Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Côn Trùng

Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của tác giả Lê Thị Hiệu (Hiệu Constant). Côn Trùng - một lối viết độc đáo về nhân tình cuộc sống và những mảng đời thực ngoài xã hội. Truyện giãi bày một cách xót xa và nuối tiếc, một cách dũng cảm và day dứt về một mối tình không bao giờ tàn lụi. Vẻ đẹp của mối tình không bao giờ được xã hội công nhận này vừa như ánh sáng lung linh soi rọi, vừa như loài côn trùng rỉ rả gặm nhấm; vừa làm hồi sinh cõi sống tinh thần, vừa làm héo úa vẻ đẹp của hạnh phúc. Truyện được chia làm 2 mảng: kể chuyện và tự sự. Tuy là tác phẩm đầu tay, nhưng tác giả đã chứng tỏ bút lực của mình tương đối rộng và hấp dẫn người đọc. Có lẽ có được bút lực này một phần là nhờ tác giả đã là một dịch giả trẻ, môi trường sống xê dịch từ Việt Nam sang Pháp và từ Pháp theo đường bay thường xuyên về quê nhà Việt Nam. Gia tài dịch của Lê Thị Hiệu với bút danh Hiệu Constant là chị đã dịch được một số những tác phẩm thời thượng, được bạn đọc trong nước đón nhận. (Nhà văn Võ Thị Xuân Hà giới thiệu) *** Tôi phải kể ra đây với bà, bởi câu chuyện mà tôi sắp kể thì không thể không kể ra được bà ạ. Từ lâu rồi nó cứ gậm nhấm tâm hồn tôi, nó cứ rỉ rả suốt đêm ngày. Tôi day dứt. Tôi bối rối. Đôi lúc tôi còn cảm thấy cả sự ân hận, hối lỗi đối với những người xung quanh. Nhất là đối với mẹ tôi giờ đang ở cõi vĩnh hằng, nhưng tôi biết, đêm đêm, bà vẫn về bên tôi, vẫn chăm sóc tôi như ngày xưa. Vì tôi vốn là đứa con cưng nhất của- bà. Thưa bác sĩ, nhưng tôi không biết bắt đầu câu chuyện này từ đâu? Nhìn ánh mắt khuyến khích của bà, tôi thấy an tâm hơn. Tôi chắc bà sẽ hiểu tôi, vì đây là nghề của bà. Tôi đã đọc rất nhiều sách và nghe rất nhiều những câu chuyện nói về ngành nghề của bà. Ngày xưa đôi lúc tôi còn chế giễu những người phải tìm đến các bác sĩ tâm lý, là vì dạo ấy tôi không bao giờ có ý nghĩ rằng một ngày nào đó tôi lại phải tìm đến những phòng mạch như của bà đây để điều trị. Đúng là ở đời, nói trước bước không qua. Trong đầu tôi hiện giờ đang bùng nhùng biết bao ý nghĩ. Những ý nghĩ đó cứ đan xen, hòa trộn lẫn nhau. Vâng, chuyện quan trọng nhất tôi sẽ kể cho bà nghe ngay đây. Đấy, bà lại có điện thoại rồi, và tiếng chuông điện thoại đã làm tôi hoảng loạn và câu dạo đầu đầu tiên mà tôi muốn bắt đầu đã lại tan biến đi mất. Tôi phải nói cho bà biết ngay rằng, chuyện tôi sắp kể là một câu chuyện tình. Bà làm ơn có thể tắt điện thoại đi được không, vì điện thoại sẽ làm ngắt mạch câu chuyện của tôi và tôi sẽ lại khó bắt đầu lại từ đầu. Vâng, đây là một câu chuyện tình chẳng giống như bất kỳ một câu chuyện tình nào khác. Và chính nó đã làm tôi trở nên trầm cảm từ bấy lâu nay. Chuyện của tôi đã bắt đầu từ nhiều năm rồi. Chuyện của tôi và người ấy ấy mà. Tôi có buộc phải nói tên người ta ra không? Có à? Có nói ra thì lòng tôi sẽ thanh thản hơn để giãi bày à? Đúng thế, đúng là nghề nghiệp của bà có khác. Mới bắt đầu thì đã thấy có hiệu nghiệm rồi, bởi tôi cứ lấy kinh nghiệm từ mình mà ra. Nếu một ngày tôi cố gắng gọi dù chỉ là gọi thầm tên của người ta thì cả ngày hôm đó tôi sẽ cảm thấy thanh thản và chịu hơn, còn nếu như tôi cứ bắt mình phải quên đi và sống trong sự kìm nén thì tôi sẽ cảm thấy rất ngột ngạt, khó thở. Vâng, anh ấy tên N.V . Nhưng chỉ có điều, bà biết không, khi gọi tên anh ấy ra như vậy thì tim tôi lại thổn thức, cả người tôi như có một luồng điện chạy qua vậy, các mạch máu dường như lưu thông nhanh hơn, hơi thở của tôi gấp gáp, các tế bào trên cơ thể tôi lại căng ra, chúng như muốn đón nhận nơi anh từng cử chỉ, vuốt ve, từng ánh mắt, thậm chí chúng còn muốn hít thở hơi thở của anh. Đã bao đêm tôi tập ngồi thiền. Tôi không dám nghĩ về anh bất kỳ lúc nào. Thì tôi đã nói với bà lúc nãy, khi bà đang tra những bệnh án của tôi. Tôi yêu anh ấy, yêu say mê, cuồng nhiệt. Tôi yêu anh bằng con tim run rẩy trắng trong của mình. Khoảng cách xa xôi càng làm cho tình yêu của tôi tăng dần lên theo năm tháng. Mỗi mùa đến rồi lại qua. Mỗi năm đến rồi lại đi. Mỗi mùa đem đến cho tôi những thứ tình cảm khác nhau dành cho anh. Bản chất anh trầm ngâm, chắc anh thích mùa thu. Bây giờ Paris đang là mùa thu, bà thấy đó. Cảnh tượng đẹp thiên thần ngoài kia. Ban nãy, trước khi đến phòng khám của bà, tôi đã đạp xe trên kè sông Seine. Anh sáng vàng xộm, xiên qua những kẽ lá đâm thẳng xuống mặt dường nhựa, chiếu lên những chiếc lá rụng lao xao chạy dọc theo những ngọn gió. Tôi còn thấy những con tàu mousse chạy lờ lững trên dòng sông nổi tiếng toàn cầu, chạy xuyên qua thành phố trái tim của thế giới. Khách du lịch đến từ khắp nơi đều thích dạo dọc sông Seine trên những con tàu mang tầm lịch sử. Dạo sông Seine và ngắm những tòa nhà chọc trời đổ bóng xuống lòng sông! Còn gì đẹp và lãng mạn hơn. Khi đi qua công viên Luxembourg cũng thế, tôi nhìn vào và thấy rất nhiều người đi dạo. Đầu thu rồi nhưng những đám cỏ vẫn xinh xắn, vẫn xanh ngắt. Chúng mới đẹp làm sao khi điểm những chiếc lá vàng vừa rơi từ những cây dẻ xuống đậu là là trên bề mặt. Cuộc đời con người cũng vậy, cũng mong manh quá, cũng như chiếc lá đang rơi kia. Tôi giơ tay ra và bắt được một chiếc. Trên đó cũng có những đường gân chạy ngang dọc như những đường chỉ trong tay tôi đây, hay như trong tay bà vậy. Hai chiếc lá là hai bộ gân khác nhau, cũng như tay tôi khác tay bà. Chiếc lá tôi đang cầm là màu vàng nâu, và đã khô đi. Vậy là nó kết thúc cuộc đời một cách tốt đẹp. Nó đã sản sinh ra bao lượng ô-xi cho chúng ta và đã hút đi bao lượng các-bon-nic để cho trái đất xanh này bớt đi ô nhiễm? Và kia kìa, xa chỗ tôi đứng một chút, có một chiếc lá xanh vừa rụng xuống. Đúng thế, nó còn xanh lắm vậy mà đã phải lìa khỏi cành. Bà thấy cảm cảnh à? Tôi cũng vậy, nhưng trong cuộc đời này còn biết bao điều hệ trọng hơn như thế xảy ra mỗi ngày. Đối với chính loài người chúng ta. Nào tai nạn giao thông. Nào thiên tai. Nào bệnh tật... Và còn chiến tranh nữa. Nhiều vô cùng. Nhưng tôi lan man rồi. Không đi vào câu chuyện chính của mình. Không sao à? Bà ở đây là để nghe tôi nói sao? Và tôi có quyền được kể ra, được nói ra tất cả những gì ẩn chứa trong lòng? Ngay cả những điều mà tôi không dám thổ lộ với ai, kể cả những người thân của mình? Ngày xưa, nếu mẹ tôi còn sống, có lẽ bà sẽ cho tôi những lời khuyên bổ ích. Hay cả người anh trai lớn nhất của tôi nữa. Anh ấy đã ra đi khi còn quá trẻ và đã có những lúc tôi oán thán anh ấy. Rằng nếu anh còn sống, cuộc sống của tôi có lẽ sẽ thanh thản hơn. Anh cũng sẽ cho tôi rất nhiều lời khuyên. Anh ấy thông minh, kiên nhẫn và hình như chưa tạt tai tôi bao giờ. Bà thấy đấy, khi còn bé, dù là con gái đi nữa, nhưng ai mà chẳng có lúc làm những điều bậy bạ, nghịch ngợm, nhưng anh ấy đã ân cần giảng giải cho tôi. Tôi nhớ rất rõ những lần anh giúp tôi làm bài tập hóa. Trong tất cả các môn, tôi dốt môn này nhất. Khi phải cân bằng những phương trình hóa học là tôi chết tắp lự. Đấy là tôi nói những phương trình khó thôi, còn nếu không thì điểm trung bình môn hóa của tôi cũng đạt được trên trung bình khá kia đấy. Hôm đó, hồi tôi học lớp mười một bà ạ, anh đang say sưa giảng cho tôi về các hợp chất a-xit, hợp chất khí, hay các loại muối, kiềm thì tôi bất chợt hỏi tại sao con người lại cứ gây chiến tranh để tạo ra những cái chết vô nghĩa lý... Anh trai tôi nhìn xuống, lúc ấy tôi chắc phải kinh khủng lắm, như thoát thiền vậy. Ánh mắt tôi xa xăm, nhìn ra ngoài sân lúc ấy cũng đang là mùa thu, ánh nắng cũng lao xao, vài tia nắng len lỏi qua các kẽ ngói chiếu thẳng xuống mặt bàn tôi đang ngồi làm bài tập. Những hạt bụi nhỏ li ti chạy nhảy huyên náo trong đám nắng dệt lên tấm lưới vô hình giăng giăng. Ngày đó trong đầu tôi đã nảy sinh ý nghĩ về sống chết vô thường. Con người sinh ra để yêu thương nhau nhưng rồi cũng để chém giết lẫn nhau. Hồi đó, anh trai cả tôi vừa xuất ngũ. Anh đi làm nghĩa vụ quân sự đúng vào thời kỳ quân Tàu giở mặt tấn công vào biên giới phía bắc Việt Nam. Chắc anh hiểu được nỗi niềm của tôi, bởi những lần anh về phép, tôi hay bắt anh kể cho nghe chuyện binh đao, khói lửa. Anh toàn kể chuyện vui, nhưng có một lần tôi nghe lỏm được, khi đang ngồi học bài sau tấm liếp. Tôi vốn không tò mò, nhưng khi nghe anh đang nói chuyện với mẹ mà lại khóc ấm ức. Anh mà lại khóc ư, chuyện thật lạ! Giỏng tai nghe ngóng, tôi nghe thấy anh kể cho mẹ nghe về chuyện một người bạn thân của anh tháng trước đã tử trận. Anh ấy mới hai mươi tuổi. Chưa một lần có bạn gái, chưa được cầm tay người phụ nữ nào. Trong cuốn nhật ký của anh chỉ có những dòng anh gửi cho một người tên Liên, mà anh tôi vừa đi gặp chiều nay. Buồn quá phải không bà, khi chúng ta đang sổng trong thời đại Internet, hòa mạng chỉ trong giây lát là có thể nói chuyện với người ở bên nửa kia của trái đất. Con gái con trai mới mười hai, mười ba tuổi đầu đã có bạn khác giới xí xa xí xớn rồi đấy. Còn tôi, mấy ngày trước đó, trong giờ học, bọn tôi, hay đúng ra là mấy thằng Hùng, Tiến, Cần, Trường... chúng nó chẳng chịu học, sau đó lại còn vẽ bậy hết lên mặt, viết những câu không thể nghe nổi như mẹ ơi con muốn chết, hận đời và khát máu, khiến thầy giận quá. Chúng nó thì làm gì mà đã biết những dư vị đó, trẻ con, vớ vẩn, tự nhiên tôi thấy ghét chúng nó thế, mặc dù thằng Hùng vốn cũng rất tử tế và học giỏi. Hôm đó, thầy đã không dạy mà nói chuyện thâm tình với chúng tôi, như những người bạn, người em. Thầy kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện cũng đại loại như của anh trai tôi. Ngày trước, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thầy cũng có một người bạn chết trận như vậy, rằng người con trai ấy tên là Tâm, chết ngay trên cánh tay của thầy tôi. Trước khi chết chỉ nói được mỗi câu “Cậu mang về cho mẹ tớ cái khăn có thêu con chim hòa bình nhé”. Tất cả những câu chuyện như vậy gieo rắc trong tâm hồn tôi những gì mong manh, dễ vỡ, nên tôi sợ bà ạ. Nhưng rồi những gì tôi sợ cũng xảy ra. Anh tôi mất đột ngột trong một tai nạn hết sức thông thường. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không tin đó là sự thật.   Mời các bạn đón đọc Côn Trùng của tác giả Hiệu Constant.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đám Cưới Không Có Giấy Giá Thú - Ma Văn Kháng
Đám cưới không có giấy giá thú là đứa con tinh thần mới của nhà văn Ma Văn Kháng. Cũng như những tác phẩm trước, Đám cưới không có giấy giá thú nhận được nhiều sự quan tâm không chỉ từ độc giả mà còn từ những nhà văn lớn khác của Việt Nam. *** Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ *** Đám cưới không có giấy giá thú VĂN NGHỆ Số 6. 10/2/1990 Để triển khai kết quả của Đại hội nhà văn lần thứ IV, sáng ngày 11.1.1990, Tuần báo Van nghệ tổ chức một cuộc thảo luận về cuốn tiểu thuyết “Đám cưới không có giấy giá thú” của nhà văn Ma Văn Kháng. Đây là buổi họp, mở đầu cho những cuộc sinh hoạt phê bình dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ thường xuyên được tổ chức trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng trang phê bình trên mặt báo, góp phần đẩy mạnh việc đổi mới công tác lý luận phê bình chung của chúng ta. Tới dự cuộc thảo luận có các nhà văn, nhà phê bình quen biết: Xuân Cang, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Xuân Thiều, Huy Phương, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Từ Sơn, Phan Hồng Giang - Đồng chí Lê Thanh Tùng, và đồng chí Xuân Du đại diện Nhà xuất bản Lao động cùng tới dự. Ban biên tập có gửi giấy mời nhà văn Bùi Hiển, nhưng đến phút cuối vì có việc bận đột xuất, nhà văn không đến dự được. Có mặt trong buổi họp còn có nhà văn Ma Văn Kháng, tác giả cuốn tiểu thuyết. Về phía chủ nhà, ngoài anh Hữu Thỉnh, nhà thơ, Tổng biên tập báo Văn nghệ, còn có các anh chị: Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Vinh, Phạm Tiến Duật, Hoàng Minh Tường, Phạm Đình Ân, Thiếu Mai. Sau lời đề dẫn của anh Hữu Thỉnh, cuộc hội thảo bắt đầu. Sau đây là ý kiến của từng đồng chí. Xuân Cang: Tôi cùng với anh Lê Thanh Tùng và anh Xuân Du là những người chịu trách nhiệm chính trị về cuốn sách của anh Kháng. Thú thật là khi mới được đọc qua một lần, tôi hơi hoảng. Tất cả các đảng viên cộng sản trong cuốn sách là những con người tồi tệ - tồi tệ thực sự chứ không chỉ là suy thoái. Vậy có phải là cuốn sách phủ nhận những người cộng sản, phủ nhận Đảng không? Sau khi đọc kỹ hơn, bình tâm suy nghĩ, tôi khẳng định là không phải như vậy. Thái độ đối với các tác phẩm văn học, nhất là những tác phẩm đa dạng, đa nghĩa là một sự thử thách mới đối với người đọc. Trước đây khoảng chục năm, một cuốn sách như kiểu cuốn sách này ra đời quả là một sự gay go. Nhiều độc giả ở ngành giáo dục cũng chấp nhận tác phẩm này. Họ nói rằng cuốn sách đã nói đúng sự thật. Sự thật trong ngành giáo dục còn có những con người, những đơn vị suy thoái hơn nữa kia. Tuy vậy, họ tỏ ra băn khoăn, vì trong ngành còn có những nhân tố tích cực nữa. Miêu tả như thế này có phải là bôi bác không, có sợ người đọc hiểu nhầm ngành giáo dục Tôi nói với anh em là cuốn sách này viết về ngành giáo dục, nhưng không phải chỉ đề cập đến những vấn đề của giáo dục mà là những vấn đề nhức nhối chung của xã hội. Ở đây có cuộc hôn phối không đúng quy luật giữa chúng ta và chủ nghĩa xã hội. Các bạn ấy còn băn khoăn: Vậy vai trò giáo dục của văn học là ở đâu? Tôi nói văn học còn có chức năng cao cả là phát hiện, khám phá, dự báo, báo động nữa. Có thể khai thác vai trò giáo dục của nó ở đấy. Đọc cuốn sách của anh Kháng không thể đọc một mạch. Từng trang, từng trang, nó cho người đọc nhận thức dần những điều tác giả muốn gửi gắm. Tôi đồng ý với Phan Hồng Giang, Ngô Ngọc Bội trước đây người sáng tác còn phải che chắn, rào đón quá nhiều. Ví dụ khi muốn xây dựng một nhân vật cộng sản, nhà văn thường tự hạn chế mình nhân vật này “đại diện” cho xã hội mới, nếu có khuyết phải có ưu, ưu là cơ bản, xây dựng một nhân vật tiêu cực là chỉ dám xếp anh ta vào chức phó. Ở đây anh Kháng đã mạnh dạn đưa ra những nhân vật chịu trách nhiệm chính để người đọc phán xét một cách bình đẳng. Nếu đọc theo lối truyền thống thì khó chấp nhận. Riêng tôi, tôi tán thành sự chuyển hướng về phương pháp này, sắp tới, hội đồng văn học công nhân khi xem xét vệc tặng thưởng các tác phẩm văn học đề tài công nhân không thể không tính tới cuốn sách này. Vừa ra đời, có ý kiến này ý kiến nọ, nhưng rồi cuốn sách đã đứng được, điều đó nói lên rằng cuốn sách đáp ứng với tình hình của xã hội chúng ta trong thập kỷ này. Nhà văn đã góp những suy nghĩ nghiêm túc về những vấn đề bức thiết đang đặt ra trong xã hội hiện nay. Phan Cự Đệ: Trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, nhà văn Ma Văn Kháng đã phản ánh được cái bi kịch của một nhà giáo, một tri thức: anh ta lúc thì đóng vai một nhà hiền triết, một nhân cách cao cả và thánh thiện nhưng lại bị ném vào một môi trường mà các giá trị tinh thần đang bị đảo lộn: một môi trường bị ô nhiễm, bị băng hoại về đạo đức và nhân phẩm: lúc thì hiện ra như một con người mơ mộng và lãng mạn, hay đỏ mặt vì mặc cảm và sĩ diện nhưng lại bị nhúng chìm trong cái biển đời thường dung tục, ở đó hàng ngày diễn ra cái cảnh chen lấn, cướp đoạt một cách trâng tráo, vô sỉ: lúc là một người say mê nghề nghiệp, nhiều hoài bão và khát vọng, muốn chiếm lĩnh các đỉnh cao khoa học nhưng lại bị vây bủa bởi một xã hội thực dụng và cơ hội, một xã hội tiêu thụ đang lên cơn sốt với những đam mê và khoái lạc, với khát vọng làm giàu, khát vọng chiếm đoạt quyền lực bằng bất cứ giá nào! Nhân vật anh giáo Tự phảng phất một mô-típ đã quen thuộc trong văn xuôi Việt Nam và thế giới: lúc là Đôn Ki-hô-tê một mình một dáo dũng cảm xông lên đánh nhau với lũ yêu quái, lúc lại là ông giáo Thứ đang sống mòn và chết mòn trong sạch một cách thụ động ở cái trường tư ngoại ô, lúc là một Hoàng thân Mưt-skin, một Pi-e Bô-du-khốp nhưng nhuốm màu sắc triết học phương Đông. Ma Văn Kháng đã viết về cái “bi kịch vỡ mộng” của một “bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để lầm chỗ” đó một cách rất tâm huyết, với tất cả suy nghĩ và trăn trở, niềm khát vọng và nỗi đau của một nhà văn trước thời cuộc, trước tình trạng xuống cấp về trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức ngay trong một số người tự cho mình là cán bộ lãnh đạo, là trí thức hoặc kỹ sư của tâm hồn. Ma Văn Kháng đã nói lên được cái tâm sự có thật của những trí thức có tâm huyết, có hoài bão. Cách lý giải có thể còn phải bàn cãi, nhưng điều đáng trân trọng là tấm lòng trung thực và trong sáng của người cầm bút, là những trang viết chân thành và xúc động. Cuốn tiểu thuyết cũng bộc lộ khá rõ một số nhược điểm. Trước đây ta hay lý tưởng hóa một chiều các nhân vật đảng viên hoặc cán bộ lãnh đạo, gần đây lại có khuynh hướng biến họ thành những con rối, thành con người máy hoặc con người của dục vọng tầm thường (Những thiên đường mù, Ly thân, Những mảnh đời đen trắng). Tác phẩm của Ma Văn Kháng không rơi vào hai thái độ cực đoan đó. Tuy nhiên, cách nhìn những “nhân vật tiêu cực” trong hàng ngũ lãnh đạo ở đây có lúc còn đơn giản và phiến diện, đôi khi biến họ thành nhân vật của hài kịch, thành những tính cách bị phóng đại trong nghệ thuật biếm họa. Tính khái quát của loại nhân vật này chưa cao. Trong số này ngoài đời tôi thấy có những người xấu nhưng biết ngụy trang một cách thâm hiểm hơn hoặc có người tốt, chân thành, ngay cả trong sự ấu trĩ, máy móc của họ. Tác phẩm có nhiều trang sinh động, hấp dẫn trong đối thoại, tranh luận hoặc dựng người, dựng cảnh nhưng cũng có nhiều trang chìm sâu một cách nặng nề vào những suy tư, vào những lời biện giải mang màu sắc duy lý của tiểu thuyết luận đề. Xuân Thiều: Nghe đồn cuốn sách “có vấn đề” tôi liền đọc ngay, hai đêm thì đọc xong. Và bây giờ, tôi sẵn sàng tranh luận với những ý kiến cho rằng cuốn sách “có vấn đề chính trị”, thậm chí tôi còn nghe có ý kiến nói cuốn sách “đi ngược lại nghị quyết 7” nữa kia. Theo tôi thì cuốn sách đã thể hiện được tâm huyết của tác giả, ấy là lòng tha thiết mong mỏi được sống trong một xã hội tốt đẹp lý tưởng. Thấy rõ nỗi đau đớn của tác giả: mình yêu chủ nghĩa xã hội như vậy mà sao trong thực tế xã hội lại có chiều ngược với suy nghĩ, mong ước của mình. Tôi khẳng định là tính tư tưởng của tác phẩm rất cao. Tính hiện thực cũng rất cao, vì tác giả đã mạnh dạn phơi bày không né tránh những vấn đề gay cấn nóng bỏng của xã hội. Trước đây dăm bảy năm, người viết chúng ta phải né tránh nhiều vấn đề, nhiều sự việc. Có muốn xây dựng nhân vật tiêu cực để phê phán thì cũng chỉ dám đưa ra anh “phó”: phó chủ tịch, phó chính ủy, phó bí thư huyện ủy... Tóm lại, anh phó lãnh đủ những đòn phê phán trong lúc anh chính bao giờ cũng nghiêm túc, sáng suốt, đúng đắn. Bởi vì nếu phê phán anh chính thị sợ bị hiểu lầm là nói xấu Đảng, thì chính mình sẽ bị đánh! Ở đây anh Ma Vãn Kháng đã gọi thẳng những người chịu trách nhiệm chính ở môi trường mà anh miêu tả: hiệu trưởng, bí thư chi bộ nhà trường, bí thư thị ủy. Tác giả đã nói thẳng sự thật mà không sợ bị hiểu là nói xấu Đảng. Dựng lên những nhân vật lãnh đạo dốt nát, thô thiển như vậy, anh tha thiết mong muốn những người lãnh đạo ở các ngành, các cấp có văn hóa hơn, trí tuệ hơn, sáng suốt, thông minh hơn. Đọc xong, ngẫm nghĩ về các nhân vật Dương, Cẩm, Lại, tôi lấy làm tiếc là các nhân vật này của anh còn giản đơn, chưa có chiều sâu. Chưa thấy bóng dáng của những nhân vật sai một cách chân thành, có ý đồ tốt, tưởng là đúng, là trung thành với lý tưởng cộng sản hóa ra lại sai lầm và mang lại những tác hại lớn cho xã hội. Nhân vật Tự là một người tri thức đầy bi kịch, suốt đời thất bại. Đáng buồn là nhân vật nàyquá yếu đuối, quá bất lực, suốt đời chịu đựng. Người như anh mà không tự sát là lạ! Đoạn viết về bộ đội có lẽ là chỗ yếu nhất, và hơi suy diễn đôi chút, chứng tỏ vốn hiểu biết về đời sống bộ đội của tác giả chưa nhiều và chưa sâu. Nói chung tôi thích cuốn sách này, một cuốn sách nhiều trăn trở ... Mời các bạn đón đọc Đám Cưới Không Có Giấy Giá Thú của tác giả Ma Văn Kháng.
Theo Đuổi - Phạm Thanh Thuý
Phạm Thanh Thúy là cây bút nữ có lối viết già dặn, không xa lạ với độc giả yêu văn chương. Tác phẩm của cô thường đăng trên các báo, tạp chí văn uy tín trong nước. Nhân vật chính của Theo đuổi là Hàm Yên - một nhà văn trẻ. Suốt thời thanh xuân, Hàm Yên ôm ấp mối tình từ thuở thơ bé với người bạn thiếu thời tên Phố. Tình cảm đó trở thành một nỗi nhức nhối, ám ảnh cô trên mỗi bước đường đời. Duyên phận đưa Hàm Yên và Phố đến những cuộc gặp gỡ tình cờ. Hết lần này đến lần khác, họ để lỡ nhau. Hàm Yên luôn muốn gợi cho Phố nhớ về những ký ức thời thơ bé, trong đó có cả ký ức đau buồn về cái chết của bố mẹ anh. Ngược lại, Phố tìm cách quên đi. Họ cứ thế đi tìm bóng hình nhau. Khi đã ở bên nhau, họ lại làm tổn thương nhau bằng ký ức. *** Tôi đến Cẩm Xuyên vào giữa mùa mưa. Mưa suốt ngày suốt đêm, mưa gối ngày này sang ngày khác. Bầu trời gần như lúc nào cũng sũng nước. Vào những khi mưa ngớt, từ trên cung đường quanh co uốn lượn theo dáng núi, thấy phía xa xa những thác nước huyền ảo như những áng tóc buông dài của nữ chúa thượng ngàn. Rồi thình lình, hàng trăm con thác ấy đột ngột băng qua đường, tuyệt đẹp và hung hãn, dường như muốn ngốn ngấu lấy tất cả những vật thể bé nhỏ đang trườn trên lằn chỉ vắt ngang núi kia. Con đường nhỏ chìm lút trong làn mưa trắng xóa. Vượt qua hàng trăm con thác trữ tình ấy thì đến Cẩm Xuyên. Cẩm Xuyên nằm trên độ cao 1500 mét so với mực nước biển. Cảm nhận đầu tiên chính là lạnh. Cái lạnh của gió, của hơi nước khi những đám mây trườn trên những ngọn núi, luồn sâu vào từng kẽ lá, băng qua những cây cầu treo chênh chao bắc ngang lòng những con suối mùa mưa sục sôi gầm gào bất tận. Ở xứ này, lúc nào người ta cũng có thể nghe thấy tiếng thác nước tuôn ở đâu đó. Khu nhà cũ, tường vôi trắng loang lổ tróc từng mảng thảm hại, rêu xanh phủ dày trên mái ngói. Và căn phòng, vì lâu không có người ở, toát lên một mùi đặc trưng ẩm mốc, sự cô đơn, lạnh lẽo và nỗi buồn. Nỗi buồn dường như trú ngụ ở đó từ rất lâu, thấm vào từng mi-li-mét không khí. Có hai cửa sổ, tất cả đều sơn xanh, có sẵn một số đồ đạc thiết yếu, hẳn nhiều người đã từng sống ở đó. Phía sau là một đồi thông. Tôi nhận lời viết tự truyện cho một cựu quan chức. Một người đàn bà quyền lực, nay đã nghỉ hưu và hưởng thụ cuộc sống nhàn nhã sau cả một đời lăn lộn với chính trường. Tài liệu đã thu thập đầy đủ từ một năm trước, giờ tôi chỉ cần tìm một nơi gợi cảm xúc để viết thành một cuốn sách. Một thời gian dài chìm trong nỗi buồn sâu thẳm, tôi muốn đến Cẩm Xuyên. Và tôi đã đến, giữa mùa mưa, sẽ ở lại một thời gian nào đó, tùy thuộc vào tôi quyết định. ... Mời các bạn đón đọc Theo Đuổi của tác giả Phạm Thanh Thuý.
Phúc Lành Của Đất
Phúc lành của đất đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Tác phẩm đồ sộ này viết về những người nông dân Na Uy gắn bó hàng đời với đất đai, trung thành với những truyền thống cổ xưa. Tác giả kêu gọi con người trở về với đất. Con người cá nhân chủ nghĩa kiêu hãnh trước kia tưởng có thể "làm rung chuyển thế giới bằng sự va chạm của vài tư tưởng phi lý" đã kết thúc đời mình trong chủ nghĩa bi quan và bị cái chết ám ảnh. Với văn phong trong sáng, cách diễn đạt gây bất ngờ, Knut Hamsun được coi là một trong những người cách tân văn xuôi Na Uy. Trong bài phát biểu tại lễ trao giải, đại diện Viện Hàn Lâm Thụy Điển nói: "Những ai muốn tìm trong văn học sự mô tả chân thật hiện thực đều tìm thấy trong Phúc lành của đất câu chuyện về cuộc đời của mỗi một con người, dù anh ta ở nơi đâu, lao động ở nơi đâu". *** Nhà văn Knut Hamsun (4/81859 – 19/2/1952) tên thật là Knud Pederson. Ông chào đời tại xã Lom, huyện Gudbrandsdalen, (nay thuộc tỉnh Oppland) miền Nam Na Uy; là con thứ tư trong một gia đình nghèo đông con (bảy người con). Năm ông lên bốn, cả gia đình chuyển tới sinh sống tại quận Hamarøy, tỉnh Nordland, miền Bắc Na Uy. Từ năm lên chín, ông phải tới giúp việc cho ông chú đang làm việc tại một bưu cục, thường xuyên bị đánh và bỏ đói. Những chấn thương tinh thần và thể xác này đã khắc sâu dấu ấn trong ông và là nguyên nhân của những di chứng thần kinh mãn tính về sau. Năm 1874, ông bỏ trốn trở về Lom, và từ đó bắt đầu một cuộc sống lang thang phiêu bạt khắp đó đây, hai lần sang Mỹ (1882-1884 và 1886-1888); nếm trải đủ mùi khổ ải, làm đủ mọi thứ nghề ngỗng trên đời: thư ký tiệm tạp hóa, bán hàng rong, phụ chữa giày, phụ tá cho quan chức hành chánh xã, giáo viên tiểu học, và hàng chục thứ nghề không tên khác. Từ năm mười bảy tuổi, ông cũng bắt đầu tập tành viết lách. Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Tổng cộng ông đã viết trên ba mươi cuốn tiểu thuyết và nhiều tác phẩm kịch, thơ… Trong đó nổi bật nhất là: Đói (Sult-1890); Những điều bí ẩn (Mysterier-1892); Pan (Pan-1894); Victoria (Victoria -1898); Dưới ánh sao thu (Under Høststjærnen -1906); Gã lang thang chơi đàn không dây (En Vandrer spiller med Sordin-1909) ; Niềm vui cuối cùng (Den sidste Glæde-1912); Phúc lành của đất (Markens Grøde-1917); Trên lối mòn hoang (Paa gjengrodde Stier-1949)… Năm 1917, ông mua một điền trang ở Nørholm, miền Nam Na Uy, lui về đó sống một cuộc đời ẩn dật, viết văn và làm việc nông điền. Năm 1920, ông đoạt giải Nobel văn chương nhờ bộ tiểu thuyết Phúc lành của đất . Xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân, sự oán ghét chủ nghĩa tư bản hiện đại của bản thân và do hâm mộ truyền thống tư tưởng Nietzche trong chủ nghĩa Phát xít cũng như đã có sẵn cảm tình với Đức do chính nghĩa của nước này trong Thế chiến I, trong lúc đó công luận tại Na Uy lại nghiêng về Anh và Pháp, dần dần trong ông đã hình thành một cảm tình sai lệch với chủ nghĩa xấu xa này. Năm 1932, ông gặp Hitler và Joseph Goebbels – Bộ Trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc Xã. Dù không bao giờ gia nhập Đảng Phát xít, ông đã có những hành động và phát ngôn bày tỏ rõ rệt thái độ ủng hộ Đức của mình, chẳng hạn như tuyên bố với những người đồng bào rằng: “Tất cả chúng ta đều là người Đức” trong thời gian Đức chiếm đóng Na Uy, hoặc công khai viết lời ca tụng Hitler khi nghe tin ông này chết rằng: “Ông ấy là một chiến binh, một chiến binh của nhân loại, và một nhà tiên tri của nền công lý đối với mọi quốc gia.” Sau Thế chiến II, ông bị công chúng ghét bỏ; do được coi là bị bệnh tâm thần nên ông không phải ngồi tù mà chỉ bị phạt tiền 80.000 đô la Mỹ (1947). Kể từ đó cho tới khi lìa đời, ông sống trong cảnh lẻ loi nghèo khổ, bị mọi người xung quanh xa lánh. Ngày 19-2-1952, Knut Hamsun qua đời ở thị trấn Grimstad, miền Nam Na Uy, hưởng thọ 92 tuổi. Hồi đầu năm 2009, khi Na Uy phát hành đồng tiền mệnh giá 200 Kroner (khoảng 500.000 đồng VN) in hình ông và tiếp sau đó là những hoạt động trọng thể tưởng niệm 150 năm ngày sinh của Hamsun, đã có nhiều quan điểm gay gắt phản đối từ nhiều nước trên thế giới. Dĩ nhiên, bên cạnh đó cũng có nhiều ý kiến đồng tình, biện minh cho những hoạt động nói trên. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Sài Gòn, 3-2010 Nguyễn Thành Nhân Mời các bạn đón đọc Phúc Lành Của Đất của tác giả Knut Hamsun.