Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Người Chân Chính (Boris Polevoi)

Năm 1954, khi từ bưng biền về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, tôi đến cửa hàng Albert Portail ở đường Catinat mua sách báo ngoại văn. Tình cờ tôi thấy một số sách Liên Xô dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Xã hội Pháp (Editions Sociales) bày bán tự do. Tôi lựa được một cuốn tiểu thuyết rất hay: “Một người chân chính” (Un homme veritable) của nhà văn Xô viết Bôris Pôlêvôi. Tôi bắt đầu dịch ngay trong những thời gian rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm.

Lúc đầu tôi định chuyển thể để có thể đăng trên các báo Sài Gòn hoặc ra sách, như kiểu anh Năm Châu chuyển thể vở “Người mặt cháy”. Nhưng dưới sự kiểm duyệt rất khắc nghiệt của địch nên không thể qua mặt được. Tôi liền gửi đăng trên báo Sông Chung (sau này là báo Trung Lập) của Việt kiều ở Phnôm Pênh.

Sau đó tôi sửa chữa lại lần nữa bản dịch gửi ra Hà Nội. Vợ tôi (chị Lê Đoan) lúc đó là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam đã đưa bản dịch cho Nhà xuất bản Thanh Niên.

Cuốn sách được in 2 lần, mỗi lần với số lượng lớn 15.000 bản. Nhà xuất bản còn đề nghị tác giả Bôris Pôlêvôi gửi ảnh và lời tựa cho cuốn sách kèm với bản tự thuật của ông.

Vì tôi dịch cuốn sách từ tiếng Pháp, chớ không phải tiếng Nga, nên phải nhờ Giáo sư Phạm Huy Thông hiệu đính theo nguyên bản tiếng Nga. Anh Phạm Huy Thông lại có dịp gặp cả tác giả Bôris Pôlêvôi và anh hùng Xô viết Alếchxây Mêrétxép nên việc xuất bản cuốn “Một người chân chính” càng có giá trị thắt chặt quan hệ anh em giữa Liên Xô và Việt Nam. Đây là bản dịch rất sớm các tác phẩm văn học của Liên Xô. Vì cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài, tôi rất tiếc không gặp được Bôris Pôlêvôi và anh hùng Alếchxây Mêrétxép, chỉ có liên hệ thư từ với Bôris Pôlêvôi. Chính tác giả đã gởi cho tôi nhiều tác phẩm văn học của Liên Xô và cả sách học tiếng Nga để tôi tự học khi còn ở chiến khu. Bôris Pôlêvôi còn khuyên tôi nên dịch cuốn “Tấm kiếng Parabôn” của Alếchxây Tônstôi, tôi cũng đã dịch và in thành truyện nhiều kỳ (feuilleton) trong tuần san “Hòa bình trung lập” của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Tìm mua: Một Người Chân Chính TiKi Lazada Shopee

Cuốn “Một người chân chính” có tính giáo dục, rèn luyện thanh niên rất cao, gần như cuốn “Thép đã tôi thế đấy”. Bởi vì phi công Alếchxây Mêrétxép sau khi bị bắn hạ trên bầu trời Đức chiếm đóng, gãy hai chân, đã bằng hai tay bò suốt 18 ngày đêm vừa đói vừa rét, để về căn cứ Hồng Quân. Sau khi lắp chân giả, anh lại bay nhiều ngày tấn công địch đến thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh chống Phát xít. Anh được phong Anh hùng lực lượng võ trang Liên Xô và được bầu vào Ban Chấp hành “Hội đồng Hòa bình thế giới” chính anh đã lên tiếng nhiều lần ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam trên các diễn đàn Quốc tế.

Tôi có ý định tái bản cuốn “Một người chân chính” vì cuốn sách là một tác phẩm có giá trị văn học, có giá trị giáo dục thanh thiếu niên, ngay cả trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Người dịch Minh Đô (Phạm Dân).

***

LỜI TÁC GIẢ

Tôi chưa sang thăm nước Việt Nam. Nhưng tôi có cảm tưởng là mình đã từng sống ở đấy, đã quen biết cảnh thiên nhiên giàu đẹp của đất nước này, với những khu rừng nhiệt đới, những con sông hùng tráng và những thung lũng phì nhiêu, những người Việt Nam tuy tầm vóc không cao lắm, nhưng gần cảnh vật và những con người ấy, không ai có thể coi là bé nhỏ.

Những năm trước đây, khi nhân dân Việt Nam đang tiến hành cuộc đấu tranh thần thánh và anh dũng chống bọn thực dân được trang bị đẩy đủ thì những người Xô viết chúng tôi đã theo dõi quá trình các trận chiến đấu anh dũng của các bạn với tấm lòng kính phục và thông cảm sâu sắc. Nhân dân chúng tôi biết rõ giá trị của lòng dũng cảm, tinh thần can đảm và lòng yêu mến tự do. Người anh hùng họ biết kính phục tinh thần anh dũng của những người anh hùng khác. Vì vậy người Việt Nam ở xa chúng tôi, đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết. Chúng tôi rất vui mừng trước mỗi thắng lợi chống thực dân của các bạn và đã gửi đến đất nước các bạn lời chào hòa bình. Ngày nay với tấm lòng kính phục anh em, chúng tôi rất yêu mến những người Việt Nam quang vinh đang nắm trong tay vận mệnh của mình để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc.

Tôi hy vọng Alếchxây Mêrétxép, nhân vật có thực trong cuốn sách của tôi, một người Xô viết bình thường sẽ được gặp những người bạn tốt trong hàng ngàn vạn người lao động của nước Việt Nam mới. Chính vì ở nước các bạn cũng biết rõ giá trị tinh thần anh dũng chân chính, nên Alếchxây Mêrétxép đã đến với các bạn như tình anh em.

Mạc tư khoa (Mascơva)

2-1960

Bôris Pôlêvôi

***

LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ

Tôi sinh ngày 17 tháng 3 năm 1908 tại Mátxcơva, nhưng tôi lớn lên ở Tưve (bây giờ gọi là Calinin); cho nên tôi có thể có lý do để tự coi mình là một công dân Calinin.

Cha tôi xưa là luật gia. Ông chết vì bệnh lao năm 1916. Tôi gần như không còn nhớ gì hết về ông, nhưng cứ phán đoán theo tủ sách rất tốt ông để lại, trong đó có đầy đủ các nhà văn cổ điển Nga và nước ngoài, và theo lời mẹ tôi nói lại, thì đối với thời ông, ông là một người có đầu óc tiến bộ và có học vấn cao rộng. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi vào làm việc ở một nhà thương xưởng máy, làm thầy thuốc, và mẹ con chúng tôi dọn đến ở trong một xưởng dệt lớn của bọn buôn bán Marôdốp.

Tôi ở đấy suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu của tôi.

Chúng tôi ở trong chỗ gọi là “nhà nhân viên”, nhưng bạn học và bạn chơi của tôi là các con cái thợ thuyền, và vì mẹ tôi làm việc ở nhà thương nên công việc bận rộn bù đầu và chả mấy khi gần gũi con được, có những khi tôi cứ cả ngày ở trong các nhà ngủ công cộng của công nhân hay ở vùng ngoại ô quanh đấy. Tôi học hành không đến nỗi quá kém ở trường, nhưng cũng không hào hứng quá độ, và vào ngày giờ rảnh, tôi hoặc ra giữa dòng sông Tưmaca - một dòng nước hôi thối chảy ngang qua xưởng - và hoặc đắm chìm trong sách vở trong thư viện của cha. Tuy bận bịu, mẹ tôi cũng cố gắng hướng dẫn tôi đọc sách và khuyên nhủ tôi đọc sách của những tác giả mà mẹ tôi ưa thích nhất.

Những cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Gôgôn, Sêkhốp, Nêcưraxốp, Pimialốpski. Nhà văn tôi thích nhất là Goócki. Khi còn là sinh viên, cha mẹ tôi đều rất tôn sùng ông, và tủ sách của gia đình gồm hầu tất cả những sách của ông xuất bản trước cách mạng. Thời còn bé, tôi lại còn có một chiều hướng thích thú khác nữa, là yêu thiên nhiên. Học lớp tư, tôi đã là một “người lãnh đạo” nhóm các nhà sinh vật học trẻ tuổi và đã tham dự những cuộc gặp gỡ của thanh thiếu niên thành phố và của thanh thiếu niên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô viết Nga. Ở nhà tôi lúc nào cũng có chứa những khách lạ: một lần, có con ưng không biết tại sao lạc đến bay lới phới trong sân xưởng và đụng phải dây điện tín gẫy cánh; một lần khác, có con quạ con bị ngã từ trên ổ xuống được tôi cứu thoát khỏi móng mèo, có con nhím và có cả con rắn nước mà tôi dọn dẹp chỗ cho ở giữa hai khung cửa sổ, trong một đường rãnh nhỏ đã đào riêng cho nó.

Trong thành phố bấy giờ có xuất bản một tờ báo địa phương: tờ Sự thật Tưve. Trong những năm hai mươi[1] có thành lập nên trong xưởng một mạng lưới quan trọng các thông tín viên công nhân. Tòa báo đặt trong căn nhà sắp xếp dụng cụ cứu hỏa. Và lũ bé con chúng tôi vô cùng kính phục nhìn những kẻ ra vào căn nhà gạch nhỏ ấy. Những thông tín viên công nhân mà! Những người viết bài trong báo mà! Chủ tịch của tổ chức đó, bác thợ nguội Gurianốp, là một trong những người được trọng vọng nhất nhà máy. Chắc hẳn là từ thuở xa xăm ấy đã chớm nở trong tôi cái chiều hướng thích thú đối với nghề viết báo, bấy giờ tôi đã coi như nghề hay nhất, quan trọng vô cùng, lại có cái khía cạnh đôi chút huyền bí.

Tôi đang học lớp sáu khi báo Sự thật Tưve đăng bài báo nhỏ đầu tiên của tôi. Bài, theo như tôi còn nhớ được, có bảy dòng; nó kể chuyện một nhà thơ nông dân có tiếng tên là Đưrốtgin, đến thăm trường. Báo đăng bài đó cuối trang tư và tôi nhớ là đâu không có ký tên. Nhưng tôi thì tôi biết là ai viết bài đó, nên tôi không bao giờ rời số báo có đăng bài đó cho đến lúc nó rách tan từng mảnh trong túi tôi. Từ đó, tôi viết đều đặn trong báo Sự thật Tưve: bắt đầu là phản ánh mọi việc gì lôi thôi ở thành phố, rồi vào những đề nghiêm chỉnh hơn; cuối cùng, khi tòa soạn chú ý đến tôi, tôi được giao cho làm những phóng sự nho nhỏ về thời sự ở thành phố trong các xưởng, các nhà máy. Tôi tiếp tục học phổ thông, rồi tôi vào trường kỹ thuật công nghiệp; tôi chuyển ngành hóa học và cắm đầu vào phân tích chất lượng và số lượng. Nhưng tôi đã mơ màng tới những phòng tòa soạn phảng phất mùi mực in; trong những giờ nghe giảng, tôi viết trộm những bài báo hay những thiên phóng sự về những đề khá là xa với những đề mà giáo sư đang diễn đạt. Cứ như thế dần dần tôi đi đến làm cái nghề làm báo Xô viết, cái nghề mà tôi luôn vẫn coi như ngành văn chương nhiều hứng thú hơn tất cả các ngành khác.

Báo Sự thật Tưve bấy giờ là một tờ báo rất là sinh động: Nhờ báo biết nắm lấy đúng lúc và “cho ra” cái gì có vẻ mới, hay và có giá trị trong công tác lao động xã hội chủ nghĩa ở xí nghiệp và ở thôn xóm. Làm việc báo chí, tôi quen quan sát cẩn thận, suy nghĩ về các sự việc, và chỉ viết về những vấn đề mà tôi biết thật đầy đủ. Tôi bỏ những tháng nghỉ ngơi của tôi để làm việc cho nhà báo, cố gắng lợi dụng thì giờ ấy để mà quan sát.

Tấm gương huy hoàng của Goócki, mà tôi đọc tác phẩm từ bé, soi sáng đường đi cho tôi chẳng khác ngọn hải đăng. Tôi học được tinh thần quan sát là chính ở nơi ông. Một mùa hè nọ, tôi định sẽ cho tòa soạn một thiên phóng sự về những xí nghiệp làm nghề rừng và những xí nghiệp làm nghề thả bè trên sông trong vùng Tưve. Tôi đi tuốt đến quận Xêligiarốpski. Ở đó, tôi tới những xí nghiệp làm nghề rừng, tôi lên bè trôi sông và tôi làm việc ở đó, cầm tay lái, giữ tay chèo ở phía sau bè. Cứ thế là từ nguồn sông Vonga tôi xuống đến tận Calinin, rồi lại còn xuống thấp hơn thế nữa, đến tận Rưbinscơ, nơi đó kết thúc thật là mỹ mãn, lịch trình của tôi vừa lúc những bè cây cặp đúng bến. Trong khi rong ruổi như vậy, báo đăng loạt bài của tôi tựa là Trên những bè trôi sông. Tôi viết những bài đó ban đêm, gần ngọn lửa nhỏ đốt ở giữa nhà lều trên bè.

Một mùa hè khác, tòa soạn báo Thôn xóm Tưve giao cho tôi làm một thiên phóng sự về tình hình chủ nghĩa xã hội thâm nhập đời sống các thôn xóm chưa tổ chức thành nông trang. Tôi đến làng Míchsina một nơi cùng tận trong tỉnh Tưve, làm nghề sắp xếp sách trong thư viện và viết một loạt bài báo về đời sống trong làng về những bước đầu tiên của lao động tập thể.

Năm 1927, tập bài báo đầu tiên của tôi ra đời. Các bạn tôi trong tòa báo của thanh niên cộng sản Thế hệ trẻ không bảo gì tôi cả mà cứ gửi nó đến cho Mácxim Goócki ở Xorente. Khi hay biết được, tôi cuống cuồng cả lên. Bắt nhà đại văn hào phải mất công đọc các sáng tác chẳng ra gì mấy đó, mà tôi lại nhận thức được vô cùng rõ ràng là thật là còn non nớt, thì theo tôi thật là một việc xúc phạm. Cho nên tôi ngạc nhiên lạ lùng khi nhận được một cái gói to lùm lùm đề tên tôi, có dán tem nước ngoài, chữ viết to và cứng cáp lắm.

Tự tay viết đến sáu trang giấy, Goócki nghiên cứu tỉ mỉ và rất đỗi khoan dung các tác phẩm tuổi trẻ đó của tôi. Ông khuyên tôi nên làm việc không ngừng, học tập các nhà văn cổ điển mà mài giũa văn như “anh thợ tiện mài giũa kim khí”. Bức thư ấy của nhà đại văn hào đối với tôi thật là bằng không biết bao nhiêu năm học tập. Tôi đã từng phen suy nghĩ về mỗi chữ ông viết, ra sức rút ra những kết luận đúng đắn và hữu ích.

Goócki đã giúp tôi hiểu được rằng nghề làm báo và nghề viết văn là những nghề khó khăn, đòi hỏi phải học tập và lao động nhiều hơn bất cứ nghề nào khác. Tôi hiểu rằng không thể nào làm được những nghề ấy theo lối tài tử được, phải bỏ hết tâm lực vào, và chỉ có thế mới mong trở nên được một người lao động thực sự trong ngành báo chí bônsêvích.

Thời ấy, tôi học xong trường kỹ thuật, vừa vào làm việc ở xưởng nhuộm, nơi in những thứ vải gọi là “vải Ấn độ”. Xưởng này là một bộ phận của nhà máy liên hợp Vô sản.

Chẳng bao lâu, tôi đứng đầu một nhóm thông tín viên công nhân ở đó. Công việc của tôi ở xưởng và công tác xã hội của tôi ở nhà máy chẳng để cho tôi mấy thì giờ để làm cái việc tôi thích thú hơn cả, là làm báo. Mà sự ưa thích của tôi thì lại cứ ngày càng rõ. Cuối cùng, suy nghĩ chín chắn rồi, tôi thôi việc ở xưởng để vào làm biên tập viên tờ báo của thanh niên trong tỉnh, là tờ Thế hệ trẻ.

Ở đó có một tập thể biên tập viên tốt, sau đó nhiều người đã trở nên những người làm báo có giá trị. Hoạt động thật là sôi nổi. Quỹ tờ báo nhỏ bé, rõ là không đủ cho sáu hay tám trang báo mà chúng tôi cứ hàng tuần cho ra hai kỳ. Cho nên phần chính công việc là phải do những nhà thông tín viên trẻ tuổi làm công không giúp cho. Tinh thần phát huy sáng kiến của báo đó đã khiến cho báo được từng phen khen ngợi trên những cột báo của Sự thật. Tôi đã làm việc ở tòa báo Thế hệ trẻ rồi, khi báo thôi, làm việc cho báo địa phương của Calinin là tờ Sự thật Vô sản, cứ thế không lúc nào ngừng mãi cho tới chiến tranh. Tôi viết những thiên phóng sự cùng những bài báo, và tôi phụ trách các mục kinh tế và văn hóa. Tôi được kết nạp Thanh niên năm 1930; năm 1940 tôi gia nhập Đảng Cộng sản, Nhờ trường học lớn của Đảng bônsêvích mà tôi trở nên được một nhà văn.

Vừa tiếp tục cộng tác biên tập, tôi vừa viết truyện, nhưng, nghe đúng theo lời khuyên nhủ của Goócki, tôi chỉ cho đăng một phần nhỏ thôi trên báo hay trong tập niên lịch của vùng, là tập Ngày nay. Năm 1939, tập san Tháng Mười đăng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi: Xưởng nóng hổi. Tôi định cố tóm thâu trong cuốn sách đó toàn bộ kết quả của những điều tôi đã quan sát được về tình hình phát triển của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong những xí nghiệp ở Calinin và về hoàn cảnh trong đó phát sinh ra được những sáng kiến của những kẻ phát minh. Tôi đã tự mắt mình quan sát tất cả những cái đó và tôi đã viết phóng sự nhiều về việc này. Sách, sở dĩ thời ấy được đôi chút hoan nghênh, đó là nhờ trước hết ở sự vĩ đại của những sự việc mà sách viết ra, kể đến và của những con người đã là những vai chính của truyện. Tôi muốn được nhấn mạnh nhất là vào một điểm, là đề truyện và nhân vật trong truyện đều là từ trong đời sống mà lấy ra; những ai công tác từ lâu trong các xưởng chế tạo dụng cụ vận chuyển ở Calinin đều đã nhận ra ngay bạn mình trong đám nhân vật trong truyện, và, rốt cuộc, anh là vai nam chính trong truyện đã mời tôi dự lễ cưới chị là vai nữ chính. Hôm lễ, đã đùa khá nhiều về cái điều đó: chính là nhân vật trong tiểu thuyết bắt buộc phải làm cho xong hẳn công việc của tác giả, để cho tác phẩm được kết thúc có hậu, dầu không ly kỳ chi mấy.

Công tác lâu năm trong báo chí đã khiến tôi viết được những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, nhưng chính công tác của tôi trong tờ Sự thật, mà tôi là thông tín viên chiến tranh khi cuộc chiến tranh dân tộc vĩ đại bùng nổ, đã là bổ ích nhất cho sự nghiệp nhà văn của tôi.

Có người đôi khi hỏi tôi:

- Cố nhiên là anh làm báo thành ra bị trở ngại nhiều trong công tác viết văn của anh; cái đời nhà làm báo vốn rồn rập, cứ bắt là phải viết về những đề tài nhất định phải gửi bài đến những ngày giờ hẹn trước, chẳng kể tâm tình mình mỗi lúc thế nào, rồi lại kèm vào đấy nữa là phải viết đúng là bao nhiêu hàng chữ.

Những câu hỏi loạt ấy không khiến tôi khó chịu, chỉ khiến tôi buồn cười, vì chính là công tác trong báo chí bônsêvích đã đưa tôi tới con đường văn chương. Làm báo giúp tôi biết rút ra cái chủ yếu, ghi cái gì là mới, là đã cộng sản rồi trong tâm tình của những người đương thời. Là thông tín viên chiến tranh của báo Sự thật, tôi lúc nào cũng ở những điểm quyết định của mặt trận mênh mông, nơi quyết định số mạng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Tôi đã thu thập được ở đó một khối lượng tài liệu vô giá. Mọi người đã biết rằng những vai chính trong những cuốn sách của tôi: Một Người chân chính và Người Xô viết chúng ta, đều là những nhân vật có thật. Phần lớn tên thật ngoài đời thế nào, tên trong sách của tôi cũng là thế, đôi khi có thay đổi rất ít mà thôi. Ý đầu tiên của hai cuốn sách này là do ở tòa báo Sự thật mà ra.

Sự việc xảy ra như thế này này.

Tháng 2 năm 1942, có đăng một bài tựa là: Thành tích của Mátvây Cuzơmin. Bài ấy, tôi đã viết vội vã, sau khi đưa ma vị anh hùng ấy. Đó là chuyện một nông dân tập thể, đã bát tuần, thuộc nông trang tập thể Bình minh, trồng gai, cụ nông dân này đã lập lại cử chỉ anh hùng của Ivan Xuxanin.

Bài viết vội và không có giá trị chi mấy. Lần đầu tôi ở mặt trận về, anh chủ bút báo Sự thật gọi tôi đến và trách tôi viết về một thành tích đáng kính phục như vậy một cách quá ư vội vã, y như một phóng viên nhà báo.

- Thật tiếc là lẽ ra có thể kể câu chuyện này một cách khác hẳn, - anh trách tôi như vậy. Rồi, với thói quen của anh là hay tổng quát, anh nói thêm: - Tôi đã bảo tất cả các anh thông tín viên chiến tranh, và tôi xin hết điều căn dặn anh: Cứ ghi cho đầy đủ chi tiết những công trạng của những người Xô viết mà các anh có cái may mắn được chứng kiến. Đó là bổn phận công dân của các anh, và, hơn thế nữa, đó là bổn phận đảng viên Đảng Cộng sản của các anh. Nghĩ coi: trong cuộc chiến tranh này, nhân dân Liên Xô đã vượt qua về dũng cảm tất cả các vị anh hùng của tất cả các thời đại xưa cũ. Và để cho không quên chi hết về những thành tích hiển hách ấy, để cho mọi người Xô viết biết rõ đồng bào mình đã đánh phát xít như thế nào, đã thắng nó như thế nào, thì phải ghi tất cả, tất cả.

Tôi liền mang theo một tập vở to, đóng bìa cứng, và tôi bắt đầu ghi vào đó thật là rành mạch địa chỉ các vị anh hùng hay những người đã chứng kiến những sự việc quan trọng, nhất là những tấm gương anh dũng mà tôi biết được.

Là thông tín viên chiến tranh, tôi bay nhảy từ góc mặt trận này đến một góc mặt trận khác, khi thì tôi tới cùng quân du kích, khi thì tôi vào rừng, nơi các biệt đội nhảy dù chuẩn bị đánh chớp nhoáng phía sau lưng địch, rồi tôi lại trở về chiến tuyến ở Stalingơrát, về tuyến lồi Cuốcscơ ở Goócxun Sépchengơrat, tới sông Visla, tới sông Naixơ, tới sông Spưtê, và đâu đâu tôi cũng đã được chứng kiến cái bản lĩnh anh hùng của người Xô viết, đã làm phai mờ cả những thành tích hiển hách của các bậc anh hùng xưa: Ivan Xuxanin, Mácpha, Côgina, Côsơca người thủy thủ Xêbastôpôn, và biết bao nhiêu người nữa mà lịch sử ta, văn chương ta còn nhớ tên, nhớ tuổi.

Suốt thời chiến tranh như thế là tôi đã ghi chép được sự việc về sáu mươi nhăm câu chuyện thuộc loại ấy. Một trong những câu chuyện ấy kể lại buổi gặp gỡ kỳ lạ với trung úy Vệ quốc Marétxép, phi công ở một phi trường lâm chiến, gần Oren, thời tấn công đánh lấy thành phố ấy. Đó là đề tài cuốn Một Người chân chính. Tôi đã rút ra từ những điều tôi đã ghi chép được hai mươi bốn câu chuyện tôi cho là quan trọng hơn cả, điển hình hơn cả, bộc lộ rõ hơn cả tinh thần của con người Xô viết. Và tôi đã viết thành những bài truyện ngắn, tập hợp lại trong một cuốn sách lấy tựa là Người Xô viết chúng ta.

Giờ đây, xong chiến tranh rồi, tôi cứ tiếp tục làm việc theo đúng phương châm ấy, là kể những cái mà tôi đã chứng kiến. Trong truyện lấy tên là Trở về, tôi đã cố gắng trình bày bằng một hình thức nghệ thuật một mẫu đời của một anh thợ đúc nổi tiếng ở Mátxcơva. Đề tài của cuốn tiếu thuyết Vàng cũng là lấy ra từ trong đời sống thực sự: nó kết liễu vào lúc tấn công trên mặt trận Calinin, đầu năm 1942. Cái quan tâm đến sự xác thực đó, không phải là một cái gì riêng cho một mình tôi chút nào. Đời sống của chúng ta, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cứ ngày một đổi thay hoài; nó tiến lên, nó cung cấp cứ mỗi ngày, mỗi giờ, cho nhà văn những đề vừa giản dị vừa say mê, lấy ở kinh nghiệm hàng ngày thấy có. Người Xô viết, được lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản dìu dắt, đạt đến đỉnh cao của sự vĩ đại trong lao động cũng như trong chiến đấu. Những công lao cao cả làm nên vì Tổ quốc, ta cố suy diễn đặt để nó ra thì thật là rất khó, ngay đối với một nghệ sĩ có trí tưởng tượng mãnh liệt nhất. Nhưng đời sống Xô viết chúng ta thì cung cấp cho nhà văn biết bao nhiêu tâm tình thật vô cùng là phong phú.

Công tác làm báo luôn luôn đưa chúng tôi tiếp xúc với những người đáng lưu ý nhất của thời buổi này, và cho phép chúng tôi được thấy những người ấy trong lao động và trong đấu tranh. Nghề làm báo khiến cho mắt chúng tôi sắc hơn, tai chúng tôi thính hơn. Riêng về bản thân tôi, thì những sự việc mà đời sống hiến dâng cho, thay thế vào chỗ trí tưởng tượng văn chương của tôi bị thiếu sót. Những nhân vật mà tôi phác họa ra, mà đời sống vượt tràn ra khỏi những trang sách của tôi, hoàn thành cái gì còn chưa hoàn chỉnh trong sách tôi: chúng tôi đã cùng nhau gặp gỡ nhau lại với anh Marétxép ở Vácxava, không phải với danh nghĩa nhân vật và tác giả tiểu thuyết, mà lần này với danh nghĩa cùng là đại biểu Liên Xô tại Đại hội thế giới lần thứ hai của các Chiến sĩ Hòa bình. Malích Gápđulin, nhân vật truyện Một anh hùng ca ra đời hiện lãnh đạo Viện Văn học trong Viện Hàn lâm khoa học nước Cadắc và chị nông dân ở Pôntava, chị Uliana Bialôgơrút, người đã cứu được lá cờ của một trung đoàn chiến xa, trong truyện Lá cờ của trung đoàn của tôi, thì sau chiến tranh đã được tặng thưởng huân chương về kết quả chị đã thu được trong vụ mùa củ cải. Được chứng kiến hạnh phúc của những con người ấy, hoạt động say mê của những con người ấy, lao động sáng tác của những con người ấy, lòng ta thật là vui sướng không cùng không tận. Làm nhà văn ở xứ sở của chủ nghĩa xã hội, là được hướng một hạnh phúc lớn lao không bờ bến.

Bôris Pôlêvôi

Mátxcơva

Tháng 11 năm 1950

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Người Chân Chính PDF của tác giả Boris Polevoi nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nguồn Cội (Dan Brown)
Trong cuộc hành trình mới nhất của Nguồn cội, ta sẽ được theo chân giáo sư Langdon đến Tây Ban Nha, một đất nước không chỉ có những đội bóng giàu thành tích như Barcelona hay Real Madrid mà còn chứa đựng cả một nền văn hóa và lịch sử có mối liên hệ mạnh mẽ với Công giáo La Mã. Một quốc gia với 46 di sản thế giới, xếp hàng thứ 3 sau Italy và Trung Quốc, trong đó nhiều di sản được xuất hiện làm bối cảnh cho cuốn sách này. Edmond Kirch là một người theo thuyết vị lai, một thiên tài máy tính, một tỷ phú nổi tiếng khắp thế giới không chỉ bởi khả năng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, dự đoán tương lai mà còn nhờ những phát ngôn và diễn thuyết mang tính bài tôn giáo. Kirch là một trong những lứa sinh viên đầu tiên của Langdon cách đây 20 năm. Anh mời thầy giáo của mình đến bảo tàng Guggenheim Bilbao để chứng kiến cậu học trò cũ công bố một phát hiện được mô tả là “sẽ thay đổi bộ mặt khoa học mãi mãi, sẽ đập tan mọi nền tảng tôn giáo". Buổi thuyết trình sẽ sáng tỏ hai câu hỏi về bản chất của loài người: “Chúng ta đến từ đâu” và “chúng ta đi về đâu”. Tìm mua: Nguồn Cội TiKi Lazada Shopee Sự kiện diễn ra giữa hàng trăm quan khách bỗng trở nên hỗn loạn. Edmond bị bắn ngay trong lúc đang diễn thuyết. Kẻ đứng đằng sau vụ ám sát tự xưng “Nhiếp Chính vương”, một nhân vật bí ẩn đầy quyền lực dường như nằm trong chính Hoàng gia Tây Ban Nha. Vì muốn bảo vệ thành tựu của cậu học trò cũ, Langdon hợp tác cùng Ambra Vidal, giám đốc bảo tàng Guggenheim và cũng là hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha. Cả hai được sự giúp đỡ của Winston - một trí tuệ nhân tạo (AI) do Edmond lập trình - để chạy trốn khỏi Bilbao. Họ lao vào cuộc hành trình tìm ra mật khẩu gồm 47 ký tự của Edmond để truy cập vào siêu máy tính của anh, qua đó kích hoạt lại video bài diễn thuyết về khám phá vĩ đại của anh cho toàn thế giới biết. Nội dung cuốn sách xoay quanh việc trả lời hai câu hỏi về bản chất của con người, những tưởng phát hiện của Edmond sẽ phải chấn động lắm, tầm cỡ như việc chứng minh Trái Đất hình cầu hay Mặt Trời là trung tâm. Thế nhưng câu trả lời được Edmond đưa ra dường như không đạt kỳ vọng của độc giả. Về câu hỏi “Chúng ta đến từ đâu”, thì đáp án của câu hỏi này thực ra không hề mới. Đây là một giả thuyết đã xuất hiện từ hơn 50 năm qua, những ai quan tâm đến các vấn đề khoa học đều ít nhiều nghe đến tên của thí nghiệm này. Còn đáp án cho câu hỏi thứ hai "Chúng ta sẽ đi về đâu” lại khá đơn giản, chưa đủ sức thuyết phục. Đọc sách của Dan Brown bạn sẽ vô cùng choáng ngợp trước vô vàn kiến thức về văn hóa, lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật… Nguồn cội như một trang Wikipedia về đặc trưng văn hóa Tây Ban Nha. Đầu mỗi cuốn sách, tác giả luôn khẳng định một câu đại ý "mọi kiến thức trong sách đều là thật". Nhưng khi đọc, người ta có cảm giác không tin tưởng lắm về các kiến thức khoa học, công nghệ trong sách này. Thế nên một vài độc giả nói vui: “Đọc Dan Brown tin thôi đừng tin quá vì không biết bao nhiêu phần trăm những gì ông nói là sự thật". Chẳng phải CERN đã viết cả một cuốn sách để vạch ra những sai sót về “phản vật chất” trong cuốn Thiên thần và ác quỷ đó sao. Có thể so với các cuốn khác cùng series, Nguồn cội không được đánh giá cao ở tính hành động, tính trinh thám. Tuy nhiên cách kể chuyện và vấn đề đặt ra trong truyện lại gây được ấn tượng mạnh. Sự phát triển của công nghệ thông tin, của smart phone, trí tuệ nhân tạo có tác động thế nào đến con người là một chủ đề khá hứng thú và tốn bao bút mực báo chí. Có thể, khi đọc cuốn này, độc giả của Dan Brown sẽ kêu ca rằng ông đã xuống tay, không còn ở trên đỉnh cao phong độ. Việc lên - xuống, trồi - sụt, hoặc là phong độ đi ngang vốn là lẽ thường. Với mỗi nhà văn, chỉ cần có một đến 2 tác phẩm để đời đã là rất thành công rồi. Như việc nhắc tới Happer Lee chỉ có To kill a Mockingbird, Conan Doyle được nhớ đến bởi Sherlock Holmes, hay J.K.Rowling nổi tiếng nhờ Harry Potter, và đỉnh cao Dan Brown có lẽ là Mật mã Da Vinci hay Thiên thần và Ác quỷ.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Dan Brown":Pháo Đài SốBiểu Tượng Thất TruyềnĐiểm Dối LừaHỏa NgụcMật Mã Da VinciNguồn CộiThiên Thần Và Ác QuỷĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nguồn Cội PDF của tác giả Dan Brown nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Vô Hình (Herbert George Wells)
Herbert George Well thôi học năm 14 tuổi để làm người trông coi cửa hàng, rồi thi đỗ đại học, và sau đó trở thành giáo viên. Sau một thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, ông trở thành một nhà văn viễn tưởng nổi tiếng. Trong các tác phẩm của mình, H.G. Wells đã mô tả máy bay và tàu ngầm đi lại, trước khi người ta mơ hồ tin rằng những hành trình như vậy có thể thực hiện được. Là một con người đầy nghị lực H.G. Wells viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Phác thảo lịch sử (An Outline of History - 1920) và nhiều nghiên cứu về khoa học và chính trị. H.G. Wells đã phỏng vấn nhiều nhà lãnh tụ chính trị nổi tiếng và luôn có chính kiến về các sự kiện trên thế giới. Nhưng người ta lại nhớ đến một H. G. Wel1s tiểu thuyết gia hơn. Kẻ Vượt Thời Gian (The Time machine - 1895) và Người vô hình (The Inrrsible Man - 1897) đã trở nên rất gần gũi với công chúng và cũng được các nhà làm phim đặc biệt ưa thích.***Trong đau đớn, khốn cùng, trong khoái cảm, và cái chết - Đó là đời sống mà nhà khoa học Griffin đã nếm trải khi trở thành một người vô hình. Ở Người vô hình, thiện và ác là những bện xoắn rất chặt vào nhau, ràng buộc, tựa nương vào nhau mà phát triển. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Giết người sẽ dẫn đến giết người. Có lẽ đó là cái lý lẽ phù hợp với quy luật tự nhiên nhất, và nó chạy theo nhau, đẩy mãi, đẩy mãi đến tận cùng của xung đột. Cái chết của người vô hình là sự hóa giải cuối cùng. Tại sao cuộc đời người vô hình lại đi đến mức ấy? Người vô hình là một vật thể lạ giữa loài người. Và loài người từ xưa tới này vốn là sinh vật không chấp nhận sự khác biệt, hoặc hoảng sợ, hoặc ruồng rẫy, và trước sau gì sự hủy diệt cũng sẽ xảy ra. Là tham vọng hay thực chất chỉ là thanh trừng những gì không nằm trong hệ thống.*** Tìm mua: Người Vô Hình TiKi Lazada Shopee Vào một ngày mùa đông đầu tháng hai, gió lạnh thổi từng cơn như cắt da, những đợt tuyết cuối cùng trong năm rơi xuống phủ lên mặt đất một màu trắng xóa. Từ ga xe lửa Bramblehurst, có một người khách lạ đi tới, mình mặc áo khoác đen, cầm một túi đen nhỏ trên tay mang găng dày, chân mang ủng. Ông ta quấn kín từ đầu đến chân, và một chiếc nón rộng vành che hết khuôn mặt chỉ chừa lại chóp mũi sáng bóng. Tuyết rơi phủ trên vai và lưng trông giống như ông ta đang mang một túi hành lý thật nặng. Ông ta bước vào quán trọ “Xe và Ngựa” như là một người sắp chết và ném cái túi xuống.- Lò sưởi! Làm ơn cho tôi thuê một phòng có lò sưởi! - Ông khách kêu lên.Ông ta dậm chân và lắc mình làm tuyết rơi đầy trong quán rượu và theo chân bà Hall, vợ chủ quán đi vào phòng khách mà không cần hỏi giá. Không nói lời nào, khách lạ ném hai đồng vàng sovereign lên bàn và đi vào phòng của ông.Giữa những ngày đông tháng giá, không có một bóng khách qua lại thì đây là một dịp may hiếm có cho bà Hall. Bà vội vàng đốt lò sưởi cháy đỏ lên và tự đi lo bữa ăn thậi xứng đáng cho ông khách. Khi thức ăn, nước uống đã được làm xong bà đem khăn, dĩa, ly vào dọn lên bàn. Mặc dù lửa trong lò sưởi đã cháy đượm, nhưng ông khách lạ vẫn còn để nguyên quần áo và nón, đứng nhìn đăm đăm ra cửa sổ xem tuyết rơi ngoài sân, lưng quay về phía bà và dường như ông ta đã hóa đá. Đôi tay đeo găng của ông chắp ra sau và có vẻ như ông ta đang mải mê suy nghĩ. Bà thấy tuyết trên vai ông khách đã tan thành nước và chảy ròng ròng xuống, làm ướt cả tấm thảm trải sàn nhà. Bà ngạc nhiên hỏi:- Thưa ông, ông cho phép tôi mang nón và áo khoác vào nhà bếp để hong khô chứ?Không hề ngoái lại người khách nói:- Không cần, bà cứ để mặc tôi.Bà chắc mình đã không nghe rõ câu trả lời, nên lặp lại câu hỏi. Ông ta quay đầu lại nhìn qua vai bà và nói:- Tôi thích để như vậy! - Ông ta nhấn mạnh từng lời với vẻ thật cương quyết.Bà để ý thấy ông khách mang một cặp kính to màu xanh đen, mớ tóc rậm và một hàm râu rậm rạp phủ đến tận cổ áo khoác che khuất cả gò má và khuôn mặt.- Được thôi, thưa ông. Nếu ông thích như vậy. Chỉ một chút nữa căn phòng sẽ ấm lên theo ý ông muốn. - Bà nói.Ông khách không trả lời, lại quay mặt đi nơi khác. Bà Hall cảm thấy không phải là lúc tiếp tục cuộc nói chuyện nên để mọi thứ lên bàn rồi lặng lẽ rời khỏi phòng.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Herbert George Wells":Đảo Bác Sỹ MoreauKẻ Vượt Thời GianNgười Vô HìnhXứ Sở Của Người MùĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Vô Hình PDF của tác giả Herbert George Wells nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Truyền Ký Ức (Lois Lowry)
Người lớn hay trẻ nhỏ, có lẽ không ai không thèm muốn một thế giới như của Jonas, nơi mọi bất trắc đã được loại trừ: chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật, cha mẹ quở mắng và điểm thấp ở trường. Mỗi cá nhân được giao Nhiệm vụ thích hợp trong cộng đồng, và xã hội này, vận hành yên ổn trong kiểm soát, hình như không thể hoàn thiện hơn thế nữa. Hoặc ít nhất đó cũng là ý nghĩ của Jonas lúc này, trong buổi lễ lên Mười hai tuổi, náo nức chờ đợi Nhiệm vụ của mình. Nhưng đang chờ đợi cậu lại là một điều hoàn toàn khác... Một điều sẽ đưa cậu ra ngoài trật tự quen thuộc, ra ngoài "cái đồng nhất", và những chuyến đi chớp nhoáng vào quá khứ - với Người truyền Ký ức dẫn đường - sẽ cho cậu hiểu hoàn hảo cũng đồng thời là khuyết thiếu ra sao, và thế nào là tình yêu thực sự cũng như nỗi đau thực sực. Người truyền Ký ức, cho đến nay đã bán được 5.3 triệu bản riêng ở Mỹ, đã nhận huân chương Newbery "dành cho đóng góp nỗi bật nhất trong văn học thiếu nhi Mỹ" và đựơc đưa vào danh sách đọc của nhiều trường trung học. Nhưng cũng như mọi tác phẩm đã trở thành kinh điển, đây là cuốn sách để người lớn cũng phải đọc và suy ngẫm, nếu không quá vô tình. Người truyền Ký ức được viết từ năm 1993 này có một lý lẽ lay động về cuộc sống.Nó không như một bài giảng dạy đơn thuần rằng người ta cần thiết nên làm thế này, thế kia, mà khiến mọi người ý thức hơn về những gì mình đang có, về không gian mình đang sống, và về cả ước mơ được nhen nhóm trong đó. Tìm mua: Người Truyền Ký Ức TiKi Lazada Shopee Người đàn ông tôi đặt tên là người truyền ký ức đã truyền lại cho cậu bé hiểu biết, lịch sử, ký ức, màu sắc, nỗi đau, tiếng cười, tình yêu và sự thực. Mỗi lần bạn trao tay một cuốn sách vào tay một đứa trẻ, bạn cũng đã làm điều đó. Đó là một điều mạo hiểm. Nhưng một lần đứa trẻ mở một cuốn sách ra, nó đã đẩy cánh cổng ngăn cách mình và Nơi khác. Và điều này đưa đến lựa chọn. Đưa đến tự do. Đó là những điều nguy hiểm một cách quý báu và tuyệt diệu. (Lois Lowry, diễn văn nhận Huân chương Newbery, 1994)Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Truyền Ký Ức PDF của tác giả Lois Lowry nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Tôi Yêu, Nay Đã Bạc Đầu (Phù Hoa)
Văn án: Cả hai người vừa mới tận hưởng cuộc sống hôn nhân hạnh phúc được một năm thì đúng vào ngày kỷ niệm một năm kết hôn, khi cô vừa ra cửa mua thức ăn, thoáng cái đã xuyên đến 40 năm sau. Tay cầm túi đồ, Du Dao ngơ ngác được đưa đến trung tâm phục vụ công dân, sau được người chồng nay đã là một cụ ông đón về nhà. Khi thầy Giang còn trẻ, vợ bỗng mất tích, bị ngờ là đã chết. Người đàn ông góa vợ suốt 40 năm chẳng thể ngờ rằng, có một ngày vợ mình sẽ trở về, với vẻ ngoài vẹn nguyên như thuở ban đầu. "A, thầy Giang, đây là cháu gái thầy hả?""Không phải, tôi là vợ của thầy ấy." Tìm mua: Người Tôi Yêu, Nay Đã Bạc Đầu TiKi Lazada Shopee "... Vợ, vợ ư??" Vì thế, lời đồn thầy Giang đã luống tuổi cưới một cô gái trẻ truyền tới tai các học trò của anh, danh tiết tuổi già của vị thầy giáo lễ độ, hiền lành khó lòng giữ được.***Một ngày Du Dao ra khỏi nhà rồi biến mất không còn chút tăm tích, Giang Trọng Lâm bỗng dưng bị “góa vợ” khi vừa hai mươi sáu tuổi, mòn mỏi đợi chờ người ấy hơn bốn mươi năm, chờ trong vô vọng. “Anh ấy dành khoảng mười năm để dạy học ở vùng núi, đi qua rất nhiều thôn làng heo hút, bọn mình đều tưởng anh ấy đi để thư giãn, sau đó lúc về mời tụi mình ăn cơm, anh ấy mới giải thích.” “Anh ấy bảo mình từng thấy tin thời sự về bọn buôn người chuyên lừa bán những cô gái trẻ đến vùng hẻo lánh, sau anh ấy gặp rất nhiều cơn ác mộng, mơ thấy cậu cũng bị đám buôn người bắt cóc rồi nhốt trong phòng tối, không được ai cứu.” Bốn mươi năm ấy Giang Trọng Lâm vẫn không ngừng tìm kiếm tung tích Du Dao, thậm chí tuyệt vọng hơn là anh chú ý đến những vụ giết người mà nạn nhân là nữ giới. Thời gian có thể mài mòn kiên nhẫn của một người, nhưng ròng rã ngần ấy năm, tin tức đăng tìm kiếm Du Dao không bao giờ ngừng lại. Người đàn ông đã một thân một mình từ thời trai trẻ cho tới lúc bạc đầu. Khi mà Giang Trọng Lâm nghĩ đời này mình cứ như vậy trôi đi, Du Dao bỗng dưng lại xuất hiện, mọi thứ của thế giới đều đã đổi thay chỉ có một người vẫn còn ở đó đợi cô như ngày đầu. Người thương đã trở lại, tuy rằng đối với Giang Trọng Lâm là chuyện tốt, nhưng Du Dao vẫn một bộ dạng thời gian ngưng đọng, đối với Giang Trọng Lâm không biết nên nói là chua xót hay thống khổ. Khi Du Dao trở về, tóc Giang Trọng Lâm đã bạc đi rất nhiều, da cũng đã nhăn đi, bốn mươi năm trôi qua như một hồi mộng, người xưa vẫn chờ ở đấy nhưng nay đã già đi. Chuyện tình chị-em chênh nhau ba tuổi, giờ thì lại thành một bộ dáng ông cháu đứng cạnh nhau, cậu chàng ngây ngô hay ngượng ngùng năm xưa nay đã chững chạc vô cùng. Từ khi gặp lại Du Dao, Giang Trọng Lâm vẫn duy trì xa cách. Nếu hỏi anh còn yêu Du Dao không thì câu trả lời là có. Nhưng Giang Trọng Lâm hiện giờ chính là mặc cảm, là lo sợ cho tương lai. Anh sợ mình bây giờ đã già, cô có còn yêu một người già như anh nữa không, khi mà họ đi cùng nhau còn chịu ánh mắt hay chỉ trỏ của nhiều người. Anh lo mình sẽ không thể chăm sóc cho Du Dao được như xưa. Bây giờ anh còn khỏe mạnh đấy nhưng ai biết vài năm nữa anh có trở thành gánh nặng bắt cô phải gánh vác hay không? Và hơn hết là anh sợ mình không xứng với Du Dao nữa. Cô còn trẻ, còn đó cả thanh xuân, anh thì đã ở ngưỡng gần đất xa trời. Chuyện mà mỗi ngày anh suy nghĩ nhiều nhất là nếu anh chết rồi cô sẽ sống như thế nào với thế giới xa lạ này. ““Em ấy đã trở lại, thật sự trở lại, vẫn không có gì thay đổi, vẫn là em trong trí nhớ của tôi, nhưng khi tôi nhìn em ấy tôi lại vô cùng khổ sở. Bởi vì cả quãng đời này, hồi ức tôi để lại cho em ấy trừ bỏ tuổi trẻ vô tri ngây ngô cũng chỉ có tuổi già suy nhược. Người yêu của tôi, tôi lại chỉ có thể để lại cho em ấy chỉ hai đoạn thời gian, tôi…” Đoạn tiếp theo chữ “tôi” cũng không viết tiếp, giống như Giang Trọng Lâm khi đó bi thương đến không thể viết nên lời.” Đối với Du Dao, nhắm mắt lại mở mắt ra, người chồng trẻ con vẫn ôm cô làm nũng bỗng chốc biến thành một người trung niên, tóc bạc hoa râm, cả người toát ra vẻ tang thương lại đượm u buồn. Khi Du Dao trở lại nhà Giang Trọng Lâm, cô nghĩ chờ đón cô có lẽ là vợ con của anh, dù sao cũng đã rất nhiều năm trôi qua, dù sao cô và anh hẹn hò một năm, kết hôn một năm, cùng lắm chỉ mới bên nhau hai năm trước khi xa nhau bốn thập kỷ, có lẽ anh đã sớm quên cô rồi. Nhưng thật sự có người đã chờ cô ngần ấy thời gian, chờ từ khi tóc còn xanh cho đến khi tóc đã phai màu. “Thực ra không phải là cố ý chờ đợi, chỉ là không quên được em, đến lúc sực tỉnh thì mới nhận ra đã nhiều năm trôi qua mà thôi.” Nhưng khác xa so với những suy nghĩ lo toan được mất của Giang Trọng Lâm, Du Dao chỉ nghĩ người cô yêu vẫn đợi cô, cô không muốn xa anh cũng không hy vọng cuộc sống mới gì đó, vậy thì cứ sống hạnh phúc cùng nhau thôi. Du Dao xuyên bốn mươi năm, mang theo một đứa bé bù đắp cho cuộc sống đơn chiếc của Giang Trọng Lâm. Từ một lão giáo sư góa vợ bơ vơ nay vợ con đầy đủ, xua tan hết mọi đau thương mà anh phải chịu trong khoảng thời gia đằng đẵng cô độc ấy. Cuộc sống cứ thế, bình yên trôi qua những năm tháng còn lại trong ấm áp hạnh phúc... "Người tôi yêu nay đã bạc đầu" thật sự là một bộ truyện vô cùng cảm động mà rất lâu rồi mình mới đọc được. Mình cảm động với sự kiên trì chờ đợi không nguôi của Giang Trọng Lâm, cảm động với tình cảm bất chấp của Du Dao cũng như với những quan tâm suy nghĩ mà họ dành cho nhau. Cũng không biết đã bao lâu mình đọc truyện mà không còn mấy cảm giác “muốn được yêu” nữa, nhưng đến với “Người tôi yêu nay đã bạc đầu”, đọc được những hành động cử chỉ quan tâm dù rất nhỏ của hai người dành cho nhau, từ sâu trong thâm tâm mình lại gào thét “MUỐN CÓ NGƯỜI YÊU!!!!!”. Và nếu được hãy ban cho mình một Giang Trọng Lâm luôn yêu thương chân thành, chờ đợi Du Dao dù có bất cứ chuyện gì xảy ra như thế nhé. Mình cũng xin dẫn một trích đoạn lần đầu gặp gỡ của Giang Trọng Lâm và Du Dao: Cô cà lơ phất phơ rung chân, đồng phục xốc xếch, mái tóc sặc sỡ, tay còn đang kẹp điếu thuốc, trong mắt hai tên nhóc nhiều nhất cũng chỉ mới học cấp hai kia thì cô chính là phiên bản sống của “dân giang hồ”. Lúc bắt nạt bạn học thì gan bọn họ rất lớn, ấy thế mà khi trông thấy Du Dao mặc đồng phục của trường trung học số 16 thì lại sợ hết hồn. Có lẽ là vì từng nghe qua uy danh lừng lẫy của học sinh trường nọ, bọn họ sợ tới mức không dám đối mặt với Du Dao, ném xô chạy lấy người, bỏ lại cô cùng cậu nam sinh gầy yếu ướt như chuột lột đang ngồi trong góc. Cậu nam sinh nom có vẻ nhỏ con hơn cô, da trắng đeo kính, để kiểu đầu nấm, ngồi co ro trong góc như thể đã sợ đến choáng váng. Đứng nhìn đôi chân trần của cậu hồi lâu, Du Dao thầm nghĩ, quả nhiên vẫn chỉ là một đám nhóc cấp hai mà thôi, học sinh trường cô mà muốn nhục mạ ai thì sẽ lột sạch kẻ đó chứ chẳng đời nào nửa vời như bọn họ. “Không định mặc quần vào trước hả?” Du Dao nâng cằm nói với cậu ta. Cậu ta hoàn hồn, cả người lập tức ửng đỏ, vừa che quần lót vừa với tay nhặt chiếc quần nằm bên cạnh rồi mặc vào, cúi đầu không dám nói lời nào, run lẩy bẩy như chú gà con. Du Dao nghĩ, có lẽ cậu chàng sợ sâu bọ nhà hàng xóm cô đây sẽ ra tay đánh người, thế là nhàm chán xoay người rời đi. Chuyện này kỳ diệu nhất ở chỗ, cậu nam sinh đáng thương bị cô nhanh chóng lãng quên kia chính là Giang Trọng Lâm đang học lớp 8 ở Minh Đức năm đó. Sau khi hai người kết hôn, cô mới được nghe anh kể lại.***Cửa hàng trò chơi này rất lớn, chia thành nhiều khu vực, đa số khách hàng là những người trẻ tuổi. Mặc dù Du Dao chưa hiểu rõ trò chơi của bốn mươi năm sau cho lắm, nhưng dựa vào trực giác nhạy bén, cô trực tiếp tìm được khu trò chơi cổ điển. So với khu phổ biến bu kín người, cô càng muốn thử những trò chơi như thế này hơn. Khu cổ điển tương đối vắng vẻ, trước tường thử nghiệm chỉ có hai chàng trai trên dưới hai mươi đang sôi nổi thảo luận về trò chơi trước mặt họ. Trò chơi nào cũng có một bản giới thiệu sơ lược, nếu cảm thấy hứng thú thì có thể chơi thử miễn phí mười lăm phút. Sau khi nghe ngóng một hồi, vì sinh lòng hiếu kỳ với trò chơi trong tay hai người, Du Dao tiếp tục đứng nghe, chờ bọn họ nói xong thì xen vào: "Trò này có vẻ thú vị đấy, tên nó là gì vậy?" Thấy có người hỏi, hai chàng trai quay đầu, trông thấy Du Dao, một trong số đó thuận miệng trả lời: "Hành tinh hoang vu." Nói xong, cậu ta bỗng trợn mắt, khiếp sợ nhìn Giang Trọng Lâm đứng đằng sau Du Dao, lắp ba lắp bắp: "Thầy... Thầy Giang ạ..." Một tiếng "Thầy" này khiến người bạn vốn không chú ý tới Giang Trọng Lâm sợ hết hồn, lập tức nhìn về phía anh với vẻ mặt như gặp quỷ, lúng túng gọi thầy Giang. Chỉ trong chốc lát, hai nam sinh hào hứng bàn luận về trò chơi mới nãy lập tức kinh sợ thành hai chú gà con, hai tay xoắn xuýt lại với nhau. Đi mua trò chơi mà gặp phải thầy giáo, cho dù người nọ là Giang Trọng Lâm ôn hòa, không bao giờ mắng mỏ người khác thì đầu họ vẫn nhức nhối. Đây là lần đầu tiên Du Dao nghe thấy người khác gọi Giang Trọng Lâm là thầy. Khi cô kết hôn với anh, anh vẫn còn đứng ở cuối con đường thạc sĩ, chuẩn bị học lên tiến sĩ. Không giống người học hành tùy tiện như cô, Giang Trọng Lâm tuyệt đối chính là một học sinh ưu tú. Du Dao chẳng hề ngạc nhiên với việc anh sẽ trở thành thầy giáo. Phát hiện hai cậu học trò đang căng thẳng, Giang Trọng Lâm nở nụ cười hiền hậu với bọn họ, sau khi chào hỏi thì không nói gì nhiều, tự giác di chuyển sang một góc không người cách đó không xa để họ đỡ mất tự nhiên. Anh chắp tay sau lưng, đẩy đẩy cặp kính, nhìn tờ tuyên truyền của một trò chơi khác treo bên cạnh, đứng chờ Du Dao chọn xong trò chơi. Sau khi Giang Trọng Lâm rời đi, hai nam sinh mới thả lỏng. Thấy bọn họ như vậy, Du Dao buồn cười hỏi: "Thầy Giang hiền thế cơ mà, sao các cậu lại sợ anh ấy vậy?" Hai cậu học trò có phần xấu hổ, "Thầy Giang quả thực rất dễ nói chuyện, không hề khó tính chút nào, nhưng học trò của thầy không bao giờ dám lớn tiếng trước mặt thầy. Đây là phản ứng theo bản năng đối mặt với trưởng bối đức cao vọng trọng ạ." Du Dao: "..." Cách nói này thật cường điệu. Cậu nhóc nhìn Giang Trọng Lâm ở đầu bên kia, có chút ngượng ngùng, "Thực ra em không phải là học trò của thầy Giang, chỉ theo bạn gái tới lớp học công khai của thầy nghe giảng mấy lần. Bạn gái em từng là học trò của thầy, cực kì sùng bái thầy ạ." Cậu nam sinh còn lại tò mò hỏi Du Dao, "Chị ơi, chị là cháu gái của thầy Giang ạ? Chắc thầy thương chị lắm chị nhỉ, lại còn cùng đi mua game với chị nữa. Trông thầy chẳng giống người sẽ chơi trò chơi chút nào, chỉ đứng ở đây thôi cũng thấy là lạ rồi, mới nãy thấy thầy em còn giật hết cả mình." Du Dao nhìn anh chồng già đứng đằng xa, trông anh như đang nghiên cứu một lĩnh vực vô lạ lẫm, chăm chú quan sát áp phích treo tường của một trò chơi về máy móc. Không biết vì sao, cô bỗng muốn cười, thuận miệng trả lời: "Tôi không phải cháu gái, mà là vợ của thầy ấy." Chắc chắn hai cậu học sinh sẽ không tin điều này. Quả nhiên, bọn họ cười rộ lên, "Chị à, chị hài hước thật." "Chị định mua trò này phải không? Để bọn em giới thiệu cho ~" Du Dao không nhắc lại mối quan hệ giữa cô và thầy Giang, chăm chú nghe họ giới thiệu rồi quyết định chọn trò chơi này, sau đó còn thêm phương thức liên lạc, tức WeChat của hai người. Vì sao đã bốn mươi năm trôi qua mà WeChat vẫn còn tồn tại nhỉ? Không những vậy, nó thậm chí còn trở thành phần mềm tích hợp nền tảng kết bạn và liên lạc như QQ cùng Weibo. Chọn trò chơi xong, đôi vợ chồng một già một trẻ cùng đi sắm đồ dùng hàng ngày và quần áo. Du Dao đẩy xe ở đằng trước vung tay mua bừa, ném đồ vào trong xe. Giang Trọng Lâm đi theo sau, thỉnh thoảng thấy cô ném đồ ăn vặt vào thì cầm lên xem bảng thành phần. Du Dao chọn rất nhiều món vặt, chúng chính là khởi nguồn của hạnh phúc, lúc không vui vẻ phải xực đồ ăn vặt thì mới có thể an ủi tâm hồn. Đối với việc này, Giang Trọng Lâm không phản đối. Từ đầu đến cuối, anh chỉ duỗi ngón tay về phía gói khoai tây lát màu đỏ nào đó và nói đúng một câu: "Cái này chứa nhiều gia vị tổng hợp giàu chất béo, không lành mạnh đâu em, đổi sang loại bên cạnh đi, thành phần cũng không khác là bao."Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Tôi Yêu, Nay Đã Bạc Đầu PDF của tác giả Phù Hoa nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.