vua thời Trung Cổ đang cần chỗ ẩn nấp trước những người nông dân nổi dậy, nhưng với bản chất đơn giản và thích những gì rõ ràng tươi sáng, tôi không hề muốn bước vào (nói chi là sống) ở những nơi có quá nhiều phòng kín phòng ẩn, quá nhiều những thứ gợi liên tưởng đến hiện trường án mạng (thì nó đúng là hiện trường án mạng mà). Ngay từ những phần đầu, khi thấy xuất hiện chuyện “cầu cơ” thì tôi muốn dừng đọc và cho cuốn sách ra khỏi nhà, nhưng vì thiện cảm đã có từ lâu với series Quán / ngoài ra cũng vì cuốn này được một anh tác giả tôi quen khen hay, nên tôi miễn cưỡng đọc tiếp. Thêm một lý do củ chuối nữa khiến tôi cố gắng đọc đến hết là vì bìa áo đẹp, đẹp hơn cuốn “Hắc miêu quán” dù HMQ có nội dung hay hơn. Câu truyện trong “Thời kế quán” sẽ giúp độc giả có thêm hiểu biết mới mẻ về cách tính giờ cố định và bất định. Bối cảnh truyện là khi smartphone chưa xuất hiện, giới trẻ cũng chưa bị hội chứng nghiện ĐT hoặc làm gì cũng phải chụp hình up fây, nên họ chấp nhận bỏ lại hết phụ kiện tư trang, mặc những bộ áo chùng đen dài cứ như tham gia giáo phái, vào sống mấy ngày trong một không gian thần bí với một nhà ngoại cảm cũng thần bí không kém. Trong bộ áo chùng đen và không gian thiếu ánh đèn thì phân biệt nam nữ còn khó, do đó chỉ cần đánh cắp một chiếc mặt nạ trang trí trên tường là có thể che giấu nhân dạng để thản nhiên giết người. Nhân vật có-thể-xem-như-thám-tử-chính trong truyện vẫn là nhà văn trinh thám kiêm trụ trì một ngôi chùa, không thiết chăm chút bề ngoài và có tài gấp origami cực đỉnh, trong vòng vài phút có thể hoàn thành một mẫu gấp giấy khó mà người khác phải mất mấy tiếng mới gấp xong (tôi thích điều này). Nhưng cũng như những cuốn Quán khác, thám tử này tuy có khả năng suy luận tinh nhạy sắc bén nhưng lần nào cũng suy luận ra khi tất cả nạn nhân đều đã chết. Tuy hiểu rằng trong tiểu thuyết trinh thám thì thường nạn nhân sẽ vô tội (trừ truyện của Tử Kim Trần) nhưng cuốn Quán nào cũng có nhiều-hơn-hai người vô tội bị giết thì tôi cũng hơi buồn bực bức bối. Nhưng đây không phải lý do khiến tôi muốn ngưng đọc series Quán, tôi ngưng đọc là vì hết thấy hay. Giờ khen đến ngoại hình. “Thời kế quán” có bìa được vẽ rất đẹp. Phần dịch thuật tốt, đọc không có cảm giác bị dịch sát nghĩa từ tiếng Nhật. Trình bày đẹp, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Cũng như những cuốn Quán khác, “Thời kế quán” có danh sách nhân vật và bản vẽ kiến trúc ngay đầu truyện, nhưng khi đọc cuốn này thì tôi không muốn giở tới giở lui để xem cả hai thứ đó, vì nhân vật quá nhiều còn bản vẽ quá phức tạp. Tuy vậy, bản vẽ kiến trúc trong cuốn này có một chi tiết rất thú vị liên quan đến tựa sách. Thêm một điều thú vị khác: thời điểm diễn ra câu truyện là cuối tháng 7 đầu tháng 8, trùng hợp với thời điểm tôi quyết định đọc cuốn này dù không hề biết trước hay cố tình đọc cho trùng. “Thời kế quán” khép lại quãng thời gian trung thành + vui vẻ của tôi với series Quán, nói thì nói vậy nhưng nếu ai tặng những cuốn tiếp theo thì tôi vẫn sẽ đọc. (Sea, 4-8-2020) Cáo Biển Non Xanh *** THỜI KẾ QUÁN Quyển thứ 5 trong xê-ri Quán của Yukito, để khen hay thì hơi khó, nhưng quả thực đây là quyển xuất sắc nhất xê-ri cho đến lúc này. Ưu điểm là rất nhiều nạn nhân, mối quan hệ của các nhân vật trong truyện chồng chéo, mưu kế tinh vi, suy luận phức tạp. Nhược điểm là động cơ tương đối khiên cưỡng, hành vi của thủ phạm thiếu nhất quán, có một chỗ hung thủ gây án mà cảm giác như có đồng phạm (chắc em nhầm, đoạn ý em cũng không đọc kỹ). Nhưng chỗ sáng nhất của tác phẩm này không nằm ở mấy điểm trên, nó sáng bởi vì cho đến lúc này, ít nhất với em, Thời kế quán là tiểu thuyết tiệm cận nhất với những tác phẩm trinh thám cổ điển. Không chỉ tính riêng trong xê-ri Quán, mà kể cả những tác phẩm khác đã từng xuất bản ở Việt Nam như của Shimada Soji hay Paul Halter, hoặc xa hơn như một tác giả (chưa có gì ở Việt Nam) mà em rất thích là Joyce Cato v…v… Tác phẩm này tuy viết ở thời hiện đại, đặt trong thời gian hiện đại (năm 1989) nhưng lại tạo ra được không khí và bối cảnh giống y như thời cổ điển. Điểm cộng lớn ạ. Có một chỗ chắc biên tập viên hơi không chú ý, mong là các anh chị IPM trong group đọc được thì lưu ý giùm em: bản liệt kê thời gian ở trang 306 và 308 bị nhầm ngày, mới cả in thừa ra một đoạn lặp lại những dòng đã ghi phía trên. Còn lại, nhìn chung rất ổn. Phùng Băng *** THỜI KẾ QUÁN Review Thời Kế Quán Tác giả Yukito Ayatsuji Một nhóm người đươc mời đến tham dự một nghi lễ tâm linh gọi hồn tại Thời Kế Quán, một công trình kiến trúc kì dị. Nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi với bản tính hiếu kỳ cũng định đến xin tham quan nhưng bị trễ không vào kịp. Trong lúc đó nhóm người kia bị kẹt trong Thời Kế Quán và lần lượt từng người bị sát hại dã man… Truyện dày nhất trong số các cuốn Quán đã xuất bản đến nay và tình tiết cũng phức tạp nhất. Hung thủ không quá khó đoán nhưng trọng tâm nằm ở kế hoạch gây án. Hắn lợi dụng kiến trúc biệt lập bí ẩn của Thời Kế Quán với 108 cái đồng hồ kì dị để vạch ra một kế hoạch gây án khôn khéo và tàn bạo. Mình cũng chỉ đoán đươc lờ mờ, còn động cơ thì bất ngờ vì tác giả dấu đến phút chót. Với động cơ này mà phải giết một đống người thì cũng hơi điên nhưng không phải trọng tâm nên cũng chẳng cần thắc mắc nhiều. Xét tổng thể thì cũng là cuốn được nhất trong số các Quán, dày hơn 500 trang nhưng viết khá hấp dẫn dễ đọc. Bạn nào thích trinh thám suy luận thì sẽ hợp gu cuốn này. chấm cá nhân 7,75/10 *** Kawaminami Takaaki còn đang loay hoay tìm cách thoát khỏi trận mưa tầm tã thì may thay, cư xá điểm hẹn đã xuất hiện trong tầm mắt. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt trong túi áo khoác ra xem giờ. Đây là món đồ cậu thừa kế của ông nội hai năm về trước. Kể từ đó cậu bỏ hẳn đồng hồ đeo tay, chuyển sang dùng loại đồng hồ kiểu cổ này. Đã 4 rưỡi chiều, quá giờ hẹn mất nửa tiếng rồi. Cậu đã có ý thức xuất phát sớm đấy chứ. Nhưng do chưa thông thuộc thành phố, cậu xuống nhầm ga. Khi xuống đúng thì trời đổ mưa, cậu lại mất thêm mấy phút đi mua dù, vất vả lắm mới mò được đường từ nhà ga đến địa điểm như người ta chỉ, rốt cuộc trễ hẹn. Hôm nay Kawaminami có hẹn với một người đã lâu chưa gặp, nên tới trễ thế này thật là xấu hổ. Nhưng người đó sẽ không bực đâu, cậu tự an ủi. Đừng nói ba mươi phút, mà dù phải đợi hai tiếng đi chăng nữa, người đó cũng sẽ mỉm cười bỏ qua cho cậu. Kawaminami vừa giũ nước khỏi dù vừa quan sát bên trong. Cậu đang đứng ở tiền sảnh cư xá Green Heights. Cư xá nằm trên một khu phố yên tĩnh ở Kaminoge, quận Setagaya, Tokyo. Bức tường bên trái là một dãy hòm thư màu vàng đều tăm tắp. Cậu vội đi xem họ tên trên hòm thư để xác định lại số căn hộ. 409. Căn số 9, tầng 4. Đã ba năm rồi hai người chưa gặp nhau. Kawaminami thử mường tượng khuôn mặt anh ta. Đó là một người gầy nhẵng, nước da ngăm đen, cằm hơi nhọn. Anh có cái mũi khoằm, đôi mắt thâm quầng trũng sâu, chân mày lúc nào cũng nhíu lại, môi mím chặt, nhìn qua tưởng là người u sầu khó chịu. Nhưng thật ra cực kì vui tính và hay cười, thi thoảng còn cười kiểu vô tư ngây thơ mà Kawaminami rất thích. Tuy nhiên… Thay vì mong đợi một cuộc tái ngộ vui vẻ, Kawaminami lại thấy lòng ngập tràn ngần ngại, một cảm giác mà cậu hiểu rõ nguồn cơn. Tái ngộ người quen cũ này là một việc vô cùng đáng sợ. Đáng sự không phải do bản thân anh ta, mà do kí ức anh ta khơi gợi. Chỉ cần nhìn thấy anh ta, những hình ảnh khủng khiếp của vụ việc ba năm trước dù muốn dù không sẽ ập về tâm trí cậu. Kawaminami cho rằng suốt ba năm qua, chưa một lần cậu nghĩ đến việc gặp lại anh ta, âu cũng là do e dè cảm giác đáng sợ ấy. Cậu biết, mình không nên ôm mãi trong lòng quá khứ đau thương. Vụ việc ba năm trước khiến cậu mất đi khá nhiều bạn bè thân thiết. Kawaminami sốc nặng đến nỗi cuộc sống sau đó của cậu cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng. Nhưng thời gian trôi đi, cậu đã quyết định mình phải bước tiếp. Đằng nào thì chuyện đã xảy ra là vô phương thay đổi. Cầu xin đến đâu người chết cũng không thể quay về. Vậy thì chỉ còn cách là vượt qua quá khứ mà sống tiếp thôi. Chẳng biết có phải do cơn mưa phiền phức ngoài kia hay không, tâm trí Kawaminami như sũng nước. Cố gắng kiềm chế dòng cảm xúc đang dần trở nên u uất, cậu thả lỏng người và xoay cổ vài cái, rồi tiến về phía thang máy nằm cuối tiền sảnh. Vẩy nốt mấy giọt nước còn sót lại trên dù, Kawaminami giơ tay bấm nút thang máy. Nhưng cậu chưa kịp chạm vào nút thì cửa thang máy đã mở, một phụ nữ bước ra ngoài. Cô mặc sơ-mi tím và bộ vest may bằng vải thô, dáng người cao ráo với mái tóc xoăn nhuộm nâu dài chấm vai. Trong một tích tắc, ánh lấp lánh của sợi dây chuyên màu vàng ôm lấy cần cổ trắng nõn lóe lên chói mắt. Mùi nước hoa kì lạ dâng ngập bầu không khí ẩm ướt khiến Kawaminami có cảm giác mình đang rơi vào một cơn mê. Liếc nhìn khuôn mặt cô, Kawaminami buột miệng thốt lên, “Ồ.” Người phụ nữ mang kính đen to bản, khuôn mặt trang điểm rất dày, tuổi tầm trên dưới ba mươi. Mặc dù cặp kính che đi phần nào khuôn mặt, nhưng Kawaminami có thể khẳng định đây là một phụ nữ xinh đẹp. Cậu ngờ ngợ mình đã thấy cô ở đâu rồi. Không hẳn là gặp ngoài đời, có lẽ là xem trên ảnh… Kawaminami vô thức đứng lại, nhìn theo người phụ nữ. Cô ngó hộp thư nằm bên trái hộp thư căn 409 cậu kiểm tra ban nãy, lấy ra một gói bưu phẩm. Cô cho bưu phẩm vào túi, đoạn bước thẳng ra cửa kính tiền sảnh. Dõi theo đến khi bóng cô mất hút trong màn mưa, Kawaminami nhìn lại hộp thư đựng món đồ cô vừa lấy. Số trên đó là 408. Nằm ngay cạnh căn hộ của người cậu đến gặp. Tiếp theo là… Komyoji Mikoto Kawaminami giật mình khi thấy bảng tên. Trước lúc đặt chân vào thang máy, cậu nhìn cái tên một lần nữa cho chắc. Quả không sai. Đúng là Komyoji Mikoto. Cái tên đề trên hộp thư. Nếu Komyoji Mikoto này chính là Komyoji Mikoto đó thì cái cảm giác đã thấy cô ở đâu rồi của cậu là chính xác. Cậu bước vào thang máy để đi lên, lòng thầm thắc mắc sao lại tình cờ đến thế. Mùi nước hoa vẫn còn thoang thoảng trong buồng thang. Kawaminami nhấn chuông căn 409, cửa liền mở ra. Người xuất hiện trước mặt cậu mặc áo thun màu đen nhăn nhúm, quần jeans dài che đi đôi chân ống sậy. So với lần gặp cuối cùng cách đây ba năm, anh chẳng thay đổi gì mấy. “Ồ,” và vẫn đọc tên cậu thành Conan, hệt như ba năm trước*. “Cậu đến rồi.” Xem giải thích ở Thập Giác Quán, chương 2. “Vâng. Lâu lắm mới gặp lại anh,” Kawaminami gật đầu tạ lỗi. “Xin lỗi anh, tôi tới trễ.” “Hả?” Anh chủ nhà nghiêng đầu. “Không phải chúng ta hẹn 4 giờ à?” “Vâng.” “Thế thì có trễ đâu?” “Hả?” Lần này đến lượt Kawaminami nghiêng đầu. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt ra khỏi túi, “hơn 4 rưỡi rồi mà.” “Kì thật. Đồng hồ nhà tôi mới có 4 giờ thôi.” Có khi anh ta chưa tỉnh ngủ cũng nên. Chủ nhà đưa cặp mắt mơ màng về phía góc phòng, “Đó, cậu nhìn đồng hồ đi.” Một chiếc đồng hồ hình bát giác kiểu cổ treo trên tường phòng khách, kim giờ mới gần đến vị trí 4 giờ. “Gì vậy? Không phải nó chết rồi sao?” Nghe vậy, chủ nhà mới để ý. Anh đưa tay phải vò mớ tóc xoăn mềm mại, “Cũng có khi. Ghét thật, cái đồng hồ đó tôi mua ở tiệm đồ cổ đấy.” “Hèn gì…” “Chiều qua tôi mới lên dây cho nó. Chắc hỏng hóc ở đâu rồi cũng nên.” Anh lúc lắc đầu ra chiều đau khổ, rồi quay qua nở nụ cười vô tư lự với Kawaminami. “Mà thôi, cũng đâu có sao.” Đúng như dự đoán, anh chủ nhà, nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi, tên thật là Shimada Kiyoshi, lại bắt đầu cười vô tư, hệt như dáng vẻ ba năm về trước. “Cảm ơn cậu cất công tới đây hôm nay. Làm cậu bận tâm mất rồi. Vào nhà nói chuyện nào, Conan.” Kawaminami Takaaki gặp Shimada Kiyoshi lần đầu vào mùa xuân năm 1986, cụ thể là ngày 26 tháng Ba, đến giờ cậu vẫn còn nhớ. Năm đó cậu 21 tuổi, đang là sinh viên năm ba khoa Công nghệ trường Đại học K, tỉnh Oita vùng Kyushu. Mọi việc bắt đầu khi Kawaminami nhận được một bức thư đề tên người gửi là Nakamura Seiji. Nakamura Seiji là một kiến trúc sư nổi tiếng, vì muốn sống ẩn dật nên đã rời khỏi đất liền, tự mình xây dựng quần thể công trình kì lạ mang tên Lam Ốc và Thập Giác Quán chiếm phần lớn diện tích của Giác Đảo, một hòn đảo nhỏ thuộc vùng Kyushu và sống ở đó. Thế nhưng tháng Chín năm 1985, nửa năm trước khi Kawaminami nhận được thư, ông ta đã chết một cách bất thường. Vì muốn tìm hiểu lá thư bí ẩn này, Kawaminami đã đến nhà ông Nakamura Kojiro, em ruột ông Seiji. Chính tại đây, cậu gặp Shimada. Shimada là con trai thứ ba của một trụ trì. Anh có tính tò mò chằng kém gì Kawaminami. Nhác thấy bì thư đề tên ông Nakamura Seiji quá cố, anh liền tỏ ra quan tâm đặc biệt. Trong khi Shimada là người đam mê các thể loại tiểu thuyết trinh thám thì Kawaminami lại là thành viên của hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám ở trường đại học. Có lẽ đó là lý do khiến Shimada chú ý tới cậu. Mấy ngày sau đó, cả hai bắt tay vào tìm hiểu thư người chết cũng như điều tra thêm về cái chết của ông Seiji nửa năm trước đấy. Nói sơ qua thì kết cục là hai người đã tìm ra chân tướng của vụ giết người trên Giác Đảo mà nạn nhân chính là những người bạn thân thiết của Kawaminami. Tóm lại, vụ việc ba năm trước là vậy. Sau vụ việc trên đảo, cậu và Shimada tiếp tục gặp nhau vài lần nữa, nhưng rồi liên lạc thưa thớt dần đi. Một phần do Kawaminami phải dốc sức hoàn thành khóa luận tốt nghiệp cũng như kì thi đầu vào cao học. Lần cuối cùng hai người gặp nhau có lẽ là tháng Bảy năm đó. Về phần Shimada, sau vụ Thập Giác Quán anh thảnh thơi lang bạt nay đây mai đó, đụng hết vụ án này đến vụ án khác, thi thoảng mới liên lạc thông báo tình hình bản thân. Vào tháng Mười năm 1986, Shimada gọi điện báo cho Kawaminami biết anh có tham gia phá giải vụ án tại Thủy Xa Quán ở Okayama, một trong những công trình kiến trúc do Nakamura Seiji thiết kế. Kawaminami còn nhớ nỗi thôi thúc từ thảm sâu tâm khảm khiến cậu muốn gào lên ngắt lời anh, rằng cậu đã chịu quá đủ những chuyện máu me rồi. Tốt nghiệp đại học xong, Kawaminami học tiếp cao học Công nghệ. Cậu và Shimada bặt tin từ ấy. Hoàn tất chương trình đào tạo thạc sĩ hai năm, Kawaminami đến làm cho Kitansha, một trong những nhà xuất bản lớn ở Tokyo, bắt đầu từ tháng Tư năm nay. Rời khỏi Kyushu đã khá lâu rồi, một hôm cậu quyết định gọi đến nhà Shimada hỏi thăm tình hình thì mới hay anh đã chuyển nhà lên Tokyo từ năm ngoái, chưa hết, Shimada giờ còn là tác giả viết truyện trinh thám, bút danh Shishiya Kadomi. “Lúc đó tôi bất ngờ lắm. Không biết làm sao mà anh lại thành nhà văn.” Kawaminami vừa nói vừa ngồi xuống xô-pha trong phòng khách. Shimada hấp háy mắt tỏ vẻ ngại ngùng. “Tôi cũng bất ngờ. Dân công nghệ như cậu lại đầu quân cho ngành xuất bản, mà còn là chỗ nổi tiếng như Kitansha nữa.” “Tôi nộp thử thôi, không ngờ được nhận. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại trúng tuyển kìa… À nói ra khí muộn, nhưng tôi đọc Mê Lộ Quán rồi đấy. Biết tin cái là tôi tìm đọc ngay.” Mê Lộ Quán là tác phẩm đầu tay của nhà văn Shishiya Kadomi, xuất bản tháng Chín năm ngoái. Khi biết cuốn sách do Kitansha phát hành, Kawaminami kinh ngạc nhận ra cậu với Shimada đúng là có duyên nợ với nhau. “Tôi có gửi một quyển tặng cậu, nhưng do địa chỉ không rõ ràng nên bị gửi trả lại. Cậu đổi chỗ ở rồi à?” “Tôi vào cao học thì căn hộ đó cũng bị phá. Tôi quên nhờ bưu điện chuyển hộ thư tín sang địa chỉ mới nên sách của anh không tới được. Đáng lẽ tôi phải liên lạc với anh, nhưng lu bu chuyện này chuyện kia, thời gian trôi qua lúc nào không hay nữa. Tôi xin lỗi.” “Lỗi phải gì! Tôi cũng thế thôi. Lưỡng lự mãi rồi thành ra thế này.” “Nhưng mà…” “Dù sao thì hôm nay cậu cũng đã tới thăm tôi rồi. Còn gì phải phàn nàn nữa.” Shimada vừa nói vừa gật gù. Kawaminami nhận ra anh đang tỏ thái độ thông cảm với mình. Thâm tâm cậu luôn muốn quên đi những kí ức về vụ việc ba năm trước, nên cố cắm cúi vào khóa luận tốt nghiệp và kì thi cao học. Cậu lo là việc liên lạc với Shimada sẽ lại khiến mình nảy sinh những xúc cảm tiêu cực và sợ hãi. Cảm ơn anh, Kawaminami nghĩ, nhưng không nói ra. “À, anh Shimada này.” Tìm quanh bàn được chiếc gạt tàn đã cáu bẩn, Kawaminami châm thuốc hút. “Anh bỏ chùa mà đi thế có sao không?” Shimada đứng cạnh bếp, đang pha cà phê thì khựng lại, nhún vai hững hờ, “Cha tôi vẫn khỏe. Trước mắt vẫn đủ sức đảm đương vai trò trụ trì chứ chưa cần truyền cho thằng con lang bạt này.” “Anh đến Tokyo để tiện công việc à?” “Cũng không hẳn. Ở đây thì chắc chắn là tiện lợi nhiều mặt, nhưng đó không phải nguyên nhân chính của tôi.” “Thế ạ…” “Nói sao nhỉ, tôi muốn chiêm ngưỡng xem thành phố biến đổi ra sao vào những năm cuối thế kỉ 20. Cuộc sống nơi thôn quê rất lành mạnh, nhưng tẻ nhạt lắm.” “Dạ.” Con người này đúng là không thay đổi gì cả. Bước sang tuổi tứ tuần rồi mà suy nghĩ vẫn không chịu tương xứng với độ tuổi. Kawaminami chực hỏi anh đã nghĩ đến chuyện lập gia đình chưa, nhưng nhanh chóng từ bỏ ý định. Cậu dụi điếu thuốc vào gạt tàn, đảo mắt quan sát nhà cửa. Những tưởng nơi đây phải bừa bộn lắm, hóa ra lại rất gọn gàng sạch sẽ, chẳng giống nơi ở của một người đàn ông độc thân chút nào. Phòng khách rất rộng, sàn lát gỗ. “Căn hộ đẹp thật. Khu này chắc giá cao lắm phải không?” “Ừ, cũng tầm tầm.” “Tầm tầm là sao ạ?” “Chủ cư xá là người quen cũ của tôi. Thông cảm với chiếc ví lép kẹp của một cây viết mới tập tọng nên cho tôi thuê với giá khá rẻ.” “Có chuyện đó nữa à!” “Ừ, tôi từng ở đây hồi đại học rồi. Chủ nhà là con trai một gia đình giàu có. Chúng tôi cùng tuổi nên dễ bắt thân. Cư xá tên là Lục Trang.” “Chà. Hèn gì tên tiếng Anh là Green Heights.” “Ừm. Hắn ta thừa kế cư xá cũ, rồi phá đi xây cư xá này.” Kawaminami thình lình nhận ra ở góc bàn có món đồ là lạ. Một mô hình gấp giấy phức tạp màu đen. “Ác ma hở anh?” Kawaminami trỏ mô hình. “Ừ, nó đã xuất hiện trong Mê Lộ Quán. Cậu vẫn hứng thú với nghệ thuật xếp giấy chứ?” “Vẫn.” Shimada đặt tác phẩm xếp giấy lên lòng bàn tay. Từ tai, miệng, chân tay, đến cả đuôi và cánh, từng chi tiết một đều gắn kết với nhau hết sức chặt chẽ. “Mê Lộ Quán quả là nhận được sự ủng hộ ngoài mong đợi. Nguyên bản cách gấp ác ma là do tác giả của nó gửi thư chỉ cho tôi. Tôi đã đọc các tác phẩm của người ấy nên hiểu được đôi chút về nghệ thuật gấp giấy. Về sau tác giả lại chỉ thêm cho phiên bản ác ma cải tiến. Cậu nhìn chỗ này xem. Phiên bản ban đầu có năm ngón tay thôi.” Kawaminami nhón ác ma lên, ngắm nghía. Quả thật, so với nguyên tác năm ngón, bản cậu đang cầm trên tay có tới bảy ngón. “Ra đây chính là ác ma bảy ngón.” “Chắc cậu đọc KChildhood’s End của Arthur C. Clarke rồi. Overloads* cũng từ cuốn đó mà ra đấy.” Nhân vật người ngoài hành tinh trong Kết thúc ấu thơ, giúp ngăn chặn sự diệt vong của nhân loại. “Tuyệt thật. Mô hình này được gấp bằng đúng một tờ giấy thôi phải không anh, tôi không thấy mối ghép ở đâu cả.” “Ừ.” “Xếp giấy đúng là một nghệ thuật đòi hỏi sự tỉ mỉ tuyệt đối.” Cậu không nghĩ người như Shimada có thể tạo ra từng góc cạnh mô hình hoàn hảo thế này. Nội dung cuốn Mê Lộ Quán cậu đọc hai tuần trước dần dần tái hiện trong đầu. Cả chuyện cậu định nói với Shimada nữa, trên đường tới đây cậu đã suy đi tính lại mãi… Do dự một hồi, cậu quyết định, phải nói ra thôi. “Hừm, anh Shimada… à không, nên gọi là nhà văn Shishiya mới phải, vì dù sao thì hiện giờ tôi cũng là biên tập viên của Kitansha…” “Là gì cũng được, nhưng mà bỏ giùm tôi hai chữ ‘nhà văn’ đi.” “Vậy thì, anh Shishiya!” Kawaminami gọi, rồi dừng lại lấy hơi. “Kì thực tôi cũng không biết nói sao, nhưng mà đúng là có duyên!” “Có duyên? Duyên gì?” “À, chuyện là…” Kawaminami ngập ngừng, liếc mắt lên chiếc đồng hồ bát giác treo tường. Kim vẫn chỉ 4 giờ kém y như ban nãy. Cậu vươn tay kéo chiếc gạt tàn trên bàn lại gần hơn. “Anh biết Biệt thự Đồng Hồ ở Kamakura không?” “Biệt thự Đồng Hồ?” Phản ứng của Shimada Kiyoshi, hay Shishiya Kadomi, thật bất ngờ. Đôi chân mày rậm nhướng cao, mắt mở to nhìn Kawaminami, “Không lẽ…” “Vấn đề nằm ở chính mấy chữ ‘không lẽ’ ấy đấy!” Kawaminami đón ánh mắt Shimada. “Biệt thự còn có tên khác là Thời Kế Quán. Như tôi được biết, đó cũng là một trong những công trình do Nakamura Seiji thiết kế.” “Kể tôi nghe chi tiết hơn đi.” Shishiya Kadomi quay trở về bàn bếp, nhấc tách cà phê vừa pha máy xong, mang lại cho Kawaminami. “Cậu lấy thông tin ở đâu? Kiểu này chắc không phải một mình cậu điều tra rồi!? Nói gì thì nói, cậu hẳn không muốn dây vào những chuyện liên quan tới Nakamura Seiji nữa chứ nhỉ!” “Vâng.” Kawaminami ngậm điếu thuốc mới trên môi, “Chính vì thế, tôi mới nói là có duyên… À, tôi xin phép uống cà phê nhé.” Cậu cho thêm đường vào tách, khuấy đều, nhưng không quên dò xét biểu cảm trên mặt Shishiya! Anh đan hai tay sau đầu, mắt chăm chú nhìn cậu. “Chuyện này bẳt nguồn từ bộ phận tôi làm. Tôi có nói sơ qua trên điện thoại với anh rồi, hồi mùa xuân tôi vào làm tạp chí.” “À, ừ.” Shishiya mím cặp môi dày, gật đầu đồng tình. “Cậu làm biên tập cho CHAOS?” “Anh đọc CHAOS chưa?” “Đọc lướt thôi. Tôi không hứng thú với thể loại tạp chí ấy lẳm.” CHAOS là nguyệt san của Kitansha, ra đời ba năm về trước. Tạp chí lấy tiêu chí “ultra science*”, chủ yếu viết về các chủ đề liên quan đến tâm linh như siêu năng lực, UFO hay những hiện tượng kì bí. Đối tượng độc giả từ 15 đến 20 tuổi. Lúc mới phát hành, tạp chí rất được giới trẻ ưa thích, nhưng sau một thời gian không có thêm bài vở gì mới lạ, giờ chỉ xuất bản cầm chừng thôi. Siêu khoa học. “Ở ban biên tập của CHAOS, tôi đảm nhận phần dự án đặc biệt. Một trong số đó là ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’.” “Hồn ma à…” Shishiya nhún vai, xoa xoa cặp má hóp. “Có ma thật không?” “Hồi trước có, tôi không rõ chi tiết, nhưng người quanh vùng đều nói thế.” Kawaminami trả lời. “Chủ sở sở hữu biệt thự vốn là ông Koga Michinori, qua đời cách đây chín năm. Trước và sau thời điểm ấy, rất nhiều người trong nhà theo nhau mất mạng. Hiện nay dân trong vùng kháo nhau rằng có một thiếu nữ cứ đi thơ thẩn ở khu rừng gần biệt thự, hình như chính là hồn ma con gái ông Koga Michinori…” “Koga Michinori?! Tôi nghe thấy cái tên này ở đâu rồi thì phải.” “Là người nổi tiếng đấy. Ông là cựu chủ tịch của công ty thuộc hàng nhất nhì trong ngành sản xuất đồng hồ mà.” “À, ra thế. Hóa ra là chủ tịch Koga Michinori của Công ty Đồng hồ Koga. Sau đó lại xây nên Biệt thự Đồng Hồ… Thời Kế Quán hả?” “Nghe bảo công trình kì lạ lẳm. Có tháp đồng hồ khá độc đáo, cấu trúc các phòng rất phức tạp, trong nhà bày đầy đồng hồ cổ.” “Ồ!” Shishiya khe khẽ thốt, mắt dừng ở chiếc đồng hồ bát giác không còn chạy trên tường. Kawaminami tiếp tục, “Công trình kì lạ! Thoáng nghe mấy chữ này tôi đã nghĩ ngay, phải chăng lại liên quan đến ông ta? Bèn hỏi thử phó chủ biên xem sao. Trúng phóc, kiến trúc sư công trình là Nakamura.” “Ra vậy! Đúng là có duyên thật. Conan, cậu cho tôi điếu thuốc!” “Mời anh.” Shishiya rút điếu thuốc ra khỏi bao, lẩm nhẩm, “Điếu cho hôm nay,” rồi châm lửa. Phổi Shishiya vốn rất yếu, vào lần gặp cách đây ba năm, anh từng tuyên bố với Kawaminami rằng đã quyết định mỗi ngày chỉ hút một điếu thuốc thôi. Có thể thấy anh vẫn tuân thủ đúng nguyên tắc đó. “Hừm, dự án đặc biệt của cậu cụ thể ra sao?” Shishiya nhẩn nha nhả khói. “Dự án đó… bảo là thú vị thì cũng thú vị đấy…” Kawaminami bối rối nhìn về phía hành lang dẫn ra cửa chính. “Có chuyện gì khó nói à?” Nghe hỏi, cậu lắc đâu “Dạ không,” chuyển hướng nhìn về lại chỗ cũ, “Mà, anh Shima… à không, anh Shishiya…” “Gọi không thuận miệng nhỉ?” “Không sao ạ. Nãy giờ cũng thuận rồi.” “Có gì đâu, nếu không quen thì không cần gọi thế.” “Không được. Bút danh là để xác nhận danh phận nhà văn của anh mà… Anh Shishiya, căn 408 ở sát vách căn anh phải không?” “Đúng, đây là căn 409 mà.” “Người ở căn đó, anh biết không?” “Căn sát vách á?” Shishiya chớp mắt nghi hoặc. “Biết, cô Komyoji.” “Komyoji Mikoto.” Kawaminami đọc ra cả họ và tên. “Nghe cái tên anh không cảm thấy gì à?” “Cảm thấy gì?” Shishiya ngửa cổ ra sau. “Ý cậu là người nổi tiếng?” “Vâng, cũng có thể nói là người nổi tiếng. Gần đây chị ấy hay xuất hiện trên ti-vi lắm.” “Tôi không mấy khi xem ti-vi. Nghệ sĩ à?” “Không phải nghệ sĩ.” Kawaminami mường tượng lại khuôn mặt người phụ nữ. “Chị ấy là người có khả năng tâm linh, danh tiếng đang lên.” “Có khả năng tâm linh?” Shishiya mở to mắt ngạc nhiên. “Thật á?” “Một nhà ngoại cảm có linh lực mạnh hiếm thấy, lại xinh đẹp nên rất được chú ý. Bên tôi đăng vài bài về chị ấy rồi, ban nãy vừa chạm mặt dưới nhà là tôi nhận ra ngay.” “Trông không có vẻ sở hữu linh lực đặc biệt gì. Thinh thoảng giáp mặt ngoài hành lang tôi chỉ xã giao đôi câu thôi.” “Komyoji xuất hiện trên ti-vi thì toàn mặc đồ đen, mặt mày trang điểm trắng toát như người chết, chắc để tạo bầu không khí ra vẻ thần bí.” “Mà về các hiện tượng siêu nhiên thì quan điểm của cậu như thế nào, tin hay không tin?” “Hồi xưa thì tôi hoàn toàn phản đối mấy chuyện như thế. Nhưng từ ngày làm báo, đọc nhiều tài liệu và bằng chứng, ít nhiều tôi cũng tin là có… Tuy nhiên, chín phần mười bài vở trên báo đều là chuyện bịa.” “Một phần còn lại thì chẳc là chuyện thật hả?” “Có thể nói thế.” “Về linh lực của cô Komyoji, cậu nghĩ sao?” “Tôi cũng không biết nói thế nào… Chị ấy sống một mình ạ?” “Hình như thế. Thi thoảng tôi bắt gặp một người trông cũng có địa vị đi cùng cô ấy.” “Vậy ạ?” “Ừ, mấy lần rồi. Đại khái là một người đàn ông lớn tuổi, nhưng không có vẻ là cha cô ta, chưa chừng lại là bồ bịch cũng nên. Nhà ngoại cảm đi nữa thì cũng vẫn là con người thôi. Đúng không, Conan?” “À vâng… Mà chính vì thế…” Shishiya dụi phần tàn thuốc vào gạt tàn, chờ xem cậu nói gì tiếp theo. “Mấu chốt là ở chỗ, để chứng minh vụ ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’ là thật, ban biên tập CHAOS đã quyết định đề cử người đẹp tâm linh Komyoji làm trưởng nhóm lần này.” “Ồ, thế hả?” Vẫn cái vẻ đó, Kawaminami nghĩ thầm, rồi nhún vai, “Vậy nên ban nãy tôi mới bất ngờ. Tôi đâu nghĩ chị Komyoji ở tòa nhà này, lại còn ở sát vách anh.” “Ra là thế. Đúng là trùng hợp đến giật mình.” Shishiya cười híp mắt. “Nhưng mà, đôi khi nguồn gốc của nhiều việc đều có liên quan đến nhau cả. Mà bao nhiêu chi tiết ngẫu nhiên trùng hợp thế này thì nhất định là sẽ có chuyện gì đó cho mà xem.” “Nhất định sẽ… có chuyện gì đó…” “Nghe mù mờ nhỉ, không được khoa học cho lắm.” “Nội dung kế hoạch bên tôi đại khái như sau.” Kawaminami tiếp tục. “Từ đêm 30 tháng này, nhóm thực địa sẽ giam mình ở Thời Kế Quán trong ba ngày liên tục. Chị Komyoji với vai trò người gọi hồn sẽ giúp chúng tôi liên lạc với hồn ma đang ngụ trong biệt thự.” “Chắc cậu cũng nằm trong nhóm thực địa phải không?” “Vâng. Thành viên gồm tôi, phó chủ biên, phóng viên ảnh, ngoài ra còn vài sinh viên trong Hội Mystery của Đại học W. “Trinh thám à?” “Không phải trinh thám đâu. Tên hội này hình như là ‘Hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí’ nên gọi tắt là Hội Mystery luôn.” “Hầy. Dễ nhầm thật!” “Nghe ‘huyền bí’ chắc mọi người sẽ nghĩ ngay đến người ngoài hành tinh hay UFO. Thật ra chính tôi vẫn luôn nghi hoặc, phải chăng do hiểu lầm này mà tôi mới bị điều đến ban biên tập CHAOS.” “Chắc không đến nỗi chứ…” Shishiya ngả mình ra sau. “Nhốt mình trong ngôi nhà đó hẳn ba ngày? Chà. Chắc sẽ không chịu được đâu.” “Anh nghĩ vậy à?” “Tôi cứ có cảm giác lợn cợn. Nhà ma bình thường thì đã đành, nhưng đây lại còn là một trong những công trình của Nakamura Seiji…” Nhìn vào khuôn mặt băn khoăn của anh nhà văn, Kawaminami hỏi, “Anh cho rằng sẽ xảy ra chuyện gì bất trắc à?” “Ừ… à không. Nói thế thì vô căn cứ quá. Thôi, coi như tôi thần hồn nát thần tính đi.” Shishiya bật cười, nhưng chân mày vẫn nhíu lại. Thập Giác Quán, Thủy Xa Quán, rồi Mê Lộ Quán… cứ điểm qua số thảm án đã xảy ra tại các công trình của Nakamura Seiji thì đủ biết nỗi lo của anh không phải không có lý. “Thời Kế Quán ấy, cậu có tìm hiểu được thông tin gì chi tiết hơn không?” Shishiya hỏi. Như muốn xua đi nỗi ưu tư đang từ từ cuộn lên quấn lấy tâm khảm, Kawaminami lắc đầu thật mạnh, “Chưa có ạ.” “Thế hả? Dù sao thì cũng cứ cẩn thận nhé. Nếu được thì tôi cũng muốn đi cùng. Ngày 30, hai tuần nữa nhỉ?” “Lúc đó anh có bận không?” “Cuốn đang viết hạn chót là mười ngày nữa. Nếu hoàn thành kịp, thì không bận.” Nhìn thái độ không chắc chắn của Shishiya, đủ biết bản thảo đang tiến hành không mấy suôn sẻ. “Thôi tôi cứ về hỏi thăm sếp xem số người tham gia tăng lên có sao không. Nếu không sao thì anh nhập hội nhé.” “Thôi khỏi. Nếu rảnh tôi muốn đi một mình thử coi. Đã là công trình của Nakamura Seiji thì nhất định phải thu xếp đến chiêm ngưỡng.” Nói xong, Shishiya giơ hai tay vươn vai, đứng bật dậy khỏi ghế. “À này, Conan. Gần đây có quán điểm tâm cũng yên tĩnh, đi với tôi ra đấy đi. Từ lúc ngủ dậy tới giờ tôi chưa có gì bỏ bụng. Sẵn tiện hai năm nay bặt vô âm tín rồi, nên tôi cũng có nhiều chuyện muốn hỏi đây.” Chủ nhật, ngày 16 tháng Bảy năm 1989. Bên ngoài, cơn mưa cuối mùa vẫn rả rích rơi. Những lời đầy ẩn ý của Shishiya khuấy động cảm giác bất an mơ hồ trong lòng Kawaminami, nhưng vào thời điểm ấy, cậu vẫn chưa ngờ được rằng chỉ hai tuần sau, trong chuyến viếng thăm Thời Kế Quán, cậu sẽ rơi vào một cơn ác mộng kinh hoàng. Mời các bạn đón đọc Thời Kế Quán của tác giả Yukito Ayatsuji & Hải Yến (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hơi Thở Cuối Cùng
Review godylevol: Điểm: 7/10 Thứ tự đọc các cuốn trinh thám của Robert Dugoni (đã dịch sang tiếng Việt) là Căn Hầm Tối, Hơi Thở Cuối Cùng, Trảng Đất Trống, Mắc Kẹt, nhưng Biển thì đọc lung tung tùy hứng, sau khi đọc hết mấy cuốn kia thì đến giờ mới đọc Hơi Thở Cuối Cùng. Trong quyển “Căn Hầm Tối” có đề cập một chút đến vụ án cô vũ công Nicole Hansen, vốn được phân công cho phòng ban của Tracy Crosswhite. Khi Tracy trở về Cedar Grove để điều tra lại vụ mất tích của cô em gái Sarah Crosswhite thì vụ án Nicole được xếp vào nhóm hồ sơ tồn đọng. Trong quyển “Hơi Thở Cuối Cùng”, tác giả đưa người đọc trở lại với vụ án sát hại Nicole Hansen cùng hàng loạt những vũ công khác. Tất cả họ đều bị tra tấn một cách tàn nhẫn trước khi chết: tay chân bị trói ngược ra sau và tròng một vòng dây thòng lọng quanh cổ, khi họ không chịu nổi nữa và duỗi chân ra thì thòng lọng sẽ siết chặt khiến họ nghẹt thở chết. Chưa hết, tên sát nhân – được nhóm điều tra đặt cho biệt danh Cao Bồi – còn dụi thuốc lá cháy đỏ vào lòng bàn chân các vũ công. Trong lúc toàn bộ phòng điều tra của Tracy làm việc cật lực và nghiêm túc để sớm bắt Cao Bồi, ngăn chặn các hành vi sát nhân tàn ác của hắn, thì ông sếp Johnny Nolassco vẫn là một kẻ tiểu nhân thảm hại như mọi khi, vừa cố dìm hàng Tracy vừa bán tin tức cho giới truyền thông để gây khó dễ cho công tác điều tra. Rất may, Tracy nhận được sự giúp đỡ đắc lực từ chàng luật sư Daniel O’Leary – là bạn thời thơ ấu và là người yêu hiện tại của cô. Do thiết kế bìa sách và tựa sách có vẻ không hấp dẫn lắm nên Biển để dành cuốn này khá lâu và đọc nó sau cùng trong loạt truyện của Robert Dugoni. Câu chuyện không có nhiều khoảnh khắc vỡ ra sự thật đau lòng như trong cuốn “Trảng Đất Trống”, không có những cảnh tranh cãi ấn tượng của Daniel O’Leary ở tòa án như trong cuốn “Căn Hầm Tối”, nhưng “Hơi Thở Cuối Cùng” vẫn là một truyện được tác giả viết khá chắc tay, tình tiết thống nhất với những quyển khác trong cùng loạt sách về Tracy Crosswhite. Có một điều chưa thỏa mãn là trong quyển này chàng luật sư Dan ít đất diễn, chỉ được khắc họa hình ảnh như một người đàn ông gần như hoàn hảo, vừa giúp đỡ Tracy trong việc điều tra vừa nấu cho cô ấy những bữa ăn ngon. Biển còn chủ quan cho rằng có một chi tiết tác giả đã dìm hàng anh Dan: nhập mã số mở khóa cửa nhà mà không che lại, khiến người khác quan sát được qua ống nhòm. Biển bỏ qua hoàn toàn những đoạn giữa ông sếp Johnny Nolassco và cô phóng viên Maria Vanpelt, vì không đọc cũng chẳng ảnh hưởng đến việc hiểu cốt truyện. Phần kết thúc truyện có chút vô lý nhưng có lẽ diễn biến như thế là sát với thực tế, không quá ảo, tuy nhiên kết như vậy khiến Biển không thỏa mãn chút nào. Cuộc đời là thế chăng, người vô tội thì chết còn những thể loại phản diện vẫn sống trơ trơ để làm khổ kẻ khác, có lẽ phải trải qua đau thương thì người ta mới biết giá trị của hạnh phúc, phải trải qua khó chịu thì mới biết giá trị của thoải mái! Cá nhân Biển cho rằng quyển “Hơi Thở Cuối Cùng” không xuất sắc lắm, đọc tạm được. Nghe đồn Đinh Tị sẽ xuất bản thêm một cuốn nữa của Robert Dugoni, hy vọng đó sẽ là một câu chuyện máu lửa bùng cháy, đem lại ấn tượng sâu đậm khó quên cho độc giả (khó tính như Biển). *** Review Binh Boog:   Tiếp theo Căn Hầm Tối, Hơi Thở Cuối Cùng nằm trong hành trình phá án tiếp theo của nữ cảnh sát xinh đẹp Tracy Crosswhite và đồng đội. Nạn nhân lần này là những vũ nữ thoát y ở các câu lạc bộ đêm. Họ bị sát hại một cách rất tinh vi và man rợ: bị siết cổ, tay chân bị trói quặt ra đằng sau như trói lợn. Những nạn nhân về sau còn thêm cả vết bỏng do thuốc lá châm vào. Một tên tội phạm nguy hiểm, tâm lý biến thái không được ổn định nhưng hết sức tinh vi khi không để lại bất cứ một dấu vết nào. Một tác phẩm trinh thám để lại rất nhiều suy nghĩ. Con đường mà những nạn nhân trở thành vũ nữ thoát y gây nhiều trăn trở. Có người thì do có quá nhiều các hoá đơn thanh toán phải trả trong khi công việc ban ngày là làm kế toán không đủ để chi trả thì tiền boa khi múa có thể đáp ứng được điều đó. Có người chỉ vì bị bố dượng lạm dụng đã phải bỏ nhà ra đi, lại gặp phải người bạn trai cặn bã nghiện ngập, đánh đập rồi vòi tiền mà đi vào con đường đó. Con đường trở thành tên tội phạm thần kinh điên khùng cũng là một điều đáng suy ngẫm. Bị ám ảnh tổn thương từ bé khi chứng kiến mẹ đưa đàn ông về nhà rồi nghe thấy những thứ không muốn nghe. Cộng thêm sự thất bại trong cuộc sống khi không thể vươn lên được do không biết đường luồn cúi, nịnh nọt. Có lẽ chính cái mặt trái của gia đình và xã hội đã tạo nên một con quỷ, một thứ rác rưởi bệnh hoạn. Một vấn đề nữa đó là vấn đề án oan. Sự quan liêu, bệnh thành tích hay áp lực của xã hội cho ngành cảnh sát đã biến một số người trong ngành vì thành tích hay do áp lực đã vội vàng tìm ra một hung thủ trong khi không tìm hiểu sâu sắc, cặn kẽ vụ án. Điều đó đã đưa một người không phải là hung thủ vào khám ngồi trong khi hung thủ thực sự vẫn đang ở ngoài kia tiếp tục gây án. Sự bất cẩn, chèn ép nhau trong chính nội bộ của ngành cảnh sát. Cũng không biết đây đã là tác phẩm viết xuất sắc nhất của Robert Dugoni về mảng trinh thám pháp đình chưa nhưng vẫn mong Đinh Tỵ tiếp tục làm nốt các tác phẩm cùng series này. *** Bộ sách Tracy Crosswhite gồm có: Căn Hầm Tối Hơi Thở Cuối Cùng Trảng Đất Trống Mắc Kẹt Cận Kề Tổ Ấm *** Robert Vincent Dugoni là một tác giả người Mỹ hiện đang sống ở Seattle, Washington. Tiểu thuyết của ông đã giành được những vị trí trên New York Times, Wall Street Journal, BookSense và danh sách bán chạy nhất của Amazon. Chúng được bán trên toàn thế giới tại hơn 25 quốc gia. Tác giả Robert Dugoni khởi đầu trong mảng truyện trinh thám khá muộn (mãi 43 tuổi mới bắt đầu viết sách, còn trước đó ông làm phóng viên và luật sư thực tập), nhưng đã chứng minh cho độc giả thấy ‘gừng càng già càng cay’ là có thật. Tác phẩm ký sự đầu tay của ông viết về điều tra bất công, The Cyanide Canary, đã được bình chọn là cuốn sách phi hư cấu hay nhất năm 2004 của tờ Washington Post. 10 năm sau, ông trở lại với đề tài này một lần nữa thông qua nhân vật nữ cảnh sát Tracy Crosswhite trong cuốn Căn hầm tối. ***   Tracy Crosswhite dõi theo chiếc minivan lái vào bãi đỗ, để ý thấy có ghế trẻ em nằm ở băng ghế sau cùng tấm bảng màu vàng ‘Có Trẻ Nhỏ Trong Xe’ treo lủng lẳng trên cửa sổ. Người phụ nữ mặc chiếc áo chống đạn màu đen, quần bò xanh cùng chiếc mũ bóng chày của đội Seattle Mariners bước ra khỏi xe. “Điều tra viên Crosswhite?” Tracy bắt tay người phụ nữ và nhận ra bàn tay cô ta thật nhỏ nhắn và mềm mại. “Cứ gọi chị là Tracy. Em là cảnh sát viên Pryor?” “Katie thôi. Em thực sự đánh giá cao điều này. Em xin lỗi vì khiến chị mất thêm thời gian sau giờ làm việc.” “Không sao. Việc giảng dạy giúp chị mài giũa kĩ năng. Em có kính và chụp tai chưa?” “Em định đi mượn thôi.” Tracy không nghĩ Pryor là kiểu người sẽ trang bị những thứ đó cho mình. “Vậy thì đi kiếm cho em thôi nào.” Cô dẫn Pryor vào tòa nhà thấp kiên cố, văn phòng của Hiệp hội Thể thao Cảnh sát Seattle. Giống như phần lớn các trường bắn, nó nằm ở một vị trí biệt lập, cuối con đường nhỏ trong khu công nghiệp cách trung tâm thành phố Seattle khoảng hai mươi phút lái xe về phía nam. Người đàn ông đứng sau quầy chào Tracy bằng tên, và Tracy giới thiệu: “Virgil, đây là cảnh sát viên Pryor. Cô ấy sẽ cần kính và chụp tai. Chúng tôi cũng cần một tấm bia tập bắn, vài hộp đạn và một cuộn giấy dán.” “Đào tạo cho kỳ thi sát hạch à? Còn vài tuần nữa thôi nhỉ?” Virgil mỉm cười với Pryor. “Cô có một người thầy giỏi đấy!” Anh ta lôi mấy hộp đạn cùng kính bảo hộ khỏi giá để đồ và những cái móc phía sau quầy. “Chúng tôi đang cố gắng thuyết phục Tracy về đây hẳn để đào tạo người mới. Ý cô thế nào, Tracy?” “Vẫn như cũ thôi, Virgil. Khi nào người ta ngừng giết hại lẫn nhau thì tôi sẽ về.” “Phải rồi, khi mặt trời mọc ở đằng tây.” Virgil nhìn quanh quầy. “Tôi phải đi lấy giấy dán ở đằng sau.” Khi Virgil rời đi, Pryor hỏi: “Sao chúng ta lại cần đến giấy dán?” “Để che các lỗ hổng trên bia bắn của em.” “Em chưa bao giờ thấy chuyện đó.” “Em cũng chưa bao giờ bắn nhiều như em sắp bắn đâu.” Virgil quay trở lại và đưa Tracy một cuộn giấy dán màu xanh. Cô cảm ơn anh ta và đưa Pryor ra ngoài. “Theo chị nào.” Cô nói và ngồi vào buồng lái chiếc xe bán tải Ford F—150 đời 1973 của mình. Cô đã bán chiếc Subaru sau khi trở về từ Cedar Grove. Cô có đủ tiền để mua một chiếc xe mới, nhưng xe tải đời cũ hợp với cô hơn. Mất vài phút để làm nóng động cơ, đặc biệt là vào những buổi sáng trời lạnh, thân xe cũng có vài vết lõm và xước, nhưng tổng thể thì nó trông không tệ như số tuổi của mình. Bên cạnh đó, chiếc xe này làm Tracy nhớ đến chiếc xe tải mà bố cô từng lái đến các cuộc thi bắn súng khi cô cùng em gái Sarah vẫn còn là những đứa trẻ. Đi được gần hai trăm mét xuôi theo con đường đầy ổ gà, Tracy đỗ xe gần lối vào khu huấn luyện của cảnh sát Seattle. Cô nhận ra tiếng pốp pốp quen thuộc của những cú xả súng và tiếng sủa của những con chó to. Cô không biết tên ngốc nào ra quyết định đặt chuồng nuôi chó nghiệp vụ K-9 liền kề khu tập bắn, nhưng cô cảm thấy thương hại lũ chó và bất cứ ai phải nghe tiếng chúng sủa nhiều hơn một phút. Khu tập bắn nằm phía trong cánh cổng bao quanh bởi dãy hàng rào mắt cáo cao gần hai mét rưỡi cùng một đường dây thép gai giăng ngang trên đỉnh. Tracy hà hơi vào hai lòng bàn tay cho ấm trong khi chờ Pryor. Đây là kiểu thời tiết điển hình của một buổi tối tháng Ba, lạnh và có mưa phùn. Hoàn hảo cho mục đích đào tạo. “Chúng ta nên bắt đầu thế nào đây?” Pryor hỏi. “Em bắn. Chị xem.” Tracy nói. Mười lăm tấm ván gỗ ép chi chít lỗ đạn, hay còn gọi là đích ngắm, treo trên một khung treo kim loại đặt dọc theo sườn đồi dốc. Tracy chọn đích ngắm xa nhất phía bên trái, gần khu chuồng chó nhưng cách xa hai người đàn ông đang tập bắn ở khu vực cánh phải của dãy. Cô nói to át tiếng chó sủa và tiếng đạn nổ dội lại từ chỗ các tay súng: “Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc ngắm bắn đã nhé, cách mục tiêu ba mét, bắn bốn phát trong ba giây. Hai viên trúng thân, hai viên vào đầu.” “Đã rõ!” Pryor nói. Mời các bạn đón đọc Hơi Thở Cuối Cùng của tác giả Robert Dugoni.
Căn Hầm Tối
Vào một đêm mưa gió, cô gái trẻ Sarah Crosswhite bị mất tích khi đang trên đường lái xe về nhà sau cuộc thi bắn súng. Hung thủ nhanh chóng bị bắt và bị kết án. Đó là một kẻ từng có tiền án bắt cóc và cưỡng bức phụ nữ. Tuy nhiên hắn kiên quyết không chịu nhận tội đã bắt cóc và sát hại Sarah, cũng như không chịu khai mình giấu xác Sarah ở đâu. Khi đã bị tống vào tù, hắn vẫn liên tục kêu oan. Chị gái của Sarah là Tracy Crosswhite cũng nhận thấy vụ xét xử này diễn ra quá vội vàng và có nhiều điểm đáng ngờ: luật sư bào chữa không làm việc tận tâm, lời khai của nhân chứng không đủ sức thuyết phục, vật chứng thu được tại nhà của nghi phạm không phải là những món đồ mà em gái cô đeo trên người vào hôm cô gái mất tích… Nhưng những thắc mắc của cô đều bị gạt đi. Vì không muốn một người mà cô nghĩ là vô tội bị bắt oan uổng trong khi hung thủ thật sự vẫn còn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, Tracy bèn từ bỏ công việc mơ ước để thi vào Học viện Cảnh sát, quyết tâm trở thành một điều tra viên để lật lại vụ án của em gái. *** Căn hầm tối là tập sách đầu tiên trong loạt truyện về nữ điều tra viên Tracy Crosswhite của nhà văn Robert Dugoni. Cuốn sách mở ra một thực trạng nhức nhối nhất trong hệ thống pháp lý của Mỹ nói riêng và của toàn bộ các nước trên thế giới nói chung. Thứ nguy hiểm nhất đã trói buộc biết bao con người vô tội trong tù đày lại chính là sự vô tâm của các nhân viên điều tra, hiểu biết thường thức của con người và những kẽ hở pháp lý. Đúng theo kiểu thà giết nhầm còn hơn bỏ sót, cảnh sát chấp nhận bắt nhầm người còn hơn là để những người bị coi là nguy hiểm tự do ngoài xã hội. Cuốn sách này khiến mình nhớ đến bộ phim nổi tiếng của Mỹ 12 Angry Men, một trong 100 bộ phim hay nhất mọi thời đại và cũng là bộ phim mình vô cùng yêu thích. Trong 12 Angry Men, một người đàn ông đã khiến 11 thành viên còn lại trong bồi thẩm đoàn phải suy xét lại tội trạng của một thanh niên gán mác hư hỏng sau khi bỏ phiếu ‘vô tội’ duy nhất so với 11 phiếu ‘có tội’. Còn trong Căn hầm tối, tác giả đã miêu tả lại một cách vô cùng thành công cách một phiên tòa ‘đặc biệt’ diễn ra như thế nào. Từ một người bị kết án hoàn toàn với tội danh bắt cóc với gần 20 năm ngồi tù, Tracy Crosswhite đã tìm ra bằng chứng và thuyết phục được tất cả những người trong phòng phán xử khi ấy phải công nhận rằng, mọi chứng cớ buộc tội anh ta đều không xác đáng! *** Bộ sách Tracy Crosswhite gồm có: Căn Hầm Tối Hơi Thở Cuối Cùng Trảng Đất Trống Mắc Kẹt Cận Kề Tổ Ấm *** Robert Vincent Dugoni là một tác giả người Mỹ hiện đang sống ở Seattle, Washington. Tiểu thuyết của ông đã giành được những vị trí trên New York Times, Wall Street Journal, BookSense và danh sách bán chạy nhất của Amazon. Chúng được bán trên toàn thế giới tại hơn 25 quốc gia. Tác giả Robert Dugoni khởi đầu trong mảng truyện trinh thám khá muộn (mãi 43 tuổi mới bắt đầu viết sách, còn trước đó ông làm phóng viên và luật sư thực tập), nhưng đã chứng minh cho độc giả thấy ‘gừng càng già càng cay’ là có thật. Tác phẩm ký sự đầu tay của ông viết về điều tra bất công, The Cyanide Canary, đã được bình chọn là cuốn sách phi hư cấu hay nhất năm 2004 của tờ Washington Post. 10 năm sau, ông trở lại với đề tài này một lần nữa thông qua nhân vật nữ cảnh sát Tracy Crosswhite trong cuốn Căn hầm tối. *** Giáo viên bộ môn Chiến thuật tại Học viện Cảnh sát vẫn thường khiêu khích các học viên vào mỗi buổi tập lúc sáng sớm. “Giấc ngủ là thứ được đề cao quá mức.” Ông ta nói. “Các cô các cậu sẽ học cách sống thiếu nó.” Ông ta đã nói dối. Giấc ngủ cũng giống như tình dục vậy. Càng thiếu, người ta lại càng thèm. Mà dạo gần đây, Tracy Crosswhite bị thiếu cả hai thứ đó. Cô vươn vai và cổ. Toàn thân cô cứng đờ và uể oải. Cô chẳng thể dành ra thời gian để chạy bộ vào buổi sáng, cũng chẳng nhớ nổi mình đã được ngủ trong bao lâu. Bác sĩ nói cô ăn quá nhiều đồ ăn nhanh và uống quá nhiều caffein. Lời khuyên của bác sĩ tốt thật đấy, nhưng mỗi khi Tracy phải điều tra một vụ án mạng thì lấy đâu ra thời gian để tập thể dục và ăn uống điều độ bây giờ? Nếu mà phải bỏ caffein nữa thì cô chẳng khác gì một cái xe hết xăng. Cô sẽ chết mất nếu thiếu caffein. “Ồ, Giáo sư lại đến sớm kìa! Vừa có ai chết à?” Vic Fazzio tựa vòng eo đáng nể của mình vào bàn làm việc của Tracy. Câu nói đùa của Faz tuy chẳng mới mẻ gì nhưng không bao giờ nhàm chán khi được nói ra bằng chất giọng New Jersey khàn khàn ấy. Với mái tóc muối tiêu vuốt ngược ra sau, thân hình ngổn ngộn thịt, người đàn ông tự xưng là Italian Gumba Anh bạn người Ý của đội điều tra án mạng chắc chắn giành được vai diễn gã vệ sĩ thầm lặng trong một bộ phim về mafia. Faz đang cầm trên tay một quyển sách mượn từ thư viện và ô chữ của tờ Thời báo New York. Điều đó có nghĩa là cà phê đã bắt đầu ngấm. Faz khá nổi tiếng với việc ngồi lì ít nhất nửa tiếng trong nhà vệ sinh mỗi khi giải ô chữ hoặc đọc một chương sách hấp dẫn. Chúa cứu rỗi những ai phải vào nhà vệ sinh lúc ông đang ở trong đó. Tracy đưa cho ông một xấp hình chụp hiện trường mà cô đã in ra sáng nay. “Một vũ công trên phố Aurora.” “Tôi có nghe qua. Lại mấy trò biến thái đó hả?” “Tôi đã từng chứng kiến hiện trường những vụ án tình dục tệ hơn thế này.” Cô nói. “À, tôi quên mất. Cô đánh đổi chuyện chăn gối của mình để có thời gian chạy theo mấy vụ án mạng.” “Dù sao án mạng vẫn dễ thở hơn.” Cô đáp gọn, cướp luôn câu chốt của Faz. Cô vũ công, Nicole Hansen, được tìm thấy trong tình trạng bị trói tay chân trong một căn nhà nghỉ rẻ tiền tại khu phố Aurora. Một đầu dây thòng lọng buộc vào cổ cô ta, đầu còn lại chạy dọc theo sống lưng, trói vào cổ tay và cổ chân. Một sự chuẩn bị rất công phu! Tracy đưa cho Faz báo cáo giám định pháp y. “Cô ta bị chuột rút khiến các cơ co thắt lại. Khi đó, cô ta duỗi chân ra cho đỡ đau, và đã vô tình tự thắt cổ chính mình. Nghe tuyệt vời chứ hả?” Faz xem xét bức hình một cách tỉ mỉ. “Cô không nghĩ rằng họ có thể lợi dụng một cái nút tuột hay gì đó để thoát ra ư?” “Như thế sẽ rất lôgic, phải không?” “Vậy giả thuyết của cô là gì? Có kẻ đã ở đó và vui vẻ nhìn cô ta chết?” “Cũng có thể chúng làm hỏng chuyện, hoảng quá nên chạy trốn. Nhưng dù thế nào thì cô ta cũng không thế tự trói mình được.” “Biết đâu cô ta làm được thì sao. Giống như Houdini ấy.” “Houdini chỉ tự cởi trói chứ không tự trói mình. Đó là trò ảo thuật, Faz à!” Tracy lấy lại bản báo cáo cùng những tấm hình từ tay Faz rồi đặt lên bàn làm việc. “Chính vì vụ này mà tôi mới đang ngồi đây vào cái giờ dở hơi này, chỉ có tôi, anh và những con dế.” “Tôi và những con dế đã ở đây từ lúc năm giờ, Giáo sư à! Cô biết điều mà người ta vẫn nói đó. Chim đến sớm thì bắt được sâu.” “Vâng, con chim đến sớm này đã mệt đến mức còn chẳng biết có con sâu nào bò lên và cắn vào mông nó nữa kìa.” “Thế Kins đâu rồi? Sao anh ta để cô tận hưởng mọi thứ một mình thế này?” Cô nhìn đồng hồ. “Tốt hơn hết là anh ta nên mua cho tôi một cốc cà phê, nhưng với tình hình này, chắc tôi sẽ phải tự đi pha rồi.” Cô gật đầu khi nhìn thấy quyển sách Faz đang cầm. “Giết con chim nhại To kill a mockingbird à? Ấn tượng đấy!” “Tôi đang cố gắng tự hoàn thiện bản thân.” “Vợ anh chọn sách cho anh phải không?” “Chuẩn đấy!” Faz tự đẩy tấm thân mình ra khỏi cạnh bàn. “Đã đến giờ tôi phải dùng đến trí óc rồi. Con chim nhại đang hót, và tôi thì đang thấm từng chữ.” “Anh nói nhiều quá đây, Faz!” Faz đi ra rồi lại quay lại cùng cây bút chì trên tay. “Này Giáo sư, giúp tôi với! Tôi cần một từ có chín chữ cái để trả lời cho câu ‘Cái gì làm cho khí đốt trở nên an toàn?’” Tracy từng là giáo viên dạy môn Hóa ở trường trung học trước khi đổi nghề và đăng ký vào Học viện Cảnh sát. Biệt danh của cô được đặt từ hồi cô còn ở trường. “Mercaptan.” Cô nói. “Gì cơ?” “Mercaptan. Người ta cho nó vào khí đốt để nếu ga bị rò rỉ trong nhà thì sẽ ngửi thấy ngay.” “Cô không đùa chứ? Nó có mùi gì?” “Lưu huỳnh. Anh biết đây, mùi trứng thối.” Cô đánh vần từng chữ. Fazzio ngậm đầu bút chì rồi viết những chữ cái lên tờ báo. “Cảm ơn cô!” Khi Faz vừa rời khỏi, Kinsington Rowe đi vào ô làm việc của đội A và đưa cho Tracy một trong hai chiếc cốc dài. “Tôi xin lỗi!” Anh nói. Mời các bạn đón đọc Căn Hầm Tối của tác giả Robert Dugoni.
Cô Dâu Đen
Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản lần đầu năm 1940, là mốc son trong sự nghiệp cầm bút của Cornell Woolrich, khởi đầu cho danh tiếng tác giả “trinh thám đen” bậc thầy. Câu chuyện xoay quanh một phụ nữ xinh đẹp và bí ẩn ra tay mưu sát những đàn ông theo nhiều cách thức. Đâu đó trong thành phố, một gã đàn ông trước đấy hãy còn cảm thán về tương lai tươi sáng của mình thì ngay sau đó, cuộc đời gã kết thúc trong bi thảm. Bỏ lại kẻ xấu số sau lưng, CÔ DÂU ĐEN tiếp tục hành trình trả thù đẫm máu của mình, vẫn còn những cái tên phải gạch bỏ, vẫn còn những kẻ thù cần trừng phạt. Woolrich đưa nội tâm nhạy cảm và xu hướng bi quan của chính mình vào trong tác phẩm. Đêm đen, bóng tối và cái chết bao trùm khắp câu chuyện tạo nên không khí bất an và hồi hộp. Những câu văn mềm mại dẫn lối câu chuyện đến một kết cục đầy ngỡ ngàng. Phải chăng mọi sai lầm đều có thể sửa chữa và những mối hận thù có thể hoàn trả đầy đủ? *** Review Nguyễn Ngoc Nam: Cô Dâu Đen thuộc thể loại trinh thám đen, một thể loại mà lần đầu tiên tôi đọc, với bố cục sách khá là vừa tầm và dung lượng sách không quá nhiều thì việc ngốn nó trong khoảng thời gian ngắn là điều dễ dàng. Câu truyện bắt đầu bằng cái chết của nạn nhân đầu tiên khi anh ta đang trong một buổi tiệc với người vợ tương lai của mình. Tiếp theo đó là hàng loạt những cái chết đầy bí ẩn của những người đàn ông khác. Điểm chung của những vụ án mày mà đều liên quan đến một người phụ nữ xinh đẹp mặc đồ đen. Tác giả đã xây dựng nên hình ảnh hung thủ thực sự thú vị với sự biến hóa ngoại hình tài tình, cách nói chuyện đầy mê hoặc, quyến rũ. Nó tạo cho người đọc cảm giác chân thực đến nỗi nếu đặt chính tôi vào vị trí các nạn nhân thì có lẽ tôi sẽ cùng chung số phận với họ. Xuyên suốt quá trình đọc tôi thấy ấn tượng với cái chất hài mà tác giả mang lại, 1 cái hài rất đặc trưng của nền văn học thế kỷ trước. Điều làm nên sức cuốn hút, điểm nhấn, giá trị cho toàn bộ tác phẩm chính là cái cách mà hung thủ tiếp cận con mồi của mình: Công phu - Kiên nhẫn - Tàn độc. Như cách mà phụ nữ trừng phạt những kẻ làm tổn thương mình vậy. Và điều cuối cùng mà tôi muốn nói chính là truyện có nhiều lỗi chính tả và đánh máy làm người đọc cảm thấy khó chịu. Nxb và đv phát hành cần phải xem xét lại vấn đề này cho những tác phẩm xb tiếp theo. Qua truyện này tôi rút ra 6 điều: Thứ nhất, nấm đẹp là nấm độc. Đừng để nhan sắc đàn bà giết chết sự kiêu hãnh của người đàn ông. Thứ hai, đ' có cái gì là tự nhiên cả, tất cả đều có nguyên do của nó. Thứ ba, phụ nữ là những diễn viên xuất sắc. Thứ tư, đừng bao giờ chọc điên hay gây thù với phụ nữ vì bạn không biết họ sẽ làm gì sau đấy đâu ???? Thứ năm, phụ nữ là những người giỏi chịu đựng và rất chung thủy một khi đã yêu thật sự. Thứ sáu, trái tim của người phụ nữ thật sự rất mong manh. *** Cornell Woolrich (1903-1968) - cha đẻ của tiểu thuyết trinh thám đen, bậc thầy của sự hồi hộp. Với cách kể và dẫn dắt đầy lôi cuốn, mỗi tác phẩm của ông không hẳn là cuộc kiếm tìm chân dung kẻ sát nhân mà còn đưa lên sân khấu những nghịch lý về sự thật bị che giấu và những bất ngờ không đoán trước. Cornell Woolrich được coi là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn, đưa thể loại truyện noir fiction (tiểu thuyết đen) đến đỉnh cao của sự thành công. Ông cũng là tác giả trinh thám có số lượng truyện chuyển thể thành phim nhiều nhất thế giới, trên trang IMDB có tới 103 bộ phim được ghi tên ông. Những bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Woolrich thường trở thành đề tài nghiên cứu sáng giá liên quan đến “kỷ nguyên của thể loại phim noir”. Tấn công, hoang tưởng, mối đe dọa, cái chết, là những chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của Woolrich. Ngoài ra, khi nói đến tiểu thuyết của tác giả này, hình tượng người phụ nữ với “tính nữ” cũng là một nét tiêu biểu. Trong truyện của ông có những nỗi sợ hãi chẳng rõ ràng, cảm giác luôn bị đe dọa. Các nhân vật thì luôn trong một cuộc chạy đua với thời gian. Theo đó là những nỗi tuyệt vọng ngày càng lấp đầy. Điều đặc biệt trong truyện của Woolrich chính là những “anh hùng” thường là nạn nhân, bị buộc tội về tội ác mà họ không thực hiện, hoặc phạm tội vì những đau buồn, tuyệt vọng và bất công trong cuộc sống. Thế giới Woolrich tạo ra giống như một mê cung, đánh lạc hướng suy luận của người đọc. Tác giả đặt ra những “cái bẫy” cho các nhân vật chính không may mắn của mình và sau đó chờ đợi nhân vật chính sa vào bẫy và độc giả bị đánh lừa. Đầu tiên là tính bất khả thi. Tính “không thể” được sử dụng Woolrich làm cho tình huống trở nên khó hiểu hơn, che giấu sự thật đằng sau. Dường như, trong các tác phẩm của Woolrich các nhân vật ban đầu bao giờ cũng khởi điểm từ tình yêu, sự chung thủy, từ những điều tốt đẹp nhưng sau đó, bởi vì sự "tham lam" mà dần dần đánh mất đi bản ngã của chính bản thân mình. Kết hợp với đó, yếu tố bạo lực cũng được áp dụng triệt để để mang đến cảm xúc mãnh liệt cho người đọc. Với sự khai phá mới cho tiểu thuyết trinh thám, Cornell Woolrich đã cung cấp những ẩn dụ về sinh mệnh con người thật rẻ mạt, cái thứ đạo đức trắng đen lẫn lộn. Bằng lối kể hấp dẫn, luôn giấu kín sự thật, mỗi tác phẩm của ông luôn làm người xem phải tò mò. Ở Việt Nam, nhiều truyện ngắn của Cornell Woolrich đã được dịch và đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay vào cuối thập niên 1990, Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản năm 2018. Tác phẩm: Cô Dâu Đen Người Đàn Bà Trong Đêm Hạn Chót Lúc Bình Minh Điểm Hẹn Đen Đêm Ngàn Mắt Kết Hôn Với Người Chết Theo Em Vào Bóng Đêm Ám Ảnh Đen ... *** “Julie, Julie ơi!” Tiếng gọi bám theo người phụ nữ suốt bốn đợt cầu thang. Tiếng gọi đó là âm thanh mềm mại nhất mà cũng mạnh mẽ nhất mà đôi môi có thể phát ra được. Nhưng nó không khiến cô do dự, không ngập ngừng một bước. Khuôn mặt cô chỉ trắng bệch khi bước ra đón ánh mặt trời, chỉ thế thôi. Có một thiếu nữ đứng cạnh vali đợi cô ở cửa, dường như không tin vào mắt mình khi thấy cô bước tới, lòng phân vân không biết cô lấy đâu ra sức mạnh để vượt qua chuyện đó. Cô như đọc được suy nghĩ này, liền trả lời câu hỏi chưa thốt ra, “Mình từ biệt họ chẳng dễ dàng gì, họ cũng vậy. Có điều mình đã quen rồi, còn họ thì chưa. Mình đã có nhiều đêm dài khiến bản thân cứng rắn, còn họ mới chỉ một lần. Mình đã trải qua cả nghìn lần rồi.” Không hề đổi ngữ điệu, cô nói tiếp, “Bắt taxi thôi, có một chiếc đằng kia!” Người thiếu nữ nhìn cô dò hỏi khi chiếc xe chạy tới. “Ừ, cậu muốn thì tiễn mình cũng được. Bác tài, tới ga trung tâm nhé.” Cô không ngoái nhìn ngôi nhà, không ngoái nhìn con phố đang lùi dần phía sau. Cô cũng chẳng nhìn ra những con phố thân quen kế tiếp vốn là biểu trưng cho thành phố này, nơi cô lớn lên và trưởng thành. Ở quầy vé, họ phải chờ vì có người đã đến trước. Người thiếu nữ đứng bơ vơ một bên. “Cậu định đi đâu?” “Cũng chưa biết nữa. Mình chưa tính toán được gì cả.” Cô mở túi xách tay, chia cuộn tiền nhỏ làm hai phần không đều nhau, cầm lấy phần nhỏ hơn. Cô bước tới cửa bán vé, đẩy tiền vào. “Chỗ này đủ cho tôi đi bao xa, chuyến trong ngày ấy?” “Ngần này đủ cho cô đến Chicago. Còn thừa chín mươi xu.” “Thế thì cho tôi vé một chiều.” Cô quay lại với người thiếu nữ. “Giờ cậu về nói với họ như vậy nhé.” “Nếu cậu không muốn thì mình sẽ không tiết lộ đâu, Julie à.” “Có sao đâu. Tên của một nơi nào đó có quan trọng gì khi mình một đi không trở lại?” Hai người ngồi trong phòng chờ một lúc, rồi đi xuống phía đường tàu, đứng ở cửa ra chờ tiếp. “Hôn tạm biệt nào, như bọn mình thường làm hồi bé ấy.” Môi họ chạm nhẹ. “Đúng rồi.” “Julie ơi, mình biết nói gì bây giờ?” “Cứ nói ‘vĩnh biệt’ thôi. Trong cuộc đời này, người ta còn gì để nói với nhau nữa cơ chứ?” “Julie yêu quý, mình hi vọng sẽ sớm gặp lại cậu.” “Không bao giờ đâu.”   Sân ga lướt về phía sau. Con tàu lao qua một hầm dài rồi lại ngoi lên trong ánh nắng, lăn bánh trên những trụ cầu cao ngang với tầng trên của những tòa chung cư, những con phố lướt qua như những khe hẹp trên hàng rào. Đoàn tàu chạy chậm lại trước cả khi nó đạt vận tốc tối đa. “Phố Hai Lăm”, tiếng người soát vé vang trong toa. Người phụ nữ quyết tâm ra đi này với lấy chiếc vali, đứng lên, bước giữa hai hàng ghế như thể đây là trạm cuối của hành trình chứ không phải điểm khởi đầu. Cô đứng chờ sẵn ở cửa khi tàu dừng. Cô bước ra ngoài, đi dọc sân ga tới cổng, men theo cầu thang ra phố. Cô mua một tờ báo ở quầy tại phòng chờ, chọn một cái ghế ngồi xuống, lật trang cuối ra xem phần rao vặt. Cô cuộn tờ báo lại cho vừa rồi lấy ngón tay dò theo cột có tựa Phòng đủ tiện nghi. Ngón tay dừng ngẫu nhiên ở một cái tên mà cô chả buồn để ý xem những tiện nghi kèm theo là gì. Móng tay cô bấm sâu vào giấy để đánh dấu vị trí. Cô kẹp tờ báo vào nách, nhấc va li rồi ra ngoài gọi taxi. “Đưa tôi tới chỗ này. Đây.” Cô đưa tờ báo cho tài xế.   Bà chủ nhà lặng lẽ đứng chờ cô quyết định, cửa phòng vẫn mở. Cô quay lại nói với bà ta. “Tôi thấy chỗ này phù hợp rồi. Tôi sẽ trả tiền ngay cho hai tuần đầu.” Bà chủ nhà đếm tiền xong mới viết giấy biên nhận. “Cô tên gì?” Bà ta ngước lên hỏi. Mời các bạn đón đọc Cô Dâu Đen của tác giả Cornell Woolrich.
Công Lý & Báo Thù
Michael Rogan nhìn kỹ cái biển hiệu rực rỡ bên ngoài hộp đêm nóng nhất ở Hamburg. Sinnlich! Schamlos! Sündig! Kích dục! Không mát-x-cỡ! Tội lỗi đầy mình! Đúng là cái hộp đêm này, Roter Peter, không thèm giấu giếm cái gì nó đang rao bán. Rogan rút từ túi mình ra một tấm ảnh nhỏ và ngắm nghía cẩn thận dưới ánh sáng màu đỏ của ngọn đèn nơi cánh cửa có hình con heo. Chàng đã nhìn rất kỹ bức ảnh này hàng trăm lần rồi , nhưng chàng vẫn còn bối rối về chuyện nhận diện kẻ mà chàng tìm kiếm lâu nay. Trong vòng mười năm người ta thay đổi nhiều lắm, Rogan biết thế. Chính mình cũng thay đổi nhiều mà, nói chi ai. Chàng đi qua anh chàng gác cửa đang cúi người một cách xun xoe, khúm núm, để đi vào hộp đêm. Bên trong tối mò ngoại trừ cuốn phim “xanh” (blue movie) đang sáng nhấp nháy trên một màn hình chữ nhật nhỏ. Rogan vạch đường đi xuyên qua những cái bàn đông người, một đám đông ồn ào, nồng nặc mùi rượu bia. Bỗng dưng mọi ngọn đèn trong nhà sáng lên và đóng khung chàng sát sân khấu, với những cô gái tóc vàng trần truồng đang giựt người tưng tưng phía trên đầu chàng! Đôi mắt Rogan vẫn chòng chọc vào mấy khuôn mặt của những kẻ ngồi ở các bàn vòng quanh sân khấu. Một cô tiếp viên chạm vào cánh tay chàng. Cô ả nói bằng giọng đỏm dáng,” Có phải Herr Amerikaner tìm kiếm một món đặc biệt?” Rogan chà xát lướt qua nàng, cảm thấy bực mình vì đã dễ dàng để bị nhận ra là một “ông Mẽo. ”Chàng có thể cảm nhận máu đang đập vào tấm thẻ bằng bạc vốn đang giữ hộp sọ chàng gắn lại với nhau – một dấu hiệu nguy hiểm. Có lẽ chàng sẽ phải nhanh chóng hoàn thành chuyện này và quay về lại khách sạn. Chàng di động qua hộp đêm, kiểm tra các góc tối nơi các ông chủ nốc bia từ những chiếc vại khổng lồ và sờ soạng nhéo bóp bất kỳ em nào gần bên. Chàng liếc mắt vào những bàn có che màn nơi các ông khách nằm ngồi lổn ngổn trên mấy ghế sofas bọc da, “ngâm kiếu” các cô nàng trên sân khấu trước khi nhấc điện thoại lên để “triệu tập” em nào vừa mắt đến hầu quan. Bây giờ Rogan đang mất kiên nhẫn. Chàng không còn nhiều thời gian cho lắm. Chàng quay người và đối mặt với sân khấu. Phía sau những cô gái trần truồng đang nhảy có một bức vách trong suốt. Xuyên qua bức vách đó các ông chủ có thể thấy hàng kế tiếp các cô gái đang sẵn sàng bước lên sân khấu, và bọn họ vỗ tay mỗi khi một trong các cô gái cỡi áo nịt ngực hay tuột vớ ra. Một giọng nhừa nhựa say xỉn gọi vọng ra, ”Ôi các em cưng, các em đáng yêu – ta có thể đánh quả với tất cả các em.” Rogan quay người về phía giọng nói kia và cười trong bóng tối. Chàng nhớ lại giọng ấy rồi. Mười năm đã không làm cái giọng ấy thay đổi là mấy. Đó là một giọng vùng Ba-vi-e chói tai với vẻ thân tình giả tạo. Rất nhanh, Rogan di chuyển về hướng ấy. Chàng mở áo jacket, tháo một cái nút bằng da vốn giữ cho khẩu Walther an toàn trong cái bao đeo nơi vai. Tay kia chàng rút ống hãm thanh ra khỏi túi áo jacket và cầm nó như thể đó là một chiếc tẩu thuốc. Và rồi chàng đến trước chiếc bàn kia, trước khuôn mặt của con người chàng không bao giờ quên, kẻ mà kí ức về hắn đã giúp cho chàng sống suốt mười năm qua. Giọng nói đã không đánh lừa chàng; đúng là giọng nói của Karl Pfann. Tay cựu Đức quốc xã này hẳn đã tăng trọng thêm năm mươi pao nhưng lại mất đi gần hết đầu tóc – chỉ còn vài sợi màu vàng lơ thơ trên cái sọ bóng mỡ - nhưng cái mồm thì vẫn nhỏ tí và hầu như vẫn đầy vẻ hiểm ác như Rogan còn nhớ. Chàng ngồi xuống ở bàn kế bên và gọi thức uống. Khi mọi ánh đèn trong nhà tắt đi và cuốn phim xanh lại bật lên chàng rút khẩu Walther ra khỏi bao da và, giữ hai tay dưới bàn, gắn ống hãm thanh vào đầu nòng súng. Vũ khí hơi chùng xuống vì mất cân bằng; nó sẽ thiếu chính xác nếu cự ly quá năm yards. Rogan nghiêng người về phía phải và vỗ vào vai Karl Pfann. Cái đầu to bự quay lại, cái sọ bóng nhẫy nghiêng qua và cái giọng thân tình giả tạo mà Rogan từng nghe trong những cơn mộng ròng rã đã mười năm, nói, ”À, mein Freund, bạn muốn gì ạ?” Rogan nói giọng khàn khàn,” Tôi là một đồng chí cũ của bạn. Chúng ta có cuộc thương thảo công việc vào ngày Rosenmontag – Thứ hai Lễ hội Hoa hồng – năm 1945, nơi Tòa án Munich, bạn nhớ chứ?” Cuốn phim với cảnh nóng lên cao trào khiến Karl Pfann xao lãng câu chuyện, và đôi mắt hắn dính vào màn hình. ”Không, không, không thể có chuyện đó,” hắn nói một cách sốt ruột, mất kiên nhẫn. ”Năm 1945 tôi đang phục vụ cho tổ quốc.Sau chiến tranh tôi mới trở thành doanh nhân.” “Khi mi là một tên Quốc xã,” Rogan nói. ”Khi mi là một kẻ tra tấn... Khi mi là một tên sát nhân. ”Tấm bạc trong sọ Rogan phập phồng. ”Tên ta là Michael Rogan. Ta làm Tình báo Mỹ. Giờ đây mi nhớ ra ta chưa?” Có tiếng thủy tinh vỡ trong lúc tấm thân phục phịch của Karl Pfann xoay quanh và mắt hắn chọc qua bóng tối nhìn Rogan. Tên Đức nói bình thản, có vẻ hăm dọa, ”Michael Rogan đã chết. Mi muốn gì ở ta?” “Mạng sống của mi,” Rogan nói. Chàng rút khẩu Walther từ dưới bàn ra, ấn vào bụng Pfann và siết cò. Thân người của tên Đức giật nẩy lên.với sức mạnh của viên đạn. Rogan chỉnh lại ống hãm thanh và bắn tiếp phát nữa. Tiếng kêu than lúc chết của Pfann bị nhận chìm bởi tràng cười rộ lên, lan ra khắp hộp đêm khi màn hình diễn ra cảnh rù quến buồn cười. Thân hình Pfann đổ gục xuống vắt ngang qua bàn. Cuộc mưu sát hắn ta sẽ không được ai nhận ra cho đến khi cuốn phim kết thúc. Rogan rút ống hãm thanh ra khỏi đầu nòng súng và đút cả hai thứ trở vào trong các túi áo jacket. Chàng ta đứng lên và lặng lẽ di chuyển xuyên qua hộp đêm tối tăm. Anh chàng giữ cửa mặc đồ viền tua vàng chào chàng và huýt sáo đón taxi, nhưng Rogan quay mặt đi và bước xuống đường hướng về phía bến cảng. Chàng đi dọc theo bến cảng một lúc lâu cho đến khi nhịp tim và mạch máu dần trở lại mức bình thường. Trong ánh trăng lạnh của miền Bắc Đức, những bến tàu ngầm hoang phế và những con tàu rỉ sét mang trở lại những bóng ma ghê khiếp của một thời chiến tranh. Karl Pfann đã chết. Rogan như vừa trút được gánh nặng nhưng rồi lại thấy hụt hẫng, chán chường. Và rồi mười năm mộng dữ đã được trả giá và chàng có thể giảng hòa với tấm bạc trong sọ mình, những tiếng kêu xé lòng còn vang vọng vô tận của Christine gọi tên chàng, kêu cầu sự cứu độ, và cái khúc đoạn mù quáng, lóa mắt khi bảy người trong một căn phòng vòm cao của Tòa án Munich đã hành hình chàng như thể chàng là một con thú. Chúng đã cố mưu sát chàng, không chút nhân phẩm, như một trò đùa độc ác. Ngọn gió dọc theo bến cảng cắt vào da thịt chàng và Rogan quay lên phía lối đi Reeperbahn, đi qua đồn cảnh sát khi chàng bước vào Davidstrasser (Phố David). Chàng không có gì phải sợ cảnh sát. Ánh sáng trong hộp đêm quá tù mù để cho bất kỳ ai có thể thấy rõ mặt chàng, đủ rõ để có thể mô tả chàng tương đối chính xác. Tuy nhiên, để cho an toàn, chàng lỉnh vào con đường rẽ có treo tấm bảng bằng gỗ lớn: ”Cấm trẻ vị thành niên!” Trông nó cũng giống như bất kỳ con phố nào khác cho đến khi chàng quẹo ở góc phố. Chàng đã “sa chân lỡ bước” vào khu phố St Pauli nổi tiếng của Hamburg, khu vực được thành phố dành riêng cho việc mại dâm hợp pháp. Khu phố được chiếu sáng rực rỡ và đông đảo khách tìm hoa qua lại. Những căn nhà ba tầng thoạt trông có vẻ bình thường, ngoại trừ là mọi nơi đều rộn ràng như đang mở hội. Những tầng trệt có những cửa sổ thật rộng để phô bày, cho thấy các phòng bên trong. Ngồi trên các ghế bành, đọc sách báo, uống cà-phê và tán gẫu hay nằm ườn trên ghế sofa và nhìn lên trần mơ màng là một vài trong số những cô gái trẻ đẹp nhất mà Rogan từng thấy. Một vài cô ả còn làm bộ như đang lau chùi nhà bếp và chỉ mặc có mỗi cái tạp dề buông xuống đến nửa đùi phía trước còn nguyên phía sau thì... trống trơn! Mỗi nhà đều có tấm biển: ” Ba mươi Marks cho Một Giờ Mê Ly. ”Trên một số cửa sổ màn được kéo xuống. In bằng chữ vàng trên các tấm màn đen là chữ Ausverkauft, “Hết hàng,” để thông báo một cách tự hào là có vị khách sộp nào đấy đã bao cô gái trọn đêm rồi. Có một nàng tóc vàng đang đọc sách trên một cái bàn bằng thiếc nơi nhà bếp. Cô nàng có vẻ sầu muộn ủ ê, không bao giờ liếc nhìn ra ngoài phố phường nhộn nhịp; một ít giọt cà-phê rơi ra gần quyển sách đang mở của nàng. Rogan đứng bên ngoài căn nhà và chờ cho nàng ta ngẩng đầu lên để chàng có thể mục sở thị dung nhan của nàng. Nhưng có vẻ như nàng chẳng muốn nhìn lên. Chắc là tại nàng hơi xí? Cho nên nàng mặc cảm thua chị kém em, chàng Rogan đóan già đoán non như vậy. Cho dầu thế nào đi nữa chàng cũng sẵn lòng chi cho em ba mươi Marks chỉ để có thể nghỉ ngơi thư giãn một tí trước khi bắt đầu cuộc đi bộ khá dài để trở về khách sạn. Đối với thể trạng của chàng mà để bị kích thích tình dục thì cũng không tốt lắm đâu, các vị đốc tờ đã phán như thế, và một phụ nữ với khuôn mặt xấu xí thì sẽ không làm chàng hứng chí được và như thế lại hóa hay. Với tấm bạc đó trong sọ chàng Rogan bị cấm uống rượu nặng, cấm làm tình quá độ, và ngay cả là không được giận dữ. Nhưng các vị đốc tờ lại chẳng nói gì với chàng về chuyện có được giết người hay không. Khi chàng bước vào phòng bếp được chiếu sáng choang kia chàng thấy rằng cô gái đang ngồi đọc sách đó đẹp quá đi chứ! Nàng gấp lại quyển sách với vẻ hối tiếc, đứng lên, rồi nắm tay chàng và dẫn chàng vào phòng riêng ở phía trong. Rogan cảm thấy một cơn thèm muốn nhanh chóng bốc lên khiến đôi chân chàng run rẩy, đầu chàng nặng và căng. Phản ứng của việc giết người và trốn chạy đập mạnh vào chàng và chàng cảm thấy muốn ngất đi. Chàng để rơi người xuống giường và giọng nói vi vu như tiếng sáo của cô gái trẻ dường như đến từ nơi xa xôi nào. ”Anh sao thế? Anh có đau ốm gì không?” Rogan lắc đầu và lóng ngóng với cái ví tiền của mình. Chàng lôi ra một xấp tiền để trên giường và nói,” Anh bao em trọn đêm nay. Kéo màn xuống đi. Rồi để yên cho anh ngủ. ”Trong lúc nàng trở lại nhà bếp Rogan lấy một lọ thuốc nhỏ từ túi áo sơ-mi và thảy hai viên vào mồm. Đó là chuyện cuối cùng chàng làm mà chàng còn nhớ trước khi mất ý thức và chìm vào giấc ngủ mê man. Khi Rogan thức giấc bình minh xám nhạt xuyên qua những cửa sổ bụi mờ để chào chàng. Chàng nhìn quanh. Cô gái đang ngủ trên sàn dưới một tấm nệm mỏng. Một mùi hương hoa hồng toát ra từ thân thể nàng. Rogan lăn mình để có thể ra khỏi giường ở phía bên kia. Những dấu hiệu nguy hiểm đã tan đi. Miếng bạc không còn phập phồng nữa; cơn nhức đầu cũng đã tan biến. Chàng cảm thấy thoải mái, thư thái và sung sức. Không có gì trong ví của chàng bị lấy đi. Khẩu Walther vẫn nằm trong túi áo jacket. Chàng đã “hái lượm” được một cô gái lương thiện, biết điều, Rogan thầm nghĩ. Chàng đi vòng qua phía bên kia của chiếc giường để đánh thức nàng dậy, nhưng nàng đã ngọ ngoạy đôi chân, thân hình xinh đẹp của nàng đang run lên trong cái lạnh ban mai. Căn phòng sực nức mùi hoa hồng, Rogan để ý và có nhiều hoa hồng được thêu nơi các màn cửa sổ và trên các tấm trải giường. Có cả những hoa hồng được thêu trên chiếc áo ngủ mỏng dính, hầu như trong suốt của cô gái. Nàng cười với chàng. “Tên em là Rosalie. Em thích mọi thứ với hoa hồng – nước hoa, quần áo, mọi thứ.” Nàng có vẻ tự hào một cách rất là...con gái về tính mê hoa hồng của mình, như thể điều đó đem lại cho nàng một nét riêng, đặc biệt. Rogan thấy chuyện ấy cũng vui vui. Chàng ngồi trên giường và vẫy gọi nàng. Rosalie đến và đứng giữa hai chân chàng. Chàng có thể ngửi được mùi hương dìu dịu thoảng ra từ người nàng, và trong lúc nàng từ từ cỡi chiếc áo ngủ bằng lụa ra chàng có thể thấy bộ ngực nàng với hai đầu vú như hai trái dâu chín, đôi chân trắng dài; và rồi thân hình nàng bọc quanh thân xác chàng như những đài hoa lụa mịn màng và miệng nàng với đôi môi dày nhục cảm nở hoa bên dưới miệng chàng, bối rối xốn xang, vỗ cánh phất phới với đam mê nồng nàn. *** Con của những người nhập cư Ý đến sinh sống tại khu Hell’s Kitchen của Thành phố New York, Mario Puzo sinh ngày 15, tháng mười, 1920. Sau Đệ nhị Thế chiến – trong thời gian đó ông là một Hạ sĩ của Quân đội Mỹ - ông theo học Trường Cao đẳng Thành phố New York và bắt đầu làm một nhà văn tự do. Trong thời kỳ này ông viết hai quyển truyện đầu tay "Đấu Trường Đen Tối" (The Dark Arena, 1955) và "Người Hành Hương May Mắn" (The Fortunate Pilgrim, 1965). Khi những quyển sách của ông làm ra ít tiền mặc dầu được giới phê bình hoan nghênh, ông thề phải viết ra một quyển bestseller làm rung động văn đàn. "Bố già" (The Godfather - 1969) là một thành công vang dội không chỉ tại nước Mỹ mà hầu như trên gần khắp thế giới. Ông cộng tác với đạo diễn Francis Ford Coppola để viết kịch bản cho cả ba phim Godfather và thắng giải của Hàn lâm viện Điện ảnh cho cả hai phim The Godfather (1972) và The Godfather, Part II (1974). Ông cũng hợp tác viết kịch bản cho những phim như Superman (1978), Superman II (1981), và The Cotton Club (1984). Ông tiếp tục viết những quyển truyện thành công rất ấn tượng như "Fools Die (1978)", "The Sicilian(1984)", "The Fourth K (1991)", và "The Last Don (1996)". Mario Puzo mất ngày 02, tháng bảy, 1999. Quyển truyện cuối của ông "Omerta" -(Luật Im Lặng), được xuất bản trong năm 2000. Tại Việt Nam, hầu hết các tác phẩm của Mario Puzo đều đã được Nhà xuất bản Phương Đông mua tác quyền và chuyển ngữ tiếng Việt. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) Công Lý & Báo Thù ... Mời các bạn đón đọc Công Lý & Báo Thù của tác giả Mario Puzo.