Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bước Vào Cửa Hiệu Nhiệm Màu

Đối mặt với những nỗi đau và thất bại của bản thân, Tiến sĩ James R. Doty viết nên quyển sách “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu” đầy lôi cuốn bằng tất cả trải nghiệm của ông. Chính trong câu chuyện chân thật đó, người đọc dễ đồng cảm và tìm thấy hình ảnh của mình trong sách. James R. Doty là giáo sư lâm sàng tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, là người sáng lập, điều hành Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục Lòng trắc ẩn và vị tha (CCARE) tại đại học Y Stanford. Trên nền câu chuyện y khoa, ông đặt vào trong đó là những trải nghiệm từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành, xâu chuỗi nó thành những xúc cảm đầy trải nghiệm. Dù ở khía cạnh nào, tác giả cũng chia sẻ, lý giải những vấn đề cuộc sống mà bất kỳ ai cũng sẽ trải qua. Xuyên suốt 3 phần của quyển sách, tác giả lần lượt hồi tưởng lại những giai đoạn cuộc sống của mình. Can đảm để đối diện với những vết thương, nhìn nhận sự thất bại là cách mà James R. Doty viết nên quyển sách “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu”. Nhận xét về cuốn sách, thầy Thích Nhất Hạnh đã nhấn mạnh là “sâu sắc và đẹp đẽ”, bởi vì dù trong bất cứ thời điểm nào trong cuộc đời, James luôn giữ niềm hy vọng tích cực, hạnh phúc để làm kim chỉ nam trong hành trình đi tìm mục đích sống. Và ông truyền tải tinh thần đó xuyên suốt các trang sách, để người đọc thấy được ý nghĩa bản thân. Từ một đứa trẻ lớn lên trong một gia đình tầng lớp thấp ở vùng Lancaster, tuổi thơ của tác giả vẫn nuôi trong mình một ước mơ. Rồi cậu gặp gỡ bà chủ của một tiệm bán đồ ảo thuật tên Ruth, bà đã chỉ Jim một “màn ảo thuật” đặc biệt. Mà tác giả gọi trong sách là “4 bí quyết của Ruth” gồm: Thả lỏng cơ thể, Thuần hóa tâm trí, Mở rộng trái tim và Tinh lọc mục tiêu. Chính cuộc gặp gỡ đó đã tạo ra một động lực phi thường để cậu bé Jim hoàn thành ước mơ trở thành một bác sĩ Phẫu thuật Thần kinh. Phép màu mà tác giả nói đến trong sách chính là định hình mục tiêu của bản thân, đặt suy nghĩ luôn hướng về điều đó và giữ niềm tin vào con đường của mình để đi đến đích. Não bộ sẽ luôn chọn lựa những gì quen thuộc thay vì những gì xa lạ. Bằng việc tưởng tượng ra tương lai thành công của mình, bạn đã khiến não quen thuộc với thành công này. Như cách James tôi luyện tâm trí mình trở thành một bác sĩ rất lâu trước khi nộp đơn vào trường y, đơn giản bằng cách hình dung mình là một bác sĩ. Ai trong đời đều có mục tiêu để đi về phía trước. Nhưng nếu bản đồ cuộc sống bắt bạn trải qua nhiều thử thách thì bạn cần chiếc la bàn để định vị lại. Như tác giả phải tự xoay sở trước những sóng gió mà gia đình mang đến. Ông không ngại việc “vạch áo cho người xem lưng” khi nói về gia cảnh của mình. Nhưng tuyệt nhiên, trong những câu từ đó không hề là sự trách giận, ngược lại nó chứa đầy tình yêu thương. Chẳng có cái gọi là cuộc đời hoàn hảo mà chúng ta sinh ra đã ở sẵn trong đó. Ngay cả khi thành công, cuộc sống cũng sẽ mang đến thách thức để “đánh giá” khả năng xử lý hoàn cảnh của chúng ta. Ai cũng đều muốn được công nhận về năng lực của mình dù ở bất cứ lĩnh vực nào. Nhưng sẽ là tự mãn nếu chúng ta không giữ được thăng bằng giữa những sự nhìn nhận đó. Tác giả không chỉ kể về những thành công mà còn đối diện với sự thất bại bởi tính kiêu ngạo của chính mình mà ông viết trong sách: “Tôi đã trở nên ngạo mạn. Phương pháp có được mọi thứ tôi muốn, kỹ thuật chuyên môn trong giải phẫu thần kinh của tôi đã khiến tôi cảm thấy mình quan trọng và đặc biệt theo một cách tôi chưa từng cảm thấy trước đây”. Điều đó dẫn đến việc ông phải đối mặt với cái chết là lúc câu chuyện đẩy lên cao trào. Trong hành trình cận tử đó, ông như được thức tỉnh, tự nhủ rằng đây không phải là cách mà cuộc đời ông nên kết thúc. Như tác giả viết trong sách, chúng ta có thể chết đến ngàn lần trong cuộc đời này. Và đó là một trong những món quà tuyệt vời nhất của việc được sống. Vết thương lòng vẫn thường trao cho ta cơ hội lớn lao để trưởng thành. Cuộc sống phải mất nhiều năm trời và nhiều sai lầm đau đớn trước khi chúng ta nhận ra điều đó. Như không để chúng ta mất nhiều thời gian tương tự, nên tác giả quyển “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu” đã gói gọn hết những ý nghĩa đó trong hơn 300 trang sách. Những khoảnh khắc tiêu cực nhất lại chứa đựng sự tích cực khi nó thúc đẩy nội tại chúng ta thay đổi. Và trên hết thảy những cảm xúc đẹp đẽ và mãnh liệt, tác giả dần đưa người đọc đi sâu hơn vào ý nghĩa hạnh phúc của cuộc đời. Giống như rất nhiều thứ khác trong đời, niềm tin của chúng ta vốn là hiện thân của những trải nghiệm sống của chúng ta. Theo lý giải của tác giả, trái tim là nơi chúng ta tìm thấy sự an ủi và an toàn trong tăm tối. Nó là thứ ràng buộc chúng ta lại với nhau và là thứ tan vỡ khi chúng ta chia lìa. James R. Doty cũng khẳng định, đầu óc là sức mạnh, nhưng nó chỉ có thể đạt được thứ ta thật sự muốn nếu ta mở rộng trái tim mình trước tiên. Mà ông gọi đó là la bàn trái tim. Chúng có thể làm tăng sự tập trung, đưa ra quyết định nhanh hơn, nhưng khi có sự khôn ngoan và mở rộng trái tim. Hành trình của chúng ta không chỉ là một hành trình đơn độc đi vào nội tâm, mà còn là hành trình hướng ngoại với sự nối kết. Cách duy nhất để thật sự thay đổi và biến chuyển cuộc đời mình theo hướng tốt đẹp hơn chính là làm thay đổi và biến chuyển cuộc đời của những người khác. Tổng thể cuốn sách là một sự chiêm nghiệm sâu sắc, với trải nghiệm mà ai cũng sẽ đôi lần chạm phải. Tác giả tạo ra sự thân thuộc trong cách kể chuyện của mình bằng sự tinh tế, thấu cảm. Với tất cả những mảng màu đó, ông đưa người đọc tìm về ý nghĩa của hạnh phúc. Mỗi chúng ta có câu chuyện của riêng mình, trong mỗi câu chuyện ấy đều có những phân đoạn đớn đau và buồn bã. Chúng ta có thể tạo ra mọi thứ chúng ta muốn. Trao đi yêu thương luôn là điều có thể. Mỗi hành động của lòng trắc ẩn, mỗi khoảnh khắc của thấu hiểu là một món quà dành cho thế giới này và cho chính bạn.  Về tác giả sách “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu”: Tiến sĩ James Doty (sinh ngày 1-12-1955) là giáo sư lâm sàng tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Đại học Stanford, là người sáng lập và điều hành Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục Lòng trắc ẩn và vị tha (CCARE) tại đại học Y Stanford. Ông đã hoàn thành chương trình giáo dục đại học tại Đại học CA, Irvine và trường Y thuộc Đại học Tulane. Ông có nhiều đóng góp trong lĩnh vực chuyên môn và cả những hoạt động xã hội. Ông là Chủ tịch của Quỹ Dalai Lama, phó chủ tịch của tổ chức Hiến chương Nhân ái Quốc tế, thành viên của Hội đồng Tư vấn Quốc tế về Nghị trường và Tôn giáo thế giới. Theo First News *** Cuốn sách đầy sức mạnh này của bác sĩ Doty là một chứng thư về cách mà niềm tin và lòng trắc ẩn vượt lên khỏi tôn giáo, sắc tộc và quốc tịch để giúp đỡ một cá nhân vượt qua nghịch cảnh và những giới hạn riêng tư. Nó là một nguồn cảm hứng. — Sri Sri Ravi Shankar, nhà sáng lập và lãnh đạo tinh thần của Art of Living Foundation Đây là câu chuyện về đức tin vượt qua mọi ranh giới và rào cản của tôn giáo. Một câu chuyện của hy vọng trong việc đối mặt với thử thách to lớn nhất cuộc đời và câu chuyện của phép màu mở ra cánh cửa của tiềm năng và sự chữa lành. Đây là hành trình của một nhà giải phẫu thần kinh có cuộc đời ghi dấu bằng cả thành công lẫn thất bại, và lúc nào cũng được bao bọc trong cái khung lộng lẫy của hy vọng, sự tử tế và lòng trắc ẩn. Cuốn sách sẽ chạm vào trái tim, tâm hồn và tâm trí chúng ta. — Rev. Dr. Joan Brown Campbell, giám đốc danh dự về tôn giáo tại Học viện Chautauqua, cựu giám đốc điều hành Hội đồng Giáo hội Thế giới Khi một người có thể tiến hóa từ suy nghĩ đầu óc đến trái tim, người đó thực tế đã tiến tới đỉnh cao nhất của tình yêu và lòng trắc ẩn thật sự. Jim Doty nỗ lực một cách chân thành đưa người đọc vào chuyến hành trình từ lãnh địa bị giới hạn của đầu óc đến địa hạt không giới hạn của trái tim, nơi mà lòng trắc ẩn thực thụ đang cư ngụ. Khả năng đặt bản thân vào vị thế của người khác, để nhìn và cảm nhận như chính người đó là một thiên khiếu hiếm có của một nhà khám phá tâm linh. Mong cuốn sách này trở thành nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người. — Thánh mẫu Mata Amritanandamayi (Amma) Phép màu từ câu chuyện của Jim, sự thấu suốt mà anh dùng để chia sẻ cuộc đời anh với chúng ta, là một món quà vĩ đại và là thứ mà tôi sẽ khuyến khích tất cả mọi người đón nhận bằng vòng tay rộng mở. Ngôn từ của anh, thuật nhớ của anh – CDEFGHIJKL – xứng đáng nhận được sự chú ý, sự chú tâm toàn diện của chúng ta, và phần thưởng cho điều đó là khám phá ra sức mạnh của việc khai mở trái tim con người với nhau và với thế giới. — Scott Kriens, đồng giám đốc của tổ chức 1440 và chủ nhiệm của Juniper Networks Sự thật là cuốn sách của Jim Doty không nằm trong danh sách đọc của tôi. Rồi, bằng một sự ngẫu nhiên mà tôi đã đọc lướt qua trang đầu của cuốn sách. Tôi lập tức bị cuốn hút bởi sự thật lòng, sự chân thành không phòng vệ trong cách anh chia sẻ một câu chuyện đầy ắp tình người vô cùng hấp dẫn và sâu sắc. Anh ấy dẫn dắt chúng ta đi qua một hành trình đầy mê hoặc, từ một tuổi thơ khốn khó đến đỉnh cao của thành tựu. Đây là một câu chuyện phong phú những cảm hứng, hiểu biết và bài học cuộc đời khiến tôi ước gì nó đừng bao giờ kết thúc. Có thể nào đọc về cuộc đời một người nào đó lại có thể làm thay đổi cuộc đời của chính bạn? Hãy bước vào cửa hiệu nhiệm màu cùng với Jim Doty và bạn sẽ tìm thấy câu trả lời. — Neal Rogin, nhà văn, nhà làm phim từng đoạt giải Emmy, thành viên hội đồng sáng lập Pachamama Alliance Cuốn sách này là lời chứng nhận đầy sức mạnh về việc khi chúng ta lựa chọn lòng trắc ẩn như là một phần định nghĩa về con người mình thì phép màu sẽ thật sự bắt đầu hiện ra trong đời ta ra sao. Một cuốn sách truyền cảm hứng bậc nhất nâng đỡ tinh thần chúng ta, khai mở trái tim ta trong thời điểm mà quá nhiều những thứ chúng ta nghe và đọc được dường như chỉ khiến ta thêm tuyệt vọng về nhân loại. Bất kỳ ai đọc cuốn sách này đều sẽ thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn. — Thupten Jinpa, tiến sĩ, tác giả cuốn A Fearless Heart *** Giới thiệu Những điều tốt đẹp Có một âm thanh đặc thù được tạo ra khi lớp da đầu được kéo toạc ra khỏi hộp sọ – như âm thanh của một miếng băng gai cỡ lớn khi giật ra khỏi mặt bông. Thanh âm ấy vang lớn, giận dữ và có chút đau buồn. Ở trường Y, không có những lớp học dạy ta những âm thanh và mùi của một cuộc phẫu thuật não. Họ nên mở những lớp như vậy. Tiếng rè rè của mũi khoan nặng trịch khi nó bắt đầu khoan xuyên qua hộp sọ. Cái cưa xương tẩm cả căn phòng phẫu thuật với một thứ mùi của mùn cưa ngày hè, khi nó cắt một đường nối liền những cái lỗ mà mũi khoan vừa tạo ra. Tiếng lép bép khiên cưỡng mà hộp sọ tạo ra khi nó bị nhấc ra khỏi lớp màng cứng[1], lớp bao dày bọc lấy não bộ và phụng sự như một phòng tuyến cuối cùng bảo vệ não bộ khỏi thế giới bên ngoài. Cây kéo chầm chậm cắt qua lớp màng cứng. Khi bộ não phơi bày ra, ta có thể thấy nó phập phồng theo từng nhịp tim, và thỉnh thoảng ta dường như có nghe thấy nó rên rỉ phản kháng trong trạng thái trần trụi và dễ tổn thương của mình – bí mật của nó bị phơi bày cho tất cả dưới ánh đèn chói mắt của phòng mổ. Cậu bé trông bé nhỏ trong bộ đồ bệnh nhân và gần như bị chiếc giường bệnh nuốt chửng trong lúc cậu nằm chờ phẫu thuật. – Bà ngoại đã cầu nguyện cho mẹ. Và bà cũng cầu nguyện cho con nữa. Tôi nghe tiếng hít vào thở ra nặng nhọc của mẹ đứa trẻ khi cô nói những lời này, và tôi biết cô đang cố gắng tỏ ra mạnh mẽ vì con trai mình. Vì chính cô. Và thậm chí có lẽ vì cả tôi nữa. Tôi luồn tay mình vuốt tóc cậu bé. Mái tóc nâu, dài và khỏe – vẫn mang dáng dấp của một đứa trẻ hơn là một chàng trai. Cậu bé nói với tôi cậu vừa trải qua sinh nhật của mình. – Con có cần bác giải thích lần nữa những gì sẽ xảy ra hôm nay không, nhà vô địch? Hay là con đã sẵn sàng rồi? – Cậu bé thích được gọi là Nhà vô địch, hoặc là Anh bạn. – Con sẽ đi ngủ. Và bác sẽ lấy thứ Xấu xí ra khỏi đầu con, đầu con không còn đau nữa. Rồi con sẽ gặp lại mẹ và bà ngoại. Thứ Xấu xí ấy là một khối u nguyên bào tủy[2], loại u não ác tính thường gặp nhất ở trẻ em, khối u nằm ở hố sọ sau (phần đáy sọ). Medulloblastoma, u nguyên bào tủy, không phải là một từ dễ phát âm ngay cả với người lớn, càng khó hơn với một đứa trẻ bốn tuổi, cho dù nó có thông minh đến mấy. Những khối u não ở trẻ em vốn thật sự là thứ vô cùng xấu xí, vì vậy tôi hoàn toàn tán thành cách gọi của cậu bé. Những khối u nguyên bào tủy không có hình dạng nhất định và thường xuyên là kẻ xâm lấn lố bịch vào những cấu tạo cân đối tinh tế của não bộ. Chúng xuất hiện ở hai thùy tiểu não và rồi lớn dần lên, cuối cùng chúng sẽ chèn ép lên, không chỉ vùng tiểu não, mà còn lên thân não cho đến khi nó dứt khoát chặn đứng mọi đường dẫn cho phép chất lỏng trong não tuần hoàn. Não bộ là một trong những tạo tác đẹp đẽ nhất tôi từng thấy. Khám phá bí ẩn của nó và tìm cách chữa lành nó là một đặc ân mà tôi chưa bao giờ dám xem nhẹ. – Bác thấy con đã sẵn sàng rồi. Giờ bác sẽ đeo chiếc mặt nạ siêu anh hùng của mình và bác sẽ gặp lại con trong căn phòng ánh sáng nhé. Cậu bé mỉm cười với tôi. Khẩu trang và phòng phẫu thuật có thể nghe hơi đáng sợ. Hôm nay tôi gọi chúng là mặt nạ siêu anh hùng và phòng ánh sáng, như thế cậu bé sẽ không cảm thấy sợ hãi nữa. Tâm trí là một thứ thú vị, nhưng tôi sẽ không đi giải thích ngữ nghĩa học với một cậu bé bốn tuổi. Một số trong những bệnh nhân và những người khôn ngoan nhất tôi từng gặp đều là trẻ em. Trái tim trẻ em là những trái tim rộng mở. Lũ trẻ sẽ nói với bạn điều gì khiến chúng sợ hãi, điều gì khiến chúng vui vẻ, hay điều chúng thích và không thích ở bạn là gì. Không có bất kỳ sự che giấu nào và bạn không bao giờ phải đoán xem chúng thật sự cảm thấy thế nào. Tôi quay lại phía mẹ và bà ngoại của cậu bé. – Một người trong tổ phẫu thuật của chúng tôi sẽ cập nhật tình hình cho các vị trong lúc chúng tôi tiến hành ca mổ. Tôi dự tính đây sẽ là một lần cắt bỏ triệt để. Và tôi không nghĩ rằng sẽ có bất kỳ biến chứng nào. – Đây không chỉ là những lời động viên trước phẫu thuật để nói với người nhà bệnh nhân những gì họ muốn nghe, dự định của tôi là thực hiện một cuộc phẫu thuật triệt để và hiệu quả để cắt bỏ toàn bộ khối u, đồng thời gửi một mẫu nhỏ của khối u đến phòng thí nghiệm để xem thứ Xấu xí ấy rốt cuộc xấu xí đến đâu. Tôi biết mẹ lẫn bà ngoại cậu bé đều đang lo sợ. Tôi lần lượt nắm lấy tay từng người, cố gắng đảm bảo với họ và xoa dịu họ. Việc này chẳng bao giờ dễ dàng. Một cơn đau đầu buổi sáng của đứa con bé bỏng đã trở thành cơn ác mộng tồi tệ của mọi bậc làm cha mẹ. Người mẹ tin tưởng tôi. Người bà tin vào Chúa Trời. Tôi thì tin tưởng đội ngũ của mình. Cùng nhau, chúng tôi sẽ nỗ lực cứu lấy mạng sống của đứa trẻ này. SAU QUÁ TRÌNH GÂY MÊ, tôi đặt đầu cậu bé vào một cái khung gắn với sọ của cậu, và sau đó đặt cậu nằm sấp xuống. Tôi lấy cái tông đơ cắt tóc ra. Mặc dù y tá thường là người chuẩn bị các khâu tiền phẫu thuật, nhưng tôi vẫn muốn tự mình cạo tóc cho đứa trẻ. Với tôi, việc này tựa như một nghi thức. Và trong lúc chậm rãi cạo mái tóc, tôi nghĩ về đứa trẻ bé bỏng thông minh này và điểm qua từng chi tiết của ca phẫu thuật trong đầu mình. Tôi cắt nhúm tóc đầu tiên và đưa nó cho người truyền tin để bỏ vào một cái túi nhỏ giao lại cho người mẹ. Đây là lần cắt tóc đầu tiên của cậu bé, trong khi đó là điều cuối cùng mà người mẹ bận tâm lúc này, tôi vẫn biết nó sẽ quan trọng với cô ấy về sau. Đó là một cột mốc mà ta sẽ muốn ghi nhớ. Lần đầu tiên cắt tóc. Lần đầu tiên nhổ răng. Ngày đầu tiên đi học. Lần đầu tiên đi xe đạp. Nhưng lần đầu tiên phẫu thuật não chưa bao giờ nằm trong danh sách này. Tôi nhẹ nhàng cắt từng lọn tóc nâu sáng khỏe mạnh, hy vọng bệnh nhân nhỏ tuổi của tôi rồi có thể trải nghiệm được mỗi một trải nghiệm đầu tiên kia. Trong tâm trí mình, tôi có thể hình dung cậu bé tươi cười với hàm răng trống mất chiếc răng cửa. Tôi hình dung cậu bé bước vào nhà trẻ với chiếc ba lô to tướng bằng cả thân người quàng trên vai. Tôi thấy cậu đạp xe đạp lần đầu tiên – sự rộn ràng của tự do lần đầu tiên ấy, luống cuống nhấn bàn đạp với từng làn gió lùa qua mái tóc. Tôi nghĩ về những đứa con của mình trong lúc tiếp tục cạo đi mái tóc của cậu bé. Hình ảnh và cảnh tượng về tất cả những lần đầu tiên của cậu bé trong tâm trí tôi rõ ràng đến mức tôi không thể tưởng tượng đến bất kỳ kết quả nào khác. Tôi không muốn nhìn thấy tương lai của những lần ra vào bệnh viện và những đợt điều trị ung thư, những lần phẫu thuật bổ sung khác. Là một người sống sót từ chứng u não ở trẻ em, cậu bé sẽ luôn luôn cần được theo dõi, nhưng tôi từ chối nhìn thấy hình ảnh cậu trong tương lai như những gì cậu đã trải qua trong quá khứ. Những trận buồn nôn và ói mửa. Những lần té ngã. Những lần bật dậy vào sáng sớm hét tìm mẹ bởi vì thứ Xấu xí lại chèn ép trong não của cậu gây đau đớn. Cuộc đời đã có đủ đớn đau nên không cần thêm điều này vào nữa. Tôi tiếp tục nhẹ nhàng xén phần tóc của cậu bé chỉ vừa đủ để tiến hành công việc của mình. Tôi điểm hai chấm ở phần đáy sọ, nơi chúng tôi sẽ rạch đường dao mổ và rồi tôi vẽ một đường thẳng nối chúng lại. Phẫu thuật não vốn đã khó, mà phẫu thuật vùng hố sọ sau còn khó hơn, và phẫu thuật hố sọ sau của một đứa trẻ thì lại cực kỳ khó. Khối u rất lớn. Việc phẫu thuật cần tiến hành cẩn thận, chậm rãi và tỉ mỉ. Đôi mắt phải nhìn qua kính hiển vi hàng giờ liền để tập trung vào một thứ duy nhất. Là một bác sĩ phẫu thuật, chúng tôi được rèn luyện phải dập tắt mọi phản ứng thể lý trong quá trình phẫu thuật. Chúng tôi không đi vệ sinh. Chúng tôi cũng không ăn. Chúng tôi đã được rèn luyện để lờ đi khi lưng bị đau hay bị co cơ. Tôi nhớ lần đầu tiên bước vào phòng mổ, trợ phẫu cho một nhà giải phẫu học nổi tiếng không chỉ vì tài năng mà còn bởi tính hiếu chiến, kiêu căng, tự phụ trong lúc làm phẫu thuật. Tôi đã khiếp sợ và căng thẳng, và khi tôi đứng cạnh ông trong phòng phẫu thuật, mồ hôi bắt đầu túa ra khắp mặt tôi. Tôi hít thở nặng nề sau lớp khẩu trang và cặp kính trên mắt tôi bắt đầu mờ hơi nước. Tôi không thể nhìn rõ các dụng cụ, hay thậm chí là phạm vi tiến hành phẫu thuật. Tôi đã làm việc vô cùng chăm chỉ, đã vượt qua rất nhiều thứ và giờ tôi đứng đây, tham gia một ca phẫu thuật như tôi hằng mơ ước, vậy mà tôi lại chẳng nhìn thấy gì cả. Rồi một chuyện không thể hình dung nổi đã xảy ra. Một giọt mồ hôi lăn khỏi mặt tôi và rơi xuống khu vực vô trùng. Vậy là ông ấy nổi điên lên. Ca mổ lẽ ra là một điểm sáng của đời tôi, lần đầu tiên tôi thực hành phẫu thuật, nhưng thay vào đó, tôi đã làm ô uế khu vực vô trùng và nói ngắn gọn là bị tống ra khỏi phòng mổ. Một trải nghiệm mà tôi sẽ không bao giờ quên. Hôm nay, vầng trán của tôi khô ráo và thị lực rõ ràng. Mạch đập của tôi chậm và ổn định. Kinh nghiệm tạo ra sự khác biệt, và trong phòng phẫu thuật của tôi, tôi không phải là kẻ độc tài hay một kẻ hiếu chiến ngạo mạn. Mỗi thành viên trong tổ phẫu thuật đều đáng quý và cần thiết. Tất cả đều tập trung vào nhiệm vụ của mình. Bác sĩ gây mê sẽ theo dõi huyết áp và lượng oxy trong máu của cậu bé, mức độ ý thức cũng như nhịp tim của cậu. Y tá phòng mổ sẽ liên tục giám sát dụng cụ và vật dụng tiếp tế, đảm bảo mọi thứ tôi cần đều nằm trong tầm tay. Một chiếc túi lớn được gắn vào tấm trải giường, treo phía dưới đầu cậu bé để hứng máu và dịch rửa. Chiếc túi được nối với một cái ống đến một máy hút lớn và sẽ không ngừng đo lường lượng chất lỏng để chúng tôi luôn biết được đã mất đi bao nhiêu máu. Phụ mổ cho tôi là một sinh viên nội trú năm cuối đang trong kỳ thực tập và là thành viên mới của tổ, nhưng cậu ta cũng hoàn toàn tập trung giống như tôi vào những mạch máu, mô não và những tiểu tiết trong việc loại bỏ khối u. Chúng tôi chẳng thể nghĩ gì về những kế hoạch ngày mai, những chính sách của bệnh viện, những đứa con của chúng tôi hay những mối quan hệ gia đình trắc trở. Công việc này đòi hỏi sự cảnh giác cao độ, tập trung tuyệt đối vào một điểm duy nhất, giống như thiền định vậy. Chúng tôi đã rèn luyện tâm trí của mình, và tâm trí đã rèn luyện cơ thể. Sẽ là một dòng chảy, một giai điệu tuyệt vời khi bạn có một đội ngũ hoàn hảo mà tất cả mọi người đồng bộ với nhau. Tâm trí và cơ thể chúng tôi vận hành cùng nhau như một thể thống nhất. Tôi đang loại bỏ phần cuối cùng của khối u, phần gắn với một trong những tĩnh mạch quan trọng nhất trong bộ não. Hệ thống tĩnh mạch ở hố sọ sau cực kỳ phức tạp, và phụ mổ của tôi tiến hành hút dịch trong lúc tôi cắt bỏ từng chút tàn dư sau cùng còn lại của khối u. Cậu ấy đã để tâm trí mình lơ đãng trong đúng một giây, và trong một giây đó, ống hút của cậu đã làm rách tĩnh mạch; và trong một khắc, mọi thứ đều ngừng lại. Rồi những điều kinh khủng ập đến! Máu từ tĩnh mạch bị rách kia tràn vào khoang phẫu thuật và bắt đầu lan khắp vết thương trên đầu đứa trẻ đẹp đẽ này. Bác sĩ gây mê bắt đầu hét lên rằng huyết áp của cậu bé đang tuột rất nhanh và lượng máu mất đi là không thể kiểm soát. Tôi cần kẹp chặt tĩnh mạch lại và ngăn máu chảy nhưng tĩnh mạch đã chìm vào cái hố đầy máu và tôi không thể nhìn thấy nó. Chỉ riêng chiếc máy hút của tôi thì không thể kiểm soát được lượng máu chảy, và đôi tay cậu phụ tá run rẩy đến nỗi chẳng thể giúp được gì. – Thằng bé ngừng tim, ngừng thở rồi! – Bác sĩ gây mê hét lên. Anh ta phải bò xuống gầm bàn mổ bởi đầu của đứa trẻ bị khóa chặt vào cái khung, theo thế nằm sấp, với phần sau đầu mở toang. Bác sĩ gây mê bắt đầu ép vào ngực cậu bé trong lúc tay còn lại giữ phần lưng của cậu, tận sức cố gắng làm tim cậu bé đập trở lại. Chất lỏng sắp tràn vào những tĩnh mạch chủ. Chức năng cơ bản và quan trọng nhất của tim là bơm máu, và cái bơm diệu kỳ giúp cho mọi thứ trên cơ thể vận hành này đã dừng lại. Đứa trẻ bốn tuổi này đang chảy máu đến chết trên bàn mổ ngay trước mắt tôi. Trong lúc bác sĩ gây mê ấn vào ngực cậu bé, thì vết thương tiếp tục ngập trong máu. Chúng tôi phải cầm được máu, hoặc là đứa trẻ sẽ chết. Não tiêu thụ 15% lượng máu bơm từ tim và chỉ có thể sống sót vài phút sau khi tim ngừng đập. Não cần máu, và quan trọng hơn, nó cần oxy có trong máu. Thời gian của chúng tôi đang cạn dần trước khi cậu bé chết não – chúng cần có nhau – bộ não và trái tim. Tôi cố gắng kẹp tĩnh mạch lại, nhưng không cách gì thấy được mạch máu qua vũng máu này. Mặc dù đầu cậu bé được cố định nguyên vị trí, nhưng những lần ép ngực vẫn làm nó di chuyển rất nhẹ từng chút một. Cả đội biết và tôi cũng biết rằng chúng tôi không còn nhiều thời gian. Bác sĩ gây mê ngước lên nhìn tôi và tôi nhìn thấy nỗi sợ trong mắt anh. Chúng tôi có thể sẽ để mất đứa bé này. Hồi sức tim phổi (CPR) giống như khởi động ly hợp một chiếc xe ô tô đang sang số hai vậy, hoàn toàn không chắc chắn, đặc biệt khi chúng tôi đang không ngừng để bị mất máu như thế này. Máu tiếp tục chảy tràn trong phần đầu đang hở của đứa trẻ. Tôi đang làm việc trong trạng thái mò mẫm và tôi chẳng thể làm được gì để ngăn máu chảy. Tôi nhìn vào máy đo nhịp tim và vẫn chẳng có nhịp tim nào cả. Trong khoảnh khắc đó, tôi mở rộng trái tim mình để có thể vượt lên mọi lý lẽ, mọi kỹ năng, và tôi làm theo những gì tôi được dạy cách đây hàng thập kỷ, không phải trong trường nội trú, không phải trong trường Y, mà ở trong một căn phòng phía sau một cửa hiệu ảo thuật bé nhỏ trong vùng hoang mạc California. Tôi thả lỏng tâm trí. Tôi thư giãn cơ thể. Tôi hình dung ra mạch máu đã bị chìm vào vũng máu kia. Tôi nhìn thấy nó bằng đôi mắt tâm trí, đôi mắt được lắp vào đường đi trong hệ mạch máu của đứa trẻ này. Tôi tiến lên trong trạng thái mò mẫm nhưng hiểu được rằng cuộc sống có nhiều hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy, và mỗi chúng ta có khả năng làm những điều phi thường vượt xa những gì chúng ta nghĩ. Chúng ta làm chủ chính vận mệnh của mình, và tôi không chấp nhận đứa trẻ bốn tuổi này phải đi đến cái chết trên bàn mổ ngày hôm nay. Tôi với tay xuống vũng máu với một cái kẹp, kẹp lại, rồi chậm chậm rút tay ra. Máu ngừng chảy, và rồi, như từ chốn xa xôi nào đó, tôi nghe thấy tiếng tích tắc rất chậm của máy đo nhịp tim. Lúc đầu rất yếu ớt. Không đều. Nhưng rồi nó nhanh chóng trở nên mạnh mẽ và đều đặn hơn, y như mọi trái tim vẫn đập khi nó bắt đầu đến với sự sống. Tôi cảm thấy nhịp tim của mình bắt đầu khớp với nhịp tim trên máy. Sau đó, với tư cách là bác sĩ phẫu thuật, tôi sẽ trao cho người mẹ những gì còn lại sau lần cắt tóc đầu tiên của cậu bé, và anh bạn nhỏ của tôi sẽ thoát khỏi trạng thái bị gây mê, trở thành người sống sót. Cậu bé sẽ hoàn toàn bình thường. Trong vòng bốn mươi tám tiếng sau đó, cậu sẽ nói chuyện lại được và thậm chí có thể cười, tôi có thể nói với cậu rằng thứ Xấu xí đã không còn nữa rồi. Mời các bạn mượn đọc sách Bước Vào Cửa Hiệu Nhiệm Màu của tác giả Dr. James R. Doty & Cẩm Xuân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht
Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.
Mặc Kệ Thiên Hạ - Sống Như Người Nhật - Mari Tamagawa
Cuốn sách gối đầu giường cho những người hay lo lắng, sợ hãi và luôn thấy mình kém may mắn Dành cho những ai muốn được sống là chính mình, cuộc đời của mình, tuổi trẻ của mình. Đã đến lúc bạn nên dừng tìm kiếm sự an ủi ở người khác, hoặc chờ đợi sự giúp đỡ từ một ai đó. Bởi an ủi hay giúp đỡ về mặt cảm xúc đôi khi giống như con dao hai lưỡi. Nó có thể giúp bạn chống đỡ lo âu hay muộn phiền nhất thời, nhưng lại đẩy bạn chìm sâu hơn vào những cảm xúc tiêu cực đó. Giống như một đứa trẻ khi vấp ngã, bạn mong đợi một sự xoa dịu từ người lớn, mà quên mất rằng sự “hỗ trợ” ấy chỉ càng khiến bạn mãi chẳng thể nào “biết đi”. Và Mặc hệ thiên hạ, sống như người Nhật chính là cuốn sách dành cho những người muốn đi bằng chính đôi chân mình. Dành cho những người muốn gạt bỏ những nỗi sợ bởi chính tay mình, chứ không cầu cứu bất kì sự trợ giúp nào. Hãy thử sống một ngày “mặc kệ thiên hạ”, mặc kệ những lời nhận xét từ người khác. Hãy thử sống một ngày bạn cho phép mình từ bỏ, từ bỏ những thứ khó khăn, ngổn ngang lo lắng. Hãy thử sống một ngày bạn trân trọng mọi cung bậc cảm xúc bên trong con người bạn. “Nếu bạn có thể thẳng thắn đối diện với bản thân và từ bỏ những thứ đang giam cầm bạn, bạn sẽ trở thành con người có chính kiến, biết quý trọng hơn và đặt những cảm xúc của bản thân lên trên mọi ánh nhìn của người khác.” Mari Tamagawa khuyến khích mỗi người nên sống thật và ngưng phán xét bản thân. Thật lãng phí khi bạn để cuộc đời mình phải trải qua những tháng ngày khổ sở chỉ vì cái nhìn của người khác. Cũng đừng tin vào những “chiếc phao” cứu cánh mà bạn nhầm tưởng rằng sẽ giúp mình rũ bỏ được mọi lo lắng. Tổn thương tâm lí, áp lực hay nỗi sợ… của bản thân, chúng ta phải đối mặt với nó, chiến đấu và tự chữa trị cho chính mình. Đã đến lúc bạn cần phải nói lời tạm biệt với cuộc sống đầy âu lo đang rút cạn năng lượng của bạn. Cuộc đời của bạn không thuộc về ai khác, cuộc đời của bạn thuộc về bạn. Tháng 3 này hãy để “Mặc kệ thiên hạ, sống như người Nhật” giúp bạn bắt đầu cuộc đời mới, cuộc đời mang tên chính mình. *** 1:Nỗi buồn của tất cả mọi người thường bắt nguồn từ một người khác "Bạn mệt lả rồi đúng không? Để chúng tôi giúp bạn thư giãn" Có lần đang đứng đợi xe buýt trong một dịp đến thăm thành phố nọ, tôi bất chợt bị thu hút bởi những dòng chữ trên tấm biển quảng cáo. Hình như đó là quảng cáo cho một thiết bị bán tại siêu thị ở địa phương. Trên tấm biển quảng cáo là một bức tranh phong cảnh vô cùng yên bình. Một thiếu nữ nằm dài thư giãn bên hàng ngàn bông hoa ngát hương với vẻ mặt vô cùng thoải mái. Khoảnh khắc nhìn bức tranh, tôi chợt nhận ra lâu nay mình chẳng thấy thanh thản gì cả, tôi nảy ra ý đinh đến cái chỗ kia để ai đó giúp tôi thả lỏng gân cốt, dù chỉ một lúc thôi cũng được. Hai người phụ nữ khoảng 30 tuổi đứng chờ xe buýt ngay cạnh tôi có vẻ cũng chú ý đến tham biển quảng cáo này. "Nghe hay phết nhỉ? Mình cũng muốn được thư giãn! " "Phải khoảng đấy? Ngày nào mình cũng bị stress, thật sự rất mệt mỏi " Cuộc nói chuyện nghe qua chẳng có điều gì bất thường, nhưng thực ra, nhũng lo lắng của họ dường như chẳng thể nào giải quyết được.trước mắt họ là sự tồn tại của một bẫy rập lớn. Ảnh hưởng của sự "doa xịu"đến mỗi người cũng gần giống như sự an ủi tạm thời.Hiểu được điều đó, ta sẽ thấy được hiểu quả thực sự của "xoa dịu" trong việc giúp thay đổi tâm trạng con người. Phần lớn những người luôn tìm kiếm sự an ủi từ ai đó đều mong được giải thoát khỏi nỗi phiền muộn. Họ hy vọng sự xoa dịu giống như một loại ma thuật giúp họ giải quyết tất cả mọi thứ. Tuy nhiên, không ai ngờ rằng, nếu muốn thay đổi tình trạng bế tắc của mình bằng cách đó thì họ đã sai lầm nghiêm trọng. Tôi làm việc ở hiroshima với tư cách một nhà tâm lí học. Hiện tại tôi đã thành lập công ty tư nhân phi lợi nhuận nhưng trước đây tôi từng làm việc cho lực lượng phòng vệ mặt đất nhật bản.tôi là chuyên viên tâm lí hiện trường đầu tiên của lực lượng phòng vệ mặt đất,làm việc cho bộ Quốc Phòng Suốt 5 năm, tôi trị liệu tâm lí cho những binh sĩ chịu nhiều áp lực. Họ nhận thức được tình trạng nguy hiểm đe doạ tính mạng mỗi ngày. Thực ra, trước khi học tâm lí và trở thành tư vấn viên,tôi từng là một người lính tự vệ vô cùng bình thường phục vụ cho quân đội 8 năm, sau khi tôi tốt nghiệp cấp 3.hơn nữa,tôi bị số mệnh khắc nghiệt đùa giỡn, trải qua bạo lực gia đình mắc chứng trầm cảm, ly hôn và bị lừa. Đến khi nhận ra điều đó thì tâm hồn đã chịu không biết bao nhiêu tổn thương và tan vỡ, không cần như thuở ban đầu. Có lẽ do bản thân từng trực tiếp trải nghiệm những điều ấy cho nên trong khoảng thời gian làm việc tại quân đội, tôi khá gần gũi với những người lính. Trong lực lượng phòng vệ toàn quốc, tôi vô cùng tự hào khi binh sĩ tín nhiệm luôn đạt top đầu và tỉ lệ thành công phục chữ lên đến 90%,trở thành một phòng tư vấn "phải xếp hàng mới có thể vào"với khoảng 2000 buổi trò chuyện/hội thảo. Ở vị trí này. Tôi từng chứng kiến nhiều người mang trong mình những nỗi niềm khác nhau. Có những người tự nhiên cảm thấy khó chịu mà không biết nguyên nhân tại sao,cũng có những người chìm trong đau khô vì cuộc sống không như mong muốn. Tuy mức độ mỗi người khác nhau nhưng nỗi phiền muộn của họ lại gần như tương đồng. Mỗi người đều gặp rắc rối trong những mối quan hệ xã hội, hay có thể nói, mối quan hệ giữa bản thân và "một người khác".Người này có thể là đồng nghiệp, cấp trên, người yêu hoặc bạn đời, thậm chí là cha mẹ hay người đã khuất."Hầu hết những vấn đề mọi người bị bận tâm đều bắt nguồn từ một người khác. Những người tìm đến tôi đều bị quấn bởi nỗi lo âu và muốn nhah chóng được giải thoát những đau đớn khổ sở ấy. Tuy nhiên càng muốn được xoa dịu thì họ lại càng bị xoáy sâu hơn vào nỗi đau khổ. Hai người phụ nữ đứng chờ xe buýt cùng tôi khi đoá có lẽ cũng vậy dựa dẫm vào sự xoa dịu. Để thoát khỏi nỗi đau khổ tâm,họ chọn cách đi tắm onsen(suối nước nóng) hoặc tìm kiếm dịch vụ massage. Nếu muốn thay đổi tâm trạng và thư giãn thì điều này hoàn toàn tốt,nhưng nếu muốn giải quyết rắc rối hay thoát khói đau khổ thì đây không phải phải phương án tối ưu. Tôi không khuyến khích bạn lựa chọn phương án này. Càng muốn được an ủi thì bạn càng không đạt được điều đó. ... Mời các bạn đón đọc Mặc Kệ Thiên Hạ - Sống Như Người Nhật của tác giả Mari Tamagawa.
Nghệ Thuật Tinh Tế Của Việc Đếch Thèm Quan Tâm - Mark Manson
Mark Monson, một blogger, tác giả trẻ nổi tiếng trên mạng đã chia sẻ những góc nhìn rất độc đáo về cuộc sống cũng như nghệ thuật mặc kệ mọi thứ. Những bài học của Mark Manson về cuộc sống được nhiều người khen ngợi và học tập. Trong cuốn sách mới của anh với tựa "Nghệ thuật tinh tế của việc không quan tâm" anh đã có những góc nhìn hết sức độc đáo. Dưới đây là đoạn trích trong blog của anh về vấn đề này. "Trong cuộc sống của tôi, tôi đã từng rất quan tâm về nhiều người và nhiều điều. Tôi cũng đồng thời không quan tâm tới nhiều người và nhiều điều. Những thứ tôi chẳng thèm quan tâm ấy đã tạo nên tất ca những khác biệt." Mọi người vẫn thường cho rằng chìa khoá của sự tự tin và thành công trong cuộc sống đơn giản chỉ là "kệ nó đi". Sự thật là, chúng ta thường liên tưởng tới những người mạnh mẽ, đáng ngưỡng mộ nhất, những người chả bao giờ quan tâm tới thứ gì. Kiểu như "Này, xem bé A nghỉ làm cả tuần kìa, nó chẳng thèm quan tâm đến ai" hoặc tựa như "Hôm qua nghe ông B mắng sếp mà vẫn được tăng lương kìa, ôi giời ơi, ông đấy thì quan tâm gì"... Khả năng lớn là trong cuộc đời, bạn sẽ gặp một hoặc nhiều người chẳng bao giờ quan tâm đến ai, cái gì nhưng vẫn đạt được nhiều thành quả lớn. Hoặc một lần nào đấy trong đời bạn mặc kệ mọi thứ nhưng vẫn đạt được những đỉnh cao ngoài mong đợi. Ví dụ của bản thân tôi này, nghỉ việc ở một công ty tài chính chỉ sau 6 tuần làm việc sau đấy ném vào mặt sếp những ý tưởng cá nhân và rồi bán toàn bộ tài sản để sang Nam Mỹ sống. Tôi có quan tâm không? Không, mình thích thì mình cứ làm thôi! *** Charles Bukowski[1] là một gã nghiện rượu, một kẻ lang chạ với nhiều phụ nữ, con nghiện cờ bạc kinh niên, một tên thô thiển, một gã keo kiệt, một kẻ lười biếng, và tệ hại hơn cả, ông ta là một nhà thơ. Ông ta có lẽ là người cuối cùng trên trái đất này mà bạn nên tìm tới để xin một lời khuyên cuộc sống hay sẽ hi vọng bắt gặp trong những cuốn sách về hoàn thiện bản thân. Vì lẽ đó mà ông ta là sự mở đầu hoàn hảo Bukowski mong muốn trở thành một nhà văn. Nhưng trong nhiều thập kỷ những tác phẩm của ông ta đều bị các tờ báo, tạp chí, tập san, nhà xuất bản từ chối. Các tác phẩm của ông ta thật là kinh khủng, họ nói vậy. Thô thiển. Ghê tởm. Sa đọa. Và khi mà những lời từ chối chất cao như núi, thì cảm giác thất bại đã đẩy ông chìm sâu vào rượu và nỗi chán chường theo đuổi ông gần như suốt cả cuộc đời. Bukowski làm công ăn lương tại một bưu điện. Ông lĩnh số tiền lương bèo bọt và dành phần lớn số đó vào rượu chè. Ông ném phần còn lại vào mấy kèo cá cược trên trường đua ngựa. Và khi đêm xuống, ông lại nốc rượu một mình và đôi khi rặn ra vài vần thơ từ chiếc máy đánh chữ già nua. Thường thường, ông sẽ tỉnh dậy trên sàn nhà, sau một đêm ngất lịm. Ba mươi năm cuộc đời cứ thế trôi qua, hầu như là một sự vô nghĩa mơ hồ giữa rượu, ma túy, cờ bạc, và đĩ điếm. Và rồi, khi Bukowski bước sang tuổi năm mươi, sau một quãng đời thất bại ê chề và chán ghét bản thân, một biên tập viên của một nhà xuất bản độc lập nhỏ bỗng có hứng thú kỳ lạ với ông ta. Nhà biên tập không thể trả được cho Bukowski nhiều tiền hay hứa hẹn về một doanh số lớn từ việc bán sách. Nhưng anh ta lại có hảo cảm với gã thất bại nghiện ngập này, nên anh ta quyết định sẽ một lần đánh cược. Đó là lời đề nghị đầu tiên mà Bukowski từng nhận được, và, ông nhận ra, rất có thể cũng là lời đề nghị duy nhất mà ông được nhận trong cuộc đời mình. Bukowski hồi đáp lại nhà biên tập rằng: “Tôi có một trong hai lựa chọn – hoặc ở lại bưu điện và phát điên…  hoặc là thành người tự do và chơi trò viết lách và chết đói. Tôi đã quyết định chọn chết đói. ” Sau khi ký kết hợp đồng, Bukowski hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình trong ba tuần. Nó được đặt tên đơn giản là Post Office (tạm dịch: Bưu điện). Trong phần đề tặng, ông viết, “Không dành cho ai hết. ” Bukowski trở thành nhà viết tiểu thuyết và nhà thơ. Ông viết liên tục và xuất bản sáu cuốn tiểu thuyết và hàng trăm bài thơ, bán được tới hơn hai triệu bản sách. Sự nổi tiếng của ông nằm ngoài dự đoán của tất cả mọi người, bao gồm cả chính ông. Câu chuyện của Bukowski thật ra rất quen thuộc trong xã hội của chúng ta. Cuộc đời của Bukowski chính là một minh chứng cho cái gọi là Giấc mơ Mỹ: một người đàn ông tranh đấu cho điều mà anh ta mong muốn, không bao giờ từ bỏ, và còn có thể đạt được giấc mơ lạ lùng nhất của anh ta. Người ta còn có thể dựng phim về nó nữa cơ. Chúng ta đều nhìn vào những câu chuyện như của Bukowski và kết luận, “Thấy chưa? Ông ta không từ bỏ. Ông ta không ngừng cố gắng. Ông ta luôn tin vào chính mình. Ông ta vượt qua mọi sóng gió và khẳng định bản thân!” Điều kỳ lạ chính là dòng chữ được khắc trên bia mộ của Bukowski: “Đừng cố!” Xem này, ngoài tiền bán sách và danh tiếng, Bukowski là một kẻ vứt đi. Ông cũng biết vậy. Và thành công của ông không xuất phát từ quyết tâm trở thành người chiến thắng, mà từ thực tế rằng ông biết mình là kẻ thua cuộc, chấp nhận nó, và rằng ông đã viết rất chân thật về điều đó. Ông không bao giờ cố gắng trở thành một điều gì khác ngoài chính mình. Điều tuyệt vời trong tác phẩm của Bukowski không phải nằm ở việc vượt qua những sự khác biệt khó tin hay nâng tầm bản thân thành một hình tượng sáng chói trong nền văn học. Mà là sự trái ngược hoàn toàn. Đó đơn giản là khả năng của ông trong việc hoàn toàn và không sợ hãi khi thành thật với bản thân – đặc biệt là những phần tệ hại nhất – và chia sẻ những thất bại của mình mà không hề ngại ngần hay nao núng. ... Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Tinh Tế Của Việc Đếch Thèm Quan Tâm của tác giả Mark Manson.
Bí Mật Của Nước - Masaru Emoto
Khởi nguồn từ bộ sưu tập các bức ảnh chụp tinh thể nước của tôi trong Thông điệp của nước (Messages from water [Mizu kara no dengen] – Vibration Kyoikusha, 1999), tôi đã dần nhận ra rằng những cuốn sách về nước này có một sức mạnh kỳ lạ và phi thường. Tự chúng đã có khả năng bay cao và vươn xa khỏi những biên giới quen thuộc của tôi tới những vùng đất xa xôi, nơi chúng có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Chúng buộc mọi người phải nhìn mọi vật theo một cách khác và tôi thường được mời tới nói chuyện với những người đã từng được cuốn sách lay động. Đôi khi tôi cảm thấy như mình đang được linh hồn của nước dẫn dắt. Tôi cảm thấy như mình có thể thấy và thậm chí nói chuyện được với linh hồn đó, linh hồn mà tôi được chiêm ngưỡng dưới dạng những hạt sáng long lanh trong không khí. Những hạt nhỏ này tụ lại với nhau để hình thành nên mây, rồi tan biến cũng nhanh chóng như thế, tất cả đều khiến tôi cảm thấy thật thư giãn. Mặc dù giờ đây tôi cảm thấy như mình được linh hồn của nước dẫn dắt, lần tiếp xúc đầu tiên của tôi với nước lại chẳng dễ chịu chút nào. Ở thành phố Yokohama, Nhật Bản – nơi tôi lớn lên, gia đình tôi sống trên một bình nguyên gần biển. Nơi đó chỉ cách mép nước một đoạn đi bộ ngắn xuống một con dốc. Khi thủy triều rút, bờ biển nông phơi mình đến hàng dặm, để lại một bãi săn tuyệt vời đủ các loại trai sò. Nhưng khi thủy triều lên cao, cảnh tượng lại hoàn toàn khác. Chắc có lẽ tôi được tầm sáu hay bảy tuổi gì đó khi một ngày nọ, biển cả nuốt chửng tôi. Hôm đó, tôi đi bơi cùng cậu bạn hàng xóm hơn tôi hai tuổi. Chúng tôi đã ra xa hơn mức an toàn, rồi đột nhiên tôi bắt đầu trồi lên ngụp xuống, khao khát có không khí để hít thở. Đó là lần đầu tiên tôi trải qua một chuyện như thế. Tôi chỉ cách bờ có 10 mét, nhưng chân tôi không chạm tới đáy. Tôi hoảng sợ và bắt đầu vẫy tay, đạp chân. Nhưng càng hoảng loạn, tôi càng chìm và chẳng mấy chốc tôi bắt đầu uống nước. Tôi nghĩ có lẽ đoạn kết của cuộc đời mình sắp tới rồi, nhưng một con thuyền nhỏ tới và kéo tôi khỏi mặt nước. Khi tôi về tới nhà và kể với mẹ chuyện xảy ra, bà cho tôi một lời khuyên dựa trên khả năng bơi và sự am hiểu của bà về nước. “Chỉ cần thả lỏng cơ thể là con sẽ có thể nổi,” bà nói. Bà bảo rằng nếu tôi để nước nâng tôi lên thay vì cố gắng chống lại nó, nó sẽ nhấc tôi lên và mang tôi đi. Tôi luôn mang bên mình những lời nói này suốt nhiều năm tháng. Từ lúc đó, tôi luôn cố gắng buông mình theo dòng nước trong khi nhẹ nhàng di chuyển theo hướng mà tôi muốn cuộc đời dẫn tôi đi. Giờ đây, bất cứ khi nào tôi đi bơi ở biển hay trong bể bơi, tôi thích nằm ngửa và để vòng tay của nước bế ẵm mình. Và hơn bất cứ lúc nào khác, đó chính là những khoảnh khắc tôi cảm nhận rõ rệt nhất sự hiện diện linh hồn của nước dưới dạng các hạt li ti lấp lánh. Tôi thấy khá tự tin khi nói rằng lý do mà tôi có ý tưởng làm đóng băng nước và chụp lại những bức ảnh tinh thể là do tôi mong muốn được trôi theo dòng chảy của cuộc đời. Linh hồn của nước đã cứu rỗi tôi, hướng dẫn tôi sống cuộc đời mà tôi đang sống. Linh hồn đó đã dẫn dắt và chỉ dẫn cho tôi qua bao năm tháng, dạy cho tôi nhiều điều cần biết, đỉnh cao là sự ra đời của cuốn Thông điệp của nước (The hidden meassages in water). Không lâu sau khi cuốn sách được xuất bản, bạn đọc bắt đầu gửi thư cảm ơn cho tôi. Những ngôn từ đẹp đẽ của họ đã giúp tạo ra một dòng chảy tuyệt vời để tôi buông mình theo. Hầu hết các bức thư đều thể hiện sự đề cao và cả sự kinh ngạc khi được nhìn thấy chân lý của tự nhiên hiển hiện qua các tinh thể nước. Một người phụ nữ đã viết: “Trong tất cả những cuốn sách tôi từng đọc trong đời mình, đây là cuốn tuyệt vời nhất. Cám ơn ông rất nhiều vì cuốn sách này. Tôi sẽ trân trọng nó trong suốt phần đời còn lại của mình.” Một bức thư khác thì viết: “Thấy sự thật được hé lộ một cách trực quan như vậy thật đáng ngạc nhiên, sửng sốt và đầy thuyết phục. Cuốn sách này khiến tôi nhận ra rằng những ảnh hưởng do các bài giảng, lời cầu nguyện và tôn giáo cổ xưa không chỉ là những điều mê tín và ngẫu nhiên mà là kết quả dựa trên sự thật về vũ trụ.” Và một lá thư khác: “Người cha 76 tuổi nói với tôi ‘Trong tất cả những cuốn sách mà mọi người giới thiệu cho cha, đây là cuốn duy nhất cha thấy mừng vì đã đọc.’ Cám ơn ông vì cuốn sách đã thay đổi cách nhìn nhận cuộc sống của tôi.” Thực ra, nếu chúng ta chiết suất năng lượng từ tất cả những lời nhắn nhủ này và tạo thành một tinh thể, tôi chắc chắn là nó sẽ rất đẹp. Đây là công trình về các tinh thể nước. Tôi phát hiện ra rằng những người bị vẻ đẹp của những tinh thể này cuốn hút sẽ trở nên gắn kết và rồi cộng hưởng với nhau. Giống như khi một chiếc lá rơi xuống mặt nước, một làn sóng lặng lẽ và êm ái nhưng chắc chắn sẽ lan ra như kết quả của việc cuộc đời bí ẩn của nước đang được tiết lộ cho toàn nhân loại. Trên khắp thế giới, phản ứng của tất cả mọi người đều giống nhau. Tôi đã gặp gỡ nhiều người đến từ Đức, Thụy Sĩ, Áo, Hà Lan, Anh, Pháp, Ý, Mỹ, Canada, Costa Rica, Uruguay, Ecuador, Brazil, Úc, Hàn Quốc, Philippines và Đài Loan – những nơi tôi tới giảng bài. Tháng Sáu năm 2002, tôi được Giáo hội chính thống Hy Lạp mời tới dự một chuyến hội thảo du hành xa hoa trên biển Adriatic(1) cùng với những lãnh đạo tâm linh và các nhà khoa học trên khắp thế giới. Các buổi hội thảo chuyên đề được tổ chức ở Hy Lạp, Albani, Montenegro, Slovenia, Croatia, Ý và những bến đỗ khác. Với tên gọi Hội thảo chuyên đề quốc tế về Tôn giáo, Khoa học và Môi trường, đây là lần thứ tư sự kiện được tổ chức. Tôi đã được mời trước ba tháng bởi một trong những nhà tổ chức hội nghị, một phụ nữ Hy Lạp – người đã được con gái cho xem bộ sưu tập những bức ảnh tinh thể. Cảm xúc của mỗi người khi nhìn thấy các bức ảnh tinh thể chạm tới phần sâu thẳm của từng cá nhân và tạo nên một dòng kinh ngạc chảy từ người này qua người khác để rồi giờ đây trở thành một dòng sông tuôn trào. Còn một cách khác để thể hiện phản ứng với những cuốn sách về các tinh thể nước. Giống như thể các tinh thể nước đã mang lại nguồn dinh dưỡng cho những tâm hồn khô cạn của những người phải sống trong điều kiện khắc nghiệt của xã hội hiện đại. Chúng đã bổ sung thêm vào sự rạng ngời của cuộc sống cho mỗi cá nhân và cả xã hội. Hơn tất thảy, những tấm ảnh đã thành công trong việc khởi đầu một phong trào rộng lớn đang diễn ra giữa con người trên khắp thế giới. Hoạt động sống là hoạt động trôi chảy. Nếu một con đập được xây dựng trên một dòng sông để chặn dòng chảy của nó lại, con sông sẽ chết. Cũng giống như vậy, nếu sự lưu thông của máu bị ngăn lại ở đâu đó trong cơ thể chúng ta, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ chấm dứt sự sống của mình. Điều tương tự cũng đúng cho các thành phố và các quốc gia. Gần đây, tôi đã may mắn có được cơ hội thuyết giảng cho đông đảo khán giả ở Berlin. Bạn biết đấy, Berlin là thành phố từng bị chia cắt bởi một bức tường. Tôi nói với khán giả của mình rằng cũng giống như nước luôn luôn nên được tự do chảy, một thành phố hay một quốc gia chẳng có lý gì để bị chia cắt cả. Sự phân tách Berlin vào năm 1961 đã kéo theo biết bao điều khổ sở, gia đình ly tán và cả những ước mơ cũng bị gián đoạn. Rồi, 28 năm sau, bức tường bị phá sập và cũng giống như nước luôn tự do tuôn chảy, hàng triệu người bắt đầu đến và đi theo ý chí tự do của riêng họ. Con người đã mô phỏng lại dòng chảy của nước – một quy luật của tự nhiên. Và lý do là phần lớn con người là nước. Khoảng 70% cơ thể chúng ta là nước. Điều này cũng đúng cho những cá thể trưởng thành của phần lớn các giống loài và đó là lý do vì sao con người không nên bị chia cắt bởi những chiến lược và ý thức hệ chính trị. Cũng giống hệt như nước, con người lúc nào cũng cần được tự do tuôn chảy. Khi kết thúc bài nói chuyện của mình, tôi nhận thấy rằng sự thay đổi đã bao trùm lên cả hội trường. Như thể có một cảm xúc đã lan ra toàn thể chúng tôi. Cả một làn sóng người đứng dậy và bắt đầu vỗ tay. Thông điệp của tôi đã chạm tới tâm hồn họ và kết quả là một làn sóng cảm xúc tỏa ra cả hội trường, tạo nên một làn sóng sẽ mãi lớn lên và lan rộng tới những người khác nữa. Khát vọng hòa bình và những lời nguyện cầu cho tình yêu không thể bị giam hãm trong những ranh giới. Khác biệt về màu da hay ngôn ngữ đều có thể dễ dàng vượt qua khi những trái tim hòa điệu với nhau, tạo nên một làn sóng tuôn chảy. Một cuộc phiêu lưu nhỏ bắt đầu với một tinh thể nước li ti đã lan tới mọi người trên khắp thế giới, tạo nên một phong trào ngày càng lớn mạnh. Những tinh thể nước đã hòa quyện với điều gì đó tinh khiết và thiêng liêng sâu thẳm bên trong tâm hồn của những người đã xem các bức ảnh. Những trái tim đã rộng mở và tình yêu, lòng biết ơn cùng một hy vọng về hòa bình đã trào dâng, mở ra con đường cho một cuộc phiêu lưu mới. Qua cuốn sách này và qua những tấm ảnh tinh thể, tôi hy vọng sẽ truyền tải được sức mạnh của lời cầu nguyện. Khi nước được tiếp xúc với một số cách biểu hiện nhất định – “Bạn thật dễ thương,” “Bạn thật xinh đẹp,” “Tình yêu và lòng biết ơn” – một tinh thể tuyệt đẹp sẽ hình thành khi nước được đóng băng. Điều này thực sự có ý nghĩa gì với chúng ta? Những ý nghĩ trong trái tim chúng ta có tác động tới tất cả sự sống và trong quá trình hình thành thế giới ngày mai của chúng ta. Tâm hồn con người có một sức mạnh phi thường. Chúng ta thường nghe nói rằng hành động là kết quả cho những suy nghĩ của chúng ta và nguyên tắc đó được minh chứng rõ nét qua cách nước hình thành các tinh thể theo những ảnh hưởng mà nó vừa được tiếp xúc. Nhưng khả năng ảnh hưởng lên hành động bằng suy nghĩ là con dao hai lưỡi. Nếu con người khao khát được thấy sự hủy diệt của thế giới, vậy thì đó là điều sẽ xảy đến. Có rất nhiều điều đã xảy ra trong thế giới này kể từ khi con người bắt đầu biết tới các tinh thể nước. Những tòa nhà khổng lồ – biểu tượng của văn minh và thịnh vượng – đã sụp đổ ngay trước mắt chúng ta. Những cuộc chiến tranh mới đã nổ ra. Chúng ta đã thấy nỗi buồn sinh ra sự giận dữ và giận dữ lại tạo ra nhiều nỗi buồn hơn, tạo thành một vòng tròn bao trọn lấy thế giới xung quanh chúng ta. Có người khóc, có người cúi đầu tuyệt vọng và có người ngẩng lên cầu nguyện. Chúng ta phải dùng chính sức mạnh bên trong mình để giữ những suy nghĩ của chúng ta tập trung vào những điều tốt đẹp xung quanh thay vì vào những thế lực mang tính hủy diệt. Chúng ta đang ở vào một thời điểm trong lịch sử nhân loại mà hơn bao giờ hết, chúng ta cần khám phá lại một vài chân lý quan trọng mà bằng cách nào đó ta đã quên. Thực tế, đây có thể là cơ hội cuối cùng của chúng ta. Và đây là bài học mà tôi cảm thấy rằng các tinh thể nước đang cố truyền đạt lại cho chúng ta. Nghiên cứu về các tinh thể của tôi bắt đầu với khát vọng muốn được bước dù chỉ một bước thật nhỏ bé để thấu hiểu về vũ trụ, nhưng giờ đây điều đó đã dẫn tới cuộc cách mạng của một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn đối với tôi. Tôi đã được thấy ảnh hưởng của những nụ cười rạng ngời của mọi người trên khắp thế giới và những cách thể hiện cảm xúc khác lên quá trình hình thành những tinh thể xinh đẹp. Nhưng có thể bạn sẽ hỏi, liệu hòa bình thế giới có thể đến từ những tinh thể nước giản dị không? Mong muốn của tôi là được bước bước đầu tiên về hướng đó, rồi một bước nữa và một bước nữa, cứ thế, cứ thế về phía kết cục đó. Khi tôi tiếp tục cuộc trò chuyện của mình với nước, các tinh thể tiếp tục dạy tôi rất nhiều bài học: tầm quan trọng của việc sống hài hòa với giai điệu của cuộc sống và dòng chảy của tự nhiên, để lại một địa cầu xinh đẹp cho các thế hệ tương lai; tình yêu và lời cầu nguyện. Tất cả những thông điệp này đều được nhắc đến trong cuốn sách này. Tôi sẽ chẳng thể hạnh phúc hơn nếu biết rằng cuốn sách sẽ tạo ra một tác động tích cực đến tất cả những người cầm nó trên tay. Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn của mình tới Nhà xuất bản Beyond Words Publishing vì đã xuất bản cuốn Thông điệp của nước (The hidden messages in water) và Sức mạnh thực sự của nước (True power of water), cùng tất cả những người đã giúp đỡ tôi theo rất nhiều cách khác nhau cả những nhân viên của tôi ở IHM – những người đã phải chịu đựng rất nhiều giờ trong phòng làm lạnh để chụp hình các tinh thể. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Của Nước của tác giả Masaru Emoto.