Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ

Sheila Webb nghĩ mình đến gặp một quý bà bị mù đợi cô ở nhà số 19 khu Wilbraham Crescent - chứ không phải là gặp một cái xác đàn ông trên sàn nhà. Nhưng khi cô Pebmarsh phủ nhận việc yêu cầu cử cô Sheila Webb đến đây, cũng như không hề sở hữu những chiếc đồng hồ hiện diện xung quanh cái xác, rõ ràng họ cần đến một thám tử tài ba. “Vụ án quá phức tạp nên hẳn nhiên nó phải rất đơn giản,” Hercule Poirot tuyên bố. Nhưng kẻ sát nhân vẫn lộng hành còn thời gian thì cứ trôi đi… Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng với sự kiện Hercules Poirot không hề đến hiện trường xảy ra tội ác hoặc thẩm vấn nhân chứng hay người bị tình nghi. Ông bị thách thức chứng minh rằng có thể giải quyết một vụ án chỉ bằng kinh nghiệm và trí thông minh. *** Một con người có khả năng đấy! - Anh đăm chiêu nói. - Tôi khó biết nổi anh ta muốn đi đến đâu. - Chắc là anh ta không đầu hàng mà sớm hiểu ra. - Bà Tanios đã phôn cho tôi lúc nãy. - Tôi thông báo. - Tôi đã nghĩ thế. Tôi báo cho anh biết lời ủy thác. - Tốt. Mọi sự đang tiến triển như ý. Trong hai mươi bốn giờ nữa, Hastings, chúng ta sẽ được biết chính xác. - Tôi hãy còn lưỡng lự. Ai đúng là kẻ để chúng ta ngờ vực? - Tôi không thể nói người nào anh nghi ngờ, Hastings! Mọi người, lần lượt, tôi đang nghĩ ra hắn! - Đôi khi tôi có cảm giác rằng anh lấy làm thích thú để tôi rơi vào tình trạng không biết đâu mà lần! - Không, không, trò vặt ấy không làm tôi vui lắm đâu! - Tôi không tin là anh chịu bó tay trong việc này. - Tôi đáp. Poirot im lặng, vẻ lo lắng. Tôi hỏi anh: - Anh đang có điều gì, trong lúc này vậy? - Này anh bạn, khi sắp kết thúc một cuộc điều tra hình sự, tôi luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh. Có thể điều gì đó sắp xảy ra? - Anh muốn điều gì xảy ra? - Tôi không biết, anh ạ. (Anh nhíu mày và nói thêm) Tôi cho rằng đã làm hết khả năng... - Trong trường hợp này, hãy quên vụ án này đi và hãy đi đến rạp chiếu bóng, nào, mời anh! - Đúng đấy, Hastings, một ý kiến hay đấy! Chúng tôi có một buổi tối tuyệt vời, mặc dầu tôi đã phạm sai lầm là đưa Poirot đi xem một bộ phim hình sự. Một lời khuyên các bạn đọc rằng: đừng bao giờ đưa một người lính đi xem một vở kịch về chiến tranh, một thủy thủ một vở về hàng hải, một thám tử một vở về hình sự... Hàng tràng dài những câu phê bình của họ sẽ làm các bạn chán ngấy cuộc biểu diễn ấy. Poirot phát hiện ra một ngàn lẻ một chỗ yếu kém về tâm lý của bộ phim và sự thiếu phương pháp và thứ tự của thám tử xuýt làm cho anh phát điên. Khi ra về Poirot còn giải thích cho tôi rằng có thể đã vạch trần điều bí mật ngay ở nửa đầu của cuốn phim đầu. - Vô lý, không thể có phim khá thế đâu, anh Poirot! Poirot phải chấp nhận là tôi có lý. Sáng hôm sau độ hơn chín giờ một chút, tôi đến nhà bạn tôi. Tôi thấy anh đang vừa ăn sáng vừa mở các phong bì của chuyến thư tín. Điện thoại reo. Tôi cầm ống nghe. Một giọng hổn hển nói: - Có phải ông đấy không, ông Poirot? Ồ! Hóa ra là ông, đại úy Hastings? Tôi nghe thấy một thứ tiếng thở dài, và tiếng nức nở. - Có phải bà Lawson đang nói đấy không? - Tôi hỏi. - Vâng, vâng, đã xảy ra một chuyện khủng khiếp. - Cái gì vậy? - Cô ấy đã rời khách sạn Wellington... Tôi muốn nói về Bella. Tôi đã đến đó chiều hôm qua và người ta đã trả lời tôi rằng cô ấy đã đi rồi. Cô ấy cũng không để lại cho tôi một thông tin nào. Không có gì! Thật là lạ! Dù sao, bác sĩ Tanios có lẽ đã có lý. Ông nói về cô ấy bằng một giọng rất dịu dàng, và có vẻ rất buồn đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng ông ta đã không thành thực chăng. - Nào, bà Lawson, hãy nói tôi biết điều gì đã xảy ra. Phải chăng chỉ là bà Tanios đã rời khách sạn mà không báo cho bà biết trước? - Ồ không! Nếu như chỉ là thế? Bác sĩ Tanios nói rõ rằng vợ ông ấy không còn nữa... Tóm lại, ông hiểu điều tôi muốn nói... Ông ta gọi bệnh này, là chứng trưng cảm truy bại. - Vâng. Điều gì đã xảy ra vậy? - Ồ! Thật khủng khiếp! Chết trong giấc ngủ... Liều thuốc ngủ quá mạnh! Và những đứa trẻ tội nghiệp! Buồn biết bao! Tôi chỉ biết khóc từ khi tôi biết tin này! - Bà đã biết tin ấy thế nào? Bà hãy kể tôi nghe chi tiết đi. Trong khóe mắt, tôi nhìn thấy Poirot đã ngừng mở các lá thư và đang lắng tai nghe. - Người ta đã gọi tôi qua điện thoại. Từ khách sạn... Khách sạn Coniston. Hình như người ta tìm thấy tên tôi và địa chỉ của tôi trong túi cầm tay của cô ấy. Ồ! Đại úy Hastings, khủng khiếp quá phải không? Những đứa trẻ ấy không còn mẹ nữa! - Hãy nghe tôi. Bà có chắc là đó là một tai nạn không? Đừng nghĩ nhiều đến một vụ tự sát? - Ôi, một ý kiến đáng sợ, đại úy Hastings! Tôi không biết gì cả. Ông có cho đó là một vụ tự sát không? Điều đó sẽ còn kinh khủng hơn! Cô ta có vẻ rất suy sụp... vô lý, tôi cam đoan với ông như vậy. Cô ấy không có khó khăn gì về tiền bạc cả vì tôi đã sẵn sàng chia sẻ với bà ấy... Tôi xin thề với ông về việc đó! Tiểu thư Arundell muốn thế, tôi có tình cảm với bà ấy. Và nghĩ rằng bà ấy có thể sẽ tự sát... Nhưng có thể là không đúng như thế... Những người của khách sạn nói đến một tai nạn. - Bà ấy đã dùng cái gì? - Một loại thuốc ma túy để ngủ. Veronal. Không, đúng hơn là Chloral. Vâng chính là Chloral. Ô, đại úy Hastings, ông có nghĩ... Không quá câu nệ, tôi đặt lại ống nghe và quay sang Poirot. - Bà Tanios... Poirot giơ bàn tay lên. - Phải tôi biết điều anh sắp thông báo cho tôi rồi. Bà ấy đã chết phải không? - Vâng, một liều mạnh thuốc ngủ, thuốc Chloral. Poirot đứng dậy. - Đến đấy, Hastings. Ta đi đến đấy ngay lập tức! - Phải chăng đó là cái kết cục mà anh đã sợ hãi chiều hôm qua? Anh chẳng đã nói rằng vào lúc kết thúc cuộc điều tra hình sự, anh luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh đó sao? - Vấn đề là một cái chết khác. - Poirot nói, mặt xị xuống. Trong khi phóng xe đi Euston chúng tôi gần như không nói gì cả. Đến lúc thấy Poirot lắc đầu tôi mới rụt rè hỏi anh: - Anh có nghĩ... Phải chăng là một tai nạn? - Không, Hastings, không. Không phải là một tai nạn. - Làm sao biết? Poirot không trả lời tôi. Cuối cùng chúng tôi đến khách sạn Coniston. Poirot, bỗng có cử chỉ thô bạo, chìa thẻ của mình ra và xông thẳng vào văn phòng giám đốc. Người ta kể lại cho chúng tôi các sự kiện. Một quý bà tên là Peters cùng với hai con đã đến khách sạn hôm qua lúc mười hai giờ rưỡi trưa. Họ ăn lúc một giờ. Lúc bốn giờ, một người đàn ông xuất hiện, mang một mảnh giấy cho bà Peters. Chúng tôi đem giấy lên. Vài phút sau bà ấy đi xuống cùng với hai con và một chiếc va-li. Bà giao các con bà cho người khách, rồi quay lại văn phòng và giải thích rằng bà chỉ lấy một phòng thôi. Bà ấy không có vẻ đặc biệt chán chường, bà hình như cũng khá bình tĩnh. Bà ăn tối lúc bảy giờ rưỡi, và ít phút sau, đi lên phòng mình. Sáng hôm sau lúc cô hầu mang lên cho bà một tách trà, đã thấy bà ấy chết rồi. Một thầy thuốc được gọi đến vội vã, đã tuyên bố rằng bà ấy đã chết trước đó nhiều giờ. Chúng tôi tìm thấy một chai rỗng trên bàn đầu giường của bà ấy. Mọi sự chỉ rằng bà đã uống một loại thuốc ngủ và do lầm lẫn, bà đã dùng một liều quá mạnh. Thầy thuốc bảo rằng đó là Chloral. Không có gì để tin rằng đó là vụ tự sát. Chúng tôi không tìm thấy một lá thư nào cả. Khi lục lọi các đồ riêng của bà để báo cho gia đình, chúng tôi tìm thấy trong một cái túi cầm tay có tên và địa chỉ của bà Lawson chúng tôi đã báo cho bà này qua điện thoại. Poirot hỏi người ta không tìm thấy gì về mặt thư từ và giấy tờ... Chẳng hạn, lá thư được mang đến bởi người đàn ông đã đến tìm bọn trẻ. Người đối thoại đáp: không một tờ giấy thuộc bất kỳ loại nào được tìm thấy trong phòng cả, nhưng người ta thấy trong lò sưởi một đống giấy tờ đã cháy. Trong chừng mực mà người ta có thể khẳng định thì bà Peters không tiếp bất kỳ ai cả trừ người đàn ông đến mang các con bà đi. Bản thân tôi hỏi người gác cổng về dấu hiệu nhận dạng của người này, nhưng anh ta cho tôi biết một chân dung cũng khá mờ nhạt: vóc tầm thước, tóc vàng hoe, dáng vẻ một người lính, không có gì đặc biệt lắm trên thân thể. - Đó không phải là Tanios. - Tôi nói thầm với Poirot. - Hastings thân mến ơi! Anh có thật sự tin rằng bà Tanios sau biết bao khó nhọc mới mang đi được bọn trẻ khỏi bố chúng, lại ngoan ngoãn trả chúng lại cho ông ấy mà không than khóc cũng không phản đối gì cả ư? Không! Không đâu! - Vậy thì người này là ai? - Rõ ràng là một người nào đó đã có thể chiếm được niềm tin của bà Tanios, hay đúng hơn là một người nào đó được một người thứ ba có tín nhiệm của bà Tanios phái đến. Tư cách pháp nhân của người đến mang bọn trẻ nhà Tanios đi không quan trọng lắm. Tác nhân gây án thực sự hãy còn trong bóng tối. - Và mảnh giấy là của người thứ ba ấy à? - Phải. - Một người nào đó được bà Tanios tín nhiệm ư? - Nhất định là thế. - Và mảnh giấy bị cháy thì sao? - Phải, có thể là bà ấy có lệnh là phải đốt nó đi. - Còn bản tóm tắt vụ án mà anh đã đưa cho bà ấy thế nào? Poirot trả lời tôi, vẻ trịnh trọng: - Cũng đã đốt rồi. Nhưng toàn bộ việc ấy không có gì quan trọng cả. - A! Sao thế? - Vì tất cả còn lưu giữ trong đầu Hercule Poirot. Anh nắm vội cánh tay tôi. - Đi thôi! Hastings, hãy rời khỏi khách sạn này. Ta hãy để lại những người đã chết để ta săn sóc đến người đang sống. Họ đòi hỏi chúng ta phải hết sức cảnh giác. ... Mời các bạn đón đọc Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ - Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trậm Điểu
Tay tỷ phú lừa đảo Charles Merick đang ngồi tù. Hắn lấp lửng công khai bí mật về một tài sản vẫn còn đang được giấu đâu đó. Điều này đã kích thích lòng tham của một bầy “cá mập” bủa vây chờ ngày hắn được ra tù và cả những nạn nhân của trò lừa đảo tài chính của hắn. Thẩm phán Hammond Birk, người đã cứu vớt cuộc đời Gibson Vaughn khi anh còn là một thanh niên gặp rắc rối trong cuộc sống cũng là một trong số những nạn nhân đó. Để trả món nợ ân tình, Gibson quyết định sẽ cướp lấy số tiền của Merrick. Đối đầu với những đối thủ sừng sỏ, khát máu, Gibson sẽ làm gì? Những đồng tiền chưa bao giờ lên tiếng, nhưng âm thanh leng keng đến chói tai của chúng khiến người ta phải điên loạn mà nổ súng, giết người không ghê tay, mọi giá trị đạo đức hay pháp luật đều trở nên vô nghĩa khi đồng tiền lên ngôi. Trậm Điểu là những cuộc đào tẩu và âm mưu đen tối kinh hoàng. *** "Chiến đấu cho ra trò, nhưng đừng bao giờ để họ chọn sân đấu." ________________ Nếu như Sợi dây thừng nghiệt ngã là câu chuyện móc nối quá khứ để mở ra hiện thực thì Trậm Điểu là chính là kết quả của hiện thực mà Gibson đã lún chân vào. Trậm Điểu là một cuộc chơi khác, nơi mà những câu chuyện ở quá khứ vẫn bám lấy anh, vẫn tác động lên cảm xúc và trực giác của Gibson nhưng lại ít ám ảnh hơn trong Sợi dây thừng nghiệt ngã. Lần này anh đòi hỏi bị thách đấu ở một phương diện khác, khi mà kẻ anh thách đấu lại có một vị trí đặc biệt: gã ở tù bị săn đón nhiều nhất. Cuộc đấu trí lần này là cái giá của hiện thực mà Gibson buộc phải chấp nhận. Nó cuốn người đọc không ở việc tìm ra bí ẩn hay những quá khứ đen tối mà là ở quá trình tranh đấu giữa hai bên, đã vậy kẻ còn lại không khác gì vô hình. Có một điều thú vị tớ nhận thấy là trong câu chuyện này, để nói rõ ai trắng ai đen trong truyện này rất khó, mà việc đó cũng không phải quan trọng. Chỉ riêng những tình tiết nảy sinh và diễn ra liên hồi cũng đủ để cuốn sách này là một cuốn trinh thám xuất sắc. Phần sau là hồi gay cấn nhất. Có hành động, có twist. Cái twist truyện không nhảy cái đùng một phát xuống dòng, nó chỉ thả nhẹ ở một tình tiết thôi, không hề gây sốc ngay lập tức nhưng lại đủ sức lật câu chuyện sang hướng mới. Đọc mà thực tâm cảm khái tác giả viết tốt quá, mọi thứ đều rất chặt chẽ và logic. Đoạn cuối cũng là một cú lật ngoạn mục, một cú nhử mà tới giờ tớ nghĩ lại vẫn cay, cuốn sách tiếp theo đâu. Chào thân ái từ tinh cầu nóng chảy! *** Review // Không spoil ~ TRẬM ĐIỂU ~ Tác giả: Matthew FitzSimmons. Dịch giả: Trần Trọng Hải Minh Thể loại: Trinh thám phương Tây. Mức độ ưa thích: 9.5/10 ————————- Sau vụ việc với phó tổng thống Benjamin Lombard trong quyển “Sợi dây thừng nghiệt ngã”, tưởng rằng có thể yên ổn sống tiếp nhưng rốt cuộc chàng thám tử Gibson Vaughn lại bị “nhờ vả” tham gia cuộc điều tra xoay quanh Charles Merrick – tù nhân kinh tế sắp mãn hạn tám năm tại nhà tù Niobe. Tuy ban đầu không muốn nhưng rồi Gibson Vaughn vẫn dấn thân vào vì một lý do khá cảm tính. Cuộc điều tra đòi hỏi khả năng tin tặc của anh, sự bền bỉ linh hoạt, lòng dũng cảm và cả bản tính hài hước gợi đòn. Mọi chuyện diễn biến càng lúc càng tệ khi Gibson phải đối mặt với nhiều phen nguy hiểm tính mạng và thậm chí bị bắt bởi CIA. Sau khi đọc “Sợi dây thừng nghiệt ngã”, Biển có ấn tượng tốt với truyện trinh thám của Matthew FitzSimmons nên rất hào hứng đọc tiếp Trậm Điểu. Đúng như mong đợi, Trậm Điểu có cốt truyện thật sự hấp dẫn ly kỳ. Tác giả không cố tình viết giựt gân kiểu như “bỗng một bóng đen xuất hiện bên cạnh tôi” nhưng câu chuyện vẫn cuốn hút ngay từ những trang đầu tiên, nhiều đoạn khiến Biển căng thẳng do quá hòa mình vào câu chuyện. Giọng văn rành rọt phân minh, tuy thường xuyên có những câu dài như cả đoạn nhưng đọc vẫn dễ hiểu. Những câu văn dài cũng cho thấy kỹ năng dịch thuật thượng thừa và nỗ lực của dịch giả. Biển không hiểu rõ những đoạn về kinh tế hay âm mưu chính trị trong truyện, nhưng điều đó không ngăn cản Biển thưởng thức chất trinh thám của Trậm Điểu. Nửa sau quyển sách sẽ khiến độc giả muốn đọc một mạch để nhanh biết kết cuộc. Tuy không có nhiều đoạn triết lý nhưng Matthew FitxSimmons đã khéo léo lồng ghép tâm lý nhân vật vào các đoạn văn, khiến người đọc cảm nhận và thấu hiểu được cách suy nghĩ, hành xử của các nhân vật trong truyện. “Thêm nữa, đàn ông ở tuổi anh ta có xu hướng không coi trọng phụ nữ ở tuổi cô và cô nhận ra rằng bị đánh giá thấp là điều hữu ích”. Trậm Điểu cũng có đề cập một chút đến khả năng mà tội phạm được chấp nhận hòa nhập với XH sau khi mãn hạn tù. Tuy biết phải khoan dung với đồng loại nhưng hầu hết người dân thường – những người không có tiền án tiền sự – sẽ rất khó cảm thấy an toàn và tin cậy để sống chung / làm việc chung với những người đã từng phạm tội. “Một người phạm tội hình sự như ông phải ghi rõ lịch sử phạm tội khi xin việc. Và bởi vì việc phân biệt đối xử đối với tội phạm hình sự đã bị kết án không phải là bất hợp pháp, có ít người chịu tuyển dụng họ. Kẻ tội phạm còn lại lựa chọn gì ngoài việc tiếp tục cuộc đời tội ác?” [Đoạn tiếp theo đây Biển không nghĩ là spoil, nhưng bạn nào sợ spoil thì xin đừng đọc ^_^]. Nhân vật chính Gibson Vaughn không được xây dựng hình tượng siêu anh hùng như Jack Reacher, đọc Trậm Điểu mà nhiều lần Biển tức tối nôn nóng khi thấy anh bị đánh, bị ép phải quy phục trước cường quyền. (Người có thể coi là nữ chính trong truyện này) là Lea Regan, một phụ nữ dũng cảm nhưng không kém phần cố chấp. Trong Trậm Điểu, số phận của cô bị bỏ ngỏ khiến Biển khá lo lắng. Cũng muốn nói một chút về kết cuộc của truyện, Biển không biết tiếng Anh nên không biết cách tìm hiểu xem loạt truyện “Điệp vụ Gibson Vaughn” có bao nhiêu cuốn, nhưng sau phần kết của Trậm Điểu thì Biển đoán tác giả phải viết tiếp ít nhất là một quyển khác, vì nếu số phận của Gibson Vaughn kết thúc như trong Trậm Điểu thì đúng là tác giả muốn khiến độc giả tức chết. Ngay khi nhìn thấy thông tin phát hành và bìa của cuốn Trậm Điểu thì Biển liên tưởng đến loài chim trẩm từng đọc được trong tác phẩm Trâm của tác giả Châu Văn Văn. Trong quyển “Trâm – Tình lang hờ” có đoạn Lý Thư Bạch nói như sau: “Trên đời làm gì có chim trẩm, chỉ là người chết vì trúng loại độc này, toàn thân đến cả thịt da lông tóc đều sẽ chứa chất độc, chim trúng độc chết thì đến lông vũ cũng có độc. Chỉ cần lấy tóc người hoặc hoặc lông chim trúng độc cũng đủ tái chế thành kịch độc, nên mới có truyền thuyết chấm lông chim trẩm vào rượu là thành rượu độc”. Còn trong Trậm Điểu, có phần chú thích của dịch giả rằng “trậm điểu” là loài chim độc trong truyền thuyết TQ. Sách “Sơn Hải Kinh” mô tả Trậm Điểu là loài chim bụng màu tía, cổ dài, mỏ màu hồng điều. Nó cực độc vì chuyên ăn rắn lục. Con trống gọi là Hồi Dương, con mái gọi là Âm Uân. Bìa sách thoạt nhìn hơi khó hiểu nhưng rất hợp với tựa đề Trậm Điểu. Chất giấy trong sách rất đẹp, vốn là một mọt sách giấy nhưng khi đọc sách Biển ít khi quá “tôn sùng nâng niu” sách, thậm chí còn hay gấp góc để đánh dấu những đoạn hay, nhưng đối với Trậm Điểu, sách đẹp đến nỗi Biển đọc kiểu 45 độ và chịu khó ghi chép lại tất cả chứ không nỡ gấp góc. Chữ in to rõ dễ đọc, còn vài lỗi chính tả và lỗi đánh máy không đáng kể. Số điểm 9.5/10 là Biển chấm cho toàn bộ các yếu tố từ ngoại hình đến nội dung, thiếu 0.5 là vì phần kết khiến Biển bứt rứt lo lắng! Cũng như các loạt truyện về Jack Reacher của Lee Child hay loạt truyện của David Baldacci, series về Gibson Vaughn của Matthew FitzSimmons chắc chắn là những quyển sách không thể bỏ qua đối với các mọt trinh thám. (Sea, 25-8-2019) Bookmark tự vẽ, lấy ý tưởng từ Internet. Camellia Phoenix *** Những ngọn đèn tỏa ra luồng ánh sáng huỳnh quang sâu thẳm. Khắp nơi quanh gã, Merrick nghe thấy âm thanh của những người đang bị ép phải thức giấc. Những tiếng cót két của lò xo nệm cũ kỹ. Những cuộc trò chuyện, đã ngưng lại vào tối hôm trước khi đèn tắt, lại tiếp nối như thể mới chỉ vài giây trôi qua. Những câu chuyện dễ nối lại vì chúng vẫn là những cuộc đối thoại tầm thường giống như buổi sáng hôm trước và trước đó nữa, kéo dài lê thê suốt tám năm trời mà Merrick lúc nào cũng thức giấc cùng với chúng. Nhà tù chỉ quanh quẩn bàn luận với mấy chủ đề - cuộc đời trước khi vào tù, cuộc sống trong tù và lời hứa hẹn về một cuộc đời tốt đẹp hơn sau đó. Kẻ thù và bạn hữu, đàn bà, người thăm nuôi, nhà ăn và đồ ăn dở tệ. Chẳng bao lâu đã hết chuyện và từ đó trở đi chỉ còn những biến thể của một chủ đề. Tù nhân đến rồi đi, nhưng những cuộc đối thoại đó vẫn cứ tiếp diễn mãi. Được truyền miệng cho nhiều thế hệ phạm nhân còn chưa tới, như thể những cuộc đối thoại ấy mới là những khách trú đích thực duy nhất của nhà tù, còn tù nhân đơn giản chỉ là tiếng nói chuyển tiếp những gì đã được nói ra từ rất lâu trước đó. Hay đó là điều mà Charles Merrick sẽ hạnh phúc khi tưởng tượng về việc gã vĩnh viễn bỏ lại nhà tù liên bang Niobe sau lưng trong 142 ngày nữa. Merrick tung chân khỏi giường và xỏ thẳng vào đôi tông để chân gã không bao giờ phải chạm vào mặt sàn của nơi đáng ghê tởm này. Chỉ trong bốn động tác nhanh gọn, thuần thục, gã đã dọn xong giường của mình. Chiếc chăn lông thô đến nỗi chó cũng không thèm đắp. Con Morgan thì chắc chắn là không rồi - con chó Tây Ban Nha dòng King Charles của gã, nó đã qua đời khi gã ở trong này. Gã nhớ con vật đó: con vật trung thành duy nhất mà gã từng biết. Mấy tay lính gác đi qua khu nhà giam, bắt đầu lượt điểm danh lúc bảy giờ sáng. Bọn chúng còn hai lượt điểm danh vào lúc ba và năm giờ sáng nữa. Đó là phần khó khăn nhất với gã khi ở trong tù - giấc ngủ của gã cứ bị cắt ngang bởi những tiếng rầm rì vô nghĩa cùng tiếng bấm từ chiếc máy đếm nhỏ chỉ vì ý nghĩ nực cười rằng bọn chúng đang đếm thầm trong đầu. Những kẻ với trình độ tốt nghiệp phổ thông thậm chí còn không đủ tiêu chuẩn làm việc trong phòng văn thư của Merrick Capital. “Sẵn sàng cho ngày trọng đại chưa, Lọ Lem?” Những tay lính gác đã dọa dẫm gã nhiều tuần liền. Kể từ khi giám đốc nhà tù chấp thuận cuộc phỏng vấn, Merrick không còn nghĩ được chuyện gì khác. Gã đã không có khách thăm nào ngoại trừ các luật sư của gã từ nhiều năm rồi, nên xin hãy tha thứ cho sự phấn khích về cuộc phỏng vấn của gã. Đám lính gác cùng lũ tù nhân đều không ngừng mỉa mai gã như những đứa trẻ ghen tức, nhưng gã hiện đang có tâm trạng quá tốt để mà bận lòng về chuyện đó. Ngay khi các lính gác ra hiệu là mọi việc đã sẵn sàng, Merrick lao nhanh về phía phòng tắm. Gã hẳn đã chạy nếu được phép. Bình thường, gã không bao giờ vội vã đi đâu; sau mỗi góc quanh vẫn là nhà tù, vậy thì việc gì phải vội? Nhưng hôm nay gã muốn là người đứng đầu hàng, gã không muốn đang tắm lại hết nước nóng. Tắm xong, Merrick cạo râu cẩn thận và chải mái tóc vàng dày của gã cho đúng nếp. Nó đã ngả bạc hơn so với hồi gã mới đến nhà tù liên bang Niobe, nhưng gã vẫn còn mái tóc đó và thế là đủ. Nếu có gì khác, thì hôm nay gã thấy mình khá hơn. Cường độ làm việc kinh khủng ở Merrick Capital đã tổn hại đến sức khỏe và vùng bụng của gã. Phải vào tù gã mới phát hiện ra tình yêu với việc tập thể dục. Đẩy tạ như một tù nhân đích thực. Chiếc dao cạo rẻ tiền làm gã bị xước ở dưới tai, gã đắp vào đó một miếng giấy vệ sinh. Gã nhớ da diết chiếc bệ đá cẩm thạch cũ với những đồ dùng vệ sinh đắt tiền được đặt lên. Gã nâng niu cả một lọ nước hoa bản mẫu ưa thích của mình - thứ đã khiến gã tốn bao nhiêu là công sức và mưu mẹo. Gã đã phải hy sinh cả một tháng lương thực của mình để đưa lậu nó vào đây dành cho hôm nay. Gã mở nắp và ngay lập tức biết rằng nó hoàn toàn xứng đáng. Một giọt vào gáy và ba, không, bốn giọt nơi cổ tay trái, cần xịt thêm để che đậy mùi hôi hám của nơi này. Gã chà xát hai cổ tay với nhau và tự ngưỡng mộ mình trong gương. Một lính gác đi ngang qua ngửi thấy mùi và dừng lại. “Mùi quái gì thế, thằng tù?” “Chanel’s Pour Monsieur,” Merrick nói. “Pour Monsieur?” Tay lính gác nói, nhại gã bằng thứ giọng Pháp tệ hại. “Chà, mày có mùi như trong phòng phá thai ấy. Nhanh lên, Lọ Lem, không thì lỡ bữa tiệc đấy.” Merrick mặc bộ áo liền quần tẻ nhạt của nhà tù và cố gắng làm cho nó thẳng thớm lại trong gương, không mấy tác dụng. Gã đã yêu cầu được mặc bộ vét ở tòa cho buổi phỏng vấn để rồi bị cười nhạo trong văn phòng giám đốc trại giam. Có lẽ đằng nào thì bộ đồ đó cũng không vừa với gã nữa, vì gã đã gọn gàng hơn nhiều so với khi tới đây. Gã sẽ cần những bộ vét mới, bắt đầu là mười lăm hay hai mươi bộ và hy vọng rằng tay thợ may quen của gã ở Savile Row chưa về hưu. Người ta không thể tùy tiện thay đổi thợ may được. Lúc ăn sáng, Merrick ngồi một mình và chọn đại món được tạm gọi là trứng bác. Gã không thích ý tưởng bước vào một cuộc phỏng vấn mà chưa được chuẩn bị, nhưng bên tạp chí đã bác bỏ yêu cầu gửi trước câu hỏi. Lúc còn là đối tác quản lý điều hành của Merrick Capital, gã có hai hay ba cuộc phỏng vấn mỗi tuần. Cánh nhà báo xếp hàng để gặp gã và nhóm quan hệ công chúng của gã xem trước câu hỏi, lên kịch bản cuộc gặp để phô bày thương hiệu Charles Merrick trong thứ ánh sáng lộng lẫy nhất có thể. Việc bước vào một cuộc phỏng vấn chưa được chuẩn bị trước sẽ là trải nghiệm mới, nhưng Finance là một tạp chí đàng hoàng, chuyên nghiệp ở đẳng cấp cao nhất. Họ chắc chắn sẽ cử tới một người giỏi. Gã không biết người phụ nữ Lydia Malkin này, nhưng cô ta sẽ chứng tỏ năng lực của mình. Gã đang cảm thấy muốn cởi mở và ý tưởng về cuộc trò chuyện hấp dẫn với gã. Trò chuyện thực sự. Đã lâu rồi không ai hỏi gã một câu khiến gã phải suy nghĩ. Khi đến giờ phỏng vấn, lính gác dẫn Merrick vào một trong những căn phòng tư vấn pháp lý chật hẹp. Căn phòng trơ trọi, không có gì ngoài một chiếc bàn dài và những chiếc ghế kim loại chẳng thoải mái chút nào. Gã từng ở trong phòng này, hay một căn phòng tương tự, không biết bao nhiêu lần. Một phụ nữ cỡ tuổi con gái gã đang ngồi ở bàn, khoảng chừng hai mươi lăm? Cô ta đang hí hoáy ghi chép trên một tập giấy ghi chú. Ngay cả khi gã chấm điểm rộng tay thì trông cô ta cũng không hấp dẫn lắm. Có lẽ là một phóng viên tập sự được cử tới cùng để có chút kinh nghiệm hiện trường. Được thôi, được thôi. Hai phụ nữ luôn tốt hơn là một. Cô ta đặt bút xuống và đứng lên chào gã. “Rất vui được gặp ông, ông Merrick.” “Bao lâu nữa cô ấy mới tới đây?” “Xin lỗi?” “Lydia Malkin. Bao lâu nữa cô ấy tới? Tôi không biết tay lính gác cho chúng ta bao nhiêu thời gian. Họ có thể… khó chịu,” gã nói như thể mô tả dịch vụ phòng ở một khách sạn. “Tôi chính là Lydia Malkin.” Cô đưa tay ra. Gã nhìn bàn tay và cảm thấy huyết áp tăng lên với suy nghĩ có người đã cử đứa nhóc tì này tới phỏng vấn gã. “Cô là phóng viên tờ Finance?” “Phải, là tôi.” “Cô bao nhiêu tuổi? Hai mươi hả? Cô học xong đại học chưa?” “Tôi hai mươi sáu. Tôi có bằng thạc sĩ báo chí của trường Northwestern.” “Thậm chí cô có biết tôi là ai không?” “Ông là Charles Merrick.” “Tốt cho cô. Nhưng tôi biết rất rõ là tờ Finance không cử một phóng viên hai mươi sáu tuổi đi thực hiện bài phỏng vấn trang bìa bao giờ.” Cô nhìn gã tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi lấy làm tiếc nếu có trục trặc trong khâu liên lạc. Đây không phải bài trang bìa.” “Cô nói sao cơ?” “Đây chỉ là một phần hồ sơ nhân vật nhỏ: ‘Giờ ông ấy ở đâu?’ Đại loại thế. Bởi ông sẽ sớm ra khỏi đây.” “Một phần hồ sơ nhân vật? Peter vẫn còn là tổng biên tập chứ?” “Peter Moynihan là tổng biên tập,” cô nói với giọng mệt mỏi làm Merrick phát bực. “Và anh ta nghĩ rằng sẽ là ý hay nếu viết… Cô nói sao nhỉ? Một ‘phần hồ sơ nhân vật nhỏ’ về tôi?” “Thực ra Peter không mặn mà lắm với ý tưởng đó. Lúc đầu là vậy.” “Lúc đầu.” “Tôi đã thuyết phục ông ấy.” “À, cảm ơn cô nhiều,” Merrick nói. “Vì đã nói hộ tôi.” “Có lẽ tôi nên ra về.” Gã nhìn cô thu dọn những tài liệu đã bày ra trên bàn. Ngày xưa, gã sẽ cười lớn khi tiễn một phóng viên ra khỏi văn phòng của gã nếu người đó thử một chiến thuật rõ ràng như thế. Gã cực kỳ muốn để cô ta rời nhà tù Niobe trong thất vọng và trắng tay, nhưng gã ngăn cô lại vì điều đó sẽ còn làm gã tổn thất hơn nhiều. “Tại sao họ không quan tâm?” Cô dừng lại và nhìn thẳng vào mắt, đánh giá gã một cách tự tin. Gã không quan tâm nhưng buộc phải mỉm cười. Dù không muốn thừa nhận, nhưng gã cần Lydia Malkin hơn là cô cần gã. “Ông muốn biết thật sao? Không ai quan tâm cả,” cô nói. “Rất nhiều người ghét cay ghét đắng thỏa thuận nhận tội của ông với Bộ Tư pháp. Tám năm tù cho những hậu quả mà Merrick Capital gây ra cho các nhà đầu tư của nó là điều thật lố bịch. Và tổng tài sản tịch thu không bõ bèn gì để đền bù cho các nạn nhân của ông - những cuộc đời đã bị hủy hoại.” Merrick bác bỏ ý kiến rằng thỏa thuận của Bộ Tư pháp với gã là hết sức độ lượng. Giá mà cô Lydia Malkin bé bỏng này biết được dù chỉ là một nửa câu chuyện. Món quà gã đã trao cho đất nước vĩ đại này để đổi lấy cái được gọi là sự khoan hồng. CIA lẽ ra phải tổ chức một cuộc diễu hành để vinh danh gã thay vì nhốt gã ở đây. “Đó là chưa nói tới thực tế là ông được đưa vào đây thay vì một nhà tù thực sự.” “Một nhà tù thực sự sao? Chà, thay vì ‘câu lạc bộ đồng quê’ này hả?” “Phải.” “Cô có biết là chúng tôi thực ra không có sân quần vợt không? Chúng tôi từng có, nhưng họ đã san phẳng nó rồi. Biết tại sao không? Vì ý tưởng cho rằng đây là một ‘câu lạc bộ đồng quê.’ Như thế là phân biệt đối xử.” “Phân biệt đối xử sao?” “Chính xác là thế. Tôi đã bị từ chối một hình thức tập thể dục chính đáng. Vì sao? Vì đó là một môn thể thao mà những người như tôi rất thích, như thế là phân biệt đối xử. Xong rồi để bọn họ chơi bóng rổ, một trò chơi bọn họ cũng thích thú như thế. Vậy thì công bằng ở đâu?” “Bọn họ?” Cô hỏi, tìm cách khiến gã mắc câu. Gã không mắc vào trò đó. “Vậy… Nếu chẳng ai bận tâm, thì tại sao cô lại ở đây?” “Để xem nhà tù có làm thay đổi một người được biết đến với tên gọi là Madoff Đệ nhị hay không.” “Madoff Đệ nhị?” “Người ta gọi ông thế. Ông chưa bao giờ nghe hả?” “Tất nhiên tôi nghe rồi. Tôi chỉ không tin nổi là cái tên đó lại hợp lý.” “Tại sao không?” “Vì Merrick Capital không phải là tài chính đa cấp, vậy đó. Đây là một sự sỉ nhục. Hoạt động kiểu Madoff là kiểu nghiệp dư. Ai cũng biết hắn ta làm gì. Rõ rành rành. Hãy lưu ý là không hề có công ty lớn nào ở Phố Wall đầu tư dù chỉ một xu với Madoff. Điều này chẳng phải hơi lạ lùng khi mà Madoff chỉ báo lỗ có bốn tháng trong hai mươi năm hoạt động sao? Điều đó như thể một cầu thủ bóng chày có tỉ lệ đánh trúng bóng .900 một mùa mà vẫn không được một đội lớn ký hợp đồng. Lý do duy nhất Madoff không bị bắt sớm hơn là vì SEC mắc kẹt với đám nhân viên bất tài, thiếu ngân sách. Họ đã điều tra hắn sáu lần. Sáu! Họ lẽ ra phải tóm hắn từ năm ’99 khi Harry Markopolos cảnh báo về hắn, nhưng SEC không bao giờ bận tâm xác nhận những cáo buộc về hắn với DTC. Vì vậy, phải, tôi khó chịu vì bị đánh đồng với gã cặn bã đó.” Cô bắt đầu bật máy ghi âm đặt ở giữa bàn. “Merrick Capital thì khác gì chứ?” “Merrick Capital là công trình nghệ thuật của chúng tôi. Các chiến lược đầu tư của chúng tôi hoàn toàn hợp pháp và lợi nhuận cho nhà đầu tư của chúng tôi là không có tiền lệ.” “Merrick Capital bắt đầu làm giả số liệu lợi nhuận từ năm 1998.” Gã có thể cảm thấy máu dồn lên tai. “Những khách hàng của tôi vẫn trở nên giàu có.” “Không phải vào năm 2008, năm đó thì không. Ông mất cả gia tài vì đặt cược vào mỏ niken ở Tây Úc.” “À phải, vụ sụp đổ lớn,” Merrick nói. “Giá mà người dân Mỹ biết cách trả tiền vay thế chấp đúng hạn.” “Ông bị bắt là lỗi của người dân Mỹ sao?” “Cô nói chuẩn đét đấy. Nếu vụ sụp đổ lớn không khiến giá niken lao dốc, thì vụ cá cược của tôi, như cô gọi nó, đã có lãi.” “À, đó chắc chắn là góc nhìn có một không hai,” cô nói, nghiêng người về phía trước. “Nhưng đó vẫn là một vụ được ăn cả ngã về không. Ông ít ra phải thừa nhận điều đó. Các kinh tế gia gọi đó là một trong những màn đánh cược vô trách nhiệm nhất trong ngành tài chính hiện đại, dù có hay không có cuộc khủng hoảng tài chính. Vậy mà giờ ông ngồi đây, tự tin về một kết quả khác. Làm sao ông biện minh được cho sự đoán chắc đó?” Trong thâm tâm Merrick biết, thậm chí là khi đó, rằng gã lẽ ra nên suy nghĩ cẩn trọng hơn. Thay vì thế, gã đã trả lời câu hỏi của cô. Mời bạn mượn đọc Trậm Điểu của tác giả Matthew Fitzsimmons & Trần Trọng Hải Minh (dịch).
Nghẹt Thở - Khi Dấu Yêu Về - Carol Ericson
Bám theo một nhiệm vụ tối mật, Ian đột ngột biến mất, ruồng rẫy Meg không lời từ giã. Ba năm sau, hai người tình cờ tái ngộ trong chuyến leo núi lên đỉnh Rocky. Thời gian xa cách không đủ làm phai nhạt sắc đẹp cũng như cơn tức giận của Meg. Niềm đam mê bỏ hoang nhiều ngày tháng bắt đầu quẫy động trở lại, Ian bỗng thấy mình nên giải thích để mong cầu sự bao dung của cô vợ cũ, nhưng anh chưa kịp phân trần câu nào thì hiểm nguy ập đến với cả đoàn leo núi. Lần lượt từng du khách bị tiêu diệt một cách bí ẩn. Mặc cho Meg phản đối, Ian cương quyết giữ nàng trong vòng tay bảo vệ của anh. Bướng bỉnh đấu cứng rắn, khiêu khích đấu mạnh mẽ... đều biến thành mồi châm cho ngọn lửa tình vẫn âm ỉ bấy nay dưới lớp tro mỏng chia ly. Ian háo hức chinh phục chiến lợi phẩm, không biết rằng chờ đợi mình phía trước còn có một bí mật quý giá và đầy thách thức khác, một bí mật Meg cố tình giấu giếm anh... *** Tiếng Ian vang lên từng chặp trong chiếc điện thoại ở văn phòng, Meg dúi nó ra sau bàn phím máy tính rồi dùng ngón tay cứng đờ bịt loa nhận đi. Cô phải để Ian biết đang có chuyện gì, nhưng cũng không được cho gã đang cầm súng kia thấy chiếc máy đang mở. Cô cũng bật loa ngoài cho điện thoại di động, nên giờ giọng nói căng thẳng của Eloise vang lên, “Meg, có cần tôi gọi cảnh sát không?” Gã đàn ông đưa tay ngang cổ làm dấu, thì thào, “Bảo con mụ già đó là thằng bé không sao đi”. Meg gật đầu, “Eloise à? Tôi xin lỗi. Tôi vừa nhận được điện thoại của bố Travis. Anh ấy đón cháu rồi. Anh ấy chưa biết mà”. Eloise thở dài vào máy, “Ôi trời ơi, Meg. Cô làm tôi thót tim. Nếu chồng cô còn ở đó, thì nhớ dặn dò anh ấy kỹ lưỡng nhé”. Meg ngắt cuộc gọi rồi đặt chiếc di động ra giữa bàn, “Tôi đã bảo chị ấy rồi. Giờ anh muốn gì từ tôi?” Cô không còn thấy Ian nói gì qua điện thoại nữa, nhưng hy vọng anh đã hiểu ý và nghe được tiếng cô. Gã đàn ông tiến thêm một bước, “Đơn giản thôi, Meg ạ. Tao muốn mày leo núi một chút, để tao lấy lại thứ của mình và tiếp tục lên đường”. “Anh bỏ khẩu súng đó ra khỏi mặt tôi được không?” ... Mời các bạn đón đọc Nghẹt Thở - Khi Dấu Yêu Về của tác giả Carol Ericson.
Chết Như Chơi - Agatha Christie
Chết Như Chơi (Murder is Easy) là tác phẩm tiểu thuyết trinh thám của Agatha Christie và được xuất bản lần đầu tiên ở Anh bởi Collins Crime Club vào ngày 5 tháng 6 năm 1939 và tại Hoa Kỳ bởi Dodd, Mead và Company vào tháng 9 cùng năm với tiêu đề Easy to Kill. Những vụ án mạng hàng loạt mà thủ phạm là nhân vật không ai ngờ đến. Một câu chuyện hồi hộp, kỳ bí, rùng rợn nhưng cũng đầy lãng mạn.  "...Waynflete cúi người xuống, nhếch mép cười, ánh mắt cuồng loạn... Lưỡi dao sáng quắc... Hai bên quần thảo, Bridget cố giật lấy con dao trên tay Wayflete..." *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Chết Như Chơi của tác giả Agatha Christie.
Thám tử Peter và Cái Chết Bí Ẩn
Một tai nạn đáng tiếc xảy ra đối với Dean - một biên tập viên của hãng quảng cáo Pym - bị ngã từ trên tầng xuống và chết ngay vì gãy xương cổ và rách vùng thái dương. Mọi việc cứ bình lặng trôi và cái chết của anh ta cũng dần trôi vào quên lãng, song có một người không nghĩ vậy. Em gái Dean đã nghi ngờ và cho rằng anh mình bị ám sát. Thám tử Peter Wimsey được mời về hãng điều tra. Anh dần phát hiện ra một đường dây buôn bán ma túy diễn ra khởi nguồn từ chuyên mục quảng cáo của hãng Pym. Vụ án xảy ra trong một xã hội thương mại phát triển mạnh, quảng cáo là phương tiện được mọi người quan tâm sử dụng để truyền bá, khuếch trương, tìm tòi và giao lưu tin tức. Bọn tội phạm ma túy đã tận dụng và khai thác triệt để mặt mạnh này. Thông qua cách thức quảng cáo một mặt hàng, chúng đã thông báo, phối hợp với nhau thời điểm và địa chỉ mua bán giao nhận ma túy. Một hệ thống chặt chẽ cho từng công đoạn buôn bán ma túy đã được thiết lập, không từ một thủ đoạn nào, những ai phát hiện ra sẽ bị thủ tiêu không thương tiếc. Mọi thủ đoạn ngụy trang, ẩn mình của chúng, cảnh sát không dễ gì phát hiện. Bằng những tình tiết nhẹ nhàng và thấm đẫm chất nhân văn, Dorothy Sayers đã dựng nên một Wimsey với khả năng suy đoán sắc sảo, kinh nghiệm điều tra dày dạn, và lòng nhân ái; với các biện pháp nghiệp vụ, anh đã thâm nhập vào hang ổ bọn tội phạm. Chỉ trong một thời gian ngắn, đường dây buôn bán ma túy của bọn chúng dần dần bị phát lộ, vụ án đã được phá và để lại trong người đọc những tình cảm tốt đẹp... Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc! NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN *** Dorothy Leigh Sayers (1893 - 1957) được độc giả yêu mến gọi là Dorothy L. Sayers. The Nine Tailors kể về câu chuyện Lord Peter Wimsey giải quyết tội ác mà không phải ai cũng làm được. Một tai nạn đáng tiếc xảy ra đối với Dean – một biên tập viên của hãng quảng cáo Pym – bị ngã từ trên tầng xuống và chết ngay vì gãy xương cổ và rách vùng thái dương. Mọi việc cứ bình lặng trôi và cái chết của anh ta cũng dần trôi vào quên lãng song có một người không nghĩ vậy. Em gái Dean đã nghi ngờ và cho rằng anh mình bị ám sát. Thám tử Peter Wimsey được mời về hãng điều tra. Thám tử Peter  dần phát hiện ra một đường dây buôn bán trao đổi, buôn bán ma tuý diễn ra khởi nguồn từ chuyên mục quảng cáo của hãng Pym. Vụ án xảy ra trong một xã hội thương mại phát triển mạnh, quảng cáo là phường tiện được mọi người quan tâm sử dụng để truyền bá, khuếch trương, tìm tòi và giao lưu tin tức. Bọn tội phạm ma tuý đã tận dụng và khai thác triệt để mặt mạnh này. Thông qua cách thức quảng cáo một mặt hàng, chúng đã thông báo, phối hợp với nhau thời điểm và địa chỉ mua bán giao nhân ma tuý. Một hệ thống chặt chẽ cho từng  công đoạn buôn bán ma tuý đã được thiết lập, không từ một thủ đoạn nào, những ai phát hiện ra sẽ bị thủ tiêu không thương tiếc. Mọi thủ đoạn nguỵ trang, ẩn mình của chúng, cảnh sát không dễ gì phát hiện. *** - A này, - Hankin níu lấy cô Rossiter ngay trên lối đi và nói. - Cô có biết hôm nay chúng ta có một biên tập viên mới về không? - Thế là thế nào ạ? - Một anh chàng Bredon nào đó. Tôi cũng chẳng biết anh ta là ai nữa. Anh ta được ban giám đốc tuyển dụng, chính ông Pym dẫn vào. Các bạn sẽ phải quan tâm đến anh ta đấy. - Vâng, thưa ông Hankin. - Phải xếp cho anh ta ngồi làm việc ở phòng của Dean. - Vâng, thưa ông Hankin. - Chính anh chàng Ingleby là người chịu trách nhiệm phải cho anh ta biết mọi việc ở đây, hẳn là cô đã muốn điều này xảy ra và đẩy anh ta đến với tôi còn gì. - Vâng, thưa ông Hankin. - Bây giờ cô hãy bảo cô Smayle mang lại cho tôi hồ sơ của văn phòng Dairefield được không? - Vâng, thưa ông Hankin. Cô Rossiter ôm lấy cuốn vở ghi chép của mình và với tay kéo cánh cửa khép lại phía sau, rồi nhẹ nhàng bước dọc theo hành lang. Liếc nhìn qua những ô kính trên cánh cửa ra vào của phòng làm việc cạnh đó, cô nhận ra Ingleby đang ngả người trên chiếc ghế bành, hai chân gác trên bộ tản nhiệt của lò sưởi, vừa nói chuyện phiếm với một cô gái mặc bộ đồ xanh, ngồi chênh vênh trên một góc bàn làm việc. Cô Rossiter đẩy cho cửa hé ra và nói với vào: - Xin lỗi đã làm phiền hai vị, - Cô ta nói với vẻ tinh nghịch. - Nhưng ông Hankin cho gọi anh, anh Ingleby ạ! - Tôi đoán chắc lại có chút cà phê Scout gì đây. - Ingleby nghi ngờ đáp. - Không phải thế đâu. Ông ấy muốn gặp anh vì một biên tập viên mới. - Sao cơ? Đã có người thay Dean rồi sao? - Cô gái mặc bộ đồ xanh ngạc nhiên kêu lên. - Người ta vừa mới mai táng người giúp việc đáng thương của mình chẳng được bao lâu mà! - Ồ, cô em gái thân mến, đó là hành vi hiện đại đấy. - Ingleby nói. - Cuối cùng thì... Tôi sẽ cho anh chàng mới này biết mọi thứ. Tôi cứ tự hỏi là tại sao người ta lại cứ bắt tôi phải làm cái trò ngu ngốc này mãi chứ? Cô gái nhún vai: - Ồ, công việc của anh cũng chẳng phức tạp gì lắm đâu... Người mới xin vào đây chỉ cần biết hai điều, đó là sử dụng những chiếc chậu rửa tay đặt trong toa lét cạnh phòng làm việc của ban giám đốc và phải thật cẩn thận đừng để ngã mà vỡ mật trong chiếc cầu thang nhỏ bé kia thôi! - Cô Metayard, cô thật tệ... Miễn là cô đừng có xếp cho anh chàng mới về đó ngồi chung phòng với tôi đấy nhé... - Không phải lo, - Cô Rossiter nói chen ngang. - Bọn em sẽ xếp cho anh ta ngồi trong phòng của chàng Dean. - A, thế ra cô đã thấy anh ta rồi sao? Trông anh ta thế nào? - Em cũng chưa thấy anh ta mà, ông Hankin nói với em là bản thân ông ta cũng chưa biết mặt anh chàng mới này, chính ông Pym là người nhận anh ta về đây làm việc. - Tôi nghĩ là đã thấy anh ta lúc nãy rồi, - Cô Metayard nói - anh ta có mái tóc như con gái, đeo kính gọng đồi mồi, dáng vẻ điệu đà, là thứ người dành cho ảnh viện. Ingleby lại tiếp tục công việc của mình, còn hai cô gái rời chỗ đứng, đi về phía căn phòng các nhân viên đánh máy. Căn phòng này, cũng nhỏ và chật chội, là một thứ đại để như một thứ Phòng-Chờ hay Phòng-Đợi gì đó của hãng quảng cáo, nơi mà mọi người đều có thể lai vãng qua lại để bàn luận về mọi thứ trên đời vì bất kỳ một lý do nào đó. Vào lúc này, cuộc họp càng long trọng thì lại càng ồn ào hơn, vì giờ uống cà phê thường lệ đã đến và vì người ta đã chuẩn bị số lượng phiếu phát ra cho cuộc xổ số ngay trước lúc cuộc đua ngựa của Derby bắt đầu. Đó là một ngày lễ nhỏ hàng năm, qua đó tất cả mọi nhân viên của cơ quan đều được chia sẻ những cảm xúc dân tộc của mình bằng việc mua hàng hoá theo khả năng của mỗi người. Một nữ nhân viên đánh máy, cô Parton, đôi mắt nheo tít lại vì khói từ đầu điếu thuốc cô đang ngậm trên môi phả vào mặt, đang gõ liên hồi tên những con ngựa tham gia thi đấu, do một cô khác đọc. Willis cắt rời tên từng người góp tiền cá cược và xếp vào trong một chiếc mũ. Người đồng chí của cô, Garret, ngồi trên một chiếc giỏ bằng giấy úp ngược, đang buông lời nhạo báng một anh chàng to con, tóc đen, nằm ngả người trong chiếc ghế bành, chăm chú đọc một cuốn tiểu thuyết. Cuối cùng, một cặp đứng tựa vào hai thanh cái của cánh cửa ra vào, vừa hút thuốc lá, vừa tranh luận về cuộc đấu cuối cùng trên sân Wimbledon. - Chào các cô cậu bé bỏng tốt bụng. - Cô Rossiter vui vẻ nói. - Đây là cô Metayard, người sẽ tiến hành xổ số và... tôi cũng báo để các bạn biết là chúng ta sẽ có một biên tập viên mới... - Ngừng một lát, rồi cô nói tiếp. - Hãy nghe một chút đây, ai là người còn chưa đóng góp phần mình cho vòng hoa viếng anh Dean đáng thương đây? Này Garret, cậu sẽ trả công cho tôi chứ? - Tôi sẽ chẳng trả cho chị một đồng xu cạch nào trước ngày thứ bảy. - Anh chàng Garret nói cộc lốc. - Thế còn cà phê này thì sao đây? - Cô Willis hỏi. - Nào, Jones, hãy xem đây, nếu như người phụ việc đem danh mục đến, thì cô, cô em thân mến, cô hãy đánh dấu tên trong danh mục đó với tôi. Chúng ta hãy tiếp tục chọn những con ngựa đã được giao ước... - Hiệp đấu dự định đã bị tuyên bố bãi bỏ rồi, - Garret nói. - Bãi bỏ là thế nào?... thôi được, tôi đã cho ông ấy thắng trong cuộc thi của tờ Morning Star... Ai đã nói cho ông ấy vậy? - Tất cả đều đăng trên mặt báo sáng nay, có một sự cố trong đàn ngựa đua. - Chán không thể chịu được! - Cô Rossiter bật ra tiếng than vãn. - Mình lại vừa mất một cuộc thi hay. Và quay về phía chú bé phụ việc mang cà phê tới, cô ta nói: "Này, cậu có thấy chị dại dột không cơ chứ? Có chứ nhỉ? Đấy, đây mới là điều quan trọng này: bao nhiêu? Một si-ling ăn năm phải không nào? Này cô Parton, cô hãy nói xem, đồng ý cho chị vay một pen-ny đi. Còn bây giờ, ai có bút chì, hãy viết tên của nhân vật mới đó đi xem nào? - Tên anh ta là gì nhỉ? - Bredon. - Anh ta từ đâu đến? - Ông Hankin chẳng biết gì hết trọi; nhưng cô Metayard, người đã nhìn thấy anh ta lại khẳng định rằng trông anh ta giống như một nhân vật của ngành điện ảnh vậy. - Đó là một kẻ ngu ngốc đã giành mất những gì mà chỉ mới ngày hôm qua thôi vẫn còn là của Derby. Với địa vị của anh ta, thì ngày kia tôi mới đến nhận nhiệm vụ. A! Ingleby đến kia rồi, tin gì anh ta cũng biết tuốt, chắc hẳn anh ta đến nói cho chúng ta đây. Này Ingleby, uống cà phê chứ? Hẳn là cậu có nguồn tin về cái anh chàng có tên là Bredon chứ? - Tóc hoe vàng này, dáng dấp thì cao một mét bảy lăm, mũi dài ngoẵng này, chưa bao giờ làm công tác quảng cáo và đã qua đại học Oxford. - Ô là la!... - Cô Metayard kêu lên. Đúng lúc đó, cánh cửa bật mở và tất cả nghe thấy giọng nói khôi hài của ông Hankin, thủ trưởng của bộ phận. - Này, Ingleby, anh có để cho tôi nói một lát không đây? Ngay tức thì, như có một phép màu, hai người đứng tựa cửa và cô gái đang đọc văn bản cho cô Parton đang đánh máy kia, đều lẩn đâu mất tăm. Còn Willis vớ ngay lấy một tờ giấy và cắm mặt vào đó nghiên cứu với vẻ vô cùng chăm chú, say mê; điếu thuốc lá cô Parton đang hút dở, vụt biến mất. Chỉ còn mình Garret, không kịp tống khứ tách cà phê của mình đi đâu, liền ra vẻ dửng dưng, cô Metayard để tờ danh sách ngựa lên một chiếc ghế tựa và ngồi đè lên, còn cô Rossiter gõ liên hồi trên bàn phím chiếc máy chữ. Như vậy, chỉ còn mỗi mình lngleby là vẫn coi thường sự có mặt của sếp lớn. Anh này cậy có mưu cao, biến báo giỏi, lúc này quay ngay về phía tiếng nói vọng lại với nụ cười kiêu kỳ nở rạng trên môi, đáp lại tiếng của sếp và bước ra hành lang đón ông ta. Hankin đi cùng biên tập viên mới, ông ta nói: - Xin giới thiệu với các bạn đây là anh Bredon, - Ông ta nói, tỏ ra không có điều gì bất thường. - Anh Ingleby, tôi mong anh cho anh đây rõ mọi sự trong cơ quan ta. Tôi vừa cho mang đến phòng làm việc của anh toàn bộ các hồ sơ sản phẩm. Ông ta quay sang phía Bredon. - Anh hãy cố làm cho chúng tôi những chiếc cột quảng cáo thật rực rỡ. Đó là món quà có ý nghĩa nhất cho sự ra mắt đồng thời cho sự khởi đầu công việc của anh. Một khi anh có ý tưởng nào đó, hãy tới phòng làm việc của tôi, trình bày cho tôi rõ. - Hẳn là vậy rồi. - Bredon trả lời. Ông Hankin quay người, bước đi như đang nhảy một vũ điệu. - Còn bây giờ, - Ingleby bước vào phòng đánh máy vừa dắt theo biên tập viên mới, vừa nói: - Ngay bây giờ, tôi xin giới thiệu các bạn với anh Bredon. Trước hết, đây là cô Rossiter và cô Parton, hai thiên thần hộ mệnh của chúng ta. Chúng ta chỉ cần viết, còn các cô sẽ gõ thành văn bản và sửa lỗi chính tả, hai cô còn cấp phát cho chúng ta đồ dùng văn phòng phẩm và cả cà-phê nữa. Cô Parton có bộ tóc hoe vàng, còn cô Rossiter, có mái tóc đen. Mời các bạn đón đọc Thám tử Peter và Cái Chết Bí Ẩn của tác giả Dorothy L. Sayer.