Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngửa Mặt - Du Tử Lê

Du Tử Lê sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai. Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tỵ nạn bên Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ. *** Nhự hơ hãi đem hung tin đến, tôi. Tôi lặng người không dám mở mảnh giấy nhỏ ra đọc. Còn đọc gì được. Mới nghe Nhự nói, chưa rõ đầu đuôi nước mắt tô đã chạy vòng quanh. Nhự cũng lúng túng, loay hoay hết nhìn tôi lại ngoái vào trong. Tôi nắm chặt hai tay, mím môi, nghiến răng để khỏi bật tiếng nấc. Mẹ tôi từ nhà trong đi lên, thấy cảnh hai đứa khác thường, giữa cửa, chắc bà cụ cũng ngạc nhiên không ít nhưng may mắn là người không tỏ dấu nghi ngờ gì. Mẹ tôi bảo, sao các con không vào hẳn trong này. Bàn ghế đó, thiếu đâu mà đứng như vậy kìa, Nhự chào mẹ tôi, nói đỡ, vâng, bác mặc chúng con. Để chúng con ra vườn cho mát. Mẹ tôi không nhìn, rẽ vào buồng bên nói, ừ, hay ra vườn cũng được. Các cô lại thèm đồ chua rồi chứ gì. Nhự cố cười, bác nói trúng ý cháu quá, làm cháu mắc cỡ, cháu định xin bác mấy trái khế. Nhự nói và kéo tôi đi xềnh xệch. Mắt tôi hoa. Đầu tôi choáng váng. Tôi không còn nhận được bất cứ một sự gì ở chung quanh. Người tôi hình như đang lả dần, héo rũ như thân cây chờ phút rã mục. Gân cốt trong người tôi nhão ra, người tôi mềm nhũn. Tôi tựa người vào Ngự, bước những bước chập chờn đầy hình ảnh chàng. Chàng và Yến, Yến, con... tôi muốn tìm một tiếng nguyền rủa thậm tệ nào đó, dành riêng cho Yến. Nhưng tôi không thể mở miệng được. Tựa lưng vào thân cây khế, tôi ngả đầu vào vai Nhự. Những bông hoa khế nhỏ xíu xinh xinh màu tím nhạt lay động trên đầu tôi. Tôi bắt đầu nức nở. Tôi khóc giữa những lời an ủi vỗ về của Nhự. Trong một thoáng, cùng lúc, những ý tưởng mâu thuẫn, lộn ngược dầm dập lóe trong óc tôi. Tôi sẽ bỏ chàng. Phải, em sẽ bỏ anh, em không thể yêu anh được nữa. Làm sao em yêu được anh, khi chính anh, đã phản bội tình em, khi chính anh đã từ chối đã phủ nhận tình yêu đó. Anh không còn xứng đáng với tình yêu của em nữa. Hết. Thế là hết. Hết, nghĩa là chúng ta không bao giờ gặp nhau. Em sẽ đi lấy chồng. Em sẽ thuộc về người khác. Anh sẽ vào ngồi tù, anh sẽ bị tử hình có thể. Anh sẽ chết, nhục nhã, dần mòn. Anh sẽ chết một mình, lẻ loi. Anh sẽ chết, một mình, không có em ở bên cạnh. Không. Không thể như thế. Anh vô tội. Em tin chắc là anh vô tội. Có đáng tội chăng là Yến, Yến. Chính cô ta. Chính con nhỏ đó. Chính nó. Trời ơi. Chính nó. Nó đã giết đời anh. Nó đã giết đời em. Nó đã giết cuộc tình mình. Không. Em không thể để anh vào tù, em không thể đứng đợi ngồi trông tin anh ra tòa, lãnh án một cái án tử hình. Tử hình. Anh. Anh của em. Không em sẽ giết anh. Không kẻ nào khác hơn em, có quyền giết anh. Em sẽ dành cho bằng được cái quyền cuối cùng ấy, về đời anh. Tôi đưa tay gạt nước mắt; lắc đầu để xua đuổi tất cả những ý nghĩ hắc ám dật dờ. Nhự ái ngại lau những giọt lệ còn đọng trên má tôi. - Phải bình tĩnh mới được, Thục. Sự thể đã đến thế. Tất nhiên không thể không buồn, không khổ. Nhưng còn có những vấn đề khác quan trọng, khẩn cấp hơn mà mình phải tính ngay mới kịp và thiết thực hơn, ngay bây giờ phải xem Tự sống ra làm sao, ở đâu. Phải hỏi Tự xem Tự định thế nào. Giờ thì chỉ còn Thục, mà Thục không bình tĩnh nữa là hết... Không cứu vãn được gì cả. Nghe Nhự nhắc tới tình trạng hiện tại của Tự, tôi mới sực nhớ, không biết giờ này, chàng ở đâu. Tôi hỏi Nhự, Nhự lắc đầu: - Nhự cũng đâu có biết. Mảnh giấy này do Hiệp đưa lại. Nhự có hỏi chỗ ở của Tự, thì Hiệp bảo, mọi liên lạc qua Doãn. Chỉ có một mình Doãn biết rõ chỗ ở của Tự mà thôi. Tôi nóng nảy: - Hay là mình Doãn ngay bây giờ, Nhự. Nhự ngập ngừng: - Cũng được. Nhưng làm sao đi, khi mắt Thục đỏ hoe thế này. Bác sinh nghi, hỏi vặn vẹo thì sao? Tôi nhíu mày, trừng mắt, cương quyết: - Thục đã có cách, Nhự cứ để mặc Thục. Tôi nói rõ mưu định của mình xong bỏ mặc Nhự ngoài vườn tôi vào nhà, lên gác thay quần áo thật nhanh. Mẹ tôi đã đứng đợi sẵn ở dưới chân thang. Bà cụ hỏi: - Con có chuyện gì mà đi gấp gáp quá vậy. Con có vẻ hoảng hốt lắm. Mẹ lo quá. Chuyện gì vậy Thục. Con. Mẹ tôi nắm lấy bàn tay tôi còn trên thành vịn. Tôi lao đao mất thăng bằng ngã dúi vào người mẹ tôi. Người ôm gọn tôi, giữa lúc nước mắt tôi lại trào ra, dàn dụa. - Sao vậy con. Con Thục kìa. Con lạ quá. Có chi sao không nói cho mẹ biết. Con cứ nói đi, mẹ hứa, dù là chuyện gì, mẹ cũng không rầy la con đâu. Con đừng sợ. Tôi gượng người, lấy lại thăng bằng và bình tĩnh. Tôi nói với người, trong khi mặt cúi gầm, ngó xuống: - Thưa mẹ, không có chuyện gì cả. - Có mà. Có chuyện gì đó thì con mới khóc như vậy chứ. Nói đi. Nói đi, mẹ tha thứ hết. Lúc nào mẹ cũng thương con. Thương con hơn hết, hơn cả các anh, các chị con, con biết thế chứ. - Vâng. Con biết. - Vậy sao không nói cho mẹ nghe chuyện gì đó. - Con không muốn nói, vì con định dấu mẹ. Mẹ tôi âu yếm vuốt tóc tôi. Những ngón tay người nhẹ nhàng vuốt tóc ở hai bên má tôi, thả thẳng về phía sau, chậm rãi: - Mẹ biết mà. Mẹ biết con có chuyện buồn. Chuyện gì buồn lắm. Nên con mới hốt hoảng, nên con mới khóc như vậy. Nào. Thôi, con gái cưng của mẹ, nói cho mẹ nghe đi, chóng ngoan mẹ cưng nhiều. (Mẹ tôi cười cười ghé sát mặt tôi) gớm, con gái lớn thế này, như ngày xưa là mẹ đã có cháu ngoại bồng rồi, chứ chơi đâu, mà nhõng nhẽo hoài à. Tôi không thể cười được, dù rất muốn cười để mẹ tôi hài lòng. Tôi nói từng tiếng: - Cô giáo con bị đau nặng, phải vào nhà thương, chắc khó qua khỏi. Con xin phép mẹ cho con đi với Nhự thăm cô. Mẹ tôi tròn mắt, bán tín bán nghi: - Cô giáo con. Thật không? Cô nào? - Cô Mùi. Cô dạy Pháp văn. Cái cô thương con nhất lớp mà con vẫn kể chuyện mẹ nghe đó. - À. À. Cô Pháp văn. Có thế thôi sao? Chỉ thế thôi mà con làm mẹ hết hồn. Mẹ đã tưởng chuyện gì. - Thế mẹ tưởng chuyện gì. Tôi ngước mắt nhìn mẹ tôi. Người lúng túng lảng tránh: - Ờ. Mẹ tưởng, tưởng có chuyện gì quan trọng hơn thế nữa xảy đến cho con. Tôi thu hết can đảm, nói một mạch: - Giờ con chẳng còn chuyện gì quan trọng nữa. Con không còn thiết tha một điều gì. Mẹ cứ yên tâm, con bây giờ sẽ sống như một cái máy. Một cái bóng trong căn nhà này. Con sẽ sống mãi như vậy. Chịu đựng mãi như vậy, để mẹ và ba vừa lòng. Con sống giờ không còn là cho con nữa. Vì đời sống con, chỉ có một cần thiết, là tình yêu, là cuộc tình của con và Tự. Nhưng mẹ đã không bằng lòng. Mẹ đã bắt con phải chọn lựa giữa mẹ và Tự. Con đã nghe mẹ. Con đã bỏ Tự. Bỏ Tự là bỏ lẽ sống của đời con. Bỏ Tự là bỏ nguồn hạnh phúc, là bỏ ánh sáng bỏ khí trời, bỏ tương lai, bỏ tất cả những gì lẽ ra ngày mai, đời con sẽ có. Đời con sẽ được hưởng. Nhưng con vẫn nghe mẹ, con vẫn bỏ Tự. Con đã bỏ Tự. Con đã nói cho Tự biết điều đó, và mẹ yên tâm, mẹ có thể yên tâm hoàn toàn, vì... Vì Tự đã không còn nữa. Không. Cơn xúc động nghẹn ngào lại làm tôi ứ đầy cổ tôi. - Sao con nói sao? Nó không còn nữa? Không còn nữa? - ... - Nó đã chết rồi. Làm sao nó chết? Ai giết nó? - Không. Không ai hết. - Vậy sao nó chết? - Không. - Thế nghĩa là sao? - Con. - Con giết nó? - Mẹ nghĩ thế cũng được: Mẹ không hài lòng sao? Nói xong, tôi mới biết mình lỡ lời. Nhưng đã muộn. Mẹ tôi hét lên: - Trời ơi. Con tôi. Nhự chạy vào, ngơ ngác: - Thưa bác, có chuyện gì đấy ạ. Mẹ tôi vừa khóc vừa đưa tay phân bua, Nhự nghe xong lắc đầu: - Thưa bác, theo chỗ cháu biết thì không có chuyện đó. Làm gì có. Bác đừng lo. Mẹ tôi ngừng khóc, chỉ tay vào tôi: - Thì đó, cháu xem. Chính nó nói ra miệng chứ ai. Nhự cằn nhằn: - Thục bậy quá (quay sang mẹ tôi), con xin bác đừng để ý. Thục nó bị giao động mạnh về chuyện cô Mùi vào nhà thương, nên nó nói lung tung không đâu vào đâu hết. Bác thì còn lạ gì tính Thục nữa. Cô ta chỉ cần một chuyện nhỏ thôi cũng đã đủ để hoảng hốt ầm ĩ lên được. Thôi có đi thăm cô Mùi thì đi để không có trễ rồi Thục. Tôi lấy khăn lau nước mắt nhìn mẹ tôi tần ngần. Tôi muốn nói một lời xin lỗi, hay tỏ dấu ân hận về hành vi nông nổi thiếu suy xét vừa qua mà sao tôi không thể mở miệng được. Cuối cùng, tôi nắm tay mẹ tôi: - Mẹ. Con lúc này, như điên như mất trí. Con không biết là con đã nghĩ gì và đã nói những gì với mẹ. Mẹ thương con. Mẹ đừng buồn con, nghe mẹ. Mẹ tôi lắc đầu: - Không. Mẹ thương con. Mẹ không bao giờ giận con hết, Mẹ biết con mẹ lúc này đang khổ sở, đang rối loạn. Mẹ không giận con đâu. Mẹ chỉ mong, thời gian sẽ giúp con quên dần nó. Thời gian sẽ giúp con lần lần bình tĩnh trở lại. Mẹ chỉ mong, chỉ cầu xin có thế thôi. - Mẹ đừng nói nữa mẹ. Mẹ nói thêm con lại khóc bây giờ. Con khổ quá. Mẹ biết không. Con không ngờ đời con lại khổ đến thế này. - Thì thôi, mẹ không nói nữa. Thôi con đi đi, Mẹ biết mà. Tôi thất thểu theo chân Nhự tới Doãn. Doãn tiếp chúng tôi bằng đôi mắt lạnh lùng, nghiêm khắc, như có phần oán trách thù ghét. Doãn bảo, chờ tôi một chút, thay quần áo, xong tôi đưa hai chị đi. Chiếc Taxi chạy quanh co một hồi. Cuối cùng tôi nhận ra khu bến tàu. Xóm Cầu khỉ. Nhự nói, khi Doãn bảo xe ngừng ngoài lộ chính. Chúng tôi xuống xe, lầm lũi theo chân Doãn rẽ vào một con đường đá dăm. Suốt từ lúc ra xe cho đến khi bước xuống, Doãn hút thuốc liền tay, ngậm miệng không nói một tiếng. Tôi dồn hết mọi khả năng chú ý, ghi nhận để lần sau có thể đến một mình. Đây là khu xóm lao động như trăm ngàn khu xóm lao động khác trong thành phố. Nhưng điểm đặc biệt của nó là khi bỏ con đường đá dăm, rẽ vào lòng xóm, người ta không có một đường đi nào, khác hơn bước lên những cây tre mảnh, hờ hững trên những trụ cột bằng xi măng hay gỗ, đó sâu xuống lòng đất bùn. Nước lấp xấp một mầu đen tanh tưởi, đầy những lăng quăng và rác rến. Càng vào sâu lòng xóm càng mở rộng những ngã rẽ với những thân tre nhỏ hơn, chỉ vừa đủ một người đi. Trong lúc di chuyển, chẳng may ở một góc nào đó, có người đi tới, một người lùi lại, đứng chéo chân ở một ngã ba hay ngã tư của hai chiếc cầu, cho kẻ kia đi qua. Với một người không quen như tôi, chỉ một chút sơ xảy nhỏ, là có thể té ngả dầm mình xuống nước bùn. Dù rón rén gượng nhẹ tránh được những tiếng kẽo kẹt của mấy cây tre vẫn uốn rung dưới chân tôi. Nhự đi trước, ngay sau Doãn, dơ tay ra phía sau cho tôi nắm. Dân trong xóm nhìn lũ tôi như một bầy quái vật. Họ hướng những con mắt nghi kỵ, gian giảo, tra khảo vào chúng tôi. Lũ trẻ con trần truồng, đứng tồng ngồng trong những căn nhà mái lá chạm sát đầu chúng. Nắng trưa làm tôi hoa mắt tư tưởng nhão chảy, tan lẫn, bầy nhầy cùng cảnh vật và bùn nước. Hình như không có một ý nghĩ nào đậu được lâu trong tâm hồn tôi. Mọi thứ đều rời rã, chia tay, cách biệt. Đôi bận, tôi muốn nhắm mắt, mặc cho chân đưa, thả lỏng thân xác cho rủi may, bất chợt. Không nghĩ về Tự, không nghĩ về gia đình, về mẹ tôi, ba tôi, các anh, các chị, về những khó khăn đã thành hàng rào thẳng ngọn, đang chắn ngang trước mặt tôi, tôi cũng không còn đủ trí nhớ để tưởng đến một chuyến đi xa không thành, những ngày đi làm đã gần đến. Tôi không biết gì hết, ngay cả những bước chân tôi đang ngập ngừng, sẻn dè tiến tới. Qua hết những chiếc cầu khỉ, chúng tôi đặt chân lên một con đường đất đỏ. Tới đây, nhà cửa có phần cao ráo hơn, nước trong và đầy. Con đường đất đỏ, chia hai khu nhà, mặt quay vào lòng sông Doãn chậm chận, quay lại nói: - Sắp tới rồi. - Xóm này tên là Cầu Khỉ phải không anh? Nhự hỏi. - Phải. Sao chị biết? Nhự cười bí mật, không đáp, mắt lơ đãng nhìn lên khoảng trời xanh cao vừa thấy được, Doãn đốt một điếu thuốc khác, vẻ hằn hộc đã lặn tan, trở lại trên gương mặt xương xẩu, khắc khổ của Doãn vẻ lạnh lùng phẳng lặng cố hữu. Thọc tay vào túi Doãn đi thản nhiên như một người đang bách bộ. Nhự lùi chân, ngang với tôi: - Liệu có nhớ được đường vào không? Tôi thở hắt ra, lấy khăn lau mồ hôi. - May ra, nếu lúc về đi đường cũ. - Rồi sau đây tính sao? Tôi cúi nhìn những ngón chân tụ máu lòi ra khỏi quai dép, chậm rãi: - Chưa biết. Mà cũng chả biết phải tính sao. Nhự lắc đầu bỏ thỏng: - Tội nghiệp. Tôi không biết Nhự dành cho ai trong lũ chúng tôi, hai chữ ấy. Ai. Hay tất cả, tất cả, trong đó có Nhự, có mọi người, có cả những kẻ ở trên bốn năm tầng lầu và tất nhiên, luôn cả những kiếp người chui rúc trong xóm Cầu Khỉ này. Bỗng dưng, tôi buột miệng bảo Nhự: - Muốn chết cho rảnh, Nhự ơi. - Bậy nào. Nhự nắm và bóp mạnh tay tôi. - Thật đó. Chết. Muốn chết quá. Cho xong. - Điên? - Đến rồi. Tiếng Doãn chặn tắt câu nói vừa thoát khỏi họng tôi, nửa chừng. Một câu gì đó, mà chính tôi cũng không nghe được. Doãn nhích tấm cửa làm bằng tôn cao bồi (1), cúi đầu bước vào. (1) loại tôn mỏng có in nhiều hình vẽ xanh đỏ. Căn nhà tối thầm thẩm. Nước róc rách chuyển mạnh dưới tấm ván láng bóng. Mùi hôi hám làm tôi phải nhăn mặt, muốn hắt hơi. Doãn đánh tiếng: - Chị Tư Xệ có nhà đó không? Sâu hút bên trong, có tiếng chân xê dịch nặng nề, rồi một thiếu phụ trạc tuổi gần bốn mươi, hiện ra ở khung cửa giữa, nối liền hai gian nhà. Chị chàng mặc một chiếc áo bà ba xanh có chấm hoa lớn mầu đỏ. Mấy nút áo ngực bung hết, trên tay chị, đứa con trai cỡ độ hơn một năm, đã ngủ, nhưng miệng vẫn cắn chặt vú mẹ. Chị Tư Xệ (đúng là người đàn bà mà Doãn vừa hỏi đó) dợm bước tới, rồi lại ngập ngừng như muốn lui, ngó sững chúng tôi. Doãn vội lên tiếng trước: - Doãn đây mà chị Tư. Doãn bạn của Long Đầu Bạc đây, chị quên rồi sao? Chị Tư Xệ hề hề, lúc lắc cái đầu xù một đầu dầy tóc, quăn tít. - À. À. Ủa anh đó sao anh Hai. Tối quá. Tui nhận không ra. Doãn tiến tới sát gần, đưa tay vờ vờ thằng nhỏ: - Ảnh đâu chị Tư. - Ảnh đi xe từ hồi sớm. Ai dậy anh Hai? Chị Tư Xệ hất hàm hỏi. Doãn quay lại: - A, mấy cô em của Thầy Ba đó chị. - Dậy hả. Mời các cô ra ngoài này cho mát. Chị Tư Xệ quay lưng, chậm chạp, bước. Doãn làm vẻ quen thuộc chỉ ghế cho chúng tôi ngồi, xong ngước mắt nhìn lên chiếc cầu thang ở góc phải căn buồng. - Xấp nhỏ đâu chị? - Ai. Anh Hai. Chị Tư đặt con xuống chiếc đi văng kê sát vách, lom khom cài nút áo hỏi lại Doãn. - Thì xấp nhỏ nhà, chứ ai chị Tư. Chị Tư cười nhìn tôi: - Ấy, chúng chạy chơi đâu đó anh. Ờ để tui đi rót nước mời đã chứ há. Doãn xua tay, Nhự mau mắn: - Thôi được rồi chị Tư. Mặc tụi tui mà. Coi như người nhà hay bà con lối xóm đi cho tiện chị Tư. - Ờ, dậy hả. Dậy cũng được à nghen. Ủa, mà hai cô đây là bà con với thầy Ba sao? - Chỉ có cô này thôi chị (Nhự chỉ tôi), còn tui là bạn, bạn là bạn đó vậy mà chị Tư, Nhự cười liếc mắt nhìn tôi. Tôi đưa mắt hỏi Doãn, Tự đâu. Doãn đằng hắng: - A, có thầy Ba trên đó không hà, chị Tư? - Có. Có đó anh Hai. Suốt từ sáng giờ thầy ấy hổng có bước xuống đây. Ngó bộ thầy ấy buồn bã quá đi anh Hai ơi. Ba xấp nhỏ, trước khi đi xe có nói với thầy ấy, cần gì cứ bảo tui hay gọi xấp nhỏ cũng được. Hoặc có buồn nữa thì đi chơi loang quanh lối xóm đây cho khuây khỏa đó mà. Nhưng thầy ấy, hổng đi đâu hết. (Bỗng chị ta hạ thấp giọng thầm thào, nghiêm trọng) mà thầy ấy bị chi dậy anh Hai? Doãn chặc lưỡi, nói nhỏ: - Trốn lính. - Dậy hả. Chị Tư vẫn tròn mắt. Tội nghiệp. Còn trẻ quá mà, trốn chi cho khổ cái thân không biết nữa. Í mà, nghe nói bạn của anh Long, Ba bầy trẻ đây, cũng như tui, quí lắm anh Hai ơi. Chả là ba xấp nhỏ và anh Long là bạn cùng mần ăn từ ngày xưa đó anh Hai. Tự hồi chưa lấy tui lận. Doãn cười, rút thuốc mời: - Hút chơi điếu đi Chị Tư. - Dà. Chị Tư Xệ vừa đáp vừa đưa tay nhón một điếu thuốc gắn lên môi một cách thành thạo. Doãn bật lửa. - Tụi tui lên gác chút nghe chị Tư. - Dà, mời, mời anh Hai và hai cổ lên đó chơi. Thầy Ba ở trển đó. Tội nghiệp, tội nghiệp. Những tiếng sau được chị kéo dài ra, ê a như phường tuồng. Doãn ra dấu cho chúng tôi theo chân lên gác. Thật không ngờ một căn nhà gỗ lại có thể có một căn gác lửng kín đáo như thế này. Nhờ hai cánh cửa sổ bên hông và một hàng lan can nhỏ, mở vào lòng sông, nên ánh nắng chan hòa căn gác. Tự quay lưng lại chúng tôi. Chàng đang tỳ tay trên thành gỗ lan can, đầu cúi xuống mặt nước. Thoạt thấy chàng, tim tôi đập mạnh, không bước được nữa. Bao mạch máu trong người tôi như ứ đọng ngừng nghỉ. Những hạch nước mắt ở hai thái dương như chỉ chực chờ tuôn trào. Tự quay lại. Tôi thấy chàng với đôi mắt sâu hoắm, hai gò má nhô cao, nước da xạm tái. Trong một hoàn cảnh khác, chắc tôi không dám quả quyết đó là Tự. Đó là người tôi từng ngất trong tay. Đó là người mà tôi đã tự nguyện hiến dâng cả đời mình, cho một ngày mai có thể đen tối, có thể thảm thiết. Tự. Tự. Tôi nghẹn ngào không gọi thành tiếng. Tự. Tự. Tôi rũ liệt toàn thân, bủn rủn muốn ngã. Tự. Tự. Chàng chập chờn bước vào. Tự. Tự. Chàng lao tới đỡ tôi trước khi tôi quỵ ngã xuống sàn gỗ. Anh. Anh. Tôi quờ quạng bên mặt chàng, đẫm ướt. Anh. Anh. Tôi bấm cả mười ngón tay trên ngực, trên vai chàng. Anh. Anh. Tôi cắn nghiến môi tôi để thấy mình còn tỉnh, còn thức. Đây không phải là cơn mê. Đây không là giấc mộng. Đây là sự thực. Một sự thực bật máu. Một sự thực trừng trừng, trợn ngươi. Sự thực như một giả tưởng, một ảo ảnh. Chúng tôi cùng ngồi bệt xuống sàn. Tôi vẫn chưa thể lấy lại được bình tĩnh. Tôi dấu mặt mình vào ngực Tự, trong khi chàng ôm lấy mặt tôi, và tỳ cằm lên đầu tôi, im lặng. Doãn xuống thang gác. Nhự ra ngoài lan can, ngó xuống dòng sông. Đợi một lúc lâu, khi tôi lần lần tỉnh lại, Tự nâng cằm tôi lên, nhìn thẳng vào mắt tôi. Con mắt chết cứng, con mắt trợn trừng, con mắt nghiêm lạnh, đe dọa, tàn nhẫn. Tôi rên rĩ, khép mắt: - Anh đừng nhìn em như thế. Tội nghiệp em với chứ. Không còn thương em nữa sao? Anh. Tự. Chàng đưa tay, ghì xiết lấy tôi. Tôi thấy hơi thở chàng dồn dập, đôi vai rung động. Chàng lại khóc. Tôi biết. Chàng đang khóc. Chàng mím môi, chàng nghiến răng để đừng bật thành tiếng nấc. Nhưng những giọt nước mắt nóng hổi của chàng theo làn tóc tôi, chảy xuống, ấm hai bên má. Tôi vẫn nép trong ngực chàng: - Em phải về. Em phải về. Em không thể ở đây. - Anh đuổi Thục? - Không phải thế. Không bao giờ. Anh... Khổ quá, anh không giải thích được. - Em hiểu. Anh khỏi cần nói. - Nhưng mà... - Nhưng mà cái gì? - Còn mẹ. Còn ba em. còn chung quanh... Còn..., còn đời em, dài lắm. Không được. - Không. Em đã có thái độ. - Không có thái độ gì hết. Em phải về. Em phải trở về. Em đối với anh, như thế này là quá đủ rồi. Anh không còn ước gì hơn nữa. Lúc chết, anh sẽ sung sướng nhắm mắt. Anh hạnh phúc hơn nhiều người khác. Anh đầy đủ lắm. Em đừng nghĩ gì đến anh nữa. Phải nghe anh mới được. Em đừng nghĩ gì đến anh nữa. Phải nghe anh mới được. Em. - Vâng, em nghe anh. Em sẽ về. - Ừ. Có thế chứ. Anh biết, em yêu anh. Em nghe anh. Em của anh, ngoan lắm... - Nhưng... - Nhưng gì nữa... - Em sẽ... - Làm sao? - Em. - Gì, em cứ nói đi. Thục, Thục ơi. Toàn thân chàng lại rung lên. Tôi cũng nghẹn ngào: - Em... em sẽ trở lại với... anh. Em không thể bỏ anh được, trong tình cảnh này. - Thôi. Anh van em. Anh xin em. Anh lạy em. Anh không muốn sau này em sẽ hối hận. Em sẽ oán thù anh. Em sẽ nhìn anh, như một kẻ giết hại đời em. Giết lần mòn tuổi trẻ của em. Em phải bình tĩnh. Phải thật bình tĩnh. Anh không còn gì cho em, để giúp em thực hiện những ước mơ của hai đứa nữa. Anh sẽ bị bắt, anh sẽ vào tù, anh sẽ bị xử bắn. Em. Anh van em, Thục. Anh lạy Thục. - Không. Em bình tĩnh lắm. Anh thấy không. Anh nhìn em đi. Nhìn vào mắt em đi, Thục của anh đây. Anh thấy em không. Em thật bình tĩnh. Em đâu có khóc nữa. Anh. Anh. Tôi vịn đầu chàng xuống. Chàng lắc đầu, tránh mắt nhìn của tôi. - Anh biết, anh biết em trọng nghĩa em trọng thủy chung, em cao cả. Em thánh thiện như thiên thần. Nhưng rồi em sẽ hối hận. Em sẽ đau đớn. Em sẽ khốn quẫn một đời vì anh. Còn ba em, còn mẹ em, còn gia đình còn xã hội, còn bạn bè en. Còn... Tôi đưa tay bịt miệng chàng: - Anh điên rồi. Anh sảng rồi. Anh hãy nghe em nói đã. Anh. Tự. Em sẽ ở bên anh, mãi mãi bên cạnh anh. Em tin anh, tin nơi em, tin nơi tình yêu của mình. Em không lý tưởng, em không lãng mạn một chút nào hết. Anh hãy nghe em. Quyết định này của em, chắc chắn sẽ làm ba, mẹ buồn, buồn lắm, buồn đến độ ba mẹ có thể từ em, không nhìn nhận em nữa. Nhưng một mặt nào khác, ở một góc âm thầm nào đó, của lương tâm, của tình người. Ba, mẹ sẽ hài lòng, sẽ hài lòng, sẽ âm thầm hài lòng về hạnh động của em. Rồi ba, mẹ sẽ hiểu em. Sẽ hiểu anh. Hơn nữa, trong trường hợp này, em không thể bỏ anh được. Không bao giờ, dù em có bị thế nào. Bình thường, em có thể bỏ anh, em có thể vì gia đình, vì lòng hiếu để, vì gì gì đó, em xa anh. Nhưng trong trường hợp này, hoàn cảnh này, thì không. Em nói: Không. Thà mai sau em hối hận với quyết định hôm nay của mình, khi anh phản bội tình em, còn hơn là em sẽ chết héo với cắn rứt lương tâm, của tình cảm tự nhiên, thuần khiết nơi tâm hồn em, nơi trái tim em. - Không. Thục. Anh muốn em nghĩ lại. Anh muốn em trở về. Trở về và suy nghĩ chín chắn. Dầu sao thì anh cũng vẫn mong em sẽ không trở lại đây, một lần nữa. - Anh không còn cần đến em. Anh không còn yêu em? Anh oán giận em điều gì? Anh. Tự. - Không. Anh không còn cần đến em nữa. - Trời ơi. Anh. Tôi tức tưởi và khóc nức nỡ. Nhự hốt hoảng chạy vào: - Có chuyện gì vậy? Tự lắc đầu. Nhự loay hoay hết đưa tay vuốt tóc lại buông thõng: - Anh phải thương Thục mới được. Anh phải hiểu nó. Anh đừng làm khổ nó thêm. Ích gì? Tự trừng mắt, cố dịu giọng: - Nhự cho rằng tôi muốn làm khổ Thục lắm sao? Tôi còn đau đớn gấp trăm ngàn lần Thục nữa. Tôi, kẻ... mà Nhự phụng phịu: - Thì Nhự nói vầy vậy đó, chứ nào có ý gì đâu. Tôi nói trong nước mắt: - Thôi. Nhự, Nhự xuống nhà đi. Thương Thục với, xuống nhà đi. Nhự ngập ngừng, khoát tay, như có một điều gì muốn nói mà không nói được. Chờ Nhự khuất, tôi mới lau nước mắt ngồi ngay ngắn người lại, nhìn thẳng vào mặt chàng: - Anh đừng dối lòng anh. Anh có thể gian dối với tất cả mọi người, nhưng không lẽ với em anh cũng thế. Tự nhìn xuống, lặng lẽ. Tôi tiếp: - Bây giờ anh trả lời em một câu thôi, một câu cuối cùng. Anh có yêu em không? Tự ngước lên, khuôn mặt chàng tiều tụy. Tôi hồi hộp thắt ruột, đứng tim. Chàng nhìn đăm đăm, xong lại cúi xuống. Tôi lay vai chàng. Anh phải trả lời em. Anh hãy trả lời đúng với lòng anh. Không lẽ đến giờ phút này, anh còn gian dối với em. Tự lại ngước mắt nhìn lên. Đôi mắt chàng long lanh. Chàng mím môi. Một lát, tôi nín thở. Chàng gật đầu, và khóc. Tôi ôm lấy chàng: - Thế là đủ rồi. Em chỉ cần có thế. Em yêu anh. Em tự dành cho mình mọi quyền hạn của một người yêu và được yêu. Chàng ghé khuôn mặt đầm đìa nước mắt, cắn vào cổ tôi. Tôi nghiến răng chịu đựng. Chúng tôi cùng nằm xuống sàn gỗ. Nắng trưa hầm hập. Những con nước lách mình, chuyển động dưới thấp. Tiếng cười hể hả của chị Tư Xệ, theo cầu thang, ngược dốc lên căn gác kín khép. Mời các bạn đón đọc Ngửa Mặt của tác giả Du Tử Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bay Đêm
Ngay khi ra mắt độc giả vào năm 1931, Bay đêm - được Antoine de Saint-Exupéry viết trong những ngày lưu lại Argentina - đã được công chúng hào hứng đón nhận và giành được nhiều giải thưởng của giới phê bình ở cả Pháp và Mỹ, trong đó có Giải thưởng Fémina uy tín. Với Saint-Exupéry, Bay đêm trên hết là một khúc tráng ca về màn đêm và những con người dũng cảm đi tiên phong trong ngành hàng không. Ở tác phẩm này, lại một lần nữa, vốn kinh nghiệm của một phi công lão luyện đã giúp ông vẽ nên những khung cảnh hùng vĩ đầy sắc màu, đầy thơ mộng nhưng cũng ẩn giấu những nguy hiểm khôn lường dưới đôi cánh bay. Tác phẩm đã được xuất bản ở Anh và Mỹ ngay từ năm 1932 và một năm sau đó, được hãng Metro Goldwyn Mayer chuyển thể thành phim, đưa tên tuổi của Saint-Exupéry đến toàn thế giới. “Bên dưới đôi cánh bay, những quả đồi đã rạch sâu thành đường xé nước thẫm màu trong ánh vàng ban chiều. Đồng nội rạng rỡ ánh sáng, sáng kéo dài đến bất tận: ở đất nước này đồng nội không khi nào ngừng hắt lên ánh vàng, cũng như vào lúc tàn đông, chúng không khi nào ngừng hắt lên màu trắng tuyết. Đôi khi, sau trăm kilômét thảo nguyên còn hoang vắng hơn cả biển cả, anh bay ngang một nông trại hẻo lánh, anh chợt thấy như nó chở nặng những kiếp người lui lại phía sau, giữa những sóng cồn đồng cỏ, và thế là anh đã nghiêng cánh chào con tàu thủy ấy.” *** BAY ĐÊM – ANTOINE DE SAINT EXUPÉRY #Thái Trung Tín #14CVH1 Là câu chuyện về một thế giới riêng tư, chỉ có những con người sống trong thế giới ấy mới cảm thấy mình được thảnh thơi và thoải mái, Bay đêm của Saint – Exupéry đại diện cho tiếng nói của thời đại vào những năm thập niên 30 của thế kỷ XX, đặc biệt là những người hoạt động trong ngành hàng không. Cuốn sách được viết nên sau một vụ tai nạn máy bay vào năm 1923, Saint – Exupéry bị giải ngũ, ông không còn lái máy bay tại trung đoàn Không quân ở Strasbourg và Casablanca. Bay đêm chuyên chở những giá trị về số phận của con người trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của thời đại. Nó như một thông điệp đẹp đẽ nhất, mang trọn ý nghĩa sống mãnh liệt về sự dũng cảm kiểu mới trong thời đại công nghiệp. Toàn bộ Bay đêm là sự tương tác “hài hòa” giữa những phi công như Fabien, những giám đốc cấp trên như Revière hay những Kiểm soát viên không lưu, những thợ máy và cả vợ của Fabien là Simone Fabien. Và hơn hết, dưới cánh bay là một chuỗi câu chuyện dài cho những số phận bi tráng, nghiệt ngã: “Đôi khi, sau trăm kilômét thảo nguyên còn hoang vắng hơn cả biển cả, anh bay ngang một nông trại hẻo lánh, anh chợt thấy như nó chở nặng những kiếp người lui lại phía sau, giữa những sóng cồn đồng cỏ, và thế là anh đã nghiêng cánh chào con tàu thủy ấy”. Cứ ngỡ Fabien sẽ may mắn trở về bình an như những chuyến tàu chuyên chở thư tín khác, nhưng cuối cùng mọi thứ đều vùi trong sự chờ đợi mỏi mòn. Hôm ấy là lúc nửa đêm trong lúc chợp mắt với vợ mình, Fabien nhận được cuộc gọi theo lệnh của Revière sẽ đảm nhiệm chuyến bay đêm đi châu Âu, trên con tàu Patagonia. Trước những nỗi lo lắng của vợ Fabien, chàng phi công điềm tĩnh trả lời những câu hỏi từ phía vợ mình với một nụ cười mỉm: “Thành phố này... anh sẽ xa nó nhanh lắm. Ra đi vào lúc đêm thật tuyệt. Anh yêu ngôi nhà của anh. Anh có trời đẹp và đường anh đi lát đầy sao”. Fabien đại diện cho kiểu người dũng cảm nhất trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. Đối với anh, công việc bay đêm chưa bao giờ làm anh chán nản. Anh âm thầm vượt qua bóng tối, vượt qua những cơn dông hãi hùng, vượt qua biển đêm sâu thẳm hay chinh phục dãy núi Andes bằng đôi bàn tay vững chắc, quyết đoán. Anh chinh phục chúng bằng những kinh nghiệm của riêng anh, bằng sự tin đoán và trí tuệ của một người phi công. Fabien dường như biết được mình khó có thể quay trở về, khó có thể sống sót vì mọi thứ với Fabien đã tắt lịm, chỉ còn mình Fabien trong buồng lái và xung quanh anh là bầu trời tĩnh mịch. Anh bị tách bạch vào một thế giới mới, anh không thể nhận bất cứ nguồn thông tin nào từ các trạm điều khiển Không lưu: Trelew, Commodoro, San Antonio, Bahia Blanca, Buenos – Aires: “Đối với người phi công, đó là một đêm không bờ bến, vì nó không dẫn tới một bến đậu (dường như mọi bến cảng đều không thể tới nổi) cũng chẳng dẫn tới bình minh: trong vòng một giờ bốn mươi phút nữa sẽ hết xăng. Vì sớm hay muộn cũng bắt buộc phải đắm chìm mù mịt trong cái dày đặt này”. “Anh thấy như thể vật chất cũng nổi lên phản kháng. Mỗi lần lao xuống, động cơ lại rung mạnh khiến cho chiếc máy bay cả toàn khối rung lên như nổi giận. Fabien kiệt sức để chế ngự con tàu, đầu anh chúi sâu trong buồng lái, trước mặt là đường chân trời xoay tròn chuyển vần, vì ở bên ngoài anh không phân biệt nổi giữa khối trời và khối đất, lạc lõng trong bóng đêm hỗn độn, một bóng đêm thời hoang sơ của muôn loài”. Dù bản thân có giỏi đến đâu, đứng trước cơn phẫn nộ của thiên nhiên, con người ta đều cảm thấy mình bé nhỏ: “Anh lẽ ra có thể đấu tranh thêm nữa, cố tìm một cơ may: không có cái định mệnh bên ngoài con người. Nhưng có một cái định mệnh bên trong con người: sẽ tới cái phút giây con người thấy mình vô cùng nhỏ yếu; khi ấy các sai lầm cuốn hút ta như con choáng váng”. Và dẫu Fabien đối diện với ranh giới giữa sự sống – cái chết, anh vẫn giữ thái độ lạc quan, anh cố gắng từng phút một để tìm kiếm bầu trời của chính mình, tìm kiếm ánh sáng. Nơi đó chỉ có mình anh cảm nhận được mọi khoảnh khắc của đời người, chỉ có mình anh hiểu được niềm tin yêu cái đẹp và những hoài niệm quan trọng cỡ nào, và hơn bao giờ hết “Fabien nghĩ mình đã bay tới những xứ sở huyền hoặc lạ kỳ, vì tất cả bỗng trở nên sáng lòa, cả tay anh, quần áo anh, đôi cánh anh. Vì ánh sáng không tỏa xuống từ các thiên thể mà tỏa ra từ bên dưới anh, chung quanh anh, từ những đám dự trữ màu trắng kia”, “Anh lang thang giữa vô vàn vì sao tích tụ dày đặc như một kho báu, trong một thế giới không có gì khác, tuyệt nhiên không có gì khác đang còn sống ngoài anh”. Fabien đã chiến thắng bản thân mình, anh đã cống hiến hết khả năng của mình trong quãng thời gian được bay và còn bay được. Anh hoàn thành trách nhiệm được giao một cách xuất sắc, cho đến khi “anh lang thang giữa những đá quý lạnh cóng, giàu có đến vô cùng, nhưng cái chết đã kề”. Revière cũng thế, dù cho ông là người phụ trách cả mạng lưới các tuyến bay, song ông vẫn có những lần bị tình cảm, cảm xúc chi phối. Ông yếu đuối ngay trong sự bản lĩnh của chính mình. Ông đã từng nghĩ rằng những người điều khiển máy bay không được phép sai sót, dù đó là những chi tiết nhỏ nhất. Ông kỉ luật những phi công bay về trễ, ông không để tâm mấy đến những chuyến bay đáp cánh trễ giờ, miễn làm sao phải đúng giờ là được. Nhưng mọi thứ với ông chỉ là bề ngoài, ông tỏ vẻ trang nghiêm bởi vì ông biết công việc của ông chẳng hề dễ dàng, chỉ lơ là một chút thì những chuyến tàu thư kia sẽ không có cơ hội trở về. Ông trân trọng thời gian và nhận ra rằng “Tưởng chừng như thật sự vào một lúc nào đó, con người sẽ có thể có thời gian, tưởng chừng như đến đầu mút cuộc đời con người có thể giành giật được cái thanh bình diễm phúc mình vẫn thường mơ tưởng. Nhưng thanh bình là điều không có. Chiến thắng cũng có thể là điều không có. Không có cái bến đậu dứt khoát của tất cả các con tàu thư”. Không khác gì Fabien, Revière cũng có những lúc bị thiên nhiên quật ngã. Tại trạm Không lưu không nhận được tín hiệu nào, mọi máy móc hiện đại cũng trở thành những cổ máy chết hoặc sự chủ quan trong công việc đã vô tình giết chết những tay điều khiển cừ khôi: “Đó là một trận gió xoáy Thái Bình Dương, chúng ta được nhận thông báo quá muộn. Vả lại, những trận gió xoáy đó không khi nào vượt qua dãy Andes. Lúc ấy không thể đoán biết là cơn gió xoáy đó tiếp tục đi về hướng Đông”. Reviève đầy kinh nghiệm sống, ông là mẫu đàn ông quyết đoán. Khi tiếp xúc trực tiếp với những phi công thì sẽ tỏ thái độ khác, khi trực tiếp tiếp xúc với thanh tra Robineau lại với thái độ khác “Những con người ấy hạnh phúc vì họ yêu mến điều họ làm, và họ yêu như vậy, bởi vì tôi cứng rắn”. Có thể ông đã làm cho mọi người đau khổ, nhưng cũng bằng cách đó ông đem lại cho họ những niềm vui mạnh mẽ “Phải đẩy họ tới một cuộc đời mạnh mẽ, một cuộc đời có cả đau khổ lẫn niềm vui nhưng là cuộc đời duy nhất đáng kể”. Reviève tự trách mình tuổi đã cao trong khi công việc thì đầy rẫy ra đó “Biết bao công việc đã làm để đi đến cái bước này! Năm chục tuổi đời; năm mươi năm mình đã sống đủ đầy, đã tự đào tạo, đã đấu tranh, đã làm đổi dòng các biến cố, để bây giờ đây, đó lại là điều mình bận tâm và chất chứa và được coi là quan trọng bậc nhất trên đời... Thật là kỳ cục”. Khuôn mặt của toàn chuyến bay thật đẹp nhưng khắc nghiệt. Nó phải bắt chúng ta phải trả giá bằng nhiều con người, và là những con người trẻ trung nhất – những con người đã từng không biết mình cao đẹp “Ta không biết điều ta làm có phải là tốt hay không. Ta không biết rõ cái giá trị đích xác của kiếp người, của công lý cũng như của nỗi phiền muộn. Ta không biết đích xác niềm vui của con người có nghĩa lý gì. Không biết cả về một bàn tay đang run rẩy. Cả tình thương, cả sự dịu dàng...”. Cuộc sống vẫn bấp bênh chất chưởng, con người tìm mọi cách vật lộn giành giật với cuộc sống... Thế nhưng, còn việc tồn tại lâu bền, còn việc sáng tạo, còn việc đổi trao cái thần xác mềm yếu mỏng manh của mình thì lại khác, biết đâu hôm nay ta chiến thắng nhưng hôm sau ta thất bại; biết đâu hôm nay ta còn nhiệt huyết nhưng hôm sau ta dường như muốn dừng lại và buông bỏ mọi việc hay biết đâu hôm nay ta còn sống, còn cười nhưng hôm sau ta đã trở về với bầu trời, với những vì sao, mãi mãi. Bay đêm thật ra là một câu chuyện mà Saint – Exupéry muốn chia sẻ với tất cả những đồng nghiệp làm nghề hàng không, muốn chia sẻ với những con người đang sống trong xã hội công nghiệp. Bề ngoài họ có thể hào nhoáng nhưng tận sâu trong bên trong họ là những người cần được yêu thương và đồng cảm, những con người mà chẳng hề biết mình sẽ đi về đâu. Bay đêm là tiếng nói đại diện cho đất nước Pháp, cho toàn thế giới rằng ở đâu đấy trong cuộc sống này, vẫn còn những con người hy sinh thầm lặng, họ chỉ biết yêu bầu trời và xem bầu trời chính là ngôi nhà đặc biệt của họ. Đã cất cánh rồi thì phải chiến đấu đến cùng. Bay đêm dạy cho ta biết chấp nhận những điều rủi ro mà cuộc đời luôn luôn cho phép xảy đến, đùng một cái người vợ phải co ro vì thiếu chồng, đùng một cái phải nghẹn lời chia tay với “chiến binh” – là người thân của mình. Trơ trọi. Tàn nhẫn. Lạnh tanh. Cho đến hôm nay khi có thời gian nhìn lại, bản thân chúng ta sẽ càng biết trân trọng những con người hoạt động trong nghề hàng không. Và trên mỗi chuyến bay của cuộc đời mình, chúng ta mới thấu hiểu được rằng “Một khi đã vạch xong con đường, con người không thể nào không đi tiếp”. Lúc đó nhìn lại cuộc đời và tìm kiếm cho mình cái đam mê, sự nhiệt huyết và trách nhiệm với bản thân, cộng đồng và đất nước. Thế giới đó không có quá nhiều về sự thịnh vượng của vật chất, tiền tài mà là hòa nhập vào nhịp điệu của sự chia sẻ, hoàn thiện mình từng ngày và trên hết là biết quan sát cuộc sống. Và sau tất cả những giông bão bao quanh, người ở lại phải sống thay phần của người đã khuất, sống một cuộc đời trọn vẹn hơn. Với lối kể đứt quãng, kết cấu phân mảnh cùng giọng điệu chân thực. Bay đêm dựng nên một bức tranh nhiều màu sắc với khoảng trống khác nhau trong thời gian, không gian và khai thác chiều sâu tâm lý của con người thông qua hành động một cách đa sắc thái. Đọc từng câu chữ, ta có thể dễ dàng phát hiện ra chất điện ảnh trong Bay đêm, từ đó dựng nên bộ phim cho riêng mình – bộ phim về một chuyến Bay đêm chinh phục những chặng đường chông gai đang đón đợi. *** [Review 2018] Bay Đêm – Antoine de Saint-Exupéry Chất văn của Antoine de Saint-Exupéry luôn song hành hai mặt đối lập: một là cái thơ mộng, trìu mến, cái đẹp lẩn khuất trong sự vật, mặt còn lại chính là sự thực của cuộc sống vừa bình thản mà chân thật. Khi mà ta đã trót sa vào cái lớp lụa nhung kết từ chữ của Saint-Exupéry rồi mê mải tận hưởng nó thì ông lại dẫn ta vào cái mặt phẳng phũ phàng của hiện thực. Tôi không thấy cái bi lụy hay khắc nghiệt trong văn của Antoine de Saint-Exupéry, dù cho với những đoạn văn mà nhân vật cận kề sinh tử, thì câu chữ, khung cảnh ông tạo nên vẫn rất đỗi êm dịu, đẹp đẽ như cái vuốt từ ngón tay người thương, hoặc là sự chân thành, hy vọng và nghiêm cẩn đằng sau nỗi suy tư của người ở lại. Tôi đã chẳng biết phải viết tiếp như thế nào sau mấy dòng chữ trên cho đến khi lại có một đêm mất ngủ, nằm thao thức rồi chợt nhớ tới Bay Đêm, liền ngồi dậy bật máy lên gõ thử vài dòng. Cũng xin nói, mấy câu có vẻ màu mè trên là cảm nghĩ của tôi sau khi đọc hai tác phẩm của Antoine de Saint-Exupéry mà thôi, không dám múa rìu qua mắt thợ. Còn lẽ sao bài này lại đổi đại từ nhân xưng thành “tôi”, vì tôi muốn vậy thôi.   Antoine de Saint-Exupéry ngoài việc làm nhà văn thì còn kiêm nghề phi công, nên qua Bay Đêm mà khắc họa lại cho người đọc cái niềm vui, tình yêu, khó khăn, dấu ấn của nghề phi công thuở ngành hàng không còn mới sơ khai. Nhiều người, trong đó có cả tôi đều kêu rằng Bay Đêm khó đọc quá, dù rằng nó chẳng nặng chuyên môn khó hiểu nhưng ta lại bỡ ngỡ với cách viết của Saint-Ex khi ông cứ liên tục đổi góc nhìn giữa các nhân vật với nhau mà viết. Đôi khi dịch giả Châu Diễn lại làm người đọc thêm bối rối bằng vài chỗ dịch như sau: “Như một hành trang, ông luôn luôn mang theo cái vẻ âu sầu ấy.”. Nhưng tôi xin cam đoan với bạn, nếu bạn kiên trì đọc tới trang 59 rồi lật sang số 60, trải nhiệm đọc của bạn bỗng trở nên mượt mà rất nhiều. Nếu chưa được, hãy dành cuốn sách này cho những đêm mất ngủ, bật đèn lật sách, mơ màng vượt biển ngắm sao trên cánh con tàu bay chất đầy thư gửi nơi xa.   Như tôi đã nói, cuốn truyện chừng hai trăm trang này kể về những chuyến bay vận chuyển thư tín diễn ra trong cảnh đêm và qua nhiều góc nhìn khác nhau từ những con người đã gắn mình với công việc ấy: người chỉ huy, người truyền điện tín, phi công, ông thanh tra hay người vợ trẻ của anh phi công. Tôi thích góc nhìn của Rivière – vị thủ trưởng chỉ huy các chuyến bay đêm, một con người vừa nghiêm khắc, gan lì, không nhân nhượng nhưng cũng có lúc mềm lòng để suy tư về những con người làm việc dưới quyền chỉ huy của ông. Đọc những đoạn văn trăn trở của ông mà tôi vừa không đồng ý lẫn nể phục tinh thần quyết đoán của Rivière. Ông rèn luyện cấp dưới của mình để họ nghiêm túc với công việc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh và dám chịu trách nhiệm với việc mình làm. Nhưng ngược lại, đôi lúc ta lại thấy Rivière quá xa cách, không biết cảm thông với những người đồng nghiệp. Dầu sao vẫn phải thừa nhận rằng Rivière đúng, trên cương vị của một người thủ lĩnh, ông phải duy trì tỉnh táo, nghiêm khắc, tránh bi lụy để đương đầu với khó khăn và duy trì nhiệm vụ. Tai nạn luôn có thể xảy ra và từ những đau khổ, ta phải rút ra bài học, cải thiện hơn nữa, như chính Rivière nhận định: “Những thất bại tăng thêm sức mạnh cho những kẻ sung sức.” — Rivière Nhưng dù hành động của Rivière có phục vụ cho mục đích cấp tiến nào đi chăng nữa thì sinh mạng, sự an toàn của con người luôn là ưu tiên và phải được pháp luật bảo hộ. Trong một cuốn truyện ngắn thì thôi cũng không nên yêu cầu nhiều. Với Rivière, màn đêm là vô tận, là trách nhiệm không ngừng nghỉ. Thì với Fabien, với những người phi công khác, mặt đất là chốn xa xôi, bầu trời bất tận mà đẹp đẽ, là nỗi chán chường, sự hào hứng, nỗi nhớ đất liền, là sự tự hào về con tàu bay. Tôi thích cả bầu trời sao trăng giữa giông bão của Fabien, thích cả bầu trời của Fabien qua ánh mắt mến mộ của người vợ trẻ: “Anh có trời đẹp, đường anh đi lát đầy sao.” Nay tôi xin dừng bút, vì thực là hết chữ rồi. Có nhiều đoạn văn đẹp trong Bay Đêm tôi sẽ không trích lại, gập cuốn sách này mà phải gật đầu đồng ý với lời bạt ở bìa sách: Bay đêm đẹp, mê hoặc mà đầy nguy hiểm. ***   Rating: 5 out of 5. Saint-Ex vẫn như thế, vẫn cái giọng văn trữ tình đẹp đẽ như thơ ấy mà ta đã mong được gặp lại kể từ Hoàng Tử Bé, dẫu rằng lần này đó là chất thơ trong đanh thép. Trước khi được nói đến điều ta ghi dấu nhất từ cuốn sách, ta xin được cảm thán cách Saint-Ex miêu tả bầu trời đêm với sao, trăng, mây gió và giông tố. Niềm say mê, tình yêu tha thiết với ánh sáng tuyết trắng của trăng và sao trải lên sáng lóa trên dải mây ngàn là điều dễ hiểu, nhưng dường như ta còn thấy trong ông là niềm bao dung, biện hộ cho cả những cơn giông bão dữ dội nuốt chửng đồng đội của ông. Ta đọc và nghe tình yêu ấy ngấm vào mình một cách dịu dàng, từ khi nào ta thôi còn oán trách những khắc nghiệt trên đường đi nữa? Ngày xưa khi học môn Xác suất thống kê, ngụp lặn trong vô vàn công thức tính toán, ta còn nhớ thầy giáo đã bảo rằng: “Các em có thể quên môn học này, có thể quên mớ kiến thức của nó, nhưng đừng quên nguyên tắc Số Lớn khi bước ra đời”. Khi ấy ta chỉ lờ mờ hiểu được cách vận dụng của nó trong các quyết định: Không có gì tuyệt đối cả, nếu phải chọn hãy chọn phần lớn. Nhưng đến khi ta biết đến Rivière, một hình tượng của người lãnh đạo, người mang trên mình sức nặng của Vĩ Đại và Chiến thắng, ta đã sáng rõ hơn về cái được gọi là Số Lớn. Những thất bại, những mất mát đã xảy ra, và sẽ tiếp tục diễn ra nhưng không vì thế mà Rivière chậm trễ, ngưng trệ một chuyến tàu. Ông sẽ không vì một sinh mạng đã tan biến, một hạnh phúc đã ngừng thở mà bỏ cuộc, mà không tiếp tục đưa những con tàu vào đêm tối. Tại sao một chuyến tàu thư cho một thành phố lại quan trọng hơn mạng sống quý giá của một con người, hơn cả hạnh phúc của một gia đình êm ấm? Tại sao cả một dân tộc điêu đứng cho một bức tường mang tên Vạn lí trường thành? Tại sao hàng vạn người chết đánh đổi cho những hòn đá xếp chồng lên nhau mang ý nghĩa Kim tự tháp? Có đáng giá không khi biết bao hạnh phúc để đánh đổi cho những sự vật như thế? Có, “Quyền lợi chung do các quyền lợi riêng hợp thành: nó không biện bạch thêm một tí gì khác.” Có một thứ gì đó còn cao quý hơn cả những mạng sống, những hạnh phúc cá nhân ấy. Đó là cái gì? Hàng vạn số phận đã mất đi là nhiều, nhưng vẫn là số ít so với nhân loại này. Còn số lớn còn lại, họ nhận được thứ được gọi là Văn Minh, là Thành tựu, là những bằng chứng cho những điều Vĩ Đại vượt trên sức mạnh nhỏ bé của con người. Nếu không có sự hi sinh của số ít thì số ít ấy sẽ được sống nốt số phận của mình, và rồi cũng sẽ biến mất đi, nhưng nhân loại sẽ trôi đi như những hạt bụi không vết tích. Rivière đã làm đúng những gì cần làm, sự cực đoan ấy tàn nhẫn ấy không phải để thỏa mãn cho cái Tôi vị kỉ ngạo mạn, ông hết lòng bảo vệ những chuyến tàu, và cũng dũng cảm dâng hiến chúng cho Chiến thắng và Số Lớn. Ta quý trọng và nể phục những con người như Rivière, họ bước những bước vững chải qua sự yếu hèn của con người, nắm chặt trong tay niềm tin sắt đá để bước đến điều Vĩ Đại và dám chấp nhận những thất bại để đến gần với Chiến Thắng hơn. Chỉ cần có họ, nhân loại sẽ còn hi vọng về sự tiến hóa. Và cuối cùng, ta xin được trích dẫn một câu ta nghĩ rằng Saint-Ex đã nói hộ lòng mình bấy lâu nay: “Chúng ta không đòi hỏi sự vĩnh cửu, mà chỉ đòi hỏi không phải chứng kiến các hành động mà sự vật bỗng chốc mất hết ý nghĩa. Khi đó, cái trống rỗng bao quanh ta sẽ hiện ra…”. Khi đã chứng kiến những hành động ấy đôi lần, ta trở nên vô cùng sợ hãi cái sự thật rằng sự vật sẽ trở nên vô nghĩa trong đời sống này… Ta không biết mình sẽ thở thế nào trong sự chân-không ấy. Nhưng vẫn theo nguyên tắc Số Lớn, ta chấp nhận đánh đổi những giờ khắc trống rỗng khủng khiếp ấy để đi đến cái Chiến thắng mà niềm tin của ta xây dựng nên, như cách Saint-Ex xây dựng trong suốt đời mình. Mời các bạn đón đọc Bay Đêm của tác giả Antoine De Saint-Exupéry.
Bà Chúa Chè
Cuộc đời của tuyên phi Đặng Thị Huệ và bối cảnh đất nước thế kỉ 18. Những biến cố, những cuộc ganh đua quyền bính. Dưới góc nhìn của nhà văn Nguyễn Triệu Luật, hình ảnh của Đặng Thị Huệ hiện lên khác hẳn với rất nhiều tác phẩm đương thời. Bên cạnh Bà Chúa Chè là tác phẩm Rắn báo oán, viết về cuộc đời và số phận của Nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ, vụ án Lệ Chi viên và số phận oan khiên của Nguyễn Trãi. Nguyễn Triệu Luật đã tự mình mở ra một dòng sáng tác tiểu thuyết lịch sử rất đáng trân trọng. Đương thời ông là nhà văn được độc giả yêu thích. Chẳng thế mà các nhà văn tài danh như Nguyễn Tuân, Hiền Chy, Đái Đức Tuấn... cũng như các nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng như Vũ Ngọc Phan, Trúc Khê, đều có những bài viết ca ngợi ông. Ngày nay, truyện của Nguyễn Triệu Luật vẫn rất đáng được đọc để hiểu về lịch sử Thăng Long một thời xa xưa, cũng như kĩ thuật viết văn của tiểu thuyết gia Việt Nam một thời cách nay cũng đã ít nhất là hai ba thế hệ. *** Nguyễn Triệu Luật (1903-1946), bút hiệu: Dật Lang, Phất Văn Nữ Sĩ; là nhà giáo, nhà văn, nhà báo và là thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng vào năm 1927 tại Việt Nam. Ông là người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội). Ông là cháu nội của Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890) và Cử nhân Nguyễn Án (1770 – 1815), thuộc một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và nhiều người làm quan lớn. Thuở trai trẻ, Nguyễn Triệu Luật học tại Trường nam Sư phạm Hà Nội, đến khi tốt nghiệp, lần lượt đến dạy tại một số trường công ở Tuyên Quang, Hà Nội, Hải Phòng. Năm 1927, ông cùng Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài tham gia thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng...Sau khi cuộc tổng khởi nghĩa thất bại, mười ba đồng chí của ông, trong đó có lãnh tụ Nguyễn Thái Học, bị thực dân Pháp xử chém ở Yên Bái ngày 17 tháng 6 năm 1930; thì ông cũng bị thực dân cầm tù cùng với hai nhà văn khác là Nhượng Tống và Trúc Khê. Một thời gian sau ông được tha, nhưng bị buộc thôi nghề dạy học. Kể từ đó, ông quay sang làm báo, viết cho nhiều tờ như: Nam Phong, Trung Bắc tân văn, Ích hữu, Tao đàn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Nhật Tân...Trong những năm 1937-1939, ông được mời vào giảng dạy tại trường tư thục Lê Văn ở Vinh. Chính thời gian này, ông viết nhiều tác phẩm nhất. Năm 1940, ông bị thực dân Pháp đưa đi an trí, và qua đời năm 1946, lúc 43 tuổi [3]. Hiện nay, ở quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, có con đường mang tên Nguyễn Triệu Luật. Tác phẩm chính Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, vào năm 1935, nhân đọc cuốn Vua Hàm Nghi của Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật viết cuốn Ông Phan Trần Chúc bôi nhọ quốc sử, rồi sau đó ông soạn một loạt sách truyện ký lịch sử bao gồm: Hòm đựng người (in từng kỳ trên báo Nhật Tân vào năm 1936, 1938 in thành sách)[4] Bà chúa Chè (Nhà xuất bản Tân Dân - Hà Nội, 1938) Loạn kiêu binh (Nhà xuất bản Tân Dân - Hà Nội, 1939) Ngược đường Trường thi (Phổ thông bán nguyệt san số 46, 1939) Chúa Trịnh Khải (Nhà xuất bản Tân Dân - Hà Nội, 1940) Rắn báo oán (1941) Thiếp chàng đôi ngã (in chung với Rắn báo oán, 1941) Bốn con yêu và hai ông đồ (1943) Chúa cuối mẻ (đăng dở dang trên tờ Tiểu thuyết thứ Bảy từ số 1, tháng 6 năm 1944 đến số 9, tháng 3 năm 1945). Ngoài ra, ông còn có nhiều tiểu luận, tạp luận đây đó trên nhiều báo và tạp chí đương thời, kể từ tờ Nam Phong tạp chí (1923), tờ Phụ nữ thời đàm mà ông là Chủ bút kế nghiệp nhà văn Phan Khôi trong 4 số cuối cùng, các tạp chí Tri tân, Tao đàn... Cho đến nay vẫn chưa sưu tập được đầy đủ. Năm 2011, Các tiểu thuyết lịch sử của ông đã được tập hợp in lại trong cuốn Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành. *** Năm ấy là năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32 đời vua Lê Hiển Tông Vĩnh hoàng đế, nhà chúa vào năm thứ năm đời chúa Tĩnh đô vương Trịnh Sâm, lịch tây vào năm 1771. Một buổi trưa tháng năm, giữa mùa hạ. Hai bên cầu, hai cánh đồng ruộng chiêm nước ngập liền bờ, chạy thẳng tít đến lận chân núi Nguyệt Hằng và núi Chè. Giá không có những ngọn cây gáo nước lơ phơ trên mặt nước để phân bờ ruộng, giá không có mấy con trâu đương bừa bì bõm, nước chấm đến bụng, thì chiếc cầu và con đường người ta tưởng như vắt ngang một cái hồ rộng hoặc một cánh đồng lụt ngút ngàn. Trong cầu, một bọn vài chục người đương ngồi nghỉ mát, quang gánh không vứt bừa bãi giữa sàn cầu. Giữa cầu một bà già đương ngồi múc nước và chan canh riêu vào bún bán cho khách đi chợ về giải khát và đã đói. Ngoài ruộng, mặt nước mỡ cua hắt ánh nắng hạ đầu mùa, đưa lên toàn hơi lửa. Bọn ngồi trong cầu đều là bọn người tổng Ném đi bán chè ở chợ Lũng Giang chân núi Nguyệt Hằng về. Mời các bạn đón đọc Bà Chúa Chè của tác giả Nguyễn Triệu Luật.
Cư Kỉnh
Văn học nghệ thuật của một đất nước thì mang những đặc trưng riêng của đất nước đó. Tuy nhiên trong quá trình phát triển văn học nghệ thuật cũng chịu những tác động của các yếu tố bên ngoài, vì thế khi thì nó phát triển theo con đường đúng đắn, có khi lại đi lệch hướng. Và sự lệch lạc đó trong văn học nghệ thuật nó cũng gây những tác động tiêu cực tới nếp sống và cách suy nghĩ của con người. Trong tiểu thuyết “Cư kỉnh” tác giả Hồ Biểu Chánh đã nói lên được thực tế đó ở Việt Nam thời gian đầu thế kỷ XX. Nhân vật Chí Cao trong “Cư kỉnh” là một điển hình cho sự băng hoại đạo đức của một bộ phận trí thức thế kỷ XX. Chí Cao – một tiểu thuyết gia tên tuổi được nhiều độc giả biết tới, nhưng anh đã lợi dụng văn chương để làm u muội và lừa gạt tình cảm độc giả của mình. Cuối cùng anh đã phải trả giá cho những việc không tốt mà anh đã gây ra. Với cách hành văn giàu chất Nam Bộ, lối nói nhẹ nhàng thủng thỉnh, ngôn từ giản dị, trong khoảng hơn năm mươi trang nội dung Hồ Biểu Chánh đã cho ta thấy được phần nào sự phát triển văn học Việt Nam thời kỳ đầu của thế kỷ XX và sự suy đồi nhân cách của một bộ phận trí thức thời kỳ đó. Tiểu thuyết giàu giá trị phê phán đồng thời cũng giúp ta sáng tỏ một chân lý sống: Gieo nhân nào thì hái quả đó, gieo gió thì phải gặp bão. Vì thế mà Chí Cao lừa gạt tình cảm của cô Túy đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Tiểu thuyết của ông, gồm hơn 60 quyển, chủ yếu xoay quanh các vấn đề đạo đức, nhân nghĩa, tình đời bị cuốn trôi, bị xen lẫn, phải vùng vẫy trong làn hương mê muội của tiền bạc. Đọc về Nam Bộ xưa là tiếp xúc với những ngôn từ có phần chân quê, lạ lẫm thêm cách nói chuyện hưỡn đãi, nhưng cũng không kém phần tinh tế vì những khía cạnh của một câu chuyện tưởng như chân chất bình thường lại được xoáy vào ở mọi góc cạnh, và bất giác khiến ta giật mình khi những gai góc của nó lộ ra. Đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, cũng là một bước nhìn lại quá khứ, không phải của tôi, mà là của con người, của thiên hạ, đế thấy con tạo xoay vần, nhân gian biến đổi, nói thiệt, không khỏi có chút chạnh lòng. *** Chủ bếp hầu đang ngồi lim dim ngoài cửa, trông cho mau được về trại ăn cơm, thình lình tên Tú bước vô đưa phong thơ của ông Huyện và mượn trình liền cho quan lớn. Chủ bếp thấy quan lớn đang viết nên lấp ló không dám vô. Cách một hồi, quan Chủ quận ngước lên thấy chú bếp thì hỏi: - Muốn chi đó, chú bếp? - Bẩm quan lớn, có thơ của ông Huyện hàm dặn đưa gấp cho quan lớn. - Đem vô đây. Quan Chủ quận lấy thơ mở ra xem, thì thấy thơ như vầy: "Kính bẩm quan lớn, Tôi kính bẩm cho quan lớn rõ: tôi mới nghe dường như trong nhà tôi có manh mối xa gần về vụ án mạng mà quan lớn đương tra xét đó. Tiếc vì tôi không có thể hỏi mà phân manh mối ấy được, vậy tôi cúi xin quan lớn vui lòng dời gót đến nhà tôi đặng tra xét tường tất cho ra chơn lý. Cúi xin quan lớn nhậm lời Huyện Hàm TÂN Kính bái thơ" Quan Chủ quận đọc thơ rồi ngài lắc đầu thở ra, thủng thẳng xếp thơ bỏ vào hộc tủ rồi đứng dậy bước ra cửa mà đi, không nói cho bà lớn hay, mà cũng không dạy bếp hầu đi theo. Bước vào cửa ngõ của ông Huyện Hàm Tân, quan Chủ quận thấy ông đương thơ thẩn trong vườn hoa, thì đi riết vô. Ông Huyện thấy quan Chủ quận đi một mình thì cũng bươn bả đón rước. Chủ khách chào nhau và dắt nhau đi vô nhà. Ông Huyện thấy một tên bạn làm vườn đang lui cui nhổ cỏ gần đó thì kêu mà biểu nó đi mời Hương quản. Quan chủ quận thì nghiêm nghị, còn ông Huyện thì tư lự, cử chỉ ấy làm cho cuộc hội diện chiều nay đã không vui vẻ, mà còn có không khí nặng nề khó chịu. Quan chủ quận vừa ngồi, thì bà Huyện ở trong bước ra chào, nét mặt quyết đoán chớ không có vẻ buồn lo. Quan Chủ quận không nói tới việc ngài mới đọc trong thơ, có ý nhường cho ông Huyện khởi đầu, đặng dọ coi việc nhà của ông Huyện chuyển biến ra thể nào. Công việc đến đây, dường như ông Huyện hối ngộ sự ông viết thơ mời quan Chủ quận. Ông ngó bà với cặp mắt buồn hiu và ngồi im lìm không nói chi hết. Biết chủ nhà khó mở miệng, và quyết đem sự tín nhiệm để thay sự ngần ngại ấy, quan Chủ quận mới chẫm rãi hỏi ông Huyện: - Ông Huyện nghe việc chi mà ông nói vụ án mạng dường như có manh mối? Câu hỏi ấy dường như xô đẩy ông Huyện bước tới, lại cũng chặn đường không cho ông thối lui, bởi vậy ông ngó bà rồi thủng thẳng nói: - Bẩm quan lớn, việc đó như vầy: hồi sớm mơi nầy tôi nghe người ta nói kín cho tôi biết lúc vợ chồng tôi đi Sài Gòn ở trển 10 bữa, thì ở nhà một đêm nọ, lối 10 giờ, có bóng người mặc đồ trắng, không rõ đàn ông hay đàn bà, ở phía sau vườn tôi vạch rào chỗ đám trầu mà qua bên vườn Chí Cao rồi hơn một giờ sau cái bóng ấy trở lại. Đêm sau cũng thấy như vậy nữa, mà lần nầy bên vườn Chí Cao lại có thêm một cái bóng nữa, hai bóng lần lần đi vô nhà Chí Cao, đến gần sáng mới trở ra tới rào, rồi một cái đi qua bên vườn của tôi.    Mời các bạn đón đọc Cư Kỉnh của tác giả Hồ Biểu Chánh.